Professional Documents
Culture Documents
VŨ TRỤ HỌC
hiepkhachquay dịch từ
http://www.aip.org/history/cosmology/
Công việc cho các nhà thiên văn là xác định chuyển động của các hành tinh.
Những người quan sát bầu trời ở Trung Đông, Trung Mĩ, và Trung Hoa cổ đại đã
tiến hành nhiều quan trắc. Từ bảng số liệu của họ, họ đã nghĩ ra kế hoạch tiên đoán
sự chuyển động tương lai trên trời. Nhưng các giải thích mà những nhà quan sát bầu
trời người Babylon, người Maya, và người Trung Hoa cổ đại nghĩ ra cho những
chuyển động này không gì hơn những câu chuyện mang màu sắc thần thoại.
Khoa học về vũ trụ - tìm kiếm một bức tranh của vũ trụ thu được mà không
đề cập tới sự hiện diện của thần thánh – bắt đầu với người Hi Lạp. Họ theo đuổi
việc tìm kiếm xa hơn ngoài khuôn mẫu số cho một số điều cơ bản. Dưới ảnh hưởng
của Plato, các nhà tư tưởng Hi Lạp cố gắng nghĩ ra các kết hợp của chuyển động
tròn đều để mô phỏng chuyển động quan sát được, chúng thường là không đều.
Chuyển động tròn
Cách mạng trong khoa học, giống như trong chính trị, thường bắt đầu từ cách
mạng trong nhận thức.
Năm 1543, Nicolas Copernicus nêu ra một sự chuyển đổi vị trí giữa Trái Đất
và Mặt Trời. Ông đặt Mặt Trời ở trung tâm của vũ trụ và đặt Trái Đất quay xung
quanh Mặt Trời. Để giải thích chuyển động hàng ngày của bầu trời, ông đặt Trái
Đất quay tròn xung quanh trục riêng của nó.
Một trang trong cuốn sách Về sự chuyển động của Copernicus (De revolutionibus orbium coelestium).
Copernicus đã tặng cuốn sách năm 1543 của ông cho
Giáo hoàng Paul III.
Để tính vị trí của các hành tinh, Copernicus sử dụng một hệ hình học phức
tạp, rất giống với những người tiền nhiệm Hi Lạp và Hồi giáo của ông (các nhà sử
học vẫn đang nỗ lực phán xét những nguồn nào đã đóng góp cho ý tưởng của ông).
Hệ thống Ptolemy thỏa đáng một cách hợp lí trong việc phù hợp với quan
sát. Copernicus không có những quan sát mới và chính xác hơn như đòi hỏi để bác
bỏ lí thuyết cũ. Sự khao khát về một sự hài hòa toán học hơn nữa khiến ông cố tìm
một cái gì đó khác đi. Theo quan điểm của Copernicus, khi Ptolemy đưa ra chuyển
động xung quanh một điểm mặt bằng, ông ta đã vi phạm nguyên lí chuyển động
tròn đều. Hơn nữa, từ thuyết “nhật tâm” (Mặt Trời ở trung tâm) của Copernicus,
một vài hiện tượng quan sát thấy tuân thủ tự động, chứ không phải điều chỉnh như
trong thuyết Ptolemy.
Hệ nhật tâm ngược lại niềm tin đã có lâu nay và dường như không thể tưởng
tượng được đối với nhiều người. Đây là lí do tại sao Copernicus lại viết trong phần
mở đầu cuốn sách của ông rằng ông “ngập ngừng lâu nay không biết có nên mang
ra ánh sáng những dẫn giải của tôi để chứng minh cho chuyển động của Trái Đất”.
Dẫu vậy, bạn bè của ông “thường thúc giục và nài nỉ tôi xuất bản công trình này”.
Copernicus hi vọng rằng “nỗ lực của tôi đóng góp ở chừng mực nào đó cho toàn thể
con dân của Giáo hội… Không còn lâu nữa vì vấn đề cải cách lịch giáo hội đã được
cân nhắc”.
Thật vậy, trong hàng thế kỉ, bài toán khó về việc tính ngày tháng của lễ Phục
sinh tương lai là một động cơ chính của các quan sát và tính toán thiên văn học.
Trong hệ Copernicus, sự quay của Trái Đất gây ra chuyển động quan sát thấy
của các sao, chứ không phải sự quay của mặt cầu sao. Cho nên mặt cầu sao đã lỗi
thời.
Theo thế giới quan cổ đại và trung cổ, vũ trụ bị giới hạn bởi một mặt cầu phía ngoài chứa toàn bộ các sao.
Mặt cầu sao phía ngoài đơn giản là một vùng trời, có tâm ở Trái Đất, trong hình vẽ này (ở trên, bên trái) lấy
từ cuốn sách năm 1566 của Leonard Digges. Con trai của ông, Thomas, cuối cùng nhận ra rằng mặt cầu các
sao không cần thiết trong một vũ trụ trong đó Trái Đất quay. Hình vẽ của ông (bên phải), có tâm ở Mặt Trời,
cho thấy các sao phân tán qua một không gian mở mênh mông.
Galileo Galilei (1564 – 1642) đầu những năm 40 tuổi, một vài năm trước khi bắt đầu thực hiện
những quan sát có tính đột phá bằng kính thiên văn vào năm 1609.
Các giáo sư thuộc phái Aristotle tất nhiên không thèm chơi với Galileo, và
ông sớm phải chuyển đến trường đại học Padua. Galileo chế tạo được một chiếc
kính thiên văn và là người đầu tiên sử dụng thiết bị mới này khảo sát bầu trời một
cách có hệ thống, thực hiện những khám phá lạ lùng. Ví dụ, ông phát hiện ra bốn vệ
tinh của một tinh vào đầu năm 1610. Ông đặt tên cho chúng là sao Medicean, kỉ
niệm Cosimo de Medici, vị đại công tước xứ Tuscany. Sau đó, vào năm 1610,
Galileo trở lại Florence làm nhà toán học và triết học, rồi đại công tước và nhà toán
học hàng đầu tại trường đại học Pisa, mà không có trách nhiệm phải giảng dạy.
Không có gì làm xáo trộn những ý tưởng cũ như cái mà Galileo nhìn thấy khi
hướng chiếc kính thiên văn của ông lên Mặt Trăng. Quan sát của ông về bề mặt Mặt
Trăng mang đến kết luận có tính cách mạng rằng Mặt Trăng không phải là một quả
cầu nhẵn nhụi, như những người theo chủ nghĩa Aristotle vẫn quan niệm. Nó không
Mô hình hành tinh, do Tycho Brahe nghĩ ra khoảng năm 1583, 40 năm sau cuốn sách của
Copernicus, là một nỗ lực không có sức thuyết phục nhằm lại đưa thuyết địa tâm vào hệ hành tinh
Copernicus.
Hình trên vẽ lại từ cuốn Helenographia của Hevelius. Trước khi Tycho qua
đời, ông đã tiến cử Johannes Kepler là nhà toán học hoàng gia cho Rudolph II,
hoàng đế của đế chế La Mã Thiên chúa giáo. Số liệu của Tycho mang lại cơ sở cho
nghiên cứu của Kepler.
Mô hình vũ trụ của Kepler với quả cầu của Thổ tinh ở ngoài cùng, cho thấy mức độ mà khoảng
cách có thể xác định bằng các quy luật hình học.
Niềm tin vào chuyển động tròn đều là một mặt căn bản của thiên văn học
phương Tây trong hai thiên niên kỉ. Niềm tin này bị phá vỡ vào đầu thế kỉ 17.
Kepler, sử dụng số liệu quan trắc của Tycho, chỉ ra rằng Trái Đất và tất cả những
hành tinh khác đều quay xung quanh Mặt Trời theo những quỹ đạo hình elip. Đây là
định luật thứ nhất trong ba định luật Kepler. Nó được công bố năm 1609 trong cuốn
sách của Kepler về nền thiên văn học mới của ông, Astronomia nova.
Các định luật Kepler tìm thấy cho chuyển động của các hành tinh sử dụng
tương tự cho quỹ đạo của Trái Đất. Ông đã loại bỏ sự phân biệt cổ xưa giữa nền vật
lí của quả cầu đất của chúng ta bên dưới Mặt Trăng và nền vật lí thiêng liêng của
một vương quốc cao hơn.
Ba định luật Kepler
Mô hình hệ Mặt Trời của Tycho
Một hành tinh chuyển động nhanh nhất trên quỹ đạo elip của nó khi nó ở vị trí A, gần tiêu
điểm S của elip nhất, là nơi của Mặt Trời. Tốc độ quỹ đạo của hành tinh biến thiên sao cho
trong những khoảng thời gian bằng nhau, nó đi được khoảng cách AB, BC, CD, và vân
vân, sao cho vùng quét bởi đường nối nó và Mặt Trời luôn luôn có diện tích bằng nhau.
Định luật Kepler thứ ba phát biểu rằng bình phương chu kì thiên văn (thời gian cần thiết
để hoàn thành một vòng quay xung quanh các ngôi sao) của hành tinh tỉ lệ với lập phương
bán trục lớn quỹ đạo của nó.
Nền vật lí Aristotle không còn hoạt động trong vũ trụ của Copernicus và
Kepler. Một lời giải thích cho câu hỏi làm sao mà các hành tinh tiếp tục quay trở lại
cùng đường đi cũ mãi mãi xung quanh Mặt Trời vẫn là một bài toán lớn của thiên
văn học mãi cho đến khi Isaac Newton giải thích cách các vật chuyển động dưới sự
hấp dẫn. Ông đạt tới điều này bằng cách chỉ ra cách thức các chuyển động trên bầu
trời tuân theo cùng các quy luật xác định chuyển động của các vật trên Trái Đất.
Điều này dẫn đường tới việc hiểu cái không ngừng được nhìn nhận là vũ trụ cơ giới.
Ngôi nhà nơi Newton trưởng thành. Các giáo sĩ thời Trung cổ nghiên cứu ánh sáng và cầu vồng là những biểu
hiện của sự soi sáng thần thánh. Newton cũng cảm nhận một cái gì đó siêu nhiên nơi ánh sáng. Nhưng khi ông
thử giải thích màu sắc dưới dạng các hạt cơ tính, ông đã đi đến một quan điểm khác về vũ trụ.
Nhà triết học người Đức Leibniz và các nhà phê bình khác chỉ trích rằng thế giới quan
Newton đã góp phần dẫn đến sự suy tàn của tôn giáo tự nhiên ở nước Anh. Ý tưởng cho
rằng Chúa thỉnh thoảng can thiệp vào vũ trụ, rất giống với một thợ chế tạo đồng hồ kém
lành nghề phải thỉnh thoảng quấn lại và sửa chữa sản phẩm của mình, đặt ra nghi vấn về
sự hoàn thiện của Chúa. Những người ủng hộ Newton thì chấp nhận rằng Chúa phải can
thiệp vào vũ trụ, nhưng chỉ vì sự can thiệp là một phần của kế hoạch thần thánh.
Niềm tin thế kỉ thứ 18 về tính có trật tự của vũ trụ có tính quyết định đến sự ngăn nắp của
các nghiên cứu thần học, triết học, và khoa học quan trọng. William Whiston, người kế tục
Newton tại trường đại học Cambridge năm 1703, biện hộ rằng vũ trụ, với sự đối xứng
tuyệt vời của nó, với những chuyển động đều, và các quy luật có thể nhận thức được, chắc
chắn là công trình của đấng Tạo hóa ngay cả khi loài người không tìm hiểu được tất cả
các nguyên lí chi phối vũ trụ.
Không có kính thiên văn cỡ lớn và những quan sát có tính khám phá về những ngôi sao ở
xa, các nghiên cứu triết học và thần học thống trị trong vũ trụ học thế kỉ 18. Tình huống
này bắt đầu biến chuyển sau khi nhà thiên văn học người Anh William Herschel đề ra một
mô hình vũ trụ học có nguồn gốc từ quan trắc. Từ những năm 1780 trở đi, bầu trời, thâm
nhập bởi những chiếc kính thiên văn cỡ lớn của Herschel, liên tục được hiểu rõ dưới dạng
một cấu trúc ba chiều có thể mở rộng dần.
Nhu cầu cần thiết cho sự can thiệp thần thánh cũng giảm đi khi các nhà thiên văn trong thế
kỉ 18 giải được các bài toán cơ học thiên thể. Năm 1786, chẳng hạn, nhà toán học và nhà
thiên văn học người Pháp Pierre-Simon Laplace chứng minh được rằng tương tác hấp dẫn
của Mộc tinh và Thổ tinh tự hiệu chỉnh được. Những nỗ lực như thế này là một cố gắng
nhằm thay thế giả thuyết về vai trò của Chúa bằng một lí thuyết vật lí thuần túy để giải
thích trật tự quan sát thấy của vũ trụ.
Nỗ lực của Laplace nhằm thay thế giả thuyết về vai trò của Chúa bằng một lí thuyết vật lí
thuần túy để giải thích trật tự quan sát thấy của vũ trụ phản ánh cách tiếp cận tự nhiên
theo chủ nghĩa vô thần của những nhà khai sáng Pháp. Laplace đã thành công, ít nhất là
theo ý kiến của riêng ông. Theo truyền thuyết, khi Napoleon hỏi ông rằng ông có dành chỗ
nào cho Đấng sáng tạo không, Laplace trả lời rằng ông không cần một giả thuyết như thế.
Sự tách rời Chúa khỏi vũ trụ vật lí là điều không thể tránh khỏi với sự phát triển của vũ trụ
học hiện đại, cho dù Newton và những người khác có bị thuyết phục bao nhiêu rằng những
khám phá của họ minh họa cho sự hiện diện và sức mạnh của Chúa. Thay vì vậy, nhiều
Edmond Halley (đôi khi còn gọi là “Edmund”) học tại trường đại học
Oxford, nhưng ra trường trước khi tốt nghiệp, để quan sát sao trong vòng
một năm ở bán cầu nam. Sau khi trở lại Anh, Halley hoạt động trong Hội
Hoàng gia London. Ở đó, ông đã giúp ông bạn Isaac Newton của mình
nghiên cứu về hấp dẫn và viết cuốn Principia (Nguyên lí), và còn chi tiền
xuất bản cuốn sách đó. Halley nổi tiếng có khiếu phân tích quỹ đạo sao
chổi, ông chỉ ra quỹ đạo của chúng có hình elip và tuần hoàn. Sao chổi
Halley đã quay lại, như ông tiên đoán, năm 1758, 15 năm sau khi ông qua
đời. (Sao chổi đó xuất hiện lần cuối vào năm 1986, và lần xuất hiện kế tiếp
sẽ là năm 2061) Khám phá của Halley về chuyển động sao, ít được biết tới
hơn sao chổi của ông, cũng là một thành tựu. Các ngôi sao không còn
được ai tin là cố định nữa, dù là trên quả cầu ngoài cùng hoặc trong
không gian. Lúc vào tuổi 63, Halley được bổ nhiệm là nhà thiên văn hoàng
gia, ông giữ vị trí đó cho tới khi qua đời.
Hình vẽ xoáy của Descartes trong cuốn sách Nguyên lí triết học năm 1644 của ông.
Nhà toán học người Thụy Sĩ Leonard Euler đã giúp phát triển những kĩ thuật toán học cần
thiết cho tính toán những hiệu ứng nhiễu loạn. Ban đầu, ông áp dụng chúng cho Mặt
Trăng, và rồi năm 1748, áp dụng cho Mộc tinh và Thổ tinh,
với sự thành công một phần.
Herschel nêu ra cách xác định vị trí của hệ Mặt Trời trong tầng sao bằng
cách “ ‘bịt miệng’ bầu trời”, nghĩa là đếm số lượng sao theo những hướng khác
nhau. Con số này, Herschel biện luận, giả sử các sao bằng nhau về độ sáng và bị
phân tán như nhau, sẽ tỉ lệ với khoảng cách đến rìa của thiên hà của chúng ta theo
từng hướng nhất định. Mặc dù hợp lí, nhưng phương pháp của ông đã thất bại trong
thời kì đó để thu được hình ảnh thật sự của Dải Ngân hà, vì kính thiên văn của ông
không có khả năng phát hiện ra những ngôi sao bình thường tại vùng rìa xa nhất của
thiên hà của chúng ta. Hơn nữa, như chính Herschel công nhận, không có lí do gì để
giả sử các sao bằng nhau về độ sáng và bị phân tán như nhau.
William Herschel đang cầm trong tay bản ghi chép về sự phát hiện ra Thiên vương tinh, nhưng lúc ấy gọi là
“hành tinh Georgian”, đặt theo tên vua nước Anh.
Người con trai độc nhất của Herschel, John Frederick William Herschel (1792-1871), đã trợ
giúp người cha ốm yếu của mình trong những quan sát của ông. Ông trở thành một nhà
thiên văn quan trọng, được tán dương là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất của
thời ông.
Caroline Herschel (1750-1848), người em gái Caroline của William Herschel di cư
sang Anh năm 1772 và làm việc theo sự chỉ dẫn của Herschel. Bà là một phụ tá vô giá
trong quan sát của ông, giúp ông xây dựng kính thiên văn của mình và lau bóng các tấm
gương, và thức trắng nhiều đêm ghi lại các quan sát của ông. Chính bà là một nhà thiên
văn học ưu tú. Bà tham gia tính toán cùng với ông, và phát hiện ra tám sao chổi với chiếc
kính thiên văn nhỏ của riêng bà. Sau khi William qua đời, bà đã biên tập một danh mục
cụm sao và tinh vân mà họ đã quan sát được. Hội Thiên văn học Hoàng gia đã tặng
thưởng cho bà huy chương vàng và bà nhận tiền lương hưu 50 pound. Mageret Herschel
(người con gái nuôi của William Herschel) đã viết như thế này:
“Bà đã học đủ kiến thức toán và các phương pháp tính toán… để có thể biên dịch
khi viết lại những kết quả nghiên cứu của ông. Bà trở thành phụ tá của ông trong phòng thí
nghiệm; bà giúp ông mài và lau bóng những chiếc gương của ông; bà đã đứng sau chiếc
kính thiên văn của ông hàng đêm khuya mùa đông, để viết lại những quan sát của ông, khi
mà mực viết đang đông lại ở trong lọ”.
Vào đầu thế kỉ 20, các nhà thiên văn không biết chắc chắc kích thước thiên
hà của chúng ta. Nói chung, họ tin nó không lớn hơn nhiều so với vài chục ngàn
năm ánh sáng, và có lẽ còn kém hơn nhiều. (Một năm ánh sáng, gần 6 nghìn tỉ dặm,
là khoảng cách truyền đi trong một năm ở tốc độ ánh sáng trong chân không) Các
nhà quan sát đầu thế kỉ 20 cũng thấy hình như hệ Mặt Trời của chúng ta nằm ở gần
tâm của thiên hà. Tuy nhiên, đó là một nhận định sai lầm.
“Tôi tin rằng khối lượng to lớn của các sao… được sắp xếp dưới dạng một
thấu kính – hoặc một hệ hình búi tóc… bị dẹt đáng kể vào một mặt phẳng…
Mặt Trời chiếm vị trí đúng ngay chính giữa”.
Nhà thiên văn học người Anh Arthur Eddington, 1914.
Sai lầm của các nhà thiên văn
Việc đếm số lượng sao tìm thấy một sự thiếu hụt sao theo mọi hướng tính từ
hệ Mặt Trời. Điều này đúng như mong đợi nếu như chúng ta thật sự ở gần
trung tâm dày đặc. Nếu chúng ta ở gần rìa của hệ, thì sẽ có nhiều sao được
quan sát theo hướng nhìn về phía trung tâm, và có ít sao hơn về phía rìa, nên
lập luận là đúng. Dữ liệu thì chính xác nhưng cách giải thích chúng thì sai
lầm. Các nhà thiên văn phải xem xét sự hấp thụ bởi khí và bụi giữa các sao.
Một loại sương mù giữa các sao đã làm lu mờ các sao, gây ra sự thiếu biểu
kiến chứ không phải thật sự, và trong một kết luận sai lầm thì hệ Mặt Trời
nằm ở gần tâm của thiên hà.
Mô hình vũ trụ mới của Shapley
Cái nhìn như thế này về vũ trụ sớm bị thay thế bởi một quan niệm mang tính
cách mạng mới, chủ yếu xây dựng trên những quan sát của nhà thiên văn học người
Mĩ Harlow Shapley tại Đài quan sát núi Wilson. Nhà thiên văn và là chủ doanh
nghiệp khoa học George Ellery Halle đã thiết lập một đài quan sát trên một đỉnh núi
nhìn xuống Los Angeles vào năm 1904, và bốn năm sau đó, nhà chế tạo thiết bị
George Ritchey đã hoàn thành chiếc kính thiên văn phản xạ 60 inch thiết kế đặc biệt
dành cho chụp ảnh thiên văn học.
George Ellery Hale (1868-1938)
Khi còn là một sinh viên tại Viện Công nghệ Massachusetts, Hale đã phát minh ra một
thiết bị chụp ảnh sự bùng nổ chất khí tại rìa của Mặt Trời. Trở lại quê nhà ở Chicago, ông
tiếp tục nghiên cứu Mặt Trời, ban đầu tại đài quan sát ở nhà của ông và sau đó tại Đài
quan sát Yerkes của trường đại học Chicago – nơi Hale được công nhận là một thành viên
nhận trợ cấp vào năm 1897. Kính thiên văn khúc xạ 40 inch Yerkes (kính thiên văn trong
đó ánh sáng truyền qua một thấu kính) là chiếc kính thiên văn khúc xạ thành công lớn nhất
thuộc loại này từng được chế tạo.
Cha của Hale chi tiền làm một chiếc gương đường kính 60 inch cho một kính thiên văn
phản xạ còn lớn hơn nữa, nhưng Hale không thể thu được sự tài trợ địa phương để gắn
chiếc gương đó. Năm 1902, Andrew Carnegie, người có tài sản kếch sù nhờ sự chuyển biến
của nền công nghiệp thép, thành lập Viện Carnegie để khuyến khích các khảo sát, nghiên
cứu và khám phá theo phong cách hào phóng và rộng lượng nhất. Carnegie chi 10 triệu đô
la cho tổ chức mới của ông. Số tiền này (có giá trị gấp 10 lần số tiền tương ứng ngày nay)
M22, một cụm hình cầu gồm nhiều ngàn ngôi sao. Bằng cách giả sử những loại sao nhất định ở
đây sáng tương tự như những ngôi sao ở gần mà khoảng cách có thể đo được, Shapley có thể ước
tính được khoảng cách tới những đối tượng xa xôi này.
Harlow Shapley (1885-1972)
Một chút trong cuộc đời thuở nhỏ của Shapley cho thấy thành
tựu sau này của ông. Năm đó ông 15 tuổi và bị xem là một thằng
du côn ở thành phố dầu Kansas khi ông bước vào một thư viện
công cộng và bắt đầu đọc sách. Ông sớm chia sẻ tham vọng của
mẹ ông rằng các con trai của bà phải vào đại học và sống tự
lập. Bị từ chối không nhận vào một trường trung học, Shapley
vào học một trường tư thục vui vẻ nhận tiền học phí của ông
đóng góp. Năm 1907, ông vào trường đại học Missouri. Ông
định học nghề làm báo, nhưng khoa báo chí năm đó không mở
mà mở vào một năm khác. Sau đó, Shapley kể lại rằng ông đã
mở một danh mục khóa học, nhận thấy bản thân ông không phù
hợp với khảo cổ học, nên ông chọn thiên văn học. Câu chuyện
Quan hệ chu kì – độ sáng đối với các sao biến quang loại Cepheid – đường cong cho thấy độ sáng của chúng thay đổi
như thế nào theo thời gian – do Harlow Shapley vẽ năm 1918. Từ đó về sau, nhà thiên văn có thể quan sát chu kì, hay
thời gian từ độ sáng cực đại này tới độ sáng cực đại tiếp theo, đối với bất kì sao Cepheid nào khác, rồi biểu diễn đồ thị
cường độ tuyệt đối của sao. So sánh cường độ tuyệt đối (“thật sự”) ước tính này với cường độ biểu kiễn quan sát được sẽ
mang lại khoảng cách, vì độ sáng giảm theo bình phương của khoảng cách.
“[Đường cong chu kì – độ sáng] dựa trên hơn 230 sao, và, ngoại trừ độ bất
định điểm không (sai số khoảng cách đo bởi những phương pháp khác đối
với các sao Cepheid gần hơn), có khả năng chính xác trong phạm vi 1 hoặc
2 phần trăm bậc độ lớn”.
Harlow Shapley
Shapley nhận thấy các cụm sao hình cầu sắp xếp đối xứng xung quanh thiên
hà, ở phía trên mặt phẳng thiên hà cũng nhiều như ở phía dưới. Các cụm sao dường
như tránh mặt phẳng thiên hà, tức Dải Ngân hà. Shapley viết rằng “vùng chính giữa
thiên hà to lớn này, nơi đặc biệt phong phú đủ mọi loại sao, tinh vân hành tinh, và
những cụm sao mở, không phải nghi ngờ gì là vùng không chứa các cụm sao hình
cầu”. Shapley thừa nhận có một lời giải thích khác. Có thể là những cụm sao hình
cầu không, như chúng ta nghĩ, thực sự không có trong vùng đó, mà chúng bị che
khuất bởi các đám hấp thụ nằm dọc theo xương sống của Dải Ngân hà.
“Vũ trụ vật lí là trung tâm của con người đối với người nguyên thủy… vai
trò của con người và Trái Đất trong bối cảnh thiên văn đã giảm sút cùng với
những kiến thức tiến bộ về thế giới vật lí”…
- Shapley.
Thiên hà được hình dung vào năm 1919 (nhìn từ trên xuống), hình dạng và quy mô của nó được chỉ ra bởi những cụm
sao hình cầu, ở đây chúng được biểu diễn chiếu lên mặt phẳng thiên hà. Hệ Mặt Trời nằm trong vòng tròn nhỏ. Đường
chấm chấm là trục chính của thiên hà, với tâm của nó được đánh dấu bằng kí hiệu X màu đỏ. Vòng tròn lớn có bán kính
tăng dần từng khoảng 10.000 parsec, khoảng 32.600 năm ánh sáng.
Pickering và độ phân loại sao “Harem” của ông tại Đài quan sát Harvard College.
Henrietta Swan Leavitt (1868-1921)
Qua việc so sánh chính xác và buồn tẻ các bản phim chụp,
Leavitt đã phát hiện ra khoảng 2400 sao biến quang và quan
hệ chu kì – độ sáng đối với các sao biến quang loại Cepheid,
chìa khóa dẫn đến việc xuất hiện khoảng cách trong thiên văn
học hiện đại. Bà lấy bằng cử nhân tại trường cao đẳng
Radcliffe năm 1892, lúc đó phụ nữ không được lấy bằng ở
trường Harvard. Đài quan sát Harvard Collge thuê các phụ tá
nữ, mặc dù họ không được phép quan sát, và Leavitt trở thành
người lãnh đạo khoa trắc quang học.
Thiên hà của Shapley không lớn bất kì ước tính nào trước đó (trừ những dự
đoán buổi đầu về những tầng sao vô hạn). Nó thật sự có thể là toàn bộ vũ trụ. Vì
Shapley đã chỉ ra rằng các cụm sao hình cầu là phần sáng tỏ của thiên hà, chứ
Harlow Shapley
Heber D. Curtis
Đối thủ tranh luận của Shapley là Heber D. Curtis, đến từ Đài quan sát Lick ở nam
California. Hứng thú ban đầu của ông là bản chất của tinh vân xoắn ốc. Nhưng ông nhận
ra rằng lí thuyết vũ trụ cô lập có mối quan hệ gián tiếp lên chủ đề chung về kích thước
thiên hà. Curtis thừa nhận rằng “nếu tinh vân xoắn ốc là những vũ trụ cô lập, thì điều hợp
lí và khả dĩ nhất là gán cho chúng kích thước có cùng bậc độ lớn như thiên hà của chúng
ta.Tuy nhiên, nếu kích thước của chúng lớn cỡ 300.000 năm ánh sáng [như Shapley xác
nhận cho thiên hà của chúng ta] thì những vũ trụ cô lập đó phải nằm ở những khoảng cách
Tinh vân không theo quy luật NGC 6822, cái ngày nay gọi là một thiên hà lùn ở gần. Nhờ kính
thiên văn 100 inch, Hubble có thể phát hiện ra các sao biến quang ở đây, mặc dù nó ở cách xa 1,5
triệu năm ánh sáng (số đo hiện đại).
Trang 156-157 trong sổ tay quan sát của Edwin Hubble. Nó lưu lại sự khám phá ra sao biến quang Cepheid
đầu tiên trong tinh vân xoắn ốc M31. Thoạt đầu Hubble ngờ rằng ông đã tìm thấy một sao siêu mới, loại sao
bùng sáng lên nhanh chóng rồi dần dần lụi tàn. Trong bản phim chụp số 331, Hubble ghi chú “nghi là sao
siêu mới”. Trong bản 335, Hubble ghi “xác nhận sao siêu mới nghi ngờ…”. Nhưng Hubble sớm nhận ra
rằng ông đã không tìm thấy một sao siêu mới là một sao biến quang lại Cepheid.
Vùng trung tâm của tinh vân xoắn ốc M31. Bản phim này chụp trong 9 giờ phơi sáng trong hai
đêm vào tháng 9/1920, với kính thiên văn phản xạ 100 inch núi Wilson. Sao Cepheid nằm ở góc
phải phía trên, được đánh dấu “VAR!” có nghĩa là biến quang.
Khi ông tìm ra một sao biến quang Cepheid, Hubble nhận thấy ông đã giữ
trong tay một chìa khóa đo khoảng cách. Như Shapley từng dùng quan hệ chu kì- độ
sáng đối với các sao Cepheid để tìm khoảng cách đến những cụm sao hình cầu trong
thiên hà của chúng ta, Hubble có thể tìm được khoảng cách đến tinh văn xoắn ốc
M31.
Hubble nhận thấy “khoảng cách [tới M31] lên tới trên 300.000 parsec”.
Khoảng cách này xấp xỉ một triệu năm ánh sáng, và lớn hơn vài lần so với ước tính
của Shapley về giới hạn bên ngoài của thiên hà của chúng ta. Hubble tiếp tục: “Tôi
cảm thấy sẽ có thể tìm thấy nhiều sao biến quang [Cepheid] hơn bằng cách kiểm tra
cẩn thận sự phơi sáng lâu dài”.
Sự phân bố biểu kiến của tinh vân, cho thấy ảnh Sự phân bố biểu kiến của tinh vân, đã được hiệu
hưởng của sự lu mờ bởi bụi và khí trong mặt chỉnh một phần ảnh hưởng của sự lu mờ bởi thiên
phẳng thiên hà. hà.
Phản đối có sức thuyết phục nhất đối với ý kiến xem tinh vân xoắn ốc là những vũ trụ độc
lập là các phép đo chuyển động quay của tinh vân xoắn ốc do Adriaan van Maanen tại Đài
quan sát núi Wilson thực hiện. Từ sự so sánh bản chụp tinh vân xoắn ốc cách nhau vài
năm, van Maanen nghĩ rằng ông có thể nhận ra các sao nhất định trong những tinh vân
nhất định, và dò theo chuyển động của chúng do sự quay của tinh vân. Chỉ đến sau này
người ta mới nhận ra rằng phép đo tham vọng của van Maanen là sai lầm. (Tinh vân xoắn
ốc thật sự có quay, nhưng không nhanh đến nỗi chuyển động đủ lớn cho phát hiện từ
những bức ảnh chụp cách nhau vài năm) Nếu như tinh vân xoắn ốc lớn và là những vũ trụ
độc lập ở xa, thì chuyển động mà van Maanen tường thuật là ông đã nhìn thấy sẽ có tốc độ
lớn hơn tốc độ ánh sáng, điều đó không thể được. Cho nên, điều có vẻ hợp lí hơn là tinh
vân xoắn ốc là những vật thể nhỏ trong thiên hà của chúng ta.
Quan hệ giữa van Maanen với Hubble, và đồng nghiệp của ông ở Đài quan sát núi Wilson
trở nên căng thẳng. Ban đầu, Hubble phớt lờ công trình của Maanen, ngoại trừ một lần
nói chuyện riêng ông đã tàn nhẫn đánh đổ khẳng định sự chứng thực của van Maanen bởi
những nhà quan sát khác. Cuối cùng thì Hubble cũng theo xu hướng của công chúng. Biên
tập viên ấn phẩm xuất bản của Đài quan sát núi Wilson muốn dàn xếp mọi bất đồng giữa
Hubble và van Maanen trong một số báo. Nếu như không thu được sự nhất trí, thì ông
cũng cảm thấy tình trạng cần phải đưa bao nhiêu kết quả ra trước công chúng. Nhưng ông
Chuyển động quay giả định của tinh vân xoắn ốc, khiến trông nó có vẻ gần. Mũi tên trong
ảnh chụp năm 1916 này của tinh vân xoắn ốc M101 chỉ hướng và độ lớn của chuyển động
mà Adriaan van Maanen khẳng định là đã đo được từ việc so sánh các bản phim chụp
cách nhau vài năm. Các sao so sánh được khoanh tròn trong hình.
Đối mặt với công trình của van Maanen, Hubble giải quyết vấn đề nan giải đó một cách tài
tình. Trước tiên, ông mời một nhà thiên văn có phép đo mà van Maanen trước đó khẳng
định là sự chứng thực tham gia vào phép đo mới của Hubble. Nhà thiên văn này không rõ
ràng phủ nhận lời giải thích của van Maanen cho công trình của ông, nhưng độc giả của
bài báo mới có thể dễ dàng có ấn tượng đó. Hubble cho công bố một lời ghi chép chủ yếu
chỉ rõ kết quả của van Maanen là sự không nhất quán nổi bật trong lí thuyết cho rằng tinh
vân là những hệ thống ngoài thiên hà. Phép đo lại của Hubble về bốn tinh vân xoắn ốc đã
xác minh sự tồn tại của sai số hệ thống trong chuyển động quay giả định của van Maanen.
Về nguyên nhân gây ra sai số, Hubble không nói gì. Về mặt cá nhân, trong nghiên cứu, ông
ghi chép tường tận nhưng không bao giờ công bố, Hubble đã thử hết sức nhưng cuối cùng
thì thất bại trong việc gán cho những phép đo sai lầm các sai số ngẫu nhiên. Sai số ngẫu
nhiên sẽ tạo ra kết quả ngẫu nhiên, nhưng van Maanen đã báo cáo cả bảy tinh vân xoắn ốc
của ông đang quay theo hướng “gió thổi”. Với mục đích chân thật nhưng nhầm lẫn, và
không kể đến những cảnh báo gây ấn tượng sâu sắc, thì van Maanen đã nhìn thấy cái mà
ông muốn thấy, mặc dù nó không hề tồn tại.
Van Maanen không rút lại tuyên bố trước đó của ông. Nhưng lúc này ít nhất thì ông cũng
thừa nhận, trong một bài viết trên Tập san Thiên văn vật lí xuất bản ngay sau bài báo của
Hubble, rằng “thật đáng thèm muốn xem được những chuyển động đó”. Rõ ràng sự sắp
đặt này đã được dàn xếp với Hubble và người biên tập tờ báo.
Khám phá của Hubble về các sao biến quang Cepheid trong các tinh vân
xoắn ốc, và việc xác định khoảng cách xác nhận tinh vân xoắn ốc là những thiên hà
độc lập, được công bố chính thức vào ngày đầu năm mới 1925, tại một cuộc họp
của Hội Thiên văn học Hoa Kì. Ông tiếp tục đi theo bài báo sơ bộ này trong bốn
năm nữa, với những chi tiết thuyết phục, đồ sộ. Một phần thiên tài của Hubble, và
phần nhiều sự chấp nhận mà những kết luận mang tính cách mạng của ông mang
lại, là do rất nhiều sự làm việc cực nhọc, bền bỉ.
Trước khi thập niên 1920 kết thúc, các nhà thiên văn học hiểu rằng các tinh
vân xoắn nằm bên ngoài thiên hà của chúng ta. Trong thập niên trước, Shapley đã
nhân kích thước của vũ trụ lên 10 lần. Hubble nhân nó lên thêm 10 lần nữa – nếu
không nói là nhiều hơn. Vũ trụ của Hubble không còn là một thiên hà bao hàm tất
cả mà Shapley hình dung ra. Từ nay, vũ trụ được hiểu là tập hợp vô số các thiên hà
trải ra trong không gian, xa hơn những chiếc kính thiên văn lớn nhất có thể nhìn
Năm 1910, Hubble vào trường đại học Oxford theo học bổng Rhodes. Đó là một vinh dự
lớn, dành cho một số lượng nhỏ sinh viên-vận động viên hàng đầu. Tại Oxford, Hubble học
luật La Mã và tiếng Tây Ban Nha, tham gia các phong trào thể thao và gia nhập một đội
bơi lội. Sau đó, ông kể ông đã thi đấu một trận đấm bốc giải quốc gia Pháp, và thi đấu
thành công đến mức nhà tổ chức muốn huấn luyện ông để đi thi đấu giải nặng cân quốc tế.
Người ta đồn Hubble cũng đã có lần đọ kiếm tay đôi với một sĩ quan người Đức có vợ bị vẻ
điển trai của Hubble hớp hồn. Những câu chuyện này cho chúng ta biết về cuộc đời
Hubble không nhiều như những bức ảnh lãng mạn của chính ông.
Đội bóng rỗ liên trường Đại học Chicago năm 1909. Hubble ở phía bên trái.
Sau ba năm ở Oxford, Hubble trở lại quê nhà ở Louisville, Kentucky. Ông dạy vật lí và
tiếng Tây Ban Nha ở một trường trung học và cũng trở thành một thành viên của đoàn luật
sư Kentucky, mặc dù chưa bao giờ thật sự thực hành luật. Năm 1914, ông trở lại trường
đại học Chicago và Đài quan sát Yerkes. Ông hi vọng hoàn thành luận án tiến sĩ nghiên
cứu về việc chụp ảnh các tinh vân mờ nhạt và nhận được một vị trí tại Đài quan sát núi
Wilson vào mùa hè năm 1917.
Hubble sống ở San Marino, California, gần Pasadena. Ông có vài chuyến đi đến châu Âu
thuyết giảng và nhận được nhiều trọng vọng. Hubble dự tiệc gần Hollywood cùng với các
ngôi sao điện ảnh, trong đó có Charlie Chaplin và Greta Gerbo, và với những nhà văn nổi
tiếng như Aldous Huxley, Christopher Isherwood, và Anita Loos. Nhưng sở thích của ông
là đi câu cá.
Nhà thiên văn người Hà Lan Willem de Sitter vào năm 1898.
Trở lại những năm tháng khám phá và chuyển biến lớn từ 1915 đến 1930,
nhà thiên văn Hà Lan Willem de Sitter đã nhận định đúng thời kì đó có lẽ là phi
thường nhất được biết từ trước tới nay đối với các nhà khoa học vật lí. Theo lí
thuyết tương đối và thuyết lượng tử, các nhà vật lí bắt đầu với Albert Einstein đã
Albert Einstein (trái) và Wilhelm de Sitter (phải) thảo luận trên bảng đen về lí thuyết vũ trụ dãn nở
của de Sitter. Bức ảnh này chụp năm 1932 tại Viện Công nghệ California.
“Việc đưa ra một hằng số như thế ngụ ý là một sự hi sinh lớn của tính đơn
giản hợp lí của lí thuyết… Kể từ khi tôi đưa ra thuật ngữ này, tôi đã làm một
việc trái lương tâm mình… Tôi không thể tin rằng một thứ xuẩn ngốc như thế
sẽ được nhận thức trong tự nhiên”
Einstein viết cho Lamaitre, năm 1947
Ánh sáng phát ra từ các tinh vân xa xôi
Niềm tin mạnh mẽ vào một vũ trụ tĩnh tại chỉ có thể bị lật đổ bởi sức nặng
của các quan sát tích lũy. Bằng chứng đầu tiên trong số những quan sát này được
công bố vào năm 1915. Có khả năng quan sát đó không đến được với Einstein khi
Với một chiếc camera mới, tốc độ của nó tăng gấp 30 lần, vào đêm
17/9/1912, Slipher đã thu được một ảnh phổ cho tinh vân Tiên Nữ. Ảnh phổ cho
thấy tinh vân đó đang tiến về phía hệ Mặt Trời với một tốc độ cao đến ngạc nhiên.
Slipher tiến hành thêm các quan sát, phơi sáng cùng một tấm phim trong nhiều đêm
(ví dụ đêm 29, 30 và 31/12/1912). Các vận tốc phát sinh này trung bình khoảng 300
km/s. Vận tốc đó quá lớn nên một số nhà thiên văn không tin là nó tồn tại.
Suốt hai năm sau đó, Slipher đã đo vận tốc cho các tinh vân xoắn ốc khác.
Một vài phép đo đầu tiên cho thấy các tinh vân đang tiến tới ở mạn nam thiên hà
của chúng ta và các tinh vân đang lùi ra xa thì nằm ở mạn bên kia. Slipher đặt ra giả
thuyết “trôi giạt”. Ông cho rằng thiên hà của chúng ta đang chuyển động tương đối
© hiepkhachquay Lịch sử vũ trụ học | Trang 52
so với tinh vân, tiến về phía nam và tiến ra xa khỏi phía bắc. Tuy nhiên, nhiều quan
sát tinh vân xoắn ốc mâu thuẫn với điều này. Các tinh vân đang lùi ra xa được tìm
thấy ở cả mạn nam lẫn mạn bắc thiên hà của chúng ta. Tuy vậy, Slipher vẫn theo
đuổi lí thuyết trôi giạt của ông. Ông tranh luận rằng có lẽ nhiều quan sát hơn nữa sẽ
tìm được ít nhất là một sự trội hơn của các tinh vân đang tiến đến gần ở mạn nam,
hướng mà ông cho là thiên hà của chúng ta về phía đó.
Thiên hà Tiên Nữ
Một lời giải thích khác về vận tốc nhìn thấy ở các tinh vân xoắn ốc sớm được
nêu lên. Mô hình vũ trụ tĩnh tại của de Sitter có một tần số thu nhỏ của những dao
động sáng theo khoảng cách tăng dần. De Sitter tính ra các vận tốc bằng cách sử
dụng quy luật tần số của ánh sáng quan sát thấy sẽ biến thiên nếu như nguồn phát
sáng đang chuyển động nhanh ra xa – nhưng có lẽ đây là một ảo tưởng. Có khả
năng những đối tượng ở xa không thật sự đang lùi ra xa ở tốc độ lớn, mà chỉ phát ra
một tần số ánh sáng khác đi. Không có gì giống như thế xảy ra trong mô hình vũ trụ
tĩnh tại của Einstein, nên phép đo của Slipher có thể mang lại một sự chọn lựa giữa
hai mô hình.
Thế chiến thứ nhất đã làm chậm việc truyền đạt thông tin, nhưng vào năm
1921 de Sitter đã biết các phép đo vận tốc của Slipher đối với 25 tinh vân xoắn ốc.
Trong đó chỉ có 3 tinh vân đang tiến tới gần. Chúng có thể được giải thích là kết
quả của những vận tốc lớn theo những hướng ngẫu nhiên, chồng chất lên sự lùi ra
xa có hệ thống nhỏ hơn nhiều. De Sitter vẫn lưỡng lực không đưa ra bất cứ kết luận
nào. Các vận tốc được biết, nhưng nửa kia thuộc quan hệ tiên đoán được – khoảng
cách đến tinh vân – là ẩn số. Thông tin quan trọng này sẽ được Edwin Hubble phát
triển khi ông mở rộng các phép đo “vũ trụ cô lập” của mình (đã mô tả ở phần
trước).
Mối quan hệ vận tốc-khoảng cách năm 1929 của Hubble đối với 46 tinh vân. Các chấm đen và
đường thẳng liền nét biểu diễn lời giải thu được từ 24 tinh vân mà đối với chúng từng khoảng cách
đã được xác định, sử dụng chúng độc lập nhau. Các vòng tròn trống và đường đứt nét biểu diễn lời
giải thu được bằng cách kết hợp các tinh vân thành hai nhóm. Dấu chữ thập biểu diễn vận tốc
trung bình cho tập hợp 22 tinh vân có khoảng cách không thể ước tính riêng lẻ với nhau.
“Những quan sát mới do Hubble và Humason thực hiện… về sự lệch
về phía đỏ của ánh sáng ở các tinh vân ở xa mang lại sự suy đoán gần rằng
cấu trúc tổng quát của vũ trụ là không tĩnh tại”.
Einstein
Các quan sát không thể phủ nhận của Hubble rằng ánh sáng phát ra từ các
tinh vân biểu hiện một sự lệch về phía đỏ tăng theo khoảng cách loại trừ khả năng
mô hình tĩnh tại của Einstein biểu diễn vũ trụ thực. Mô hình tĩnh khác của de Sitter,
không có vật chất, cũng bị bác bỏ bởi những quan sát mới. De Sitter giả sử rằng mật
độ của vật chất trong vũ trụ có thể đủ gần tới không sao cho mô hình của ông có thể
hoạt động được. Năm 1927, một ước tính mới về khối lượng thiên hà của chúng ta
đưa de Sitter tới nghiên cứu lại giả thuyết này và loại bỏ nó. Einstein cũng sớm
nhận thức được rằng sự lệch về phía đỏ đã vứt bỏ giả thuyết cũ kĩ về vũ trụ tĩnh tại.
Mối quan hệ vận tốc – khoảng cách năm 1931 của Hubble. Các vòng tròn biểu diễn giá trị
trung bình cho các cụm hay nhóm tinh vân. Các chấm ở gần góc dưới bên trái biểu diễn
các tinh vân riêng lẻ. Những chấm này và hai vòng tròn ở thấp nhất được sử dụng trong
công thức năm 1929 về mối quan hệ vận tốc – khoảng cách.
Năm 1934, Hubble và Humason báo cáo các kết quả cho những tinh vân cô lập không nằm
trong các cụm. Mối quan hệ vận tốc – khoảng cách vẫn giữ vững.
Quan hệ vận tốc – khoảng cách năm 1936 của Hubble. Con số nằm trong ngoặc theo sau
tên của các cụm cho biết số tinh vân quan sát thấy trong mỗi cụm. Do tinh vân mờ nhạt
hơn nằm trong các cụm xa xôi nhất dưới giới hạn quan sát của kính thiên văn 100-inch,
nên Humason vẽ, dạng một dấu hiệu của khoảng cách, cường độ của tinh vân sáng nhất
thứ năm trong mỗi cụm.
Ảnh chụp Hoyle tại Kính thiên văn Anh-Australia, cùng với hoàng tử Charles.
Thật vậy, lí thuyết của ông không hề sai mà chỉ là không hoàn chỉnh. Các
nhà thiên văn vật lí sớm nhận ra rằng nếu các nguyên tố nặng hơn không được hình
thành trong sự khởi nguyên nóng bỏng của vũ trụ, thì chúng phải được hình thành
sau đó, trong phần bên trong của các sao. Lí thuyết đó phụ thuộc vào một tính chất
đặc biệt của carbon mà nhà thiên văn học người Anh Fred Hoyle đã đo được và tìm
thấy đúng như tiên đoán. Vũ trụ học đã bước vào phòng thí nghiệm.
Gamow bị gọi trở lại Liên Xô vào năm 1931, nhưng ông không cảm thấy thoải mái ở đó.
Ông dùng giấy phép cho tham dự một hội nghị ở Brussels vào năm 1933 để trốn sang Mĩ, ở
đó ông đảm nhận một vị trí trong trường đại học George Washington DC. Không rõ là ông
có nghiên cứu Dự án Mahattan không, nhưng sau này ông có tham gia một thời gian ngắn
trong việc phát triển bom khinh khí. Gamow đã đưa lí thuyết hạt nhân vào vũ trụ học và
đặt nền tảng cho việc nghiên cứu sự hình thành của các nguyên tố trong Big Bang.
Trò đùa của Gamow
Khi Alpher và Gamow soạn bài báo về đề tài trên, Gamow đã tinh quái thêm tên của nhà
vật lí hạt nhân nổi tiếng Hans Bethe vào danh sách tác giả để nó được gọi là “bài báo
Alpher – Bethe – Gamow”, bắt chước “alpha – beta – gamma” của những kí tự đầu tiên
của bộ chữ cái Hi Lạp. Không hề biết Gamow, Bethe là nhà phản biện cho tập san mà
Gamow gởi đăng bài báo. Bethe xem đó là một sự hóm hỉnh dễ thương, sau này ông giải
thích, “ Lúc ấy tôi cảm thấy đúng hơn là một trò đùa dễ thương, và bài báo đó rất có thể là
chính xác, cho nên tôi không phiền việc tên mình bị thêm vào danh sách tác giả”. Gamow
cũng xúi giục Herman đổi tên ông ta thành Delter để nhại lại delta, kí tự tiếp theo trong bộ
chữ cái Hi Lạp. Bất chấp sự từ chối của Herman, trong một bài báo trên một tập san khoa
học danh tiếng, Gamow vẫn nhắc tới “lí thuyết bắt neutron… phát triển bởi Alpher, Bethe,
Gamow và Delter”.Trong số những đặc điểm nổi trội của ông thì óc hài hước chiếm một
phần không phải là ít.
Tommy Gold (trái), cùng với Hermann Bondi (giữa) và Fred Hoyle (phải), khoảng năm 1960.
Có một câu chuyện thú vị, mà các nhà sử học không xem là nghiêm túc, về
cách thức lí thuyết trạng thái bền vững bắt đầu. Ý tưởng xuất hiện năm 1947, Hoyle
khẳng định, khi ông và nhà khoa học khách mời Hermann Bondi và Tommy Gold
đi xem một bộ phim. Ba người biết nhau từ việc chia sẻ nghiên cứu về radar trong
Thế chiến thứ hai. Hoyle thì tháo vát, ít theo khuôn phép và có trực giác; Bondi thì
có một trí tuệ toán học sâu sắc và có tính kỉ luật cao; còn trí tưởng tượng vật lí táo
bạo của Gold thì mở ra những viễn cảnh mới. Bộ phim đó là một câu chuyện ma kết
thúc theo kiểu giống như lúc nó bắt đầu. Điều này khiến cho ba nhà khoa học nghĩ
về một vũ trụ cho đến nay không hề thay đổi về mặt động lực học. Theo Hoyle
“Người ta có xu hướng nghĩ về những tình huống bất biến dạng nhất thiết tĩnh tại.
Cái mà bộ phim ma đó đã làm sâu sắc đối với ba chúng tôi là đã loại bỏ quan điểm
sai lầm này. Người ta có thể có những tình huống không đổi mang tính động lực
học, chẳng hạn như một dòng sông chảy êm đềm”. Nhưng làm sao vũ trụ lại có thể
trông như hệt nhau nếu như nó luôn luôn dãn nở ? Họ không mất bao lâu để thấy
một câu trả lời có khả năng – vật chất liên tục được tạo ra. Như vậy, những ngôi sao
và thiên hà mới có thể hình thành để lấp đầy không gian bỏ lại phía sau khi những
ngôi sao hay thiên hà già nua chuyển động ra xa.
Hình vẽ giai đoạn sơ khai và sau đó trong hai mô hình khác nhau về vũ trụ dãn nở. Mô hình bên
trái tuân theo nguyên lí vũ trụ học, theo đó vũ trụ là đồng nhất và trông như nhau đối với nhà quan
sát đứng ở bất kì chỗ nào trong vũ trụ. Mô hình bên phải tuân theo nguyên lí vũ trụ học hoàn hảo,
ngoài nguyên lí vũ trụ học còn yêu cầu vũ trụ là bất biến theo thời gian – những thiên hà mới xuất
hiện liên tục bên trong không gian đang dãn nở.
Ryle, bên phải, đang hàn một đoạn ănten cùng với đồng nghiệp Hewish
Hoyle chua chát phàn nàn rằng Ryle đã bị thúc đẩy không chỉ bởi cuộc truy
tìm sự thật, mà còn bởi khát vọng muốn phá hoại lí thuyết trạng thái bền vững.
Ryle, cũng như nhiều nhà thiên văn quan sát khác, thật sự không đánh giá cao các
nhà vũ trụ học lí thuyết.
“Cho dù là chúng ta chưa bao giờ thật sự thành công trong những phép đo
[vô tuyến] với độ chính xác đủ để bác bỏ bất kì lí thuyết vũ trụ học nào,
nhưng mối đe dọa đó có thể làm mất dũng khí rất nhiều ý thức thiếu trách
Alan Guth
Điều này nghe giống hệt như quan niệm hồi thế kỉ 18 về Chúa sáng tạo,
người đã tạo ra vũ trụ và để cho nó tự tiến hóa. Ý tưởng đấng sáng tạo này hoàn
toàn khác với những khẳng định hiện nay, trái với lí thuyết tiến hóa, về “sự sắp xếp
thông minh” đang tiến triển của các cơ quan sống. Với những câu hỏi như thế, vũ
trụ đã đi từ địa hạt khoa học sang đức tin và tôn giáo.
Kiểm tra các lí thuyết
Vấn đề tại sao mật độ của vũ trụ sau Big Bang tiến rất gần với mật độ tới hạn
được gọi là “bài toán phẳng”. Mô hình Big Bang chuẩn không đưa ra câu trả lời, mà
“đó chỉ là cách thức nó như thế”. Tuy nhiên, theo lí thuyết lạm phát, một sự bùng nổ
ngắn của sự dãn nở theo hàm mũ tự động sẽ làm phẳng mọi thứ, khiến cho mật độ
vật chất, cho dù giá trị ban đầu của nó là gì, tiến tới hầu như chính xác bằng với mật
độ tới hạn. Điều này không chỉ trả lời tại sao những con số cơ bản khác chỉ vừa
thích hợp cho sự tồn tại của sự sống, mà nó còn thật sự đưa ra một lời giải cho bài
toán phẳng.
© hiepkhachquay Lịch sử vũ trụ học | Trang 74
Lí thuyết lạm phát có thể giải quyết được một vấn đề khác, đó là “khoảng
cách đường chân trời”. Đây là khoảng cách cực đại mà ánh sáng có thể truyền đi kể
từ lúc bắt đầu của vũ trụ Big Bang (những ước tính hiện nay đặt giá trị này giữa 13
và 15 tỉ năm ánh sáng). Bức xạ nền vũ trụ quan sát thấy đều đặn trong toàn bộ thể
tích không gian lớn hơn khoảng cách đường chân trời nhiều. Làm thế nào những
vùng không gian cách xa nhau trước đây có thể tự điều chỉnh để phát ra mức bức xạ
giống hệt nhau như thế ? Một vũ trụ lạm phát sẽ nhỏ hơn nhiều trong pha ban đầu
của nó so với mô hình Big Bang chuẩn mang lại. Thật vậy, nó đủ nhỏ cho ánh sáng
băng qua trong một phần nhỏ xíu đầu tiên của một giây. Như vậy, mọi bộ phận của
vũ trụ có thể tiến đến một nhiệt độ đồng đều trước khi quá trình lạm phát khởi đầu.
Sự đồng đều là tốt, nhưng có thể có quá nhiều thứ tốt. Thiên hà của chúng ta,
hành tinh của chúng ta, và cả vũ trụ nữa, hơi không đồng đều trong một vũ trụ đồng
đều nói chung. Sự không đồng đều căn bản nhỏ của vật chất cần thiết cho hấp dẫn
có thể phát sinh để hút vật chất lại với nhau thành thiên hà và những cấu trúc vũ trụ
khác. Nhưng tại sao một phần của vũ trụ sơ khai lại khác những phần kia ? Thật ra,
không-thời gian luôn luôn dao động ở một kích thước hạ vi mô, theo lí thuyết “bất
định” cơ sở của cơ học lượng tử. Những dao động này cực kì nhỏ, nhưng trong quá
trình lạm phát chúng sẽ kéo căng ra hết sức. Sự gấp nếp thu được trong không-thời
gian có thể mang lại một sự khởi đầu cho sự kết khối lại với nhau của những cấu
trúc kích thước lớn như thiên hà hay các cụm thiên hà.
Mật độ các thiên hà trong một góc nêm bầu trời đến chừng 10 tỉ năm ánh sáng (màu đỏ là dày đặc
nhất). Những dao động lượng tử nhỏ trong Big Bang ban đầu đã được khuếch đại khi không gian
dãn nở đồng thời lực hấp dẫn hút vật chất lại với nhau. Việc đó tạo ra sự tập trung các thiên hà với
rất nhiều khoảng trống giữa chúng. Những phép đo kích thước của cấu trúc “sủi bọt” này cho biết
nhiều về bản chất hiện tại của vật chất trong vũ trụ cũng như lịch sử của nó.
Các lí thuyết vũ trụ học sống hay chết là do các tiên đoán của chúng. Các nhà thiên
văn vật lí George Smoot và John Mather đề xuất tìm kiếm những chênh lệch nhỏ
“Bản đồ vũ trụ sơ khai” do vệ tinh khám phá bức xạ vũ trụ của NASA (COBE) mang lại. Bức ảnh
màu không thật này biểu diễn những dao động nhỏ xíu ở cường độ của nền vi sóng vũ trụ, “hóa
thạch” của những dao động ngẫu nhiên bên trong quả cầu lửa Big Bang trong thời khắc đầu tiên
của sự tồn tại của nó.
Nền vật lí và vũ trụ học mới
Trong vài thập kỉ vừa qua của thế kỉ 20, nền vật lí hạt không ngừng mang lại
những tiến bộ trong vũ trụ học. Trong khi đó, các nhà vật lí hạt đã đẩy xa giới hạn
của các máy gia tốc hạt hiện có và sự tài trợ của cộng đồng cho những thiết bị lớn
hơn từ trước đến nay. Họ không ngừng chuyển sang vũ trụ học tìm kiếm thông tin
liên quan tới hành vi của vật chất ở những điều kiện thái cực chiếm ưu thế ở vũ trụ
sơ khai.
Kể từ thập niên 1970, các nhà lí thuyết bắt đầu nghiên cứu “lí thuyết dây” mà
họ hi vọng có thể giải thích được mọi định luật vật lí và mọi quy luật của tự nhiên
trong một phương trình đơn giản. Theo lí thuyết này, thành phần cơ bản của vũ trụ
là các dây nhỏ xíu đang uốn éo chứ không phải các hạt. Tuy nhiên, các nhà vũ trụ
học đã chẳng tìm thấy bằng chứng thực nghiệm nào cho lí thuyết dây, đồng thời họ
cũng không nghĩ ra được tiên đoán có tính quan sát nào để bác bỏ nó. Nếu một số
dây hạ vi mô ban đầu kéo căng ra lớn như các thiên hà trong sự bộc phát lạm phát
ngắn của vũ trụ sơ khai, thì hiện nay chúng có thể đang bị níu kéo dưới hàng loạt
sức căng, và những gợn sóng thu được trong không-thời gian có thể phát hiện ra
bằng Giao thoa kế laser quan sát sóng hấp dẫn mới.
Các thiên hà trông giống như những hạt cát. Là một phần nhỏ bé của bầu trời, bức ảnh này được
chụp bởi cuộc khảo sát trường sâu của Kính thiên văn vũ trụ Hubble. Hầu như mỗi vết trong bức
ảnh này là một thiên hà ở xa.
Chương 8
MẮT TRẦN
Loài người buổi đầu đã biết nhiều thứ về bầu trời và thực hiện được nhiều
quan sát với đôi mắt trần của họ. Mỗi tộc người có một câu chuyện thần thoại riêng
của mình về những thứ diễn ra trên bầu trời. “Vũ trụ quan” của họ không được vẽ
nên từ việc lí giải những cái họ thấy, mà là những câu chuyện về một vũ trụ tinh
thần. Dân du cư ở Sahara và những bộ lạc người ở tây nam nước Mĩ đã dùng đá để
đánh dấu những sự kiện thiên thể quan trọng như ngày hạ chí (ngày Mặt Trời lên
cao nhất vào lúc giữa trưa). Khi con người bắt đầu lệ thuộc vào nền sản xuất nông
nghiệp, họ cần phải biết hành trình chính xác của các mùa để giúp họ mô tả khi nào
thì trồng trọt và gặt hái. Những người Hi Lạp, Celt, Maya cổ đại và những tộc người
khác đã xây dựng những cấu trúc bằng đá khổng lồ, sắp thẳng hàng chính xác với
sự mọc và lặn theo mùa của Mặt Trời, Mặt Trăng, các hành tinh và một số ngôi sao
sáng.
Một bảng số liệu quan sát thiên văn bằng mắt trần do người Maya biên soạn
Các nhà thiên văn buổi đầu sử dụng nhiều loại dụng cụ để nghiên cứu bầu
trời. Tất cả đều là những dụng cụ cơ bản dùng để đo hay tính vị trí của các thiên thể
trên bầu trời. Với chúng, các nhà thiên văn đã lập bản đồ sao và lập bảng tiên đoán
vị trí tương lai của Mặt Trời, Mặt Trăng và các hành tinh. Kiến thức này thật quan
trọng, vì bầu trời đóng vai trò một cái đồng hồ, một cuốn lịch, và một phương tiện
trợ giúp hàng hải giúp cho những người đi biển tìm đường đi của họ. Nó được các
thầy tu sử dụng để lập thời gian cầu nguyện tôn giáo và được các nhà chiêm tinh sử
dụng để dự đoán tương lai.
© hiepkhachquay Lịch sử vũ trụ học | Trang 79
Nếu các hành tinh là thần thánh, không biết chúng có ảnh hưởng, hay cả tiên
đoán, công việc của con người ? Ý tưởng này phát triển thành khoa tử vi học. Trong
niềm hi vọng phù phiếm là biến những ý tưởng kì quặc của họ thành một nền khoa
học xác thực, các nhà chiêm tinh học và những nhà tiên tri đã lần theo các chuyển
động trên bầu trời với độ chính xác tốt nhất có thể có. Niềm hi vọng về một thứ kĩ
thuật điều khiển được tương lai vì thế trở thành một cảm xúc chủ đạo cho những
quan sát đầu tiên và các bản đồ sao đầu tiên.
Bản đồ sao đầu tiên và chiêm tinh học
Như chúng ta đã biết, những người đầu tiên lập bản đồ vị trí của các sao là các nhà thiên
văn người Trung Quốc Shi Shen, Gan De và Wu Xian, hồi thế kỉ thứ ba và thứ tư trước
Công nguyên. Công trình của họ đã đi qua nhiều thế kỉ với nhiều phương tiện khác nhau,
mặc dù thiếu chính xác. Bản copy sớm nhất mà chúng ta có là một bản đồ sao có từ thời
vua Tang (khoảng thế kỉ 9 sau Công nguyên), được phát hiện vào thời hiện đại trong đống
đổ nát của một tu viện ở các sa mạc Trung Á.
Các chòm sao dưới con mắt của các nhà thiên văn cổ đại ở Trung Hoa. Đây là bản copy
của một bản copy của một bản đồ sao hồi thế kỉ thứ tư trước Công nguyên.
Danh mục sao sớm nhất ở phương Tây do nhà thiên văn người Hi Lạp Hipparchus tạo ra
khoảng năm 129 tCN, xây dựng trên nền tảng trước đó của những người Babylon. Đa số
công trình của Hipparchus đã bị thất lạc, mặc dù các nhà thiên văn sau này đã sử dụng
nhiều phần của nó. Một bản ghi lại bản đồ sao của ông có lẽ được bảo quản trên quả cầu
thiên thể trên bức tượng Atlas thế kỉ thứ hai sCN tìm lại được trong đống tro tàn La Mã
vào thời kì phục hưng.
Những người Trung Hoa, Babylon và Hi Lạp cổ xưa chủ yếu bị thu hút bởi cách thức mà
Mặt Trời, Mặt Trăng và các hành tinh chuyển động qua nền sao gây ra trên bầu trời. Mục
đích chính là thực hiện các dự đoán chiêm tinh. Nhưng mỗi nền văn hóa lại nhóm các sao
lại theo những “chòm sao” khác nhau, và các nhà chiêm tinh học chưa bao giờ đồng ý với
nhau về một hệ thống dùng cho tiên đoán. Chiêm tinh học là nỗ lực lớn đầu tiên về vũ trụ
học – nghĩa là, một hệ thống tìm hiểu sự hoạt động của vũ trụ - nhưng nó chưa bao giờ có
thể phát triển thành một khoa học. Thế giới thực tế không bị ảnh hưởng bởi vị trí của các
Bức tượng Atlas thời La Mã đang mang bầu trời biểu diễn các chòm sao, có khả năng là
sao lại từ một bản đồ sao Hi Lạp thế kỉ thứ hai tCN, bao gồm những hình ảnh thần thoại
vẫn còn mang tính cổ xưa.
Astrolabe
Những người Hi Lạp cổ đại đã biết chế tạo những dụng cụ chính xác, nâng
cấp thành cái astrolabe khéo léo. Dụng cụ cầm tay này có một cánh tay di động để
đo góc của ngôi sao sáng phía trên đường chân trời – tức là “độ cao” của ngôi sao.
Xoay một bản đồ sao kim loại cho khớp với những đường cong đã khắc sẵn, người
sử dụng có thể xác định thời gian và hướng, vị trí ngôi sao trên bầu trời, xác định
khi nào Mặt Trời sẽ mọc hay lặn, và thực hiện những phép tính chính xác. Astrolabe
đạt tới cấu hình chuẩn của chúng vào thế kỉ thứ tư, lần đầu tiên được phát triển hồi
thế kỉ thứ nhất hay thứ hai gần thành phố Alexandria của người Ai Cập.
Hình vẽ lại đài quan sát Al-Tusi xây dựng ở Maragha, Ba Tư, hồi năm 1258. Được tài trợ một
phần bởi sự hiến tặng mang tính chất tôn giáo, nó đã thu hút các nhà khoa học đến từ những nơi
xa xôi như Trung Quốc và Tây Ban Nha.
Quadrant
Những dụng cụ sớm nhất dùng để “nhìn các sao” là những chiếc que thô
thiển. Những người đi biển đã cải tiến những chiếc que này, tiến tới dụng cụ một
phần tư vòng tròn (“quadrant”) có khắc chia độ, với một tay cầm nhìn để đo độ cao
của sao. Cuối cùng thì cái quadrant bị thay thế bởi cái sextant (một phần sáu vòng
tròn, thật ra là một phần mười hai, nhân đôi lên với sự trợ giúp của một chiếc
gương). Sextant là bạn đồng hành không thể thiếu của mọi nhà hàng hải cho đến khi
phát minh ra hệ thống định vị điện tử vào cuối thế kỉ 20. Các nhà thiên văn cũng sử
dụng quadrant để lập bản đồ vị trí các sao và hành tinh.
Dụng cụ trong hình là một ví dụ hiếm thấy của kĩ thuật chế tạo dụng cụ hết
sức khéo léo ở châu Âu thời Trung cổ (khoảng năm 1325 sCN). Cánh nhìn quay qua
một hình ảnh tạo ra bằng cách gấp nếp mặt tròn của cái astrolabe thành bốn phần.
Người sử dụng chỉ có thể quan sát sao với một quadrant, nhưng có thể tiến hành
tính toán như với một cái astrolabe đơn giản. Về cơ bản, mặt tròn của cái astrolabe
Cái quadrant gốc Đức Trung cổ này có thể dùng cho hàng hải hoặc làm đồng hồ Mặt Trời.
Bản sao đúng kích thước thật của quả cầu armillary
được chế tạo và sử dụng bởi nhà thiên văn người
Đan Mạch Tycho Brahe hồi cuối những năm 1500.
“Bằng việc đưa óc phán đoán của chúng ta ra khỏi thế giới của trí tưởng
tượng của các bậc tiền bối của chúng ta, thì những dụng cụ tuyệt vời này,
những chiếc kính thiên văn, đã mở ra con đường tìm hiểu sâu sắc hơn và
hoàn thiện hơn về thế giới tự nhiên”.
René Descartes, 1637
Vào đầu thế kỉ 17, những người thợ thủ công và các nhà khoa học đã đưa ra
một dụng cụ mới dùng cho nghiên cứu bầu trời. Kính thiên văn, một trong những
công cụ trọng tâm của Cuộc Cách mạng Khoa học, sớm trở thành công cụ thiết yếu
nhất của các nhà thiên văn học. Bây giờ thì các nhà thiên văn có thể nhìn thấy vô số
ngôi sao và những vật thể mờ nhạt khác chưa bao giờ nhìn thấy trước đấy. Bất ngờ
vũ trụ không còn bị hạn chế với những thứ mà mắt trần có thể nhìn thấy. Khi kính
thiên văn được cải tiến, các nhà thiên văn tiếp tục đẩy xa hơn nữa ranh giới của vũ
trụ đã biết, nhòm ngó sâu xa hơn bao giờ hết vào biển sao xung quanh gọi tên là Dải
Ngân hà.
Phát minh ra kính thiên văn
Việc chế tạo và tính chất của các thấu kính đã được biết tới từ thời của những
người Hi Lạp. Các vị học giả đạo Hồi, ví dụ như bác sĩ người Ai Cập Alhazen (sinh
vào thế kỉ thứ 10), đã có những đóng góp quan trọng cho nghiên cứu quang học.
Tuy nhiên, thấu kính không được du nhập vào châu Âu mãi cho đến khoảng thế kỉ
13. Vào năm 1300, những chiếc kính đeo mắt đầu tiên đã được bày bán tại các đô
thị như Venice và Florence, và những tiến bộ trong việc chế tạo và tránh thấu kính
sớm xuất hiện sau đó. Công cụ dùng cho chế tạo kính thiên văn, do đó, đã có sẵn
nhưng, vì những lí do không rõ, việc phát minh ra kính thiên văn vẫn phải tiếp tục
chờ một thời gian nữa.
Kính thiên văn xuất hiện đầu tiên ở Hà Lan. Vào tháng 10 năm 1608, chính
quyền quốc gia ở Hague đã bàn về một ứng dụng phát minh cho một dụng cụ hỗ trợ
“nhìn những thứ ở xa như thể ở gần”. Chính quyền nhận thấy dụng cụ đó quá dễ
copy và đã không trao bằng sáng chế, nhưng họ dành một phần thưởng nhỏ cho
Jacob Metius và thuê Hans Lipperhey chế tạo một vài mẫu nhìn bằng hai mắt, với
nó ông đã được trả công hậu hĩ.
Minh họa sớm nhất được biết của kính thiên văn. Giovanbattista della Porta đã vẽ bức họa này
trong một lá thư viết vào tháng 8 năm 1609.
Kính thiên văn khúc xạ kiểu Galile. Ở ngoài cùng bên trái là vật kính hội tụ. Nó có tiêu cực f1, đó
là chiều dài mà ở đó nó mang ánh sáng từ một vật ở xa đến tiêu điểm. Thấu kính thứ hai phân kì
(tiêu cự f2) gửi một lần nữa ánh sáng về phía mắt người quan sát, ở đó thấu kính chính là con mắt
– thường không được nhắc tới trong những mô tả như thế này! – mang nó đến tiêu điểm nằm trên
võng mạc mắt của người quan sát.
Trong khi Galile không phát minh ra kính thiên văn, ông đã thật sự thiết kế
và chế tạo những chiếc kính thiên văn với công suất phóng đại ngày càng cao cho
mục đích sử dụng riêng của ông và trình diễn cho người bảo trợ của ông. Ông là
Sang thế kỉ 18, các nhà thiên văn chủ yếu sử dụng những chiếc kính thiên
văn khúc xạ dài, thiết kế trên cơ sở thấu kính thủy tinh có hình dạng gia công tỉ mỉ.
Tuy nhiên, những thiết kế kính thiên văn kiểu khác đã mang lại cách thức tránh
được một số khiếm khuyết có thể không thể nào tránh được với thấu kính khúc xạ.
Năm 1668, Isaac Newton nghĩ ra kính thiên văn phản xạ. Thay cho thấu kính, nó sử
dụng một gương cầu chính, cùng với một gương phẳng nhỏ hơn. Trong thế kỉ sau
đó, những thiết bị khổng lồ có nguồn gốc từ thiết kế của Newton hóa ra đặc biệt có
ích cho việc nghiên cứu những đối tượng rất mờ nhạt, ví dụ như các mảng sáng lờ
mờ gọi là tinh vân. Việc nghiên cứu chế tạo những công cụ mới và lớn hơn đưa đến
những thay đổi cơ bản trong sự hiểu biết của chúng ta về vũ trụ.
Ở bên trái là gương cầu AB, mang ánh sáng từ phía bên phải đến từ một số vật thể ở xa vào tiêu
điểm (tiêu cự của gương là khoảng cách tới tiêu điểm). Dọc đường đi, ánh sáng bị chặn lại bởi một
gương phẳng nhỏ CD và gửi qua mặt bên đến tiêu điểm, ở đó ảnh của vật ở xa hình thành, nằm tại
E. Một thấu kính nhỏ ở F được dùng làm thị kính phóng đại ảnh cho mắt của người quan sát. Sự
sắp xếp cơ bản gống như kính thiên văn kiểu Kepler, trừ ở chỗ gương kim loại cong thế chỗ cho vật
kính thủy tinh.
Người đã qua trường lớp đều biết rằng bạn có thể thu được sự phóng đại
bằng cách sử dụng nhiều kết hợp đa dạng của thấu kính và gương. Một số nhà khoa
học chuyên về thiên văn học đã sử dụng gương, bị khích động bởi một nghiên cứu lí
thuyết tao nhã về quang học. Một bước ngoặt là Dioptrique của René Descartes,
viết nối tiếp cuốn Bàn về phương pháp năm 1637 của ông. Ở đây, Descartes đã bàn
về vấn đề cầu sai – sự hơi lu mờ của ảnh tạo bởi thấu kính hay gương cong như một
phần của hình cầu.
Một nhà toán học người Scotland, James Gregory, đã đề xuất một thiết kế
mới cho kính thiên văn phản xạ trong tác phẩm Optica Promota của ông vào năm
1663. Thiết kế lí thuyết của Gregory sử dụng một gương chính có độ cong parabol.
Nó sẽ phản xạ ánh sáng tới một gương thứ hai hình elip, gương này sẽ phản xạ
© hiepkhachquay Lịch sử vũ trụ học | Trang 95
ngược trở lại qua khe ban đầu đi tới mắt của nhà thiên văn. Mẫu Gregory, cùng với
mẫu Cassgrain tương tự (đặt theo tên một người Pháp ít người biết tới hồi thế kỉ 18)
cuối cùng trở thành thiết kế nổi bật dành cho kính thiên văn phản xạ. Nhưng lúc
những thiết kế này được đề xuất, các nhà quang học không thể nào đánh bóng
gương theo đường cong không phải hình cầu. Một số quang học ở London đã thử
chế tạo kính thiên văn phản xạ, nhưng thất bại.
James Gregory
Phát triển quan trọng nhất ra đời khi Isaac Newton, sau nghiên cứu mang
tính đột phá nền tảng của ông về ánh sáng và quang học, kết luận rằng kính thiên
văn khúc xạ luôn luôn có nhược điểm. Bất kì thấu kính nào, giống như lăng kính,
cũng sẽ làm phân tán màu sắc ánh sáng, tỉ lệ trực tiếp với sự khúc xạ. Kết quả là sự
sắc sai - ảnh của một ngôi sao màu trắng luôn lốm đốm màu. Cho nên Newton
chuyển sự chú ý sang mẫu kính thiên văn thực dụng sử dụng gương để thu nhận ánh
sáng sao.
“Do nhìn thấy việc cải tiến kính thiên văn có chiều dài cho trước là không
có hi vọng, nên trước đây tôi đã tính toán một phối hợp bằng các gương
phản xạ, thay vật kính thủy tinh bằng một gương kim loại lõm”.
Newton, Opticks, 1704
Newton trình bày thiết kế của ông trước Hội Hoàng gia Anh vào tháng 1 năm
1672, và đã gây được sự chú ý lớn. Ông đã thành công trong việc chế tạo một cái
gương có độ cong cầu, đường kính nhỏ hơn 1 ½ inch một chút. Chiếc gương này
chế tạo từ hợp kim đồng-thiếc, Newton đã thêm vào nó vào ít arsen để cho nó dễ
mài hơn. Nó có độ phóng đại khoảng 40. Phía trên chiếc gương sơ cấp này, Newton
đặt một gương thứ cấp phẳng, nhỏ, nghiêng góc 45o, làm phản xạ lên thị kính gắn
trên mặt của ống kính.
John Hadley
Hadley đã làm chủ được việc mài chiếc gương kim loại của ông sao cho nó
có hình dạng gần như parabol, tránh được sự méo hình xảy ra với các kính thiên văn
trước đây có độ cong cầu. Giống như Newton, ban đầu Hadley trình bày kính thiên
của ông tại một cuộc họp của Hội Hoàng gia. Biên bản cuộc họp ghi rằng nó đủ sức
mạnh để “phóng đại một vật gần 200 lần”.
“Kính thiên văn khúc xạ luôn luôn thích ứng tốt hơn so với kính thiên văn
phản xạ đối với những công việc quan sát bình thường… chúng mang lại sự
tiện lợi tốt hơn nhiều cho những mục đích đo đạc chính xác”.
Agnes M. Clerke, 1887
Thế kỉ 19 đã chứng kiến một cơ hội bùng nổ đối với kính thiên văn sử dụng
thấu kính (kính thiên văn khúc xạ) là công cụ quan trọng nhất của các nhà thiên văn
chuyên nghiệp. Khi kĩ thuật quang được cải tiến, kính thiên văn khúc xạ trở thành
một công cụ vạm vỡ và chính xác. Nó thích ứng tốt cho hứng thú nghiên cứu của
các nhà khoa học, những người chủ yếu tập trung vào việc đo chính xác vị trí và
chuyển động tương đối của các sao. Các nhà thiên văn đã nghĩ ra những chiếc kính
thiên văn lớn hơn bao giờ hết bắt được sự chú ý của các nhà hảo tâm Mĩ giàu có.
Cuối thế kỉ 19, người Mĩ kiêu hãnh với hai chiếc kính thiên văn lớn nhất thế giới.
Cũng thật quan trọng cho vũ trụ học là sự chấp nhận dần của các nhà thiên văn học
về thiên văn học vật lí, ngành học hợp nhất lí thuyết vật lí với sự nghiên cứu các
sao.
Đúc thủy tinh ở Đức vào đầu thế kỉ 20, như minh họa bởi Erich Kuithan
trong cuốn Die Glasindustrie in Jena (Jena, 1909).
Hiện tượng sắc sai. Thấu kính hai mặt lồi nhận các tia sáng trắng song song. C: tiêu điểm đối với
tia màu xanh. D: tiêu điểm đối với tia màu vàng. E: tiêu điểm đối với tia màu đỏ.
Joseph Fraunhofer
Alvan Clark (ở giữa) cùng với hai người con trai Alvan Graham Clark (bên trái)
và George Bassett Clark (bên phải)
Kính thiên văn khúc xạ 26 inch của Đài quan sát Hải quân Mĩ ở thủ đô Washington.
Yerkes “hạ gục” Đài quan sát Lick
Geore Ellery Hale có lẽ là nhà môi giới khoa học người Mĩ lớn nhất vào thời
của ông. Ông đã gây cảm hứng, tổ chức và giúp tìm nguồn tài trợ cho ba đài quan
Tham vọng của Hale được phản ánh trong kiến trúc của Đài quan sát Yerkes.
Chiếc kính thiên văn 40 inch khổng lồ không chỉ nằm ngay chính giữa đài quan sát,
© hiepkhachquay Lịch sử vũ trụ học | Trang 112
mà còn nằm trong một mái vòm đằng sau một cánh lớn. Phần nhiều không gian sàn
của đài quan sát là không gian phòng thí nghiệm. Khu vực này dành cho chụp ảnh
và phân tích quang phổ, hai lĩnh vực vật lí mới sẽ dần dần thống trị nghiên cứu của
các nhà thiên văn trong thế kỉ 20.
“… trong vòng vài ba năm tương đối ngắn ngủi, một ngành thiên văn học
mới đã ra đời nghiên cứu Mặt Trời, Mặt Trăng, và các sao, xem chúng là cái
gì và mối quan hệ của chúng với chúng ta”.
Samuel Pierpont Langley,
trích từ cuốn Nền Thiên văn học mới năm 1888 của ông
Năm 1835, Auguste Comte, nhà triết học lỗi lạc người Pháp, phát biểu rằng
loài người sẽ không bao giờ hiểu được thành phần hóa học của các sao. Ông sớm tỏ
ra sai lầm. Trong nửa sau thế kỉ 19, các nhà thiên văn bắt đầu nắm lấy hai kĩ thuật
mới – quang phổ học và thuật chụp ảnh. Cùng với nhau, chúng đã mang lại một
cuộc cách mạng trong nhận thức của loài người về vũ trụ. Đây là lần đầu tiên các
nhà khoa học có thể nghiên cứu xem vũ trụ cấu thành từ cái gì. Đây là một bước
ngoặt quan trọng trong sự phát triển của vũ trụ học, vì các nhà thiên văn có thể ghi
nhận và ghi chép không chỉ xem các sao ở đâu mà còn xem chúng thật ra là cái gì.
Bốn họ phổ sao của Secchi, trích từ một bản in thạch màu trong một cuốn sách xuất bản khoảng
năm 1870. Ở đây cho thấy cái mà một người nhìn qua máy ghi phổ trên một kính thiên văn lớn sẽ
nhìn thấy quang phổ từ những ngôi sao sáng nhất. Quang phổ sẽ mờ nhạt hơn nhiều đối với đa số
các sao, khiến cho khó quan sát. Các vạch phổ chính được nhận ra bởi các kí tự mà Fraunhofer đã
đánh dấu.
Ảnh chụp đầu tiên của tinh vân Orion, do giáo sư Henry Draper thực hiện vào năm 1880. Những
ngôi sao lớn, có vẻ sáng hơn tinh vân nhiều, là do sự phơi sáng quá mức.
Kĩ thuật phim ẩm cũng làm hạn chế việc sử dụng nhiếp ảnh làm một công cụ
nghiên cứu quan trọng. Vào thập niên 1880, những rào cản này đã hạ xuống và
nhiếp ảnh thiên văn không còn giữ vai trò ngoại vi trong thiên văn học nữa. Điều
này một phần được thúc đẩy bởi sự phát triển kĩ thuật tấm phim khô của người Anh
và Pháp. Đối với tấm phim khô tiêu biểu, người ta thêm vào hỗn hợp collodion
chuẩn một hỗn hợp gồm kẽm bromide và acid nitric, sau đó thêm bạc nitrate vào
nước và rượu. Việc này tạo ra nhũ tương bạc bromide có thể rót lên đĩa cho dung
môi bay hơi. Một khi đã khô, chất đó sẽ hòa tan trong rượu và ether và áp dụng
được cho tấm thủy tinh. Bước cuối cùng là tráng lên tấm phim một lớp bảo vệ. Việc
cải tiến hơn nữa quá trình này sẽ làm tăng độ nhạy của tấm phim khô nên chúng có
thể “nhìn thấy” nhiều hơn rất nhiều so với mắt người có thể làm được.
Cuộc thám hiểm năm 1860 đến Rivabellosa, Tây Ban Nha, để quan sát nhật thực toàn phần.
Một nhóm nghiên cứu đã thử chụp ảnh sự kiện đó.
Ảnh Mặt Trời trong ánh sáng vạch phổ chính của hydrogen (H-alpha) cho thấy nhiều đặc điểm
trong khí quyển của ngôi sao bình thường này
Làm thế nào đo được vận tốc trên bầu trời
Khi ánh sáng phát ra từ một chất khí nóng sáng (chẳng hạn Mặt Trời) gửi qua một khe
hẹp, sau đó đi qua lăng kính làm nó trải nó ra thành quang phổ, người ta có thể nhìn thấy
các vạch tối. Năm 1859, Gustav Kirchhoff phát hiện thấy các vạch đó có thể dùng để nhận
ra các nguyên tố hóa học trong chất khí. Kĩ thuật quang phổ mới có thể phát hiện vận tốc
cũng như thành phần hóa học. Năm 1842, trước cả công trình của Kirchhoff, nhà vật lí
người Áo Christian Doppler biện luận rằng quang phổ có thể bị lệch nếu như nguồn phát
ánh sáng đang chuyển động. Một lời giải thíc chính xác hơn sau này được đưa ra bởi nhà
vật lí người Pháp Hippolyte Fizeau, nhưng nguyên lí lại mang tên Doppler – đó là vận tốc
lệch Doppler.
Không phải tất cả các nhà khoa học tức thì chấp nhận tiên đoán cho rằng ánh sáng phát ra
từ các vật đang chuyển động sẽ biểu hiện sự lệch Doppler. Năm 1868, nhà thiên văn học
nghiệp dư người Anh William Huggins tìm thấy cái có vẻ là một sự lệch nhỏ cho vạch
Doppler
Những hạn chế thiết bị đã ngăn cản Huggins mở rộng các nghiên cứu quang phổ của ông
cho những tinh vân xoắn ốc mờ nhạt. Vận tốc của chúng chỉ bắt đầu đo được vào thời các
nhà doanh nghiệp thiên văn trong Thời kì Hưng thịnh của nước Mĩ (thập niên 1880 và
1890) dẫn tới việc xây dựng những thiết bị lớn hơn, và trung tâm nghiên cứu quang phổ
thiên văn đã chuyển sang nước Mĩ.
“Nền thiên văn học sao có thể nói là sống nhờ vào ánh sáng. Khẩu độ kính
thiên văn lớn là điều kiện thiết yếu cho sự tiến bộ và hoạt động của nó”.
Agnes M. Clerke, 1905
Sự phát triển của kính thiên văn phản xạ cỡ lớn vào đầu thế kỉ 20 song song
với sự phát triển của thiên văn học vật lí và nhu cầu của các nhà vật lí muốn có thể
thu nhận nhiều ánh sáng hơn bao giờ hết cho các chương trình nghiên cứu quang
phổ học và nhiếp ảnh. Kính thiên văn khúc xạ biểu hiện các quang sai còn dư, còn
tiêu cự ngắn hơn của kính thiên văn phản xạ có nghĩa rằng kính thiên văn kiểu này
có thể có ống ngắm ngắn hơn và được che trong những mái vòm nhỏ hơn, khiến cho
chúng ít đắt tiền hơn trong xây dựng.
Tuy nhiên, vào đầu thế kỉ 20, các nhà thiên văn vẫn còn bất đồng về mẫu
kính thiên văn nào là tốt nhất. Một số cho rằng kính thiên phản xạ khổng lồ là bất
tiện và không chính xác và lưu ý tới sự nhiễu nhiệt gây ra bởi nhiệt độ hàng đêm
thay đổi tại đài quan sát. Trong một số năm, kính thiên văn khúc xạ vẫn được xem
là công cụ hàng đầu của nhà thiên văn chuyên nghiệp, còn nhà thiên văn nghiệp dư
thì làm thí nghiệm với kính thiên văn phản xạ.
Với những tiến bộ kĩ thuật tráng kim loại phản xạ lên gương thủy tinh, và sự
nâng cao năng lực của các kĩ sư ở những công ti kính trong việc chế tạo những
chiếc gương trống rất lớn, vào năm 1920 kính thiên văn phản xạ khổng lồ đã thế
chỗ cho kính thiên văn khúc xạ - trừ trong những chức năng chuyên dụng – làm
công cụ nghiên cứu chính của nhà thiên văn.
Tiến bộ này không chỉ phụ thuộc vào những tiến triển trong kĩ thuật quang,
mà còn phụ thuộc vào kĩ thuật cơ. Cái gương lớn sẽ hơi thay đổi hình dạng khi kính
thiên văn xoay từ chỗ hướng lên cao trên bầu trời tới hướng xuống thấp hơn. Để
chống đỡ cho gương hội tụ cực kì chính xác, các kĩ sư đã nghĩ ra những hệ thống
đòn bẫy khéo léo và phản hồi mềm dẻo. Sử dụng những thiết bị ưu tú này, các nhà
thiên văn bắt đầu đưa ra bằng chứng mới có sức thuyết phục làm thay đổi cách thức
con người đã hiểu về lịch sử của vũ trụ.
Hale và cuộc phiêu lưu buổi đầu của Ritchey
Như ông đã làm với nhiều lĩnh vực của thiên văn học, George Ellery Hale là
nhân vật ưu tú đã thúc đẩy sự chấp nhận kính thiên văn phản xạ là một công cụ có
giá trị cho nền thiên văn học vật lí hiện đại. Ngay cả khi ông giám sát việc lắp đặt
chiếc kính thiên văn khúc xạ lớn nhất thế giới – thiết bị 40 inch nổi tiếng tại Yerkes
– Hale cũng đồng thời chủ trương sử dụng kính thiên văn phản xạ cho nghiên cứu
thiên văn vật lí và chứng minh giá trị của nó cho nghiên cứu quang phổ học và
những mục đích chụp ảnh khác.
Giúp đỡ ông trong nỗ lực của ông là George W. Ritchey, một nhà quang học
trẻ do Hale thuê làm việc vào năm 1826. Ritchey, một người cầu toàn tự nhiên, vừa
Ngựa được sử dụng để đưa những thiết bị nặng lên “Thử nghiệm mới”, núi Wilson
Hale sớm thuyết phục đươc Viện Carnegie chi thêm tiền cho xây dựng cái sẽ
là kính thiên văn phản xạ lớn nhất thế giới. Mẫu kính đó có một cái gương 60 inch
do Ritchey thiết kế và chế tạo. Hoạt động của Hale đặt nền móng cho cái sẽ trở
thành khuôn mẫu của sự nghiệp của ông – theo đuổi những chiếc kính thiên văn lớn
hơn nữa, xin tài trợ từ các viện nghiên cứu hảo tâm, thường xuyên lên kế hoạch
trong đầu trong khi những dự án nhỏ khác ông đã bắt tay vào vẫn chưa hoàn thành.
Chiếc kính 60 inch nhìn thấy ánh sáng đầu tiên của nó vào tháng 12 năm
1908 và sang năm 1909 nó là một sự thành công cho thấy có rất nghi ngờ trong tâm
Andrew Carnegie và George Ellery Hale bên cạnh chiếc kính thiên văn trên đỉnh Wilson
Việc thiết kế và xây dựng chiếc kính thiên văn 200 inch là một công việc
nhọc nhằn và là một ví dụ lí thú của cái mà các nhà sử học gọi là “Nền khoa học
Lớn”. Một loạt ủy ban đã được thành lập để giám sát việc xây dựng các bộ phận
khác nhau của kính và cung cấp kĩ thuật và những kĩ năng điều hành cần thiết để
nhìn thấy chiếc kính đơm hoa kết trái. Khuyến cáo và nguồn vào của các công ti
công nghiệp được tranh thủ bởi Hale và ba thành viên khác của Ủy ban Đài quan
sát. Thật vậy, phải làm việc nhóm và thu hút sự chú ý của công nghiệp đã trở thành
những đặc trưng đánh dấu việc xây dựng những thiết bị lớn cho thiên văn học từ đó
trở về sau.
Các kĩ sư và nhà khoa học xây dựng chiếc kính thiên văn 200 inch đã phải
vượt qua nhiều thử thách. Quan trọng nhất trong những thử thách này là siết chặt
gọng gương thủy tinh có kích thước vừa đủ. Sau những nỗ lực thất bại từ phía công
ti General Electric trong việc chế tạo gương từ thạch anh đun chảy – một quá trình
mất hết 3 năm – Hale chấm dứt thí nghiệm đó và dự án chuyển sang sử dụng thủy
Việc đổ khuôn và đánh bóng chiếc gương 200 inch đã đẩy các kĩ sư
Corning Glass đến tận cùng năng lực của họ
Những đổi mới khác xuất hiện trong lúc kính thiên văn 200 inch được xây
dựng. Các kĩ sư đã học được cách tráng những chiếc gương lớn với những lớp kim
loại mỏng lắng đọng trong buồng chân không cao. Nhôm được sử dụng, thu được
lớp tráng bền hơn so với bạc vốn dễ giảm độ bóng. Năm 1934, sau khi nghiên cứu
rộng rãi, vị trí của núi Palomar ở miền nam California được chọn làm địa điểm xây
dựng cho chiếc kính 200 inhch. Để chống đỡ cái gương khổng lồ và giàn khung của
nó, một cái trụ hình móng ngựa khổng lồ được dựng lên và có thể chống đỡ tới 500
tấn trên một màng mỏng dầu điều áp. Giàn khung phức tạp và hệ thống chống đỡ
phải được thiết kế sao cho có thể giữ cho chiếc kính thẳng hàng khi nó hướng lên và
dõi theo các vật thể trong bầu trời đêm.
Hale qua đời năm 1938 – những từ cuối cùng của ông nói về sự nghiệp thiên
văn của mình là “Thật là một ngày đẹp trời. Mặt Trời tỏa nắng và họ đang làm việc
trên đỉnh Palomar”. Việc hoàn thành chiếc kính 200 inch bị trì trệ do Thế chiến thứ
hai và những khó khăn kĩ thuật liên quan tới việc đánh bóng chiếc gương kềnh càng
của nó. Chiếc gương đánh bóng xong không được chuyên chở tới đỉnh Palomar mãi
cho đến tháng 11 năm 1947. Chưa đầy một năm sau đó, hàng trăm chức sắc đã tề
tựu trong mái vòm của chiếc kính 200 inch để dự lễ trao tặng của nó. Raymond D.
Fosdick, chủ tịch Rockefeller Foundation, phát biểu rằng chiếc kính thiên văn này
sẽ là công cụ để hàn gắn thế giới đang đổ nát, gọi nó là “chiếc bóng trải dài của con
Các nhà thiên văn và những người dự lễ trao tặng chiếc kính thiên văn 200 inch
đã tập trung trên đỉnh Palomar, năm1948
Ở nhiều phương diện, kính thiên văn Hale đã trở thành nguyên mẫu cho kính
thiên văn nghiên cứu hiện đại. Với chiếc gương chính khổng lồ của nó, một cái lồng
quan sát trong đó nhà thiên văn có thể ngồi và thu thập dữ liệu, một hệ thống khung
đỡ phức tạp giữ cho gương chính và gương thứ hai thẳng hàng với nhau, chiếc kính
200 inch vẫn là kính thiên văn lớn nhất ở nước Mĩ trong hơn 40 năm. Cực kì tân
tiến trong thời đại của nó và vẫn là một thiết bị quan trọng và được sử dụng thường
xuyên ngày nay, kính thiên văn Hale đại diện cho “khuôn mẫu công nghệ” cơ bản
cho việc thiết kế và xây dựng kính thiên văn mãi sang thập niên 1970.
Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, các nhà thiên văn và thiên văn vật lí đã
khai thác lợi thế của một loạt những công cụ và công nghệ mới đầy mạnh mẽ.
Những công cụ này giúp đưa vũ trụ học từ một nền khoa học có tính chất suy đoán
sang nền khoa học xác thực hơn nhiều của những tiên đoán, quan sát và xác nhận.
Lần đầu tiên các nhà thiên văn bắt đầu thực hiện những nghiên cứu chi tiết và toàn
diện về bầu trời ở những bước sóng ngoài vùng khả kiến. Đồng thời, họ bắt đầu sử
dụng tên lửa đưa những thiết bị của mình lên không trung phía trên bề mặt Trái Đất.
Cuối cùng, họ đã thành công trong việc lắp đặt những thiết bị trên không gian mang
lại sự xác nhận đầy kịch tính về giả thuyết Big Bang – và hướng tới những đặc điểm
lạ lùng hơn bao giờ hết của vũ trụ.
Ănten vô tuyến của Karl Jansky, các đồng nghiệp của ông đặt tên
cho nó là “vòng quay ngựa gỗ” của Jansky
Grote Reber và chiếc kính thiên văn vô tuyến trong sân sau của ông
Phát hiện của Jansky bắt gặp sự chú ý của một vài người. Một trong số họ là
Grote Reber, người tự mô tả bản thân mình là “kẻ nghiệp dư nồng nhiệt và nghiện
truyền thông khoảng cách xa”. Năm 1937, với sự tiêu tốn vài nghìn đô la, Reber đã
xây dựng một ănten vô tuyến đường kính 31 foot trong sân sau nhà ông ở Wheaton,
Illinois. Ông đảm nhận cuộc khảo sát có hệ thống đầu tiên về sóng vô tuyến đến từ
bầu trời. Ông phải tiến hành công việc vào ban đêm vì có quá nhiều sự nhiễu từ các
tia lửa điện trong động cơ xe hơi suốt thời gian ban ngày. Bất chấp sự nỗ lực của
ông, các nhà thiên văn phải chờ thêm những công nghệ mới trước khi họ có thể
khởi động bất kì cố gắng nào nhằm khảo sát vũ trụ vô tuyến.
Kính thiên văn đầu tiên của Đài quan sát thiên văn vô tuyến quốc gia Mĩ,
một cái đĩa phản xạ 85 foot, hoàn thành năm 1958
Ban đầu, Penzias và Wilson nghĩ rằng phân chim bồ câu bên trong chiếc ănten hình sừng trâu của
họ là nguyên nhân làm phát sinh tín hiệu kì lạ mà họ thu được. Nên họ đã đặt các chuồng bồ câu
như thế này vào bên trong dụng cụ của họ nhằm cố gắng loại trừ “sự nhiễu”.
Hình trên. Các nhà lí thuyết tính được rằng một “vật đen” không màu ở nhiệt độ 3 độ trên
không độ tuyệt đối phát ra bức xạ có cực đại cường độ nằm ở bước sóng chỉ trên 1mm
(đường liền nét). Một điểm của Penzias và Wilson rơi gần đường cong này. Trong một
thập kỉ, các nhà khoa học đã đo nhiều điểm hơn (các vòng tròn trống) và các giới hạn trên
(các vòng tròn đen).
Hình dưới. Năm 1975, các quả khí cầu trên cao của khí quyển đại thể đã đo được bức xạ
hồng ngoại (vùng màu hồng), chứng tỏ bức xạ vũ trụ tuân theo đường cong đó. Gần đây
hơn, các phép đo vệ tinh đã lần theo đường cong đó với độ chính xác lớn.
Arno Penzias sinh ở Munich, Đức. Năm 1939, gia đình ông bị trục xuất sang Ba Lan,
nhưng họ tự tìm cách quay trở lại Đức và sớm lên đường sang Mĩ. Penzias học vật lí tại
trường City College thuộc New York và trường đại học Columbia, ở đó ông đã chế tạo một
máy khuếch đại vi sóng dùng cho nghiên cứu thiên văn vô tuyến. Năm 1961, ông gia nhập
Bell Labs và nhận nhiệm vụ nghiên cứu sự truyền thông qua vệ tinh bằng vi sóng. Khi dự
án kết thúc, ông và Wilson quyết định sử dụng ănten của họ tìm kiếm bức xạ phát ra từ các
phân tử trong những đám mây khí giữa các sao. Ban đầu, họ kiểm tra ănten ở một bước
sóng mà họ mong đợi không có bức xạ nào. Nhưng họ tìm thấy “tiếng ồn”, ngay cả khi họ
không biết mệt mỏi hướng ănten ra khắp nơi. Robert Dicke ở Princeton nhận ra bức xạ này
là thứ mà ông đã nghĩ tới – một tàn tích của sự hình thành vũ trụ.
Arno Penzias và Robert Wilson đang đứng trên ănten vi sóng của họ
Khám phá may mắn đã truyền cảm hứng cho Penzias trở thành một chuyên gia về thiên
văn học. Phát hiện đó “khiến cho tôi nghĩ tới một người nông dân Ai Cập tìm thấy một
trong những ngôi mộ nổi tiếng ở xứ họ”, ông nhớ lại, “… người đầu tiên phát hiện ra điều
giống như thế phải là một nhà khảo cổ, chứ không phải một người bình thường. Nên tôi
cảm thấy tôi cần đến bằng cấp thiên văn học của mình, và trong vài năm sau đó, tôi đã cố
gắng lấy cho được nó”. Ông và Wilson xây dựng một máy thu vi sóng mới thực hiện thêm
nhiều khám phá, phát hiện hàng tá loại phân tử trong chất khí giữa các sao. Giống như
nhiều nhà khoa học, Penzias được triệu tập dành ngày càng nhiều thời gian hơn cho công
tác quản trị. Ông trở thành phó chủ tịch và nhà khoa học chính của Bell Labs trước khi
nghỉ hưu vào năm 1988.
Robert Woodrow Wilson trưởng thành ở Houston, Texas, nơi cha ông là một kĩ sư trong
lĩnh vực dầu khí. “Nhận được niềm say mê điện tử từ phía cha tôi”, ông nhớ lại. “Tôi
thường sửa chữa radio và sau này là các bộ ti vi để giải trí và tiêu tiền”. Sau khi học vật lí
tại đại học Rice, ông đến Viện Công nghệ California làm nghiên cứu sinh tiến sĩ, và bị thu
hút vào nhóm thiên văn học vô tuyến mới. Vào dịp tốt nghiệp của ông năm 1963, Bell Labs
tuyển dụng Wilson vì kiến thức thiên văn vô tuyến của ông. Khi Wilson và Penzias tình cờ
bắt được bức xạ nền vi sóng vũ trụ, họ cảm thấy bất ngờ rằng họ không chỉ đã thực hiện
Lyman Spitzer
Các nhà thiên văn phải mất nhiều năm và trải qua nhiều thất vọng để đạt
được mục tiêu này. Trong khi các cơ quan quân sự nghiên cứu phát triển tên lửa cho
những mục đích riêng của họ, thì các nhà nghiên cứu Mĩ bắt đầu với những tên lửa
V-2 thu giữ từ quân đội Đức. Phần nhiều trong số những nỗ lực ban đầu của họ là
đặt máy ghi phổ vào tên lửa đã gặp thất bại vì dụng cụ rơi trở lại mặt đất hay hoạt
động không chính xác.
“Nếu ai đó hỏi bạn sự phát triển công nghệ nào có thể, với một cú đánh
mạnh, làm cho hầu như mọi cuốn sách giáo khoa viết về thiên văn học trở
nên lỗi thời, tôi cam chắc câu trả lời của bạn và của tôi sẽ giống nhau… máy
ghi phổ Mặt Trời nằm bên ngoài bầu khí quyển của Trái Đất… tôi không
thích gì hơn là được tham gia vào một dự án như thế, dẫu cho là phải cạo vét
đầu óc tôi và nghiên cứu một tế bào trong đó trong 10 hay 15 năm tới”.
Bức thư từ nhà thiên văn Michigan Leo Goldberg gởi cho nhà thiên văn
Harvard Donald Menzel, 1945.
Herbert Friedman
Loạt phi thuyền Đài quan sát thiên văn vật lí năng lượng cao của NASA, kí hiệu A, B và C trong
hình minh họa cũ này, sau này được đặt tên lần lượt là HEAO-1, HEAO-2 (“Đài quan sát
Einstein”), và HEAO-3. Hai phi thuyền đầu nghiên cứu bầu trời tia X, phát hiện ra nhiều vật khác
thường và không ngờ. HEAO-3, phóng năm 1979, đo các hạt tia vũ trụ năng lượng cao và tia
gamma.
Sóng hấp dẫn (những nhiễu loạn trong chính không - thời gian) phát ra từ
những sự kiện như thế trong những thiên hà xa xôi có thể được phát hiện vào một
Máy dò vi sóng này được đưa lên không gian trên vệ tinh COBE. “Khối công tắc” chuyển giữa hai
“râu ănten” nhận bức xạ. Bằng cách so sánh hai phần khác nhau này của bầu trời, nó đã phát
hiện những sự lệch nhỏ xíu mà các nhà lí thuyết tiên đoán về bức xạ nền vũ trụ.
Kính thiên văn vũ trụ Hubble, do NASA phóng vào năm 1990, mang tên nhà thiên văn Edwin
Hubble. Với đường kính 2,4 m (khoảng 95 inch), chiếc gương đó nhỏ hơn gương trong nhiều kính
thiên văn trên mặt đất, nhưng vị trí ở cao hơn bầu khí quyển luôn hỗn loạn của nó mang lại cho
Hubble tầm nhìn rõ ràng vô song.
Kính thiên văn Gemini, tại Cerro Pachon, Chile, với chiếc gương đường kính 8 m (315 inch), là cái
duy nhất trong số vài đài quan sát khổng lồ mới với những thiết kế đổi mới tiếp tục khảo sát Dải
Ngân hà của chúng ta và xa hơn nữa ngoài kia.