Professional Documents
Culture Documents
com
Tuyeån taäp
nhöõng baøi baùo hay
cuûa taïp chí Physics World
naêm 2007
Từ “blog” cho đến “wiki”, Web ngày nay còn hơn cả một biển thông tin.
Martin Griffiths khảo sát xem hoạt động quốc tế mới này ảnh hưởng như thế nào
đến cách thức các nhà vật lí truyền đạt thông tin và truy cập thông tin.
Việc xuất bản khoa học, giống như nhiều mặt khác của đời sống con người,
đã có sự chuyển biến bởi Web. Hầu như tất cả các tạp chí ngày nay đều có thể đọc
trực tuyến và các bài báo tải về chỉ bằng một cú click chuột mà không cần phải đi
tới thư viện nào. Thật vậy, kiểu xuất bản thương mại truyền thống đang bị thách
thức bởi các server phát hành trước khi in quyền truy cập mở như arXiv.org - như
một bài nghiên cứu thực hiện cho số đặc biệt này của Physics World cho thấy –
được hầu hết mọi người trong cộng đồng vật lí sử dụng để truy cập những nghiên
cứu mới nhất.
Nhưng trong khi việc truy cập trực
tuyến các bài báo dĩ nhiên là thuận lợi, và
cũng làm cho thông tin khoa học dễ dàng tiếp
cận hơn đến thế giới đang phát triển, nhưng
nó vẫn ít hơn lượng bài báo lưu trữ ở dạng số
từ các thư viện truyền thống. Nói cách khác,
dòng thông tin vẫn chỉ có một chiều. Tuy
nhiên, ngày nay, Web đang phát triển. Thế hệ
Web kế tiếp – một bộ ứng dụng gói dưới
thuật ngữ được định nghĩa không chặt chẽ
“Web 2.0” – khuyến khích mọi người không
chỉ sử dụng Web làm nguồn tham khảo mà
còn tương tác với nó.
Web 2.0 khiến nó dễ sử dụng hơn cho mọi người tạo và chia sẻ nội dung, từ
những bức ảnh kĩ thuật số cô cậu mèo của họ cho tới những bộ từ điển bách khoa do
người dùng biên tập. Và nó rõ ràng là một nghề kinh doanh lớn, như đã được chứng
minh bởi việc mới đây News Corporation giành được “mạng xã hội” MySpace với
giá 580 triệu đôla, và việc Google bỏ ra 1,6 tỉ đôla mua quyền sở hữu site chia sẻ
video YouTube.
Cần biết rằng hiện thân đầu tiên của Web được phát triển bởi các nhà nghiên
cứu tại CERN nhằm hỗ trợ nghiên cứu của họ, bạn có thể mong đợi Web 2.0 sẽ có
một cuộc cách mạng tương tự tác động lên cách các nhà vật lí truyền thông tin và
truy cập thông tin. Chẳng hạn, một số nhà nghiên cứu bắt đầu sử dụng website như
“blog” và “wiki” trong cuộc sống chuyên nghiệp của họ. Nhưng như khảo sát của
chúng tôi cho thấy, phần nào là những nhà tiên phong của những phát triển này,
nhưng tại thời điểm hiện nay, các nhà vật lí có lẽ đang bị bỏ lại ở đằng sau.
“Tag xã hội” là một hình thức phân loại, trong đó người dùng phân loại các đối tượng – hình ảnh,
website, các bài báo khoa học – bằng cách tự do chọn một bộ “tag”. Ví dụ, bạn có thể tag một bức
ảnh với từ “gia đình”, “kì nghỉ”, và “Tây Ban Nha”. Rồi bạn có thể tìm kiếm bằng các tag mà
những người dùng khác thêm vào. Điều này trái với hệ thống phân loại chặt chẽ “từ trên xuống
dưới” giống như hệ thập phân Dewey cho sách vở. Một “đám tag” đại diện cho những tag phổ
biến nhất bằng cách hiển thị các từ có kích thước khác nhau phụ thuộc vào mức độ thường xuyên
mà chúng được sử dụng. Đám tag ở đây lấy từ site Connotea, site cho phép người dùng tag các bài
báo khoa học.
Nhà phê bình thẳng thắn nhất của lí thuyết dây, nhà toán học ở trường đại
học Columbia, Peter Woit, đã sử dụng blog của ông Not Even Wrong để chỉ ra rằng
lí thuyết dây không tạo ra được những dự đoán của thể kiểm tra bằng thí nghiệm, và
tình trạng được công nhận cho lí thuyết dây, đó là cách tiếp cận hứa hẹn nhất để hòa
giải vật lí lượng tử với hấp dẫn.
Blog của ông đã khuấy động một cuộc tranh luận sôi nổi, và đôi khi bất ngờ,
cả trong các bình luận post lên Not Even Wrong và trên blog của các nhà lí thuyết
dây như Reference Frame của Lubos Motl, và Asymtotia của Clifford Johnson.
Những cuộc đấu khẩu như thế không thể là tiêu biểu của mức độ tranh luận trong
ngành vật lí, và khiến người ta tự hỏi không biết bao nhiêu tranh luận phụ thuộc vào
tình trạng dễ dàng nặc danh mà những diễn đàn trực tuyến như thế mang lại.
Nhưng, cho dù tốt hơn hoặc tệ hơn, blog đã mở ra một hình thức thuyết trình mới có
thể - khi nó được thực hiện theo kiểu công chúng như vậy – đưa vào một ngữ cảnh
rộng hơn theo kiểu mà một cuộc thảo luận tại một hội nghị, chẳng hạn, sẽ không thể
nào có được.
Trên thực tế, sự chú ý của các phương tiện truyền thông phát sinh bởi “cuộc
chiến tranh dây” đã khiến một blogger phải thoái lui. Christine Dantas, một nhà vật
lí người Brazil, thường xuyên thảo luận vấn đề hấp hẫn lượng tử trên blog
Background Independence của bà. Sau đó, vào tháng 11, bà đã hạ blog đó xuống,
giải thích trên một diễn đàn trực tuyến rằng việc đưa tin của các phương tiện truyền
thông về cuộc chiến tranh dây đã khiến bà thấy khó chịu, nhất là sau khi blog của bà
được đề cập tới trong một tập san vật lí của Brazil. Bà viết: “Tôi là một người trầm
tính, và muốn được quay trở lại cuộc sống yên ả của mình, trở lại với việc đọc và
nghiên cứu thầm lặng của mình”.
Các mô hình khí hậu phải xét đến nhiệt đến từ Mặt Trời, tác động của các đám mây, động học của
đại dương và ảnh hưởng tới thực vật.
Khí hậu là một hệ hết sức phức tạp, được cung cấp bởi năng lượng Mặt Trời,
và bao hàm các tương tác giữa bầu khí quyển, mặt đất và đại dương. Hi vọng hiểu
biết tốt nhất của chúng ta về cách mà khí hậu biến đổi theo thời gian và cách mà
chúng ta có thể tác động đến nó nằm trong các mô hình khí hậu máy tính được phát
triển trong vòng 50 năm qua. Các mô hình khí hậu có khả năng là phức tạp nhất
trong số mọi khoa học và đã chứng tỏ giá trị của chúng với sự thành công đáng ngạc
nhiên trong việc mô phỏng khí hậu quá khứ của Trái Đất. Mặc dù là một lĩnh vực đa
kỉ luật, nhưng việc lập mô hình khí hậu bén rễ trong nền vật lí cơ học chất lưu và
nhiệt động lực học, và các nhà vật lí trên thế giới đang hợp tác để cải tiến những mô
hình này bằng những quá trình vật lí mô tả tốt hơn trong hệ khí hậu.
Hình 1. Hệ khí hậu của Trái Đất bao gồm khí quyển, đại dương, sinh quyển, hàn quyển và địa
quyển. Tương tác giữa các thành phần này dẫn tới những sự biến đổi tự nhiên lớn trong khí hậu,
còn ảnh hưởng của con người như việc đốt các nhiên liệu hóa thạch làm tăng thêm tính phức tạp.
Một số trong các quá trình này, chẳng hạn như vòng tuần hoàn của đại dương, có thể được giải
quyết rõ ràng trong các mô hình khí hậu, còn một số khác, ví dụ như ảnh hưởng của các đám mây,
phải được “tham số hóa”.
Khí carbon dioxide (CO2) được giải phóng khi chúng ta đốt các nhiên liệu
hóa thạch, và người đầu tiên định lượng được ảnh hưởng mà CO2 có thể có trong
việc làm tăng hiệu ứng nhà kính là nhà hóa học thế kỉ 19 người Thụy Điển Svante
Arrhenius. Ông tính tay được rằng một lượng gấp đôi CO2 trong bầu khí quyển cuối
cùng dẫn tới sự tăng 5-6oC nhiệt độ toàn cầu – một con số gần một cách xuất sắc
với những dự đoán hiện nay. Những tính toán chi tiết hơn hồi cuối thập niên 1930
do kĩ sư người Anh Guy Callendar thực hiện cho thấy một sự ấm lên kém kịch tính
hơn, khoảng 2oC, với ảnh hưởng lớn hơn ở các vùng cực.
Trong khi đó, vào đầu thế kỉ 20, nhà khí tượng học người Na Uy Vilhelm
Bjerknes đã tìm ra khoa học dự báo thời tiết. Ông lưu ý rằng với những điều kiện
ban đầu chi tiết đã biết và những quy luật vật lí có liên quan, người ta có thể dự
© hiepkhachquay Sự biến đổi khí hậu | Trang 2/10
đoán được các điều kiện thời tiết tương lai bằng toán học. Lewis Fry Richardson
tiếp tục thử thách này vào thập niên 1920 bằng việc sử dụng kĩ thuật số học giải các
phương trình vi phân cho dòng chất lưu. Dự báo của Richardson sai lệch nhiều,
nhưng phương pháp luận của ông đã đặt nền tảng cho những mô hình khí quyển
bằng máy tính đầu tiên phát triển trong những năm 1950. Vào thập niên 1970,
những mô hình này chính xác hơn những người dự báo thời tiết chỉ dựa trên các
biểu đồ thời tiết, và liên tục cải tiến từ đó cho tới hiện nay, việc dự báo trước 3 ngày
chính xác như dự báo trước 1 ngày cách đây 20 năm.
Hình 2. Phương trình Navier-Stokes cho dòng chất lưu là tâm điểm của các mô hình khí hậu. Ba
phương trình đầu biểu diễn định luật 2 Newton và cho gia tốc của gió theo hướng đông-tây(u),
bắc-nam (v), và hướng thẳng đứng (w). Phương trình khối-liên tục đảm bảo rằng cho dù mật độ,
tốc độ và hướng của không khí thay đổi khi nó chảy xung quanh Trái Đất, nhưng khối lượng của
nó được bảo toàn, còn phương trình nhiệt động lực học cho phép các quá trình truyền nhiệt như sự
hâm nóng bởi Mặt Trời được tính đến dạng một kí hiệu nguồn tham số hóa. Chúng ta sử dụng cũng
các phương trình trên để mô tả động lực học của đại dương, và thường thực hiện các phép đơn
giản hóa gần đúng. Trong các phương trình trên, r là khoảng cách tính từ tâm Trái Đất, Ω là vận
tốc góc của chuyển động quay của Trái Đất, ϕ là độ cao, λ là kinh độ và t là thời gian. cp là nhiệt
dung riêng đẳng áp của không khí, θ là nhiệt độ, Π là “hàm Exner” của áp suất và ρ là mật độ
không khí. Chỉ số d chỉ không khí khô.
Nhưng biết rằng dự báo thời tiết là không đáng tin cậy trong khoảng thời
gian hơn vài ngày sắp tới, vậy làm sao chúng ta có thể hi vọng dự báo khí hậu, nói
ví dụ, hàng chục hoặc hàng trăm năm trong tương lai ? Một phần của câu trả lời
nằm ở chỗ khí hậu là trung bình của các điều kiện thời tiết theo thời gian. Chúng ta
không cần dự đoán chính xác chuỗi thời tiết để dự báo khí hậu tương lai, giống như
Hình 3. Mô hình khí hậu (màu vàng) chỉ có thể tái tạo sự biến đổi quan sát được ở nhiệt độ toàn
cầu trong thế kỉ qua (màu xanh) bằng cách tính cả các ảnh hưởng tự nhiên và do con người (phía
dưới). Chiều dày của dải biểu diễn độ bất định (hai độ lệch chuẩn) do sự biến thiên khí hậu.
Những người lập mô hình khí hậu giải quyết những quá trình dưới độ phân
giải như thế bằng một kĩ thuật gọi là biểu hiện bằng tham số, nhờ đó những quá
trình quy mô nhỏ được biểu diễn bằng giá trị trung bình trên một hộp điểm được
thực hiện bằng những quan trắc, lí thuyết và nghiên cứu ngữ cảnh từ những mô hình
độ phân giải cao. Ví dụ về sự tham số hóa mây gồm các kế hoạch “đối lưu” mô tả
cơn mưa nhiệt đới nặng hạt làm khô đi bầu khí quyển qua sự ngưng tụ và làm ấm nó
qua việc giải phóng nhiệt tiềm tàng; và kế hoạch “tạo mây’ sử dụng gió, nhiệt độ, và
độ ẩm tính được bằng mô hình để mô phỏng sự hình thành và phân hủy của các đám
mây và ảnh hưởng của chúng lên bức xạ.
© hiepkhachquay Sự biến đổi khí hậu | Trang 5/10
Việc tham số hóa các tương tác trong hệ khí hậu là công việc chính của
nghiên cứu lập mô hình khí hậu. Chẳng hạn, nguồn cung cấp bên ngoài chủ yếu vào
khí hậu của Trái Đất là bức xạ điện từ đến từ Mặt Trời, nên cách bức xạ tương tác
với bầu khí quyển, đại dương, và mặt đất phải được mô tả chính xác. Vì bức xạ này
bị hấp thụ, phát ra, và tán xạ bởi sự phân bố không đồng đều của các chất khí trong
khí quyển như hơi nước, carbon dioxide và ozone, nên chúng ta cần phải tính đến sự
tập trung trung bình của các chất khí khác nhau trong một hộp lưới và kết hợp số
liệu này với dữ liệu quang phổ kế đối với từng chất khí. Tốc độ nóng lên toàn phần
tính được đưa thêm “số hạng nguồn” vào phương trình nhiệt động lực học (xem
hình 2).
Hình 4. Các mô hình khí hậu dự đoán một hình ảnh địa lí chắc chắn trong sự ấm lên của bề mặt
Trái Đất, biểu diễn ở đây là sự biến đổi từ thời kì tiền công nghiệp đến thập niên 2080. Cụ thể, các
đại dương được mong đợi là sẽ ấm lên chậm hơn mặt đất, còn những nơi có vĩ độ cao sẽ ấm lên
nhanh hơn vùng nhiệt đới, do sự hồi tiếp dương khi tuyết và băng tan.
Địa hình bề mặt Trái Đất, tính ma sát của nó và hệ số phản xạ của nó cũng
biến thiên ở quy mô nhỏ hơn độ phân giải của mô hình. Những yếu tố này thật quan
trọng vì chúng điều khiển sự trao đổi xung lượng, nhiệt và hơi ẩm giữa bầu khí
quyển và bề mặt Trái Đất. Để tính toán những sự trao đổi này và thêm chúng vào hệ
phương trình xung lượng và nhiệt động lực học, những người lập mô hình khí hậu
phải tham số hóa sự nhiễu loạn khí quyển. Hàng loạt kế hoạch tham số hóa khác
bây giờ kể đến và cải tiến trong các mô hình trạng-thái-nghệ-thuật, gồm băng biển,
các đặc trưng đất, aerosol khí quyển và hóa học khí quyển.
Ngoài việc cải thiện sự tham số hóa, có lẽ tiến bộ lớn nhất trong việc lập mô
hình khí hậu trong vòng 15 năm qua là đã ghép đôi được mô hình khí quyển với mô
hình động học của đại dương. Đại dương thật quan trọng đối với khí hậu vì nó điều
hòa dòng hơi nước và nhiệt tiềm tàng đi vào bầu khí quyển, đồng thời cũng trữ một
lượng lớn nhiệt và CO2. Trong mô hình ghép đôi, đại dương được mô phỏng trọn
vẹn bằng cùng hệ phương trình đã mô tả chuyển động của khí quyển. Điều này trái
với “mô hình mảng” trước đây biểu diễn đại dương đơn giản là một khối nước tĩnh
© hiepkhachquay Sự biến đổi khí hậu | Trang 6/10
tại có thể trao đổi nhiệt với bầu khí quyển. Những mô hình này có xu hướng đánh
giá quá cao mức độ nhanh mà các đại dương ấm lên khi nhiệt độ toàn cầu tăng.
Quan điểm từ trước đến nay trong số các nhà khoa học là sự ấm lên toàn cầu
do con người gây ra là có thật và có khả năng gây thiệt hại. Nhà vật lí khí hậu
Richard Lindzen trình bày với Edwin Cartligde tại sao ông lại không đồng ý như
vậy.
Những ngày này dường như thật khó mà không nói về sự ấm lên toàn cầu.
Những câu chuyện đầy kịch tính về thảm họa khí hậu tiềm tàng choán đầy trang
nhất của các tờ báo và nhận được hàng giờ nhàn rỗi trên tivi và radio, còn các nhà
chính trị thì nắm bắt từng cơ họi để quảng bá cho khả năng xanh của họ. Nhà cố vấn
khoa học cấp cao cho chính phủ Anh, ngài David King, đã mô tả sự biến đổi khí
hậu là “vấn đề khốc liệt nhất mà chúng ta đang đối mặt ngày nay”, còn cựu phó
tổng tổng Mĩ, Al Gore, thì quả quyết rằng “hiểm họa đe dọa chẳng để lại gì tàn dư
của nền văn minh nhân loại”.
Nhưng đối với Richard Lindzen, một nhà vật lí khí hậu tại Viện Công nghệ
Massachusetts, sự bùng nổ mối quan tâm này chung quy là do “những kẻ gây hoang
mang không có cơ sở”. Lindzen, người đã nghiên cứu khí tượng học và khí hậu hơn
40 năm, tin rằng bằng chứng cho thấy con người đang làm quá nhiệt đến mức hiểm
nghèo cho hành tinh đơn giản là không đo lường được. Và ông nghĩ rằng sự gia
tăng mực nước biển phổ biến, nạn hạn hán và lũ lụt như dự đoán sẽ không cụ thể
hóa được. Cho dù là những hiệu ứng này là có khả năng xảy ra, ông nói, thì những
nỗ lực nhằm giảm sự phát thải carbon dioxide và các chất khí nhà kính khác sẽ hầu
như không làm được gì để tránh thảm họa như thế.
Lindzen, năm nay 66 tuổi, là một nhà nghiên cứu khí hậu chính thức hơi
khác thường, ông là người công khai tranh luận chống lại trường hợp biến đổi khí
hậu do con người gây ra. Bất kì cuộc họp lớn nào liên quan tới khoa học môi trường
đều có thể có một vài phát biểu hoặc áp phích nghi ngờ giả thuyết cơ bản sự ấm lên
toàn cầu do con người gây ra. Tuy nhiên, Lindzen tin rằng có nhiều nhà khoa học
khác cùng chia sẻ quan điểm của ông, nhưng không bộc lộ chúng vì sợ mất tín
nhiệm hoặc nguồn tài trợ. Thật vậy, ông nói ông đã từng trải qua rất nhiều cái mà
ông xem là hoạt động mang tính thành kiến trong nghiên cứu khí hậu. “Nhiều nhà
điều hành chương trình nói với tôi rằng nguồn quỹ tài trợ phụ thuộc vào mối quan
tâm về sự ấm lên toàn cầu”, ông nói. “Nhưng nếu như điều đó là đúng, thì bạn có
thể nghiên cứu một cách khách quan con đường khí hậu hoạt động như thế nào ?”.
Đối thủ của “chủ nghĩa gieo hoang mang sợ hãi”, Richard Lindzen
Các đám mây là nguồn sai số chính trong mô hình khí hậu
Lindzen vẫn cho rằng các mô hình là sai lầm vì chúng hoàn toàn thất bại
trong việc tái tạo cơ chế “phản hồi” trong hệ khí hậu. Mọi người đều đồng ý rằng,
theo những tính toán vật lí đơn giản, nếu như các chất khí nhà kính chỉ tác động độc
lập, thì sự gấp đôi của chúng sẽ đưa tới sự tăng khoảng 1oC nhiệt độ toàn cầu.
Hình 1. Alice muốn gởi cho Bob một tin nhắn bí mật – ví dụ như một bản giao dịch ngân hàng –
trên một kênh viễn thông có khả năng không an toàn. Để làm việc này, Alice và Bob phải chia sẻ
một khóa bí mật – đó là một số nhị phân dài. Sau đó, Alice có thể mã hóa tin nhắn của cô thành
“mật mã” bằng một khóa chung với thuật toán mã hóa, ví dụ như AES. Mật mã sau đó có thể được
truyền đi bằng một kênh dữ liệu bình thường, khi đó kẻ nghe trộm sẽ không thể hiểu được, và Bob
có thể sử dụng khóa đó để giải mã tin nhắn. Trái với phương pháp truyền thống của sự phân phối
khóa, ví dụ một đối tượng mang được tin cậy, mật mã lượng tử đảm bảo sự an toàn của khóa đó.
Khóa cũng có thể thường xuyên thay đổi, do đó làm giảm nguy cơ bị đánh cắp hoặc bị suy ra bởi
một phép phân tích thống kê giải mã của mật mã.
Tuy nhiên, bất cứ phương pháp phân phối nào dựa trên con người cũng làm
tổn hại các khóa do tự ý hoặc bị ép buộc tiết lộ. Trái lại, mật mã lượng tử, hay sự
© hiepkhachquay Chìa khóa dẫn tới nền công nghiệp lượng tử | Trang 2/10
phân phối khóa lượng tử chính xác hơn (QKD), mang lại một phương pháp tự động
phân phối các khóa bí mật bằng sợi quang truyền thông chuẩn. Đặc trưng mang tính
cách mạng QKD là nó vố dĩ an toàn: giả sử rằng các định luật của thuyết lượng tử là
đúng, thì chúng ta có thể chứng minh khóa đó không thể bị kẻ nghe trộm thu được
mà không có sự hiểu biết của người gởi và người nhận. Hơn nữa, QKD cho phép
khóa thay đổi thường xuyên, làm giảm nguy cơ mất trộm khóa, hoặc “giải mã”,
trong đó kẻ nghe trộm phân tích các kiểu trong tin nhắn mã hóa để suy luận ra kháo
bí mật.
Phương pháp đầu tiên cho sự phân phối các khóa bí mật mã hóa trong những
trạng thái lượng tử được đề xuất vào năm 1984 bởi các nhà vật lí lí thuyết Charles
Bennett tại IBM và Gilles Brassard tại trường đại học Montreal. Trong giao thức
“BB84” của họ, một bit thông tin được biểu diễn bằng trạng thái phân cực của một
đơn photon – ví dụ “0” là phân cực ngang, “1” là phân cực dọc. Người gửi (Alice)
truyền một chuỗi đơn photon phân cực đến người nhận (Bob) và bằng cách tiến
hành một loạt phép đo lượng tử và truyền thông công cộng, họ có thể thiết lập một
khóa chia sẻ và kiểm tra xem kẻ nghe lén (Eve) có chặn được bất cứ bit nào thuộc
khóa này trên đường đi hay không.
Giao thức BB84 không những cho phép chúng ta kiểm tra việc nghe trộm,
mà còn đảm bảo Alice và Bob có thể thiết lập một khóa bí mật dẫu cho Eve đã xác
định được một số bit trong chuỗi nhị phân chia sẻ của họ, bằng một kĩ thuật gọi là
“khuếch đại riêng”. Chẳng hạn, giả sử như Eve đã biết được 10% bit của khóa mà
Alice và Bob chia sẻ. Nhận thức được điều này, Alice và Bob khi đó có thể cùng
đồng ý cộng thêm vào mỗi cặp bit kề nhau tạo thành một chuỗi mới có chiều dài
phân nửa. Eve cũng có thể làm việc này, nhưng vì cô ta sẽ cần phải biết cả bit trong
cặp để xác định chính xác tổng của chúng, nên cô ta sẽ nhận thấy rằng bấy giờ cô ta
chia sẻ một phần thấp hơn nhiều của chuỗi bit mới cùng với Alice và Bob.
Có quá nhiều thứ về nguyên tắc. Trên thực tế, việc phát ra các xung đơn
photon mà BB84 yêu cầu không hề đơn giản. Bất chấp những tiến bộ gần đây trong
việc sử dụng các nguyên tử độc lập hoặc các chấm lượng tử bán dẫn để phát ra các
đơn photon, đa số hệ QKD thực tế sử dụng xung laser yếu để truyền các bit hình
thành nên khóa đó. Phương pháp này có một nhược điểm: laser sẽ thỉnh thoảng phát
ra các xung chứa hai hoặc nhiều photon, mỗi photon trong số đó sẽ ở cùng một
trạng thái lượng tử. Kết quả là Eve có thể tách ra một trong số các photon này và đo
nó, đồng thời để cho các photon khác không bị xáo trộn, nhờ đó xác định được một
phần của khóa mà vẫn không bị phát hiện. Tồi tệ hơn nữa, bằng cách chặn các xung
đơn photon và chỉ cho phép các xung đa photon truyền tới Bob, Eve có thể xác định
được toàn bộ khóa.
Cho đến khi những nguồn đơn photon thật sự trở nên có thể mua được về
phương diện thương mại, thì biện pháp phòng ngừa phổ biến nhất là làm suy yếu
nhiều laser để hạn chế tỉ lệ của các xung đa photon. Tuy nhiên, việc này cũng có
nghĩa là nhiều xung không có photon nào cả, làm giảm tốc độ mà khóa có thể được
truyền đi. Năm 2003, một thủ thuật mới nhằm lẩn tránh vấn đề này đã đưcợ đề xuất
bởi Hoi-Kwong Lo tại trường đại học Toronto và Xiang-Bing Wang ở Dự án tính
toán và thông tin lượng tử, tại Tokyo, dựa trên công trình trước đó của Won-Young
Hwang, tại trường đại học Northwestern, Mĩ.
© hiepkhachquay Chìa khóa dẫn tới nền công nghiệp lượng tử | Trang 3/10
Ý tưởng của họ là rải các xung tín hiệu một cách ngẫu nhiên với một số
“xung mồi” yếu hơn về trung bình và rất hiếm khi có chứa một xung đa photon.
Nếu Eve cố gắng tấn công tách xung, cô ta sẽ, do đó, làm truyền xung mồi đến Bob
ít hơn so với các xung tín hiệu. Bởi vậy, bằng cách kiểm tra sự truyền của các xung
mồi và xung tín hiệu tách biệt nhau, cuộc tấn công của Eve có thể bị phát hiện. Điều
này có nghĩa là các xung laser mạnh hơn có thể được sử dụng một cách an toàn –
chẳng hạn, hồi năm ngoái, tại Toshiba, chúng tôi đã chứng minh được sự tăng 100
lần tỉ lệ các khóa được truyền đi một cách an toàn trên một sợi quang dài 25 km.
Giao thức xung mồi đã gây nên sự kích thích lớn trong cộng đồng QKD, với bốn
nhóm độc lập nhau đã vừa công bố những luận chứng thực nghiệm của kĩ thuật đó.
Các xung laser yếu không phải là cách thức duy nhất để thực hiện mật mã
lượng tử. Ví dụ, QKD sử dụng một nguồn đơn photon thật sự mới đây đã được
chứng minh tại trường đại học Stanford, CNRS ở Orsay và Toshiba. Hơn nữa, vào
năm 1991, Artur Ekert, lúc ấy còn là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại trường đại học
Oxford, đã mô tả một biến thể cho giao thức BB84 khai thác một tiên đoán phản
trực giác khác của cơ học lượng tử: đó là sự rối. Các cặp photon bị bẫy có trạng thái
lượng tử tương quan mạnh mẽ với nhau, cho nên việc đo photon này ảnh hưởng tới
sự đo photon kia. Nếu Alice và Bob, mỗi người có một của cặp photon đó, thì do đó
họ có thể sử dụng phép đo của mình để trao đổi thông tin. Kĩ thuật này đã được
chứng minh bởi các nhà nghiên cứu tại trường đại học Vienna, Phòng thí nghiệm
quốc gia Los Alamos và trường đại học Geneva, và đã được sử dụng năm 2004 để
chuyển tiền giữa ngân hàng Vienna City Hall và một ngân hàng Áo. Tuy nhiên,
QKD laser yếu là phương pháp cẩn trọng nhất, và cơ sở của hệ QKD thương mại
ngày nay đang phát triển ra thị trường.
QKD thực tế
Thông tin có thể được mã hóa thành trạng thái lượng tử của các photon theo
một vài cách khác nhau. Bằng chứng thực nghiệm đầu tiên của QKD do Bennett và
Brassard thực hiện năm 1989 trên 30 cm không khí sử dụng trạng thái phân cực của
các photon. Tuy nhiên, sự truyền các photon dọc theo sợi quang có thể làm ngẫu
nhiên hóa sự phân cực của chúng, nên một phương pháp tốt hơn do Paul Townsend
đi tiên phong, trước đây là nhân viên BT Labs ở Anh, là làm biến đổi pha của
photon. Trong phương pháp này, các xung laser yếu được Alice bơm vào giao thoa
kế. Bằng cách thiết đặt điện thế khác cho “điều biến pha” ở một cánh của giao thoa
kế, Alice có thể mã hóa các bit dưới dạng sự lệch pha giữa hai xung ló ra gửi đến
Bob – ví dụ với 0o biểu diễn cho “0” và 180o biểu diễn cho “1”. Sau đó, Bob cho
truyền xung qua một giao thoa kế khác và xác định máy dò nào trong số hai máy dò
của anh ta, tương ứng với “0” và “1”, mà chúng ló ra tại đó (xem hình 2).
Để cho kế hoạch này hoạt động được, chúng ta phải giữ cho chiều dài tương
đối của các đường truyền giao thoa trong giao thoa kế của Alice và của Bob ổn định
đến vài chục nano mét. Tuy nhiên, sự thay đổi nhiệt độ chỉ ở một phần mức độ nhỏ
cũng làm phá vỡ sự cân bằng này. Một giải pháp tài tình giải quyết vấn đề này được
nêu ra vào năm 1997 bởi nhóm Geneva đã đưa tới hệ QKD đầu tiên ổn định cho
việc sử dụng ngoài phòng thí nghiệm. Ý tưởng là gửi các xung laser theo một lộ
trình vòng tròn từ Bob tới Alice và rồi trở lại Bob sao cho bất kì sự thay đổi nào ở
chiều dài tương đối cánh tay giao thoa kế đều bị xóa bỏ. Một hệ QKD dựa trên thiết
© hiepkhachquay Chìa khóa dẫn tới nền công nghiệp lượng tử | Trang 4/10
kế này hiện nay đã có bán với giá khoảng 100.000 pound, do công ti spin-out Id
Quantique thuộc trường đại học Geneva sản xuất.
Hình 2. Khi dùng sợi quang phân bố khóa lượng tử, các giá trị bit thường được mã hóa thành pha
của các photon riêng rẽ bằng con đường giao thoa kế. Photon do Alice phát ra có thể truyền bằng
một trong hai đường trong giao thoa kế của cô ta, và tương tự qua thiết bị của Bob. Khi đường đi
(màu xanh lá) qua vòng lặp ngắn của giao thoa kế của Alice và vòng lặp dài qua giao thoa kế của
Bob hầu như cùng đúng độ dài như lộ trình khác (màu tía) qua vòng lặp dài của Alice và vòng lặp
ngắn của Bob, thì các đường đi sẽ chịu sự giao thoa quang học. Bằng cách áp đặt một sự trễ pha
cho mỗi một trong số hai photon, Alice và Bob có thể xác định được xác suất mà một photon sẽ đi
ra tại một trong hai máy dò của Bob – tương ứng với “0” và “1”. Ví dụ, nếu như Bob đặt một sự
trễ pha 0o, thì Alice có thể làm cho photon đó đi ra tại “0” hoặc “1” bằng cách áp đặt sự trễ pha
cho bộ phần điều biến của cô ta tương ứng là 0o hoặc 180o. Để thi hành giao thức BB84 (xem phần
nói về giao thức BB84 bên dưới), Alice áp đặt một trong bốn độ trễ pha có khả năng (-90o, 0o, 90o,
180o) cho bộ điều biến của cô ta, trong đó pha 0o hoặc 90o biểu diễn cho “0” và pha -90o hoặc
180o biểu diễn cho “1”. Trong khi đó, Bob chọn một pha 0o hoặc 90o để tiến hành các đo đạc của
anh ta. Nếu sự chênh lệch giữa pha của Alice và của Bob là 0o hoặc 180o thì chọn lựa của họ tương
thích với nhau, còn nếu nó là ± 90o thì họ không tương hợp nhau và Bob sẽ đo được một giá trị bit
ngẫu nhiên. Sử dụng một kênh truyền thông cổ điển, Bob và Alice có thể gởi đi sự chọn lựa tương
thích của họ hình thành nên một khóa bảo mật chia sẻ.
Tại phòng thí nghiệm Toshiba ở Cambridge, chúng tôi đã phát triển một kĩ
thuật đền bù khác cho phép các xung được gửi chỉ theo một chiều, bằng cách gửi
một xung tham chiếu chưa qua điều biến cùng với mỗi xung tín hiệu. Các xung
tham chiếu này được dùng như tín hiệu phản hồi cho dụng cụ căng dài tự nhiên sợi
quang trong một trong hai cánh tay của giao thoa kế để bù lại cho bất kì sự thay đổi
nào do nhiệt độ. Trong các thử nghiệm với máy mạng Verizon, hệ QKD một chiều
hoạt động liên tục trong một tháng trời mà không yêu cầu bất cứ sự điều chỉnh thủ
công nào.
Chúng ta có thể ước định hiệu suất của hệ QKD bằng tốc độ mà các bit an
toàn có thể được trao đổi. Tốc độ bit an toàn càng nhanh, thì khóa có thể thay đổi
càng thường xuyên hơn, do đó hạn chế được sự giải mã. Tốc độ bit an toàn điển
hình cho các hệ QKD hoàn chỉnh là trong ngưỡng 10-50 kbit/s cho đường dẫn sợi
20 km. Mặc dù con số này trông có vẻ thấp so với tốc độ dữ liệu truyền đi trong
viễn thông quang học (thường là 1-40 Gbit/s), nhưng nó cũng đủ cho 200 khóa mã
hóa AES (mỗi khóa chứa 256 bit) gửi đi trong một giây – cũng đủ cho những ứng
dụng mã hóa thông dụng nhất.
Tốc độ bit an toàn có thể thu được giảm theo chiều dài của đường liên kết
quang do sự tán xạ của các photon ra khỏi sợi quang. Vì lí do này, hiệu suất tốt nhất
thường thu được khi sử dụng các photon có bước sóng 1,55 µm, tại bước sóng đó,
sợi quang chuẩn là trong suốt nhất. Tuy nhiên, khi sợi quang quá dài tốc độ tín hiệu
trở nên sánh được với tốc độ đếm sai trong máy dò photon của Bob, nên việc gửi
một khóa an toàn không còn thực hiện được. Đối với các máy dò bán dẫn chuẩn
© hiepkhachquay Chìa khóa dẫn tới nền công nghiệp lượng tử | Trang 5/10
indiuum gallium arsenide (InGaAs) dùng để phát hiện các photon 1,55 µm, khoảng
cách này hiện nay là khoảng 120 km. Mới đây, nhóm nghiên cứu Los Alamos đã sử
dụng một máy dò bán dẫn độ nhiễu thấp để mở rộng khóa an toàn cho sợi quang dài
150 km. Điều đặc biệt quan trọng là những khoảng cách này là đủ dài cho hầu hết
mọi khẩu độ lặp tìm thấy trong các mạng cáp quang ngày nay.
Mặc dù rủi ro của việc giải mã đã được giảm bớt bởi việc sử dụng QKD
thường xuyên làm tươi khóa mã hóa, nhưng nó không hoàn toàn bị loại trừ. Tuy
nhiên, điều này có thể thu được bằng cách mã hóa tin nhắn sử dụng “đệm cựu” yêu
cầu một số khóa ngẫu nhiên chứa cùng số bit như tin nhắn. Mỗi bit của tin nhắn
được mã hóa bằng cách cộng nó với bit tương ứng trong khóa bằng số học. Cho
rằng sự phân bố khóa là tuyệt đối an toàn, khi nó sử dụng QKD, và khóa chưa hề bị
chặn lại, thì đệm cựu hoàn toàn không bị tấn công. Mặt khác thì chiều dài của khóa
phải bị hoán đổi. Tốc độ bit QKD đủ cho phép sự truyền thông tiếng nói tuyệt đối
an toàn bằng đệm cựu. Trong tương lai, tốc độ bit cao hơn sẽ cho phép sự an toàn
này được mở rộng cho những dạng dữ liệu khác.
Tốc độ bit hiện nay bị hạn chế bởi mức độ thường xuyên mà máy dò InGaAs
có thể phát hiện một photon, hiện nay là một trong mỗi 100 ns. Máy dò photon nền
silicon có thể hoạt động hầu như nhanh hơn 1000 lần, nhưng chúng chỉ nhạy với các
photon bước sóng ngắn hơn. Khi chất lượng của máy dò InGaAs được cải thiện
trong vòng vài ba năm tới, chúng ta có thể chờ đợi tần số của chúng bắt kịp với
silicon, dẫn tới tốc độ bit QKD có bậc độ lớn cao hơn. Trong thời gian chuyển tiếp,
có những kết quả đáng khích lệ cho thấy các tinh thể phi tuyến có thể được dùng để
làm lệch các photon 1,55 µm sang những bước sóng ngắn hơn mà với chúng máy
dò silicon nhanh hơn có thể được sử dụng. Tốc độ dò cao hơn cũng đã được chứng
minh bằng máy dò dây nano siêu dẫn, và những tiến bộ mới đây với máy dò trên
nền chấm lượng tử cũng rất đáng khích lệ.
© hiepkhachquay Chìa khóa dẫn tới nền công nghiệp lượng tử | Trang 6/10
Hình 3. Hệ thống mật mã lượng tử của Toshiba gồm hai hộp quang và điện, đặt ở hai nơi liên kết
với nhau bằng sợi quang và được thiết kế nămg gọn bên trong giá truyền thông chuẩn. Toàn bộ dữ
liệu cho một đơn vị được mã hóa và truyền qua sợi quang đến đơn vị đó ở vị trí khác, nơi chúng
được giải mã.
Một bước tiếp theo quan trọng sẽ mở rộng QKD từ một liên kết điểm-điểm
thành một “mạng lượng tử” cho sự phân bố khóa. Mạng cho phép công ti kết nối
nhiều nơi một cách an toàn và thêm vào những nơi mới với chi phí tăng thêm.
Ngoài ra, chúng cho phép quy mô QKD tăng lên từ chiều dài của một liên kết sợi
quang đến bất kì khoảng cách nào mà mạng bao phủ, và bảo vệ chống lại sự mất
mát của từng liên kết một bởi lưu lượng gửi tự động xung quanh chúng.
Tháng 10 năm 2003, BBN Technologies đã thiết đặt một mạng QKD thô sơ
nhưng tiên phong ở Cambridge, Massachusetts, nối vị trí của họ với trường đại học
Harvard và Boston. Công ti cho thấy có khả năng lái dòng đơn photon giữa những
đơn vị nhận khác nhau bằng một công tắc quang, và nó cũng nêu ra ý tưởng “sự trễ
khóa” theo chuỗi nút tin cậy. Ở đây, mỗi cặp nút liền kề trong chuỗi chứa khóa cục
bộ riêng của nó. Một khóa toàn cầu khi đó có thể được gửi từ đầu này của chuỗi đến
đầu kia, trên bất cứ khoảng cách nào, bằng cách sử dụng các khóa cục bộ và đệm
cựu mã hóa từng bước nhảy.
Một hệ phức tạp hơn hiện nay đang trong quá trình phát triển bởi consortium
SECOQC châu Âu, một chương trình hợp tác của các nhà nghiên cứu QKD hàn lâm
và công nghiệp, những người viết mật mã cổ điển và các kĩ sư truyền thông. Người
ta đang phát triển các giao thức yêu cầu cho sự định tuyến, lưu trữ và điều khiển các
khóa bên trong một mạng lưới về nguyên tắc có thể rất rộng. Một sự thực hiện thử
nghiệm mạng lượng tử đã được lên kế hoạch trong năm 2008 sẽ cho phép hai người
dùng ở một vài địa điểm hai bên thành Vienna thiết lập một khóa chia sẻ.
Các hệ thống QKD này thừa nhận rằng các nút trung gian là an toàn, chúng
có tính thực tiễn nếu như hệ thống được điều hành bởi một nhà cung cấp dịch vụ
đơn lẻ. Tuy nhiên, trong tương lai, chúng ta có thể nới rộng điều kiện này bằng một
dụng cụ gọi là “bộ lặp lượng tử”. Bộ lặp lượng tử hoạt động trên nguyên tắc “truyền
thông” lượng tử, nhờ đó một trạng thái lượng tử được dịch chuyển từ nơi này sang
nơi khác, về nguyên tắc là trên khoảng cách tùy ý, bằng cách sử dụng một cặp hạt bị
bẫy. Những phát triển mới đây như dụng cụ bán dẫn dùng để phát ra các cặp photon
bị bẫy và truyền các trạng thái lượng tử giữa các photon và nguyên tử mang bộ lặp
lượng tử ngày càng tiến gần hơn đến thực tiễn.
Trong khi đó, một phương án khác là sử dụng hệ thống cáp quang để gửi các
khóa lượng tử trên những khoảng cách xa có thể sử dụng các liên kết không gian tự
© hiepkhachquay Chìa khóa dẫn tới nền công nghiệp lượng tử | Trang 7/10
do đến các vệ tinh viễn thông quỹ đạo thấp. Năm 2006, một sự cộng tác giữa các
nhà nghiên cứu tại trường đại học Vienna, Munich và Bristol đã tiến hành một liên
kết không gian tự do trên 144 km giữa Tenerife và La Palma.
© hiepkhachquay Chìa khóa dẫn tới nền công nghiệp lượng tử | Trang 8/10
Mật mã lượng tử là một phương pháp phát ra một khóa bảo mật chia sẻ cỏ thể dùng
để mã hóa và giải mã tin nhắn, chẳng hạn bằng cách mã hóa thông tin thành trạng
thái phân cực của từng photon. Trong giao thức BB84, người gửi (Alice) truyền các
photon đến người nhận (Bob) theo một trong bốn trạng thái phân cực khác nhau:
ngang (H), dọc (V), chéo (D, 45o), và chéo ngược lại (A, -45o). Đối với mỗi photon mà
cô ta gửi đi, Alice chọn ngẫu nhiên một trong những trạng thái phân cực này, với H
hoặc D biểu diễn cho giá trị bit “0” (màu đỏ) và V hoặc A biểu diễn “1” (màu lam), tùy
thuộc vào “cơ sở” mà cô ta chọn. Để đo các photon, Bob được trang bị một máy phân
tích có thể phân biệt giữa H và V (+) hoặc giữa A và D (x). Anh ta chọn ngẫu nhiên
(và độc lập với Alice) máy phân tích mà anh ta sẽ dùng để đo từng photon. Nếu như
Bob chọn một máy phân tích sánh được với sự chọn lựa của Alice (ở trên), anh ta sẽ
xác định được sự phân cực của photon, và như thế là nắm được giá trị bit. Mặt khác,
nếu như Bob đo với một máy phân tích “sai” (ở giữa) anh ta sẽ thu được một kết quả
ngẫu nhiên.
Vấn đề trông có vẻ khó giải quyết nếu như phân nửa phép đo của Bob thu được là giá
trị bit ngẫu nhiên. Tuy nhiên, Alice và Bob có một giải pháp xảo quyệt. Sau khi phép
đo của Bob xảy ra, anh ta tiết lộ chuỗi máy phân tích mà anh ta đã dùng. Alice khi đó
bảo cho anh ta biết số lần anh ta sử dụng máy phân tích chính xác, mà không cần tiết
lộ bit mà cô ta đã gửi đi. Sau đó họ có thể loại bỏ các phép đo mà Bob dùng máy phân
tích sai, đảm bảo rằng họ chia sẻ cùng một chuỗi bit mà không có sai sót nào (nếu
như không bị nhiễu).
Tóm lược
• Trạng thái lượng tử của từng hạt hạ nguyên tử có thể được sử dụng để mã
hóa thông tin, mở ra những ứng dụng trong lĩnh vực truyền thông và điện
toán.
• Ứng dụng sung mãn nhất của thuyết lượng tử cho việc xử lí thông tin là
mật mã lượng tử, với sản phẩm đã có mặt trên thị trường.
© hiepkhachquay Chìa khóa dẫn tới nền công nghiệp lượng tử | Trang 9/10
• Mật mã lượng tử, cũng còn gọi là sự phân bố khóa lượng tử, cho phép
chúng ta gửi tin nhắn đã mã hóa đảm bảo an toàn, vì nó cho phép phát
hiện ra kẻ nghe trộm.
• Tin nhắn an toàn được gửi đi trên khoảng cách vượt quá 100 km bằng
mật mã lượng tử có các photon mang bởi sợi quang.
• Bước phát triển tiếp theo sẽ là thiết lập một “mạng lượng tử” có khả năng
cho phép mật mã lượng tử bao phủ các thành phố và toàn bộ địa cầu.
Tác giả: Andrew Shields và Zhiliang Yuan (Physics World, tháng 3/2007)
hiepkhachquay dịch
(An Minh, ngày 22/7/2007, 9:34:40 PM)
© hiepkhachquay Chìa khóa dẫn tới nền công nghiệp lượng tử | Trang 10/10
Bài toán tam giác vật chất
Tim Gershon
Các nhà vật lí tại “Xưởng B” ở Mĩ và Nhật Bản đang tiến rất gần đến một biểu đồ
trừu tượng gọi là tam giác nhất thế trong sự nỗ lực nhằm giải thích sự khác nhau
giữa vật chất và phản vật chất. Nhưng, theo lời Tim Gershon, thì những phép đo
như vậy đồng thời cũng chỉ rõ cách thức khám phá ra những hạt cơ bản mới.
Khi nào thì một tam giác không phải là tam giác ? Dù bạn có tin hay không thì câu
đố lạ kì này vẫn được gói gọn trong nhiều nghiên cứu thời gian gần đây thuộc lĩnh
vực vật lí hạt. Tam giác trong câu đố này là “tam giác đơn nhất” miêu tả những
tương tác giữa các loại quark khác nhau. Quark là thành phần cơ bản cấu tạo nên
các proton và neutron. Là một phần quan trọng của Mô hình Chuẩn của vật lí hạt cơ
bản, tam giác đơn nhất cung cấp các manh mối về sự khác nhau không dễ nhận ra
giữa vật chất và phản vật chất, giúp trả lời câu hỏi tại sao vũ trụ lại không tan biến
thành hư vô ngay tức thì sau khi vụ nổ Big Bang xảy ra.
Đúng ra thì sau Big Bang, lượng vật chất và phản vật chất được tạo ra phải bằng
nhau. Nhưng vũ trụ mà chúng ta thấy ngày nay chứa toàn là vật chất, điều đó đưa
đến kết quả là phải có một vài sự khác nhau giữa hành trạng của các hạt và các phản
hạt tương ứng của chúng. Mô hình Chuẩn đã kết hợp sự khác nhau đó qua một hiện
tượng gọi là sự vi phạm đối xứng CP. Một sự đối xứng bị phá vỡ của tự nhiên đã
được xác minh bằng thực nghiệm trong thập niên 1960. Hiện tượng này liên hệ tam
giác đơn nhất với thế giới thực, bởi vì quy mô vi phạm đối xứng CP – và do đó mức
độ khác nhau giữa vật chất và phản vật chất – tỉ lệ với diện tích của tam giác này.
Hình 2. Trong xưởng B, electron và positron va chạm với nhau với năng lượng vừa
đủ để sinh ra một hạt Y (4S). Hạt này ngay tức thì phân hủy thành một meson B0 và
một meson B 0 . Khi năng lượng electron cao hơn positron thì meson B sẽ bay khỏi
hướng của chùm electron trước khi phân hủy trong vòng vài pico giây. Loại phân
hủy đặc biệt hấp dẫn để xác định sự vi phạm đối xứng CP là khi một meson B phân
hủy thành một meson KS và J/ψ. Hai hạt này tương ứng sẽ phân hủy thành một cặp
pion và một cặp muon. Tuy nhiên, vì một hạt B0 hoặc một hạt B 0 đều có thể tạo ra
những sản phẩm này, nên các nhà nghiên cứu cần phải xác định sự phân hủy của
meson B khác trong sự kiện để xác minh sản phẩm sinh ra là của hạt nào. Vị trí hai
meson B phân hủy phải được xác định để tìm thời gian sống của các hạt (t1 và t2).
Mô hình Chuẩn dự đoán các meson B0 tính trung bình sẽ phân hủy muộn hơn một
chút so với các meson B 0 , còn muộn hơn bao nhiêu là phụ thuộc vào góc β của tam
giác đơn nhất.
Đội nghiên cứu BaBar và Belle đã công bố kết quả ban đầu của họ về phân hủy
B0 → J/ψ Ks vào năm 2001. Đúng như Mô hình Chuẩn dự đoán, chúng ta thấy một
sự đối xứng lớn ở tốc độ phân hủy của hạt B0 và B 0 - điều này cho phép các nhà
nghiên cứu xác định góc β của tam giác đơn nhất. Các đội nghiên cứu đã cải tiến
những phép đo này, và giá trị trung bình được thế giới công nhận hiện nay là
β = 21.2° ± 1.0°. Thật vậy, góc β có giá trị khác không có nghĩa là sự vi phạm đối
xứng CP dứt khoát xảy ra trong hệ meson, và độ lớn của góc phù hợp với những
Hình 3. Thiết lập tam giác đơn nhất. Các nhóm nhà vật lí lí thuyết và thực nghiệm
quốc tế như UTFit và CKMFitter đang đặt số đo các góc và cạnh của tam giác đơn
nhất để xác định xem tam giác này có thật sự là một tam giác hay không. Trong
hình trên, lấy từ nhóm nghiên cứu CKMFitter, các số đo thực nghiệm và sai số của
chúng được biểu diễn bằng các dải trên mặt phẳng phức trong đó tam giác đơn
nhất được dựng lên (màu đen). Nếu các số đo là thích hợp thì một sự chọn lựa đỉnh
tam giác sẽ khớp với mọi ràng buộc còn lại, nói theo ngôn ngữ hình vẽ thì các dải
màu sẽ chồng lên nhau tại một điểm. Số đo chính xác góc sin2β từ thiết bị BaBar và
Belle được biểu diễn bằng một hình nêm hẹp màu xanh dương, còn các số đo kém
chính xác hơn của α và γ tương ứng được biểu diễn bằng hình lưỡi liềm màu xanh
dương và hình nêm màu sáng xanh lá cây. Đối với các cạnh của tam giác, sự ràng
buộc chiều dài cạnh bên trái từ tốc độ chuyển đổi quark up thành quark bottom
được biểu diễn bằng vòng tròn màu xanh lá cây, còn sự ràng buộc về cạnh bên phải
từ các dao động meson B được biểu diễn bằng vòng tròn màu vàng (vòng tròn màu
cam là số đo các dao động B0s tại Fermilab gần đây). Các số đo trước đó về sự vi
phạm đối xứng CP từ các kaon được biểu diễn bằng hình hyperbol màu xanh lá
cây. Tất cả các số đo phù hợp với đỉnh của tam giác đơn nhất đều nằm trong dải
Hình 4.
Quan hệ kiểu thứ hai ở trên có thể miêu tả bằng đồ thị trên “biểu đồ Argand”, biểu
đồ có các trục tương ứng với các số thực và số ảo. Trên biểu đồ kiểu như vậy, một
số phức được biểu diễn bằng một đoạn thẳng, và tổng của một vài số phức có thể
biểu diễn bằng cách nối đuôi nhau hệt như khi cộng các vectơ. Trong các phương
trình đơn nhất của ma trận CKM, tổng của ba số phức là bằng không, cho nên ba
đoạn thẳng nối đuôi nhau tạo thành một tam giác gọi là “tam giác đơn nhất”. Có cả
thảy 6 tam giác đơn nhất – mỗi tam giác cho một cặp hàng hoặc cột trong ma trận
CKM – và chiều cao của mỗi tam giác tương ứng với lượng vi phạm đối xứng CP
trong sự chuyển đổi của các quark có liên quan.
Hình 5.
Đa phần các tam giác rất thon dài, tương ứng với kết quả vi phạm đối xứng CP rất
nhỏ. Tuy nhiên, tam giác mô tả sự chuyển đổi quark top và down được dự đoán là
có các cạnh dài xấp xỉ bằng nhau. Vì tầm quan trọng của tam giác này, nên nó
thường được gọi là tam giác đơn nhất “đó”. Người ta thường vẽ tam giác đơn nhất
có chiều dài một cạnh thu tỉ lệ lại bằng đơn vị và quay để cạnh này nằm dọc theo
BaBar và Belle
Một triệu meson B được tạo ra mỗi ngày trong các máy va chạm electron – positron
tại SLAC ở Mĩ và KEK ở Nhật Bản. Các sản phẩm phân hủy của meson B được
khảo sát bằng các detector hạt khổng lồ bao gồm nhiều hệ thống con như BaBar
(hình 6) tại SLAC và Belle (hình 7) tại KEK.
Hình 1. Những nghiên cứu mới đây cho thấy “hiện tượng siêu rắn” ở helium-4 là kết quả
của tính không hoàn hảo trong cấu trúc tinh thể của nó, chứ chưa hẳn là một pha mới của vật chất.
Nguồn: Photolibrary
Mặc dù một vài nhóm nghiên cứu đã xác nhận thông báo năm 2004 của
Chan, nhưng những thí nghiệm gần đây cho thấy đóng vai trò quan trọng là sự mất
trật tự trong tinh thể làm gia tăng nghi vấn về việc một pha siêu rắn như thế có được
quan sát thấy hay chưa. Hơn nữa, các nhà lí thuyết không đồng ý hoàn toàn với cơ
chế nào đã chi phối tính siêu rắn. “Tình trạng thật hết sức u ám”, Chan thừa nhận.
Hình 2. Helium-4 là đồng vị phổ biến hơn trong số hai đồng vị của helium, còn đồng vị kia là
helium-3. Ở áp suất và nhiệt độ bình thường, helium tồn tại ở trạng thái khí, chủ yếu dùng cho các
khinh khí cầu do tỉ trọng nhẹ của nó. Khi được làm lạnh xuống gần không độ tuyệt đối, helium trở
thành chất lỏng và ở nhiệt độ 2,17 K, nó chuyển thành chất siêu lỏng chảy không có độ nhớt (do
những quy luật cơ bản của cơ học lượng tử, các nguyên tử helium-3, là fermion chứ không phải
Được kích thích bởi viễn cảnh quan sát một hiện tượng mới sẽ đưa tài thực
nghiệm khéo léo của họ đi đến giới hạn, Kim và Chan đã đặt ra nhiệm vụ tìm kiếm
trạng thái siêu rắn vào năm 1999. Họ sử dụng một máy dao động xoắn, gồm một tế
bào hình trụ chứa đầy helium áp suất cao bao quanh trong một đĩa thủy tinh Vycor
tổ ong. Tế bào đó, có thể treo lên bằng một cái cần, khi đó có thể quay tới trước và
sau. Bằng cách ghi nhận chu kì dao động trong khi tế bào được làm lạnh xuống gần
không độ tuyệt đối, các nhà nghiên cứu có thể tìm thấy dấu vết của quán tính quay
phi cổ điển - sự giảm đột ngột chu kì dao động của tế bào sẽ đánh dấu sự bắt đầu
mạnh mẽ của hiện tượng siêu chảy ở helium-4 rắn bên trong nó. Khi vật mẫu đạt tới
nhiệt độ 175 mK, đây chính xác là cái mà họ quan sát được (xem hình 3).
“Ở một nhiệt độ đủ thấp, helium-4 rắn không xử sự như một chất rắn”, Chan
nói. “Tôi không còn đếm nỗi số lượng thí nghiệm điều khiển mà chúng tôi đã thực
hiện với các tế bào khác nhau để thuyết phục chính chúng tôi về hiện tượng”. Kim
và Chan đã công bố kết quả nghiên cứu của họ vào tháng 1/2004, kết luận rằng sự
giảm quán tính quay mà họ quan sát được “có khả năng” là do 2% helium-4 đã chịu
sự hóa đặc Bose-Einstein sang trạng thái siêu rắn (Nature 427 225). Bay lượn vật vờ
trước nền vật lí cổ điển, thành phần ma quỷ này của hệ vẫn thảnh thơi trong cơ cấu
phòng thí nghiệm, dễ dàng đi vào và ra khỏi mạng nguyên tử bình thường khi tế bào
quay xung quanh nó.
Điều quan trọng là Kim và Chan đã nhìn thấy không có hành trạng nào như
vậy khi không lâu sau đó họ lặp lại thí nghiệm sử dụng helium-3. Không giống như
người anh em boson tính nặng hơn của chúng, các nguyên tử helium-3 là fermion -
nghĩa là, chúng có spin bán nguyên và do đó bị nguyên lí loại trừ cấm tạo nên BEC.
Tuy nhiên, có khả năng cho các nguyên tử helium-3 tạo ra BEC nếu như trước hết
chúng ghép đôi để hình thành nên boson, một quá trình na ná như sự ghép đôi của
các electron trong hiện tượng siêu dẫn, có thể xảy ra ở nhiệt độ thấp hơn nhiều. Thật
vậy, quan sát đầu tiên thấy sự siêu lỏng ở helium-3 vào năm 1972 chỉ ở 2,7 mK - đó
là kì công mà David Lee, Douglas Oscheroff và Robert Richardson đã được ghi
nhận bằng giải Nobel vật lí năm 1996 - là một dấu hiệu rõ ràng cho mối liên hệ giữa
hiện tượng siêu chảy và hóa đặc Bose-Einstein.
Tuy nhiên, do tầm quan trọng tiềm tàng của việc khám phá ra pha siêu rắn,
rõ ràng vẫn còn một số việc phải làm trước khi Kim và Chan buông từ “có khả
năng” cho thông cáo của họ. Đặc biệt, có khả năng là cái “quán tính phi cổ điển” mà
họ ghi nhận được đơn giản chỉ là do một lớp helium-4 trong mẫu trở nên bị bẫy
trong các lỗ kích thước nanomét của đĩa thủy tinh Vycor mà trong đó helium-4 phải
được chứa để giữ nó ở áp suất cần thiết. Do đó, đôi nghiên cứu đã lặp lại thí nghiệm
sử dụng một khối helium-4 rắn, quan sát sự giảm quán tính quay cho thấy 1% mẫu
đã trở nên siêu rắn. “Điều này cho thấy cái mà chúng tôi quan sát là một hiện tượng
vĩ mô chứ không phải là một hiện tượng lượng tử, cục bộ”, Chan lưu ý. Khẳng định
dứt khoát của đôi nghiên cứu về việc khám phá ra hiện tượng siêu rắn đã được công
bố đúng lúc vào tháng 9/2004 (Science 305 1941).
Hình 4. Tế bào thí nghiệm chứa helium-4 mà Kim và Chan đã dùng để thực hiện điều khẳng định
cuối cùng về hiện tượng siêu rắn vào năm 2004.
Tất các các nhóm này đều xác nhận rằng dưới nhiệt độ khoảng 200 mK,
chừng 1% helium-4 rắn chảy không theo cách cổ điển. Tuy nhiên, trong thí nghiệm
Cornell, Reppy và Rittner cũng nhận thấy, bằng việc duy trì nhiệt độ của helium-4
rắn gần điểm tan chảy của nó trong vài giờ đồng hồ sau đó làm lạnh dần dần nỏ trở
lại, họ có thể làm giảm tín hiệu siêu rắn xuống dưới 0,05% và thậm chí còn làm cho
nó biến mất hoàn toàn. Vì sự “tôi luyện” như thế được mong đợi để làm giám mức
độ không hoản hảo trong chất rắn, nên điều này cho thấy hành trạng siêu rắn quan
sát được không phải là đặc tính chung của khối helium-4 rắn mà là kết quả của sự
khiếm khuyết hay sai lệch trong cấu trúc tinh thể.
Một số thí nghiệm khác nữa cũng ủng hộ cách giải thích về sự không hoàn
hảo này. Hồi đầu năm nay, chẳng hạn, Reppy đã lặp lại thí nghiệm khối helium-4
của Kim và Chan, nhưng với mẫu được làm nóng và làm lạnh trở lại cực nhanh để
làm xuất hiện sự mất trật tự, tìm thấy đến 20% khối rắn trở nên siêu chảy (Phys.
Rev. Lett. 98 175302). Trong khi đó, một trong những sinh viên mới của Chan,
Tony Clark, nhận thấy khi một đơn tinh thể cực kì tinh khiết của helium-4 được đặt
trong một máy dao động xoắn, thì phần siêu rắn chỉ có 0,3%. “Tôi thấy toàn bộ
những kết quả mới này rất khó hiểu”, Chan nói. “Điều kì quặc là helium rắn giới
hạn trong thủy tinh Vycor trong thí nghiệm ban đầu của chúng tôi, và trong vàng
Hình 5. Moses Chan trước chiếc máy dao động xoắn của ông ở trường đại học bang Penn.
Có thể ông sẽ là người tiếp theo đạt giải Nobel cho hiện tượng siêu chảy.
Trường hợp chất siêu rắn có vẻ bị làm lu mờ đi bởi các thí nghiệm “dòng
một chiều” độc lập được tiến hành bởi John Beamish và các cộng sự tại trường đại
học Alberta, Canada, không bao lâu sau kết quả năm 2004 của Kim và Chan. Đội
nghiên cứu đã đặt helium-4 rắn trong một dãy ống mao dẫn và tìm kiếm bằng chứng
trực tiếp của hiện tượng siêu rắn bằng cách tạo ra sự chênh lệch áp suất trong mẫu
và xem xét bất kì sự chuyển khối lượng nào xảy ra (2006 Phys. Rev. Lett. 96
105304 and 95 035301). “Hành trạng của helium-4 rắn hơi khác với chất siêu lỏng”,
Beamish nói. “Kết quả của chúng tôi cho thấy khi hạ nhiệt độ xuống 30 mK,
helium-4 rắn không chảy đi”.
Hình 6. Sebastien Balibar và các cộng sự đã lấp đầy hai ống mao dẫn có chiều cao khác
nhau bằng helioum-4 rắn (bên trái) và sử dụng một camera để quan sát xem hai hệ có đạt tới trạng
thái cân bằng không (tức là có giống như chất lỏng không). Đối với các tinh thể có lớp ngoài gồ
ghề (như chỉ ra trên hình bên phải, trong tinh thể helium-4 rắn rộng khoảng 1 cm2), đội nghiên
“Những tinh thể chất lượng tốt không biểu hiện dòng chảy, còn những tinh
thể có lớp biên gồ ghề và do đó có một sự mất trật tự nhất định, thì lại biểu hiện
dòng chảy”, Balibar nói. Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng thật khó để cho một mạng
lưới lớp ngoài gồ ghề siêu chảy gây ra một tỉ lệ siêu rắn lớn trong các thí nghiệm
máy dao động xoắn. “Có khả năng là các lớp ngoài gồ ghề đã liên kết các vùng lỏng
hay như thủy tinh trong những tinh thể mất trật tự để tạo ra một dấu hiệu siêu rắn
lớn”, ông nói. Bởi vì những lớp ngoài gồ ghề như vậy không thể sắp thẳng hàng
trong những khe hẹp của vật liệu, nên điều này giải thích tại sao Beamish và các
cộng sự không nhìn thấy dòng chảy như thế trong thí nghiệm ống mao dẫn của họ.
Hồi tháng 2 năm nay, Victor Grigo’ev và các đồng sự ở Viện Hàn lâm Khoa
học Ucraina đã công bố bằng chứng cho pha thủy tinh của Prokofev và Svistunov ở
helium-4 rắn (arXiv.org/abs/cond-mat/0702133). Bằng cách đo chính xác áp suất
của mẫu của họ là một hàm của nhiệt độ, T, họ tìm thấy một sự lệch khỏi sự phụ
thuộc T4 như lí thuyết cổ điển trông đợi sang phụ thuộc vào T2 ở nhiệt độ dưới 300
mK. Đội nghiên cứu cho biết đây là cái mà người ta trông đợi nếu như pha thủy tinh
được hình thành, và cho rằng một pha như vậy có thể giải thích những kết quả dị
thường trước đây ở helium-4 rắn.
Chan hi vọng những nghiên cứu như thế này, tìm kiếm dấu hiệu nhiệt động
lực học trực tiếp của hiện tượng siêu rắn, sẽ giúp giải quyết vấn đề giải thích
nguyên nhân gây ra dấu hiệu siêu rắn quan sát thấy trong thí nghiệm của ông. “Trừ
thí nghiệm siêu âm nguyên bản của Goodkind thì bằng chứng rõ ràng nhất cho hiện
tượng siêu rắn từ trước đến nay vẫn đến từ những phép đo máy dao động xoắn”,
ông nói. “Theo quan điểm của tôi, các kết quả của Balibar có khả năng là do các
màng helium-4 lỏng chảy dọc theo “các vết nứt” hay lớp ngoài gồ ghề và không có
liên quan đến hiện tượng siêu rắn quan sát thấy trong những thí nghiệm của chúng
tôi”.
Nhóm của Chan hiện đang tiến hành các nghiên cứu nhiệt động lực học của
riêng mình. Tại cuộc họp của Viện Vật lí Mĩ hồi tháng 3 năm nay, một trong số
những sinh viên mới của ông, Xi Lin, đã đưa ra các số đo công suất nhiệt của
helium-4 rắn như là một hàm của nhiệt độ, cho thấy nó có dạng như lí thuyết cổ
điển trông đợi cộng thêm một đỉnh nữa ở cùng nhiệt độ (khoảng 80 mK), tại đó các
tín hiệu máy dao động xoắn xuất hiện. “Chúng tôi cần phải làm một thí nghiệm điều
khiển được hơn nữa để vạch rõ điều này trước khi chúng tôi có thể nói cực đại này
có liên quan tới hiện tượng siêu rắn hay không”, Chan nói.
© hiepkhachquay Sự thật và trạng thái siêu rắn | Trang 9/10
Siêu nghi vấn
Liệu Chan có phải là người tiếp theo nhận giải Nobel cho hiện tượng siêu
chảy không ? “Trên cơ sở bằng chứng thực nghiệm hiện nay, chúng tôi không biết
ông ấy có quan sát được trạng thái siêu rắn hay không và do đó chúng tôi không biết
là nó có tồn tại hay không ?”, Goodkind nói. “Chỉ những thí nghiệm máy dao động
xoắn mới cho thấy rõ ràng tín hiệu - những nghiên cứu khác về dòng chảy trực tiếp
cộng với những thí nghiệm tán xạ neutron và tia X cho thấy không có bằng chứng
cho hiện tượng siêu rắn và các nỗ lực tìm kiếm dấu hiệu nhiệt động lực học từ trước
đến nay vẫn chưa thành công”. Tuy nhiên, Goodkind hi vọng sự đa dạng của những
cuộc tìm kiếm thực nghiệm hiện tượng siêu rắn hiện nay - bao gồm cả những
nghiên cứu mới đây tiến hành bởi Beamish tương tự với thí nghiệm năm 1997 của
riêng ông - sẽ có thể nhận ra nguyên nhân của hành trạng kì lạ mà Chan và ông đã
thấy.
Tony Leggett tại trường đại học Illinois, người đã chỉ ra vào năm 1970, rằng
quán tính quay phi cổ điển là dấu hiệu của trạng thái siêu rắn, cho rằng những kết
quả của Rittner-Reppy mới đây với các tinh thể mất trật tự là rất có ấn tượng. “Theo
tôi, những dữ liệu này cho thấy cái mà người ta nhìn thấy hiện nay là một nền động
học dị thường, chứ không phải là quán tính quay phi cổ điển”, ông nói. Nhưng ông
nói thêm rằng để giải quyết vấn đề một cách chắc chắn, chúng ta cần một thí
nghiệm “Hess-Fairbank”, trong đó helium-4 rắn được đưa vào chuyển động quay
điện một chiều thay vì điện xoay chiều như trong máy dao động xoắn.
Phillip Anderson tán thành về cơ bản. “Không có thí nghiệm nào trông thấy hiện
tượng siêu rắn một cách thích đáng, nhưng họ thật sự đã nhìn thấy bằng chứng cho chất
lỏng lượng tử”, ông nói. Anderson gọi chất lỏng này là chất lỏng xoáy, bởi vì, theo ông
nói, bằng chứng củng cố ý tưởng rằng độ xoáy - một thông số thiết yếu trong mô tả hiện
tượng siêu chảy - bị lượng tử hóa chứ không ủng hộ ý tưởng độ xoáy bị đông lại.
Trong khi đó, Chan - người thích không chú tâm lắm đển khả năng có một chuyến
đi đến Stockholm - đang tập trung vào vai trò của những chỗ hỏng mạng tinh thể bằng cách
đưa có hệ thống sự mất trật tự vào mẫu tinh thể helium-4 rắn và đo phản ứng siêu rắn của
nó. “Thật thú vị khi bị lôi cuốn vào một thí nghiệm đã có nhiều nhà lí thuyết dành hết tâm
trí của họ đào bới nó và khuyến cáo các đồng sự thực nghiệm tham gia cuộc tìm kiếm”,
ông nói. “Đôi khi, tiến bộ đến hơi chậm, và người ta có thể nản lòng trước những ngỏ cụt
tối om om. Nhưng việc khám phá này đúng là còn thú vị hơn cả việc đọc một cuốn tiểu
thuyết trinh thám”.
Matthew Chalmers (Physics World, tháng 5/2007)
hiepkhachquay dịch
Dòng năng lượng trong sự chuyển pha vũ trụ giống như trong một thác nước, với sự nhiễu
loạn trong chất lỏng vũ trụ gây ra phông nền sóng hấp dẫn ngày nay.
Những sự chuyển pha không mới mẻ gì trong vũ trụ học. Trước đây, vào
năm 1949, Maria Mayer và Edward Teller đã viết một bài báo nói về những mảng
vật chất giàu neutron khối lượng cỡ sao hình thành trong sự chuyển pha hạt nhân vũ
trụ. Ngày nay, các nhà vật lí sử dụng Mô hình Chuẩn và máy gia tốc hạt để khảo sát
tự nhiên ở những thời điểm còn sớm hơn nữa – và do đó có năng lượng cao hơn -
trong lịch sử vũ trụ. Sự chuyển pha là một phần chủ yếu của Mô hình Chuẩn và các
mở rộng khác của nó. Ví dụ, sắc động lực học lượng tử (QCD) - phần Mô hình
Chuẩn mô tả cách thức các quark tương tác với nhau bằng cách trao đổi gluon –
thường liên quan tới sự chuyển pha xảy ra ở năng lượng vài trăm MeV, nhờ đó mà
pha “hadron tính” của vật chất hạt nhân quen thuộc (chẳng hạn proton và neutron)
hợp nhất từ pha “súp quark” của các quark và gluon tự do.
Ở quy mô giàu năng lượng tính hơn nhiều, vào cỡ TeV (1012 eV), của vũ trụ
sơ khai, chân không được cho là đã trải qua một sự chuyển đổi từ chân không “giả”
(tương ứng với vũ trụ đối xứng trong đó tất cả các hạt đều không có khối lượng)
thành chân không “thật” thuộc vũ trụ mà sự đối xứng bị phá vỡ và các hạt có khối
lượng mà chúng ta nhìn thấy ở những mức năng lượng thấp hàng ngày. Việc khống
chế các chi tiết của quá trình “phá vỡ đối xứng điện yếu” này, liên quan với nó là
boson Higgs nổi tiếng, là mục tiêu ban đầu của Máy Va chạm Hadron Lớn (LHC)
tại CERN sẽ đi vào hoạt động vào đầu năm tới.
Ý tưởng tìm kiếm sóng hấp dẫn từ QCD và sự chuyển pha vũ trụ điện yếu đã
được đánh dấu từ những bài báo của Edward Witten thuộc trường Đại học Princeton
và tôi hồi thập niên 1980. Kể từ đó, các nhà nghiên cứu khác đã liên hệ sự chuyển
pha với những nguyên lí vật lí ít được biết đến nhưng thuộc về vũ trụ học trong vũ
trụ rất ban sơ. Ví dụ, năm 1993, Andy Cohen thuộc trường Đại học Boston và
David Kaplan và và Ann Nelson thuộc trường Đại học San Diego, cả hai trường đều
Những phát triển mới trong công nghệ tế bào Mặt Trời có thể giúp chúng ta
khai thác tốt hơn sức mạnh từ Mặt Trời.
(Nguồn: Maximilian Stock Ltd/Science Photo Library)
Tuy nhiên, tình hình này sắp có chuyển biến. Những cải tiến dần dần đối với
tế bào Mặt Trời silicon đơn tinh thể cơ bản đã làm giảm giá thành điện Mặt Trời đi
khoảng 20 lần trong vòng 30 năm qua, và sự phát triển liên tục các chất tinh thể rẻ
hơn cho thấy xu hướng này đang tiếp diễn. Theo báo cáo của các nhà khoa học Mĩ,
George Crabtree và Nathan Lewis, trình Bộ Năng lượng Mĩ vào năm 2005, các tế
bào Mặt Trời sẽ trở nên đủ sức cạnh tranh – phát điện năng với giá 0,02$/kWh – để
thực hiện được ở quy mô lớn trong khoảng thời gian 20-25 năm.
© hiepkhachquay Quan điểm mới về điện Mặt Trời | Trang 1/8
Nhưng một số người tin rằng việc tăng cường sử dụng năng lượng Mặt Trời
có thể còn ấn tượng hơn nhiều. Chính Crabtree và Lewis đã ước tính rằng việc sử
dụng rộng rãi các tế bào Mặt Trời có thể xảy ra vào năm 2015 nếu như các nhà vật
lí có thể hoàn thiện một thế hệ dụng cụ mới, cải tiến hơn, chế tạo bằng công nghệ
nano. Những dụng cụ này gồm các tế bào dựa trên chấm lượng tử hoặc dụng cụ
nano tinh thể, có tiền năng vừa rẻ hơn vừa hiệu quả hơn những tế bào hiện có. Thật
vậy, đó là hứa hẹn của những công nghệ này mà một bản báo cáo trình lên chính
phủ Đức hồi năm 2003 đã tiên đoán rằng, vào năm 2050, điện Mặt Trời sẽ đáp ứng
một phần tư nhu cầu năng lượng của thế giới.
Một sự biến chuyển như thế yêu cầu ý chí chính trị rất lớn. Tuy nhiên, tình
trạng khẩn cấp đang tăng dần mà với nó chính phủ các nước đang chú tâm, hay ít
nhất là đang bàn cãi, hậu quả của sự biến đổi khí hậu cho thấy ý chí này có thể hợp
nhất. Mặc dù sự phát sinh hiệu ứng nhà kính của thế giới có thể giảm bằng cách sử
dụng các nguồn năng lượng phi hóa thạch khác, nhưng một số nhà nghiên cứu, như
nhà vật lí chất rắn Keith Barnham ở trường Imperial College London, tin rằng điện
Mặt Trời sẽ còn gặp nhiều căng thẳng. Ông chỉ ra rằng nếu như nước Anh mở rộng
tỉ trọng điện Mặt Trời lên thêm 40% mỗi năm – thấp hơn so với con số toàn cầu
năm 2004 – thì mới có thể bù đắp cho sự thiếu hụt năng lượng do đóng cửa các lò
phản ứng hạt nhân của mình trong vòng 20 năm tới.
Biểu đồ hiệu suất theo giá thành của ba thế hệ tế bào Mặt Trời. Các tế bào thế hệ thứ nhất, chế tạo
trên cơ sở bánh xốp đơn tinh thể silicon đắt tiền, chiếm khoảng 85% số dụng cụ tiêu thụ trên thị
trường hiện nay. Các tế bào thế hệ thứ hai, gồm có các màng mỏng silicon và những chất bán dẫn
khác, rẻ hơn nhưng kém hiệu quả hơn. Trong khi đó, các dụng cụ thế hệ thứ ba, được chế tạo bằng
công nghệ và chất liệu tiên tiến hơn, vẫn còn ở giai đoạn phát triển ban đầu, nhưng hứa hẹn cho
hiệu suất cao với giá thành thấp. Những đường nằm ngang cho thấy giới hạn lí thuyết của hiệu suất
(từ dưới lên trên) của một tế bào Mặt Trời tiêu chuẩn, một tế bào cải tiến phơi ra trước ánh sáng
Mặt Trời không tập trung, và một tế bào cải tiến trước ánh sáng Mặt Trời tập trung với hệ số 46200
– giá trị lớn nhất có thể có. Các đường chéo đứt đoạn là quỹ tích của hằng số giá thành trên đơn vị
công suất, đo bằng đô la trên watt. Vì những biến đổi tự nhiên của nguồn ánh sáng Mặt Trời đi tới
một tiết diện ngang cho trước theo chu kì ngày/đêm và những biến đổi của mây che trên trời, nên
công suất điện trung bình tạo ra bởi một tế bào Mặt Trời trong một năm bằng khoảng 20% tỉ lệ cực
đại của nó. Giá 1$/W chuyển sang giá tiền điện là khoảng 0,05$/kWh trong tuổi thọ 30 năm của
một tế bào Mặt Trời điển hình.
Martin Green thuộc trường đại học New South Wales, Australia (trái); và David Cahen thuộc Viện
Khoa học Weizman, Israel (phải) đang làm việc với Jim MacQuillan thuộc trường đại học Otago,
New Zealand, các đồng sự của Michael Gratzel thuộc Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ ở
Lausanne.
Theo Gratzel, các nhà khoa học đã bỏ rơi ý tưởng này vì cường độ hạn chế
của ánh sáng thu thập bởi chất nhuộm. Nhưng ông và các cộng sự của ông đã chỉ ra
rằng vấn đề này có thể khắc phục bằng cách sử dụng một dạng nano tinh thể của
titanium dioxide. Một mạng tinh thể chất bán dẫn nanomét mang lại vô số góc và
vết nứt, trong đó các phân tử chất nhuộm có thể liên kết, làm tăng diện tích bề mặt
có sẵn với chất nhuộm lên trên 1000 lần. Gratzel nói rằng tế bào hoạt động tốt nhất
của nhóm của ông có hiệu suất chỉ trên 11% , ông ước tính việc chế tạo các tế bào
chất nhuộm cảm quang sẽ rẻ hơn 3-4 lần so với các tế bào silicon truyền thống.
Trong năm nay, công ti G24 Innovations đã khởi động sản phẩm thương mại đầu
tiên thuộc nhóm tế bào Mặt Trời chất nhuộm càm quang tại một nhà máy ở Cardiff,
nước Anh.
Sau cùng, một công nghệ trẻ hơn nhiều so với các tế bào chất nhuộm cảm
quang, nhưng là một công nghệ có tiềm năng to lớn, đó là tế bào Mặt Trời hữu cơ.
Những dụng cụ như thế, sử dụng plastic làm thành phần hoạt tính, có tiềm năng còn
rẻ hơn so với các dụng cụ bán dẫn. Chúng cũng mềm dẻo, nghĩa là chúng có thể
quấn quanh bề mặt, cuộn lại, hoặc có khả năng sơn lên các cấu trúc. Hồi đầu năm
nay, David Carroll, một nhà vật lí tại trường đại học Wake Forest ở Bắc Carolina,
Mĩ, và các đồng sự khẳng định đã chế tạo được một tế bào Mặt Trời trên cơ sở
polymer có hiệu suất 6%. Mặc dù là thấp so với chuẩn silicon, tuy nhiên hiệu suất
Jiwen Liu thuộc trường đại học Wake Forest, Mĩ, đang kiểm tra một trong những tế bào Mặt Trời
polymer của nhóm ông.
Carroll và các đồng sự thu được hiệu suất cao của họ bằng cách chế tạo các
“mạch” kích thước nanomét bên trong polymer poly(3-hexylthiophene) dẫn đường
cho các electron và lỗ trống nhanh chóng ra khỏi dụng cụ trước khi chúng có thể tái
kết hợp. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu tin rằng họ có thể đạt được hiệu suất cao cỡ
10% bằng cách bọc một polymer xung quanh một mảnh sợi cáp quang. Sợi cáp có
hai nhiệm vụ: giữ các photon bên trong polymer cho tới khi chúng bị hấp thụ; và bắt
các photon từ vùng góc tới lớn hơn. Nhiệm vụ thứ hai này làm tăng số ngày tế bào
có thể hoạt động ở mức cực đại – từ khoảng 1 giờ với tế bào màng mỏng lên khoảng
5 giờ.
“Dứa khoát đây là những tế bào Mặt Trời plastic”, Carroll nói, đội nghiên
cứu của ông hiện nay đang chế tạo các nguyên mẫu thuộc cả loại màng mỏng và sợi
quang. “Họ chế tạo những tế bào mềm dẻo rất tốt có khả năng mang lại công suất
trên số ngày nhất định lớn hơn so với silicon. Thậm chí 6 tháng trước đây, tôi sẽ
không nói như vậy”.
© hiepkhachquay Cách nhìn mới về năng lượng hạt nhân | Trang 1/11
thải hạt nhân thì độc hơn nhiều so với những chất độc này, nhưng ít nhất nó có thể
được cô lập hoàn toàn.
Năng lượng hạt nhân tiến lên giữ vai trò chủ đạo vào cuối thập niên 1950 và
1960, với việc xây dựng nhiều nhà máy điện hạt nhân trên khắp thế giới. Tuy nhiên,
mối nguy hiểm đến môi trường đi kèm với chất thải hạt nhân luôn luôn là lí lẽ để
chống lại năng lượng hạt nhân. Thêm với tai nạn Chernobyl năm 1986 và các tác
động thị trường trong lĩnh vực năng lượng, nền công nghiệp hạt nhân đã đi vào thời
suy tàn trong thập niên 1980 và 1990. Nhưng xu thế đó ngày nay hình như đang có
sự chuyển biến. Hồi tháng năm, chẳng hạn, chính phủ Mĩ đã tỏ dấu hiệu mục tiêu
của họ là xây dựng một hạm đội mới các nhà máy điện hạt nhân trên khắp đất nước,
và một số nước khác, gồm Trung Quốc, Phần Lan, Pháp, Ấn Độ và Nga đã thông
báo hoặc đã bắt tay vào xây dựng những lò phản ứng mới.
Không phải chỉ có sự khẩn thiết phải chiến đấu với sự biến đổi khí hậu châm
ngòi cho đợt hồi phục hạt nhân này. Các luận cứ kinh tế dựa trên sự tăng liên tục giá
khí đốt và dầu mỏ, cộng với sự quan tâm chiến lược trong việc đảm bảo mỗi nước
có nguồn cung ứng năng lượng bền vững, cũng là những nhân tố chính. Trong thực
tế, các luận cứ kinh tế và chiến lược mạnh mẽ cho thấy hiện nay không thể nào có
được giải pháp thực tế cho bài toán năng lượng mà trong đó năng lượng hạt nhân
không đóng vai trò chính một lần nữa. Và ở đâu có năng lượng hạt nhân, ở đó có
các nhà vật lí.
© hiepkhachquay Cách nhìn mới về năng lượng hạt nhân | Trang 2/11
đó làm giảm “sự hấp thụ kí sinh” neutron. Chế tạo từ graphit và chứa lỗ cho cả các
thanh nhiên liệu và cho phép chất khí làm lạnh chảy, chất điều tiết làm chậm
neutron bằng cách làm tán xạ đàn hồi sao cho phân bố động năng của chúng trở nên
sánh được với phân bố động năng của chất khí ở trạng thái cân bằng nhiệt với
graphit. Vì ở những năng lượng này, neutron có xác suất tương tác với phân tử cao
hơn, nên lò phản ứng Magnox có thể sử dụng nhiên liệu chứa các mức xảy ra tự
nhiên của uranium-235 (khoảng 0,7%), tránh phải dùng – và hao phí – uranium đã
qua “làm giàu”.
Kể từ khi nhà máy điện hạt nhân thương mại đầu tiên mở cửa ở Anh vào năm 1956, các mẫu lò
phản ứng đã tiến triển rất nhiều. Mặc dù sự khác biệt giữa các mẫu không rõ ràng cho lắm, nhưng
Bộ Năng lượng Mĩ (DOE) đã phân loại chúng thành bốn thế hệ khi họ bắt đầu nhắm tới việc xây
dựng các lò phản ứng mới trong giữa đến cuối thập niên 1990. Nhà máy Magnox buổi đầu, nhiều
trong số đó vẫn đang hoạt động, được gán cho là thế hệ I, còn những mẫu kế vị của chúng trong
thập niên 1970 và 1980 – các lò phản ứng nước nhẹ (LWR) - được gọi là thế hệ II. Những lò kiểu
này tạo nên khối nhà máy điện hạt nhân trên khắp thế giới hiện nay, và nhiều lò vẫn đang được xây
dựng thêm. Các mẫu thế hệ III, tương tự như các lò phản ứng thế hệ II nhưng có đặc điểm an toàn
cải tiến, đang sẵn sàng được xây dựng, trong khi một số nước đang theo đuổi các mẫu “thế hệ
III+” hơi cải tiến hơn một chút. Còn các mẫu thế hệ IV – trong đó DOE đã chọn 6 - hiện vẫn ở
giai đoạn đầu, nhưng chúng hứa hẹn mang lại những nhà máy điện hạt nhân sạch hơn và kinh tế
hơn vào giữa thế kỉ này.
Vào đầu thập niên 1970, nước Anh có 11 nhà máy điện hạt nhân Magnox
(gồm tổng cộng 26 lò phản ứng) hoặc đang hoạt động hoặc đang trong giai đoạn
xây dựng hoặc lên kế hoạch. Anh cũng đã xuất khẩu mẫu Magnox – từ đây gọi là
“thế hệ I” – sang Nhật và Italy, mỗi nước một nhà máy điện hạt nhân. Tuy nhiên,
trong một nỗ lực nhằm tăng tỉ lệ công suất điện trên công suất nhiệt thì Ủy ban Điện
lực đã đưa ra ý tưởng về lò phản ứng cải tiến làm lạnh bằng chất khí (AGR) – bây
giờ gọi là mẫu “thế hệ II”. Lò đầu tiên mở cửa vào giữa thập niên 1970, tất cả 7 nhà
máy điện AGR (14 lò phản ứng) hiện vẫn đang hoạt động.
Chất điều tiết (graphit) và chất làm lạnh (cacbon dioxit) có mặt trong cả mẫu
Magnox lẫn mẫu AGR. Tuy nhiên, AGR có hiệu suất nhiệt cao hơn do hoạt động ở
nhiệt độ 600oC so với khoảng 370oC ở mẫu Magnox. Vì ở nhiệt độ cao, uranium
© hiepkhachquay Cách nhìn mới về năng lượng hạt nhân | Trang 3/11
chịu sự biến đổi pha tinh thể khiến nó nở ra, có khả năng làm suy yếu lớp phủ
ngoài, nên AGR dùng uranium oxit làm nhiên liệu của chúng. Và vì Magnox trở
nên mềm nhũng và có thể còn dễ nóng chảy trong không khí ở nhiệt độ AGR, nên
thép sạch được dùng làm lớp phủ thay thế. Vì thép sạch hấp thụ nhiều neutron hơn
Magnox, nên AGR yêu cầu uranium có thành phần uranium-235 chiếm vài phần
trăm, giá thành tăng thêm sẽ được lấy lại qua công suất năng lượng tăng của nhiên
liệu.
Nước Anh cũng tiến hành nghiên cứu các mẫu “lò phản ứng nhanh” cho đến
đầu thập niên 1990, ví dụ tại địa điểm Dounreay ở miền bắc Scotland. Những lò
phản ứng này không có chất điều tiết và neutron giải phóng trong mỗi sự kiện phân
hạch do đó vẫn giữ được động năng lớn của chúng. Kết quả là các lò phản ứng này
có khả năng biến uranium suy kiệt (tức là uranium có hầu hết thành phần uranium-
235 của nó đã bị xài hết) thành plutonium, chất này cũng có thể dùng làm nhiên liệu
hạt nhân. Vì khi mỗi nguyên tử plutonium bị phá vỡ do phân hạch thì ít nhất một
hoặc nhiều nguyên tử khác được tạo ra trong nhiên liệu đã qua sử dụng, nên lò phản
ứng nhanh – hay lò phản ứng tái sinh – tạo ra nhiều chất dễ phân tách hơn nhiên liệu
của nó, do đó có khả năng làm tăng kho dự trữ nhiên liệu hạt nhân lên rất lớn.
Vì các neutron năng lượng tính trong lò phản ứng nhanh có xác suất tương
tác với hạt nhân khác thấp hơn, cho nên lò phản ứng yêu cầu chất liệu có thể phân
hạch đậm đặc hơn và các chất có thể sống được trước dòng neutron rất lớn. Kết quả
là lò phản ứng nhanh phức tạp hơn và đắt hơn lò phản ứng Magnox hoặc AGR, một
phần là do chúng yêu cầu thêm một mạch làm lạnh nữa, và mẫu đó chưa hề được sử
dụng về mặt thương mại.
© hiepkhachquay Cách nhìn mới về năng lượng hạt nhân | Trang 4/11
phổ biến để làm chậm các neutron phân hạch. Ưu điểm này khiến LWR kinh tế hơn
và dễ xây dựng và hoạt động hơn nhiều so với nhà máy điện hạt nhân Magnox và
AGR (mặc dù AGR không yêu cầu mức độ làm giàu uranium cao như thế). Ví dụ,
nồi áp suất trong đó lò phản ứng được chứa cộng với tất cả cấu trúc xung quanh đủ
nhỏ để chế tạo trong một phân xưởng và vận chuyển đến địa điểm xây dựng, trong
khi nồi áp suất Magnox và AGR quá lớn nên yêu cầu phải xây dựng tại chỗ.
Sự phát điện hạt nhân bắt đầu từ lõi của lò phản ứng, trong đó neutron được cho bắn vào hạt nhân
uranium-235 làm cho chúng tách thành hạt nhân nhẹ hơn và neutron khác. Những neutron này
phải được làm chậm bằng chất điều tiết sao cho chúng có thể khởi động các phản ứng phân hạch
khác và duy trì phản ứng dây chuyền. Trong trường hợp lò phản ứng nước điều áp (PWR, hình),
nước được dùng làm chất điều tiết, trong khi graphit và nước nặng được sử dụng trong các mẫu lò
khác. Các “thanh điều khiển” hấp thụ neutron có thể chèn vào lõi lò phản ứng lúc hoạt động, cho
phép tốc độ phản ứng ngừng lại. Va chạm giữa các sản phẩm phân hạch và các nguyên tử xung
quanh làm phát sinh nhiệt, nhiệt này có thể trích ra bằng một chất làm lạnh (nước trong trường
hợp của PWR) lưu thông qua vùng lõi và làm bốc hơi nước trong mạch thứ cấp. Hơi nước làm
quay tuabin và máy phát, máy phát được nối vào mạng lưới điện.
Mặc dù nước Anh đã thiết kế AGR để cạnh tranh với LWR, nhưng mẫu này
sớm phải bỏ đi vì chi phí xây dựng đắt và khó điều hành hơn LWR. Với hiệu suất
hoạt động hơi tệ của chúng, cuộc cạnh tranh với LWR nhanh chóng đi tới kết thúc –
hơi giống như Boeing đấu với các nhà sản xuất máy bay cỡ nhỏ của Anh. Nước
Anh nhận ra điều này bằng việc quyết định bỏ AGR theo PWR, và việc xây dựng
nhà máy PWR đầu tiên và duy nhất của nước Anh (Sizewell B ở bờ biển Soffolk –
bắt đầu vào năm 1988. Thật vậy, trong số 436 lò phản ứng đang hoạt động hiện nay
trên thế giới thì 357 lò là LWR, trong đó 264 là PWR, và đây cũng là loại lò đang
được xây dựng chủ yếu hiện nay.
© hiepkhachquay Cách nhìn mới về năng lượng hạt nhân | Trang 5/11
điện hạt nhân mới (một quyết định hiện nay đang thăm dò dư luận và sẽ cho kết quả
cuối cùng vào tháng 10), thì họ cần phải quyết định là chọn công nghệ nào và ai sẽ
xây dựng và điều hành nhà máy. Những lựa chọn vừa nói là tùy thuộc vào tác động
thị trường, thùy thuộc vào nhà cung cấp lò phản ứng hoặc chủ sở hữu công nghệ
nào đến chào hàng trước, và tùy thuộc tiêu chuẩn môi trường và tiêu chuẩn an toàn
nghiêm ngặt. Tóm lại, mất khoảng 10 năm nữa thì một nhà máy điện hạt nhân mới
có thể hòa vào lưới điện quốc gia.
Hai ứng viên sáng giá nhất cho các lò phản ứng xây mới ở Anh là các lò
PWR, giống như Sizewell B : Areva EPR (lò phản ứng nước điều áp châu Âu) và
Westinghouse AP-1000 (AP là viết tắt của “thụ động cải tiến” và 1000 biểu thị
1000MW công suất điện mà nhà máy có thể sản xuất). Các mẫu có triển vọng khác
là lò phản ứng nước sôi cải tiến (ABWR), về cơ bản là một phiên bản tối ưu hóa của
BWR, và lò phản ứng Candu cải tiến (ACR), dựa trên các lò phản ứng Candu rất
thành công của Canada. Các lò này tương tự với PWR nhưng sử dụng nước nặng
(D2O) làm chất điều tiết. Nước nặng hầu như không bắt lấy neutron nào, nhưng vì
nó chứa deuterium rất tốt trong việc làm chậm neutron. Điều này có nghĩa là sẽ có
sẵn nhiều neutron phân hạch hơn, cho phép ACR hoạt động với nhiên liệu có mức
làm giàu thấp.
Đặc điểm chung của tất cả các mẫu “thế hệ III” này là chúng hoạt động đơn
giản: chúng yêu cầu ít can thiệp hơn, ít nhiên liệu hơn và dễ duy trì hơn các mẫu
trước. Chúng cũng đã được cải tiến, các đặc điểm an toàn thụ động dựa trên các lực
vật lí như hấp dẫn và đối lưu, có ít hoặc không cần đến các dụng cụ cơ học như
bơm. Tuy nhiên, các nhóm vận động như CND và Hòa bình Xanh đã thực sự phớt
lờ đi các đặc điểm đó và thay vào đó lại tập trung vào những lo lắng không ngừng
tăng lên về chất thải hạt nhân mà một hệ thống nhà máy điện hạt nhân mới sẽ tạo ra.
Trong khi hiển nhiên là càng có nhiều nhà máy điện hạt nhân thì sẽ càng có
nhiều chất thải hạt nhân, thì khổi lượng chất thải phát sinh trên kWh công suất ra ở
các mẫu mới sẽ ít hơn nhiều so với ở các mẫu trước đây. Chẳng hạn, một tổ hợp 10
nhà máy LWR gigawatt mới sẽ phát ra gấp đôi lượng điện trong tuổi thọ 60 năm
của chúng so với tổ hợp đó hiện nay, nhưng sẽ tạo ra chỉ khoảng thêm 10% chất thải
phóng xạ mức độ cao trong cùng thời gian trên dưới những điều kiện hợp lí. Hơn
nữa, các lò phản ứng mới này có thể cho phép chúng ta sử dụng kho dự trữ
plutonium quân sự bằng cách dùng nhiên liệu “oxit hỗn hợp” chất tạo từ oxit
uranium và plutonium.
Các mẫu AP-1000, EPR, ACR và BWR đều sử dụng cùng loại nhiên liệu,
mạch áp suất, máy phát hơi nước và những thành phần chủ chốt khác như các lò
phản ứng thế hệ I và thế hệ II đang hoạt động ngày nay. Các nhà máy mới xây dựng
trên các mẫu này do đó sẽ được xây dựng ngay. Thật vậy, một nhà máy EPR đang
được xây dựng ở Phần Lan (xem hình), với một cái ở Pháp sau đó, còn Trung Quốc
đã đặt hàng vài lò AP-1000. Tuy nhiên, có lẽ trong vòng 20 năm tới, chúng ta sẽ có
thể sẵn sàng xây dựng cái được gọi là mẫu lò phản ứng thế hệ IV.
Thế hệ IV
Vào cuối thập niên 1990, Bộ Năng lượng Mĩ đã chọn ra 6 mẫu thế hệ IV
trong danh sách thu gọn hơn 100 ý tưởng nhằm “mở rộng khả năng sử dụng năng
lượng hạt nhân”. Ba trong số các mẫu này là lò phản ứng nhanh, có chu trình nhiên
© hiepkhachquay Cách nhìn mới về năng lượng hạt nhân | Trang 6/11
liệu có chấp nhận được, trong đó plutoinium-239 được tạo ra từ phản ứng bắt
neutron uranium-238 và do đó có thể hoạt động trong nhiều trăm năm với nguồn dự
trữ uranium hiện có. Ba mẫu lò phàn ứng nhanh đó khác nhau chủ yếu ở việc chọn
chất làm lạnh: đó là natri lỏng, chì lỏng và khí heli, một số trong đó là chất dẫn
nhiệt tốt, còn một số thì khó giải quyết nếu như chúng rò rỉ.
Lò phản ứng EPR đầu tiên của thế giới đang được xây dựng ở địa điểm Olkiluot, Phần Lan, và sẽ
hoàn thành vào năm 2009.
Một mẫu thế hệ IV khác là lò phản ứng nước siêu tới hạn, trong đó nước ở
trong pha siêu tới hạn của nó được dùng làm chất làm lạnh. Nước ở trạng thái này
(tức là trạng thái trong đó không có sự phân biệt giữa thể lỏng và thể khí) có dung
lượng nhiệt đặc biệt rất cao, cho hiệu suất nhiệt cao hơn so với các lò LWR hiện có.
Cũng còn có lò phản ứng nhiệt độ rất cao (VHTR), họ hàng với các lò phản
ứng HTR hiện nay, như công nghệ giường thạch anh mà hiện Nam Phi đang theo
đuổi. Các lò này thường sử dụng chất điều tiết graphit và chất khí làm lạnh và giữ
được khả năng cho hiệu suất nhiệt cao. Hơn nữa, VHTR còn an toàn tới mức khó
tin, vì thành phần phóng xạ của nhiên liệu bị chặn lại ngay cả khi lò phản ứng đạt
tới quá nhiệt độ 1500oC (tức là trên 500oC so với nhiệt độ hoạt động bình thường).
Tuy nhiên, có lẽ mặt hấp dẫn nhất của mẫu VHTR là ở chỗ nó có thể tạo ra
hydro thông qua sự điện phân trong nước hoặc phản ứng nhiệt hóa và do đó sẽ có
chỗ đứng trong nền kinh tế hydro tương lai. Tạo ra hydro là một quá trình năng
lượng tập trung cao độ, yêu cầu một lượng lớn điện năng hoặc nhiệt – cả hai đều dồi
dào trong mẫu VHTR với hầu như không có sự phát sinh cacbon dioxit. Sản phẩm
của hydro không ảnh hưởng tới hiệu suất của lò phản ứng, mặc dù nó thật sự làm
giảm công suất điện phát ra. Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch để tạo ra hydro là
không thể bào chữa được về phương diện môi trường.
Mẫu thế hệ IV sau cùng – gọi là lò phản ứng muối nóng chảy – có tính cơ
bản nhất. Ở đây, nhiên liệu ở dạng muối uranium lưu thông trong chất làm lạnh sao
© hiepkhachquay Cách nhìn mới về năng lượng hạt nhân | Trang 7/11
cho không có chất làm lạnh nào bị thất thoát làm ngừng trệ phản ứng dây chuyền.
Công trình này được đưa vào thực tiễn như thế nào hiện nay vẫn chưa có quyết định
chính thức, vì nghiên cứu về mẫu muối nóng chảy – và tất cả các mẫu thế hệ IV
khác, trong thực tế - vẫn còn ở giai đoạn rất sớm. Không gì chắc chắn là cả 6 mẫu
sẽ thành công trong cấu hình thương mại thực tế. Một số rốt cuộc sẽ bị bỏ rơi khi
một số lò phản ứng tỏ ra đứng vững hơn những lò khác. Lạc quan mà nói, sự nhiệt
hạch hạt nhân sẽ bắt đầu có mặt vào cùng thời điểm và sẽ mang lai một chiều hướng
mới cho năng lượng hạt nhân.
© hiepkhachquay Cách nhìn mới về năng lượng hạt nhân | Trang 8/11
trọng như sự hiểu biết về các phản ứng hạt nhân, và nền vật lí neutron, chủ đề được
dạy trong các khóa đào tạo trên đại học.
Thật trớ trêu, quyết định thành công mới đây do Hòa bình Xanh mang lại hồi
đầu năm nay chống lại tiến trình xét lại năng lượng của chính phủ Anh hình như
cũng báo hiệu một sự hồi sinh của chương trình năng lượng hạt nhân của Anh, vì
chính phủ phản ứng với một quyết tâm đanh thép rằng tiếp tục xét lại và khăng
khăng rằng năng lượng hạt nhân là cần thiết. Thật đáng tiếc, sự chống đối bởi các
nhóm hòa bình chống lại các nhà máy điện hạt nhân chỉ mang lại nhiều nhà máy
nhiên liệu hóa thạch hơn được xây dựng. Sự thành lập Phòng thí nghiệm Hạt nhân
quốc gia ở Anh là một bằng chứng nữa cho sự hồi sinh hạt nhân, và dường như xu
thế đang có biến chuyển và bây giờ chúng ta sẽ chào đón một cách hiểu mới về
năng lượng hạt nhân.
Giữ lò phản ứng hạt nhân dưới sự điều khiển
Trái với những gì mà một số nhóm chống hạt nhân có thể làm cho bạn tin, các lò phản
ứng hạt nhân không phải là những cỗ máy không ổn định sẵn sàng thoát khỏi tầm kiểm
soát bất cứ lúc nào. Các nguyên lí vật lí âm học được sử dụng để đảm bảo an toàn cho
các lò phản ứng được xây dựng hợp thức. Ví dụ, trong lò phản ứng nước điều tiết, các
neutron giải phóng trong sự phân hạch được làm chậm bằng va chạm với hạt nhân hydro
và oxy (đa số được thực hiện chỉ bởi hydro), khiến chúng dễ bị bắt lấy hơn. Tuy nhiên,
nếu vì một số nguyên nhân mà số phản ứng tăng lên, thì công suất nhiệt tăng thêm sẽ
làm cho chất điều tiết giãn nở - do đó làm giảm tốc độ phản ứng và ngăn cản hệ thống ra
khỏi tầm kiểm soát. Một cơ chế phản hồi tương tự gọi là mở rộng Doppler được mang lại
bởi sự gia tăng hấp thụ neutron trong chất lò phản ứng khi chúng nóng lên, và mục tiêu
là thiết kế một lò phản ứng trong đó một số cơ chế như thế kết hợp nhau để tạo ra hệ
thống bền vững.
Một ví dụ về hệ thống được thiết kế kém là lò
phản ứng RBMK của Nga. Năm 1986, một lò
phản ứng như thế tại Chernobyl đã gây ra thảm
họa hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử. Các lò
phản ứng này sử dụng graphit để điều tiết
neutron và nước để làm lạnh hệ thống, chúng
thông thường là sự chọn lựa tốt. Tuy nhiên, một
sự kết hợp không may của hai lò khiến cho
RBMK cực kì nguy hiểm: đa số sự điều tiết được
cung cấp bởi graphit, còn nước chủ yếu đóng vai
trò chất hấp thụ. Khi nước nóng đến sôi lên thì
mật độ chất hấp thụ giảm. Điều này dẫn tới
nhiều phản ứng hơn, càng làm sôi nhiều chất
hấp thụ hơn nữa, gây ra một vòng phản hồi
không lường trước được.
Một nhân tố khác góp mặt trong vụ tai nạn có
liên quan tới các neutron phát ra bởi các sản phẩm phân hạch. Hai hoặc ba neutron giải
phóng trong một sự kiện phân hạch được gọi là neutron nhanh, vì chúng phát ra tức thời
tại điểm phân tách hoặc nhanh chóng “bốc hơi” ra khỏi sản phẩm phân hạch bị kích thích.
Tuy nhiên, các sản phẩm phân hạch này lại tự phát ra neutron theo phân rã beta. Mặc dù
có số lượng dưới 1% so với số neutron nhanh, nhưng các “neutron chậm” này – có thể
tiếp tục khởi động những phân hạch mới – đảm bảo rằng trong một lò phản ứng thông
thường, các mức công suất trong log thay đổi rất chậm và an toàn. Nhưng tại Chernobyl,
số lượng neutron tăng rất nhanh và không an toàn do chỉ một mình các neutron nhanh,
© hiepkhachquay Cách nhìn mới về năng lượng hạt nhân | Trang 9/11
làm cho lò phản ứng đi từ 10% công suất đầy đủ lên 100 lần công suất tổng trong 3 giây.
Thiếu sót này chỉ có trong các lò phản ứng RBMK, có nghĩa là một vụ “Chernobyl khác”
không thể nào xảy ra.
Chất thải mức thấp như găng tay và quần áo cũ của công nhân làm việc tại nhà máy điện hạt nhân
được đặt trong một cái thùng trước khi mang đi đóng gói cất đi (hình bên trái), còn chất thải mức
trung bình như lớp bọc nhiên liệu được gói gọn trong bê tông (hình giữa). Chất thải mức cao, gồm
các sản phẩm phân hạch và các nguyên tố siêu uranium, được tráng men, đặt vào trong một cái hũ
thép không gỉ (hình bên phải), rồi chôn trong hầm mộ kĩ thuật.
© hiepkhachquay Cách nhìn mới về năng lượng hạt nhân | Trang 10/11
• Đa số các nhà máy này là lò phản ứng nước nhẹ, trong đó nước được sử
dụng vừa để làm lạnh lò phản ứng (từ đó trích lấy năng lượng làm quay
tuabin) vừa để điều tiết neutron giải phóng trong sự phân hạch.
• Tạo ra một lượng rất lớn năng lượng mà không phát sinh chất khí nhà
kính nào, điện hạt nhân có thể giữ một vai trò quan trọng trong cuộc
chiến chống lại sự ấm lên toàn cầu.
• Mặc dù bị ngăn trở bởi hình ảnh chất thải phóng xạ, nhưng điện hạt nhân
một lần nữa đã trở lại chương trình nghị sự của một số nước, trong đó có
Anh.
• Các thế hệ lò phản ứng hạt nhân kế tiếp sẽ an toàn hơn và có tính thương
mại hơn các mẫu hiện có và cũng sẽ tạo ra ít chất thải hơn.
Paul Norman (Physics World, tháng 7/2007)
hiepkhachquay dịch
(An Minh, ngày 07/07/2007, 11:02:35 AM)
© hiepkhachquay Cách nhìn mới về năng lượng hạt nhân | Trang 11/11
KIỂM TRA CÁC NGUYÊN TỐ CỦA BIG BANG
Kenneth Nollett
Phép đo lượng lithium trong vũ trụ cùng với dữ liệu chính xác từ bức xạ vi
ba nền vũ trụ đang thách thức sự hiểu biết của chúng ta về cả nền thiên văn vật lí
sao và có thể chính cả sự tổng hợp hạt nhân Big Bang, như Kenneth Nollett sẽ giải
thích sau đây.
Nitrogen và oxygen mà
chúng ta thở, carbon cấu thành
nên khoa hóa sinh học, và calcium
trong xương của chúng ta có
chung một đặc điểm: chúng đều
được tổng hợp bên trong các sao.
Thật vậy, điều tương tự đúng với
hầu như mọi nguyên tố hóa học
mà chúng ta gặp trong cuộc sống
hàng ngày, từ chất khí hiếm nhất
cho đến kim loại nặng nhất. Một
ngoại lệ lớn là hydrogen: hầu như
tất cả hạt nhân hydrogen là proton
phát sinh từ Big Bang chừng 14 tỉ
năm trước đây. Một ngoại lệ khác
là hạt nhân nhẹ như deuterium và
lithium, chúng được tạo ra trong
một quá trình gọi là tổng hợp hạt
nhân Big Bang xảy ra khi vũ trụ
chỉ mới vài phút tuổi. Thực tế
những nguyên tố này đã có từ khi
khai sinh ra thời gian chắc chắn là một trong những sự thật hấp dẫn nhất trong thiên
văn vật lí học.
Sự tổng hợp hạt nhân Big Bang (BBN) bắt đầu khi vũ trụ đủ lạnh sao cho
proton và neutron, chỉ mới vừa hình thành từ plasma nguyên thủy, có thể kết hợp
thành hạt nhân deuterium. Deuterium sau đó trải qua những phản ứng hạt nhân khác
nữa hình thành nên hạt nhân helium-4, mỗi hạt nhân chứa hai proton và hai neutron,
cùng với lượng nhỏ deuterium, helium-3 và lithium-7. Thật vậy, lúc kết thúc BBN
(một thời kì chừng vài phút), một phần tư vật chất bình thường trong vũ trụ đã
chuyển hóa thành helium-4, còn trong số còn lại chỉ có một phần rất nhỏ là
hydrogen.
Sự tổng hợp hạt nhân Big Bang xảy ra như thế nào ?
Sự tổng hợp hạt nhân Big Bang (BBN) là thành phần chủ yếu của mô hình Big Bang giải thích cách
thức hạt nhân nhẹ deuterium, helium-3, helium-4, và lithium-7 được tạo ra trong vài phút đầu tiên
của vũ trụ. Thuyết Big Bang phát biểu rằng vũ trụ bắt đầu từ khoảng 13,7 tỉ năm trước đây trong một
trạng thái rất nóng và đậm đặc đã và đang giãn nở ra và lạnh đi kể từ đó. Như thuyết tương đối rộng
Einstein mô tả, tốc độ giãn nở phụ thuộc vào lượng khối lượng và năng lượng mà vũ trụ có. Trước
khi BBN xảy ra – khi vũ trụ chưa tới một giây tuổi – vật chất và năng lượng tồn tại dưới dạng một
chất khí nóng, đậm đặc của các hạt cơ bản. Khi vũ trụ lạnh đi, các hạt có năng lượng giảm dần phân
bố trong vũ trụ sao cho lúc 1 giây chỉ có proton, neutron và những hạt nhẹ bền có mặt. Tương tác yếu
© hiepkhachquay 1
giữa cả proton và neutron với electron, positron, và neutrino nhẹ hơn nhiều, duy trì trạng thái cân
bằng nhiệt, ổn định số lượng tương đối của proton và neutron ở một giá trị nhất định. Sau đó, nhiệt
độ của chất khí giảm xuống còn khoảng 8 x 109 K, vì thế ngăn cản tương tác yếu xảy ra tiếp tục. Từ
lúc này trở đi, ở đó còn lại một neutron (n) đối với mỗi 6 proton (tức là hạt nhân hydrogen 1H).
Trong vài phút tiếp theo, hạt nhân hình thành. Hạt nhân deuterium (2H) tạo ra bởi sự va chạm giữa
proton với neutron, và những va chạm hạt nhân khác nữa dẫn đến mỗi neutron tóm lấy một proton
hình thành nên loại liên kết chặt chẽ nhất của hạt nhân nhẹ: 4He. Quá trình này hoàn thành sau
khoảng 5 phút, khi vũ trụ trở nên quá lạnh cho những phản ứng hạt nhân tiếp tục xảy ra. Lượng rất
nhỏ deuterium, helium-3, và beryllium-7 được tạo ra dưới dạng sản phẩm, với beryllium-7 trải qua
phân rã beta hình thành nên lithium-7. Hầu như tất cả proton không hợp nhất vào hạt nhân helium-4
còn lại dưới dạng các hạt tự do, và đây là lí do tại sao vũ trụ có gần 25% helium và 75% hydrogen
khối lượng ở mọi nơi mà chúng ta thấy. Hạt nhân khác ít dồi dào hơn đến vài bậc độ lớn.
Bằng cách đo cường độ vạch phổ nguyên tử ở những đối tượng thiên văn vật lí, các nhà thiên văn có
thể suy luận ra số hạt nhân thuộc một loại cho trước trên hạt nhân hydrogen. Sự dồi dào hạt nhân
này tạo ra trong BBN phụ thuộc vào mật độ vật chất (hoặc mật độ baryon) trong vài ba phút đầu tiên
đó, có thể liên quan trực tiếp với mật độ baryon mà chúng ta thấy ngày nay. Bất kì hiệu ứng nào làm
biến đổi sự tiến hóa nhiệt ban đầu của vũ trụ hoặc tương tác giữa các hạt nhân cũng sẽ để lại dấu vết
trong sự phong phú đó, nghĩa là BBN mang lại một sự khảo sát quan trọng của vũ trụ sơ khai.
Nếu chúng ta giả sử rằng chỉ có những hạt có trong Mô hình Chuẩn của vật lí hạt là có mặt trong
BBN, thì mật độ baryon đo được trong sứ mệnh WMAP của NASA (và được chứng thực bởi sự dư dật
deuterium) xác định thành phần hóa học ban đầu của vũ trụ chủ yếu là hydrogen, với gần 0,08
nguyên tử helium-4, 10-5 nguyên tử deuterium, 10-5 nguyên tử helium-3 và 10-10 nguyên tử lithium /
nguyên tử hydrogen, nhưng không có lượng nào khác có thể phát hiện được. Tất cả những nguyên tố
khác trong vũ trụ được tổng hợp muộn hơn nhiều bên trong các sao hoặc trong sự va chạm tia vũ trụ.
Vì lượng hạt nhân được tạo ra này phụ thuộc vào nhiệt độ và mật độ của vũ
trụ khi nó chỉ vài phút tuổi, nên chúng ta có thể nghiên cứu sự tiến hóa vũ trụ sơ
khai bằng cách đo sự dồi dào vật chất của nó ngày nay. Đặc biệt, mô hình BBN
mang lại một sự ước tính mật độ baryon trung bình của vũ trụ, đó là một thông số
cơ bản trong vũ trụ học. Chúng ta biết từ phép đo chuyển động của các thiên hà
rằng mật độ khối lượng tổng cộng của vũ trụ gấp 6 lần mật độ baryon mà BBN suy
© hiepkhachquay 2
ra, rõ ràng cho thấy đa số vật chất trong vũ trụ không cấu thành từ vật chất baryon
tính bình thường chứa proton và neutron mà từ một cái gì đó bí ẩn hơn gọi là vật
chất tối.
Sự không phù hợp như thế giữa BBN và thí nghiệm cũng có thể gợi ý những
quá trình vật lí mới có khả năng hoạt động trong lúc tổng hợp hạt nhân. Ví dụ, nếu
như những hạt cơ bản chưa bao giờ nhìn thấy trong phòng thí nghiệm có mặt trong
vũ trụ sơ khai, thì ảnh hưởng của chúng có thể thấy rõ trong sự phong phú nguyên
tố mà chúng ta thấy ngày nay. Vì những lí do này, BBN cần thiết cho nghiên cứu
cấu trúc tổng thể của vũ trụ, lịch sử của vật chất kể từ thời Big Bang, và mối quan
hệ gần gũi giữa vật lí hạt và vũ trụ học.
Bất chấp thành công của nó trong việc xác định mật độ baryon của vũ trụ và
trong việc giải thích độ dồi dào lớn của helium mà chúng ta quan sát thấy, BBN vẫn
phải đối mặt với những thách thức lớn. Những phép đo mới đây về bức xạ vi ba nền
vũ trụ, bức xạ cho thấy bộ mặt vũ trụ khi các nguyên tử hình thành khoảng 380.000
năm sau Big Bang, và về sự phân bố quy mô lớn của các thiên hà đã làm tăng thêm
nhiều độ chính xác của dữ liệu vũ trụ học. Trước nay, hình như sự phong phú
nguyên thủy quan sát thấy – nhất là sự phong phú của helium – không ăn khớp lắm
với lí thuyểt BBN. Mục tiêu bây giờ là mang BBN vào ăn khớp với độ chính xác
mới của vũ trụ học, và cải thiện sự hiểu biết của chúng ta về môi trường thiên văn
vật lí trong đó sự phong phú nguyên thủy quan sát
được.
© hiepkhachquay 3
đồng sự còn dự đoán sự tồn tại và nhiệt độ của bức xạ vi ba nền vũ trụ khi nhận thấy
một chất khí photon nóng sẽ có mặt trong BBN. Những photon đó, các nhà nghiên
cứu bàn cãi nghiêm túc, sẽ trải ra bởi sự giãn nở của không gian vào vùng vi sóng
của phổ điện từ ngày nay.
Phiên bản ban đầu này của BBN hầu như bao gồm đa số khía cạnh của lí
thuyết BBN hiện đại, ví dụ như vai trò của tương tác yếu và sự độc lập của sự
phong phú hạt nhân so với mật độ baryon. Tuy nhiên, là một mô hình giải thích
nguồn gốc của mọi nguyên tố, nên nó đi đến kết thúc vào đầu thập niên 1950 khi
các nhà nghiên cứu nhận ra rằng một phiên bản hoàn toàn ăn khớp của lí thuyết này
buộc phải sản sinh ra nhiều helium-4 chứ không phải nhiều thứ khác. Sau đó, năm
1957, nó bị chôn vùi mãi mãi, khi Alastair Cameron và Fred Hoyle, cùng với nhiều
người khác, chỉ ra rằng hầu như tất cả các nguyên tố hóa học, trong thực tế, được
tổng hợp bên trong các sao.
Tuy nhiên, năm 1964, Hoyle và Roger Tayler chỉ ra rằng BBN mang lại một
lời giải thích đơn giản hơn cho sự phong phú to lớn quan sát thấy của helium-4 so
với lời giải thích sao của Cameron và Hoyle, vì cách giải thích thứ hai ở trên yêu
cầu sự tồn tại một số lượng khổng lồ sao ngày nay đã tắt. Khi bức xạ vi ba nền vũ
trụ được khám phá ra một năm sau đó, thì lập tức rõ ràng là mô hình Big Bang là
chính xác và BBN do đó phải xảy ra trong điều kiện nóng bỏng của vài ba phút đầu
tiên. Jim Peebles, thuộc trường đại học Princeton ở Mĩ, trả lời khám phá này bằng
việc tiến hành tính toán “hiện đại” đầu tiên của BBN bằng cách sử dụng tốc độ phản
ứng hạt nhân khi đó được hiểu rõ hơn so với thời của Gamov. Mặc dù kiến thức của
chúng ta về những tốc độ này đã được cải thiện thêm một lần nữa kể từ đấy, nhưng
sự hiểu biết cơ bản của chúng ta về BBN vẫn tương tự.
Sức mạnh của BBN là một cánh cửa sổ mở vào vũ trụ sơ khai được nhận ra
trong thập niên 1970. Lúc đó, một vài nhà thiên văn vật lí, gồm Hubert Reeves tại
Viện Thiên văn vật lí Paris, và Johannes Geiss, nay làm việc tại Viện Khoa học
Không gian quốc tế ở Bern, nhận thấy rằng vì lượng deuterium sinh ra trong BBN
phụ thuộc mạnh vào mật độ baryon trung bình của vũ trụ, nên chúng ta có thể tìm
hiểu đôi điều về vũ trụ ở quy mô lớn nhất bằng cách đo lượng deuterium dễ dàng
thực hiện được. Trong vài năm, một số phép đo lượng deuterium trong thiên hà của
chúng ta đã thiết đặt một giới hạn trên lên mật độ baryon là khoảng chừng
4 × 10–31 g cm–3.
Sau đó, năm 1977, Gary Steigman, nay ở trường đại học bang Ohio, James
Gunn, nay ở trường đại học Princeton, và sau đó là David Schramm thuộc trường
đại học Chicago, đã chỉ ra rằng BBN có thể buộc một số loại neutrino khác nhau tồn
tại trong tự nhiên (ngày nay chúng ta biết là có ba loại neutrino: neutrino electron,
muon và tau). Mỗi loại neutrino phát sinh, họ tranh luận, sẽ làm tăng mật độ của vũ
trụ sơ khai và làm cho nó giãn nở nhanh hơn, do đó làm thay đổi động lực học thiết
đặt tỉ số neutron trên proton vào lúc bắt đầu của BBN ủng hộ nhiều neutron hơn.
Đổi lại, việc này sẽ đưa đến nhiều helium-4 hơn. Vào lúc mà những phép đo trong
phòng thí nghiệm đề xuất rằng có thể có hàng ngàn loại neutrino (mặc dù đa số nhà
vật lí hạt không tin rằng có nhiều hạt này như vậy), Steigman và các cộng sự có thể
khẳng định rằng không có hơn bốn loại neutrino. Đây là thành công cơ bản cho lí
thuyết BBN và góp phần làm tăng thêm nhận thức về mối quan hệ gần gũi giữa vật
© hiepkhachquay 4
lí hạt và vũ trụ học – thậm chí nhiều nhà vật lí hạt xem nó đơn thuần là bằng chứng
cho sự cả gan của các nhà vũ trụ học !
Năm 1982, các nhà thiên văn vật lí học thu được những ước tính tốt về sự
phong phú helium-4 nguyên thủy, cũng như giới hạn về sự phong phú của helium-3
và deuterium. Khi đó, François và Monique Spite, tại Đài quan sát Paris, phát hiện
thấy những ngôi sao già nhất định trong thiên hà của chúng ta có lớp bao đối lưu rất
mỏng – vùng quay tròn nhanh chóng của một ngôi sao trong đó vật chất trộn đều
với nhau – đều chứa hầu như cùng lượng lithium-7. Vì những phép đo quang phổ
học cho thấy những ngôi sao trong “trạng thái bình ổn Spite” này chỉ chứa một
lượng rất nhỏ hạt nhân tổng hợp trong những ngôi sao tồn tại trước đó, nên những
ngôi sao đó phải hình thành bên ngoài chất khí không hoàn toàn nguyên thủy. Điều
này có nghĩa là số lượng lithium-7 trong các sao trạng thái bình ổn Spite có thể hiểu
là số lượng lithium-7 tổng hợp trong BBN.
Để kiểm tra xem sự tổng hợp hạt nhân Big Bang (BBN) có là sự mô tả chính xác của vũ trụ sơ khai hay
không, chúng ta cần phải đo xem có bao nhiêu nguyên tố đó có mặt trong mẫu mà chúng ta có thể quan sát
thấy ngày nay. Các nhà thiên văn xác định sự phong phú tương đối của các nguyên tố trong một vật thể ở xa
bằng cách quan sát lượng ánh sáng phát xạ hoặc hấp thụ ở một bước sóng nhất định tương ứng với các vạch
phổ nguyên tử. Để làm như vậy, cần phải tìm cả một vị trí trong đó thành phần chất khí không thay đổi nhiều
kể từ BBN và nơi trong đó những điều kiện vật lí thích hợp cho sự hình thành những vạch phổ có thể quan
sát được. Điều kiện thứ hai này, kết hợp với tính chất vật lí nguyên tử khác đi cùng với từng nguyên tố, có
nghĩa là không thể có hai sự phong phú nguyên thủy có thể đo được một cách chính xác bằng cùng một vật
thể. Ví dụ, helium được đo bằng cách tìm kiếm ánh sáng phát ra từ “những thiên hà rắn chắc màu xanh” nhỏ
và không đều, còn lượng lithium thì được suy ra từ những vật thể rất già trong thiên hà của chúng ta gọi là
các sao “trạng thái bình ổn Spite”, chúng hình thành từ chất khí không hoàn toàn nguyên thủy. Mặt khác,
lượng deuterium được xác định bằng cách khảo sát xem ánh sáng phát ra từ những quasar ở xa bị hấp thụ
như thế nào bởi những đám mây khuếch tán trong hướng nhìn của chúng ta.
Những phép đo sự phong phú nguyên tố nhẹ tiếp tục thu được tiến bộ, và
năm 2000 chúng ngụ ý một mật độ baryon trung bình là 2 × 10–31 g cm–3, tức là
giảm đi ba lần. Mặt khác, đây là trường hợp đáng chú ý của dữ liệu gồm nhiều loại
khác nhau và khó thu được đều hội tụ về một số giá trị. Mặt khác, các vạch sai số
chính thức phản ánh những nguồn không xác định đã biết trở nên nhỏ đến nỗi các
điểm dữ liệu không còn ăn khớp với nhau về mặt kĩ thuật. Trong khi thật dễ hình
© hiepkhachquay 5
dung những sai số hệ thống khác có thể mang các kết quả lại gần nhau hơn, do kĩ
thuật quan sát hoặc do ảnh hưởng có liên quan tới lịch sử vật chất đang được quan
sát, nên việc định lượng chúng khó khăn hơn nhiều.
Phép đo deuterium trong vùng tập trung chất khí ở xa nằm giữa chúng ta và
các quasar còn xa hơn nữa nghiêng về một mật độ baryon trung bình khoảng
4 × 10–31 g cm–3, trong khi cách hiểu đơn giản nhất của trạng thái bình ổn lithium và
một số dữ liệu helium-4 nghiêng về giá trị 1 × 10–31 g cm–3. Như đối với sự phong
phú nguyên thủy của helium-3, lịch sử hậu BBN của những hạt nhân này quá bất
định để có thể kiềm chế mật độ baryon trung bình. Sự không phù hợp này thúc đẩy
một chương trình nghiên cứu sôi nổi bởi vài nhóm trong một nỗ lực nhằm cải thiện
các phép đo và giải quyết những bất đồng còn lại. Tuy nhiên, trong thời gian thực,
dữ liệu vũ trụ học chính xác bắt đầu khiến BBN chạy đua tìm nguồn tài chính của
nó.
© hiepkhachquay 6
Mô hình tổng hợp hạt nhân Big Bang cho phép mật độ baryon toàn phần của vũ trụ tính được cho
từng nguyên tố nhẹ: deuterium, helium-3, helium-4, và lithium-7 (đường màu xanh). Bằng cách đo
sự phong phú này ngày nay (trong khung màu đỏ), các nhà thiên văn có thể nghiên cứu những sự
kiện xảy ra khi vũ trụ chỉ vài phút tuổi. Từ thập niên 1990, sự phong phú helium-4 do các nhóm
độc lập đo được không phù hợp với nhau (trên cùng), có khả năng cho thấy sai số trong những
phép đo này là không đúng mức (đường đứt nét). Sự phong phú deuterium đo được ở tám vị trí
khác nhau cũng không phù hợp với một số vùng (ở chính giữa), còn những phép đo sự phong phú
helium-3 nguyên thủy quá khó để kiềm chế mật độ baryon. Sự phong phú lithium đo được đưa đến
mật độ baryon mâu thuẫn với sự xác định độc lập thu được từ dữ liệu WMAP (dải thẳng đứng),
mặc dù sự chênh lệch có thể tăng do một số quá trình thiên văn vật lí chưa biết rõ.
Có sự không nhất quán tương tự giữa lí thuyết BBN và sự phong phú helium
nguyên thủy. Không giống như sự phong phú deuterium, lượng helium-4 sinh ra
trong mô hình BBN tăng rất chậm theo một hàm của mật độ baryon trung bình của
vũ trụ, nghĩa là nó phải được đo với độ chính xác vài phần trăm có ích cho nghiên
cứu BBN. Để làm như vậy, các nhà thiên văn nghiên cứu độ sáng của những vạch
phổ nhất định phát ra bởi các nguyên tử trong plasma trong một thiên hà ở xa, từ đó
họ có thể nhận được một bộ thông số phù hợp đặc trưng cho plasma. Các nhóm
nghiên cứu khác có xu hướng sử dụng các bộ vạch hơi khác để xác định những
© hiepkhachquay 7
thông số này và họ nghiên cứu dữ liệu theo những cách khác nhau. Có phần hơi bối
rối, các nhóm nghiên cứu khác nhau đã thu được những kết quả mâu thuẫn nhau.
Vào thập niên 1990, sự khác biệt lớn nhất giữa kết quả của Yuri Izotov ở
Viện Khoa học Ukraine và Trinh Thuan ở trường đại học Virginia, Mĩ (ô lớn hơn,
phía bên phải, trong hình trên) và một bộ dữ liệu lớn hơn do Steigman cùng với
Keith Olive và Evan Skillman ở trường đại học Minnesote biên soạn dựa trên những
quan sát sớm hơn (hộp phía bên trái). Tuy nhiên, hình như là sai số của cả hai cách
tiếp cận đều không đúng mức và sự không nhất quán nằm ở đâu đó trong một danh
sách hiệu chỉnh nhỏ như có bao nhiêu ánh sáng bị tán xạ bởi bụi giữa chúng ta và
plasma. Do đó, phạm vi cho phép của sự phong phú helium-4 có khả năng mở rộng
kết quả của cả hai nhóm nghiên cứu (hộp chấm chấm trong hình trên). Một lần nữa,
yêu cầu có những quan sát chính xác hơn, hoặc chúng ta cần có một sự thay đổi cơ
bản phương pháp tìm giải pháp mà với nó mọi người có thể đồng ý.
Mật độ baryon trung bình của vũ trụ có thể suy ra từ những dao động nhiệt độ
trong nền vi ba vũ trụ như đã đo được gần đây bởi sứ mệnh WMAP.
Ngày nay, bí ẩn lớn nhất của BBN là lithium. Đối với mật độ baryon do
WMAP mang lại, BBN tiên đoán có 4.7 × 10–10 nguyên tử lithium-7 trên mỗi
nguyên tử hydrogen, còn các sao ở trạng thái bình ổn Spite chỉ chứa khoảng
1.4 × 10–10. Một số cách giải thích cho sự không thống nhất này đã được đề xuất,
nhưng không ai biết câu trả lời đúng. Hoặc là một số quá trình vật lí quan trọng còn
thiếu trong lí thuyết BBN, hoặc là một số cơ chế thiên văn vật lí đã phá hủy lượng
lớn lithium-7 sau BBN, hoặc là có một cái gì đó sai lầm đối với cách hiểu của chúng
ta về quang phổ sao.
Vấn đề lithium
Để giải quyết sự không khớp lithium, một số nhà vật lí hướng sự chú ý của
họ sang những mô hình BBN sáp nhập những ý tưởng kì lạ từ vật lí hạt. Nhiều lí
thuyết tìm cách thống nhất các lực cơ bản trong tự nhiên – phổ biến nhất là dựa trên
siêu đối xứng hoặc trên những mô hình có chiều không-thời gian thêm vào – tiên
đoán sự tồn tại của những hạt nặng đến nay chưa được nhìn thấy trong phòng thí
nghiệm. Nếu như những hạt này không bền và bị phân rã trong vòng 1 năm sau
BBN, chúng có thể tạo ra những ảnh hưởng lớn lên sự phong phú hạt nhân bằng
cách cung cấp neutron, proton và năng lượng cho một chu trình tổng hợp hạt nhân
thứ hai liên quan tới những tương tác khác ở năng lượng cao hơn nhiều.
© hiepkhachquay 8
Trong một ví dụ, hồi năm ngoái, Jonathan Feng tại trường đại học California
ở Irvine và các cộng sự đã đề xuất một mô hình như thế, nhờ đó các hạt siêu đối
xứng “bình thường” như neutralino (người anh em siêu đối xứng của các hạt mang
lực như photon và boson Z) phân rã để hình thành nên các hạt gọi là siêu WIMP,
chúng có thể cấu thành nên vật chất tối ngày nay. Nhưng nhiều dao động cũng có
khả năng lâu như các sản phẩm phân rã, gồm proton, neutron và photon. Các hạt
năng lượng tính tạo ra trong những phân hủy hạt nặng tương tác với hạt nhân BBN
hình thành trước đó hàng tháng. Theo cách này, những hạt có khối lượng và tính
chất phân rã thích hợp có thể phân hủy hai phần ba beryllium-7 tạo ra tức thời trong
BBN, và vì hạt nhân beryllium-7 phân hủy sau BBN để hình thành nên lithium-7
nguyên thủy, nên đề xuất của Feng có thể mang lại một giải pháp rõ ràng cho sự
thâm hụt lithium.
Niềm hi vọng dưới những mô hình vật lí hạt kì lạ như thế là vấn đề lithium
có thể cung cấp manh mối đầu tiên của một số nền vật lí cơ bản mới. Nghiên cứu
BBN khi đó có thể dẫn dắt các thí nghiệm máy gia tốc như tại Máy Va chạm
Hadron Lớn sắp khai trương ở phòng thí nghiệm vật lí hạt CERN. Thật đáng tiếc,
BBN không cung cấp đủ thông tin để tiến hành việc này dứt khoát, chứ không phải
vạch ra xem cái gì là có thể và không thể. Thật vậy, đa số các nhà nghiên cứu trong
lĩnh vực sự phong phú nguyên tố nhẹ sẽ có khả năng nghiêng về những giải pháp
trần tục hơn cho vấn đề lithium, cho dù là những giải pháp như thế kém hấp dẫn
hơn đối với các nhà vật lí hạt.
© hiepkhachquay 9
Nhưng làm sao lithium trên mặt sao có thể trộn lẫn từ vùng trên mặt vào
phần bên trong sao ? Một vài cơ chế đã biết có thể có khả năng trộn các phần đối
lưu và không đối lưu của ngôi sao, nhưng thật khó mà tính được tốc độ của những
quá trình này từ những nguyên lí đầu tiên. Ràng buộc nghiêm ngặt nhất lên mô hình
trộn lẫn là nó phải duy trì cụm dày đặc các sao bình ổn quan sát thấy có cùng độ
phong phú lithium-7 trung bình.
Để đo lượng lithium tạo ra trong quá trình tổng hợp hạt nhân Big Bang (BBN), các nhà nghiên cứu nhìn vào
những ngôi sao rất già, nguyên thủy về phương diện hóa học, hình thành từ đám khí hầu như nguyên thủy.
Tuy nhiên, lượng lithium trong các sao “bình ổn Spite” này (màu xanh) nhỏ hơn nhiều so với suy luận từ
việc kết hợp BBN với phép đo nền vi ba vũ trụ thực hiện bằng WMAP (dải màu vàng). Sự không ăn khớp này
đã thúc đẩy một số nhà nghiên cứu đặt ra nghi vấn liệu sự hiểu biết của chúng ta về nền thiên văn vật lí sao
có thể nào là không đúng không. Ví dụ, một đề xuất đề nghị rằng một số lithium-7 đã bị phân hủy do quá
trình trộn lẫn hoặc khuếch tán. Các sao bình ổn Spite đó có nhiệt độ bề mặt từ 5700 đến 6400 K có độ phong
phú lithium đều nhau vì lớp đối lưu nông cạn của những ngôi sao ấm áp này không xuyên sâu đến nơi nhiệt
độ vượt quá cho lithium-7 phân hủy (Tphânhủy = 2.5 × 106 K). Lớp vỏ của những ngôi sao lạnh hơn (các điểm
dữ liệu nằm về bên trái của đồ thị) không trải ra sâu như thế, nên bề mặt của chúng mất lithium cho phản
ứng hạt nhân. Nếu những ngôi sao ấm áp đó từ từ lưu chuyển lithium từ lớp đối lưu đến những nơi sâu T >
Tphânhủy, thì bề mặt của chúng cũng có thể dần dần mất lithium.
© hiepkhachquay 10
Trong loạt bài báo công bố từ năm 2002 đến 2004, Olivier Richard và các
cộng tác viên tại trường đại học Montreal ở Canada đã đề xuất một mô hình trộn lẫn
như thế thu được sự ủng hộ bằng quan sát. Nó cho rằng mọi hạt nhân nặng hơn
hydrogen đều di chuyển rất chậm ra khỏi lớp đối lưu dưới tác dụng hấp dẫn. Đặc
biệt, mô hình thực hiện những tiên đoán nhất định cho sự lắng xuống khi ngôi sao
tiến hóa, nó cho thấy sự dao động thành phần của bề mặt là một hàm của khối lượng
trong những ngôi sao hình thành cùng lúc.
Mùa xuân năm 2006, Andreas Korn thuộc trường đại học Uppsala, Thụy
Điển, và các đồng sự đã sử dụng Kính Thiên văn Rất lớn (VLT) của Đài quan sát
nam châu Âu ở Chilê nghiên cứu 18 sao nguyên thủy về phương diện hóa học trong
một cụm thiên hà ở xa tên là NGC 6397 được biết là có cùng tuổi và thành phần ban
đầu. Từ đó, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng sự phong phú sắt và lithium trong những
ngôi sao này đều thay đổi theo khối lượng sao như mô hình của Richard tiên đoán.
Thật ra, mô hình đó cho thấy rằng những ngôi sao đó bắt đầu với sự phong phú
lithium phù hợp với dữ liệu WMAP. Sự chứng thực của những kết quả này là cần
thiết, bởi vì nếu như kết quả đó trụ vững với sự khảo sát dựa trên quy mô dữ liệu
rộng, thì chúng ta đã giải được bài toán lithium.
© hiepkhachquay 11
Kính thiên văn Sabaru Nhật Bản, cả hai đều nằm ở Hawaii. Mặc dù những quan sát
như thế là đúng ở giới hạn của cái có thể thu được với những thiết bị này, nhưng tỉ
lệ có thể rất lớn: nếu như kết quả lithium-6 trụ vững, thì chúng ta cần một sự xem
xét lại rộng rãi về những cái mà chúng ta nghĩ là chúng ta biết về những ngôi sao,
tia vũ trụ, và BBN.
© hiepkhachquay 12
chủ yếu cấu thành từ vật chất “tối” chứ không phải các proton và neutron bình
thường.
Là thành phần chính yếu của mô hình Big Bang nóng, BBN có thể được kiểm tra bằng
cách đo sự phong phú của những hạt nhân nhẹ nhất định có mặt trong vật chất vũ trụ
rất già.
Những phép đo sự phong phú hạt nhân nhẹ hiện nay mang lại những giá trị mâu thuẫn
nhau cho mật độ baryon của vũ trụ, nhất là với lithium đang thách thức sự hiểu biết
của chúng ta về các sao trong đó nó được tìm thấy và cả chính bản thân lí thuyết BBN.
Những phép đo chính xác nền vi ba vũ trụ mang lại một số đo độc lập của mật độ
baryon, và cho phép kiểm tra chặt chẽ hơn mô hình Big Bang.
Kenneth Nollett (Phòng thí nghiệm quốc gia Argonne, Hoa Kì
Tạp chí Physics World, tháng 8/2007)
hiepkhachquay dịch
(An Minh, ngày 10/08/2007, 5:45:52 PM)
© hiepkhachquay 13
Lí thuyết dây – 40 năm, một hành trình dài
Matthew Chalmers
Trong lịch sử gần 40 năm của mình, lí thuyết dây đã tiến triển từ lí thuyết
hadron tới lí thuyết của tất cả, cho đến có khả năng là một lí thuyết của chẳng cái
gì cả. Thật vậy, lí thuyết dây hiện đại không còn là lí thuyết dây nữa, mà là một
trong các đối tượng có nhiều chiều hơn gọi là các brane. Matthew Chalmers thử gỡ
rối cơ cấu lí thuyết bao la gọi là lí thuyết dây, và hé mở ra một thế giới của những ý
tưởng mang tính thiên hướng riêng, những thành công xác thực và những thách
thức làm nản lòng người – đa số chúng, có lẽ thật ngạc nhiên, lại bắt rễ từ dữ liệu
thực nghiệm.
Các vấn đề như làm sao làm lạnh một vòng nam châm siêu dẫn chu vi 27 km,
nặng 37 000 tấn xuống tới nhiệt độ 1,9 K bằng cách tải trao đổi helium lỏng không
phải là loại đối tượng mà các nhà vật lí lí thuyết thường cảm thấy thích thú. Do đó,
có lẽ thật là ngạc nhiên khi biết rằng các nhà lí thuyết dây – mới nổi tiếng vào thời
gian gần đây vì niềm tin của họ vào một lí thuyết được cho là không có liên quan gì
tới thực tế - đã bắt đầu khởi động hội nghị chính của họ trong năm nay –
Strings07 – với một bản cập nhật về những tiến bộ mới nhất được thực hiện tại Máy
Va chạm Hadron Lớn (LHC) tại CERN, cỗ máy sẽ đi vào hoạt động vào tháng 5 tới.
Tuy nhỏ, nhưng khả năng bằng chứng cho lí thuyết dây có thể xuất hiện
trong các va chạm proton-proton 14 TeV của LHC nổi bật lên trong số các thảo luận
tại cuộc hội nghị kéo dài 5 ngày đó, tổ chức ở Madrid vào cuối tháng 6 vừa qua.
Thật ra, các trao đổi rải rác với ngôn ngữ của các dữ liệu thế giới thực, các hạt và
các trường – nhất là mối quan hệ với vũ trụ học. Phải công nhận là các nhà lí thuyết
dây đã chôn vùi đi những khái niệm có tính xác thực hơn này trong mớ quy tắc toán
học nhiều chiều chỉ có những người đặc biệt quan tâm mới hiểu nổi, trong đó ẩn
chứa các thứ như “brane GUT”, “con nòng nọc”, “cổ biến dạng”. Tuy nhiên,
Strings07 hiển nhiên là một sự kiện vật lí, và không phải là sự kiện dành cho toán
học, triết học, hay có lẽ là cả thần học.
Nhưng không phải ai cũng tin rằng lí thuyết dây là vật lí thuần túy và đơn
giản. Đã có hai thập kỉ được miêu tả sinh động như một “lí thuyết của tất cả” thanh
lịch, tao nhã, mang lại một lí thuyết lượng tử của hấp dẫn và thống nhất bốn lực của
tự nhiên, lí thuyết dây đã bị đánh một cú mạnh hồi năm ngoái. Đa số sự phê bình
này có thể lần theo việc xuất bản hai cuốn sách: The Trouble With Physics của Lee
Smolin thuộc Viện Đo lường ở Canada, và Not Even Wrong của Peter Woit thuộc
đại học Columbia ở Mĩ, cho rằng lí thuyết dây, trong số những thứ khác, không
mang lại bất cứ tiên đoán nào có thể kiểm tra được. Điều này mang lại cho các nhà
biên tập báo và tạp chí một lưỡi mác sắc bén cho một số cuộc tranh luận sôi nổi, và
một số nhà phê bình sách thậm chí còn đi xa tới chỗ cho rằng lí thuyết dây không có
tính khoa học gì hơn lí thuyết sáng tạo linh hồn (xem Physics World, số tháng 2,
trang 38 – 39).
Một số phê bình đó có thể thông cảm được. Đối với đa số mọi người, bao
gồm cả nhiều nhà vật lí, lí thuyết dây không có vẻ cho chúng ta biết bất cứ thứ gì
mới về thế giới thật sự hoạt động ra làm sao mặc dù đã qua gần 40 năm tìm kiếm.
“Thật là buồn, tôi không thể tưởng tượng ra một kết quả thực nghiệm đơn giản nào
làm thỏa mãn lí thuyết dây”, Sheldon Glashow thuộc đại học Harvard nói. Ông là
Các chiều ẩn giấu. Các va chạm năng lượng cao tại Máy Va chạm Hadron Lớn ở CERN có thể đủ
để kích thích các họa âm của dây cơ bản, chúng sẽ xuất hiện dưới dạng những hạt mới, chẳng hạn,
trong cỗ máy dò tìm ATLAS.
Một trong số vài vấn đề đi cùng với mô hình dây hadron tính ban đầu là sự
tồn tại của các hạt “spin-2” không có khối lượng, chúng sẽ xuất hiện ở mọi nơi
trong các thí nghiệm. Những hạt này tương ứng với các dao động của các dây nối
với nhau ở hai đầu, trái với các dây “mở” họa ba của chúng mô tả các hadron khác
nhau. Nhưng vào năm 1974, John Schwarz thuộc Viện Công nghệ California và
những người khác (xem bảng ở trang 8) chỉ ra rằng các vòng dây khép kín này có
những tính chất đúng như graviton: hạt spin-2 giả định nảy sinh khi bạn cố gắng
Bí ẩn đẹp. Các hệ căn phức tạp của nhóm đối xứng E8, chúng quan trọng trong
lí thuyết dây ưu thế lai, cư trú trong 8 chiều (ở đây vẽ 12 chiều).
Các đối ngẫu giữa năm lí thuyết dây khác nhau xuất hiện vào năm 1995
trong “cuộc cách mạng siêu dây lần thứ hai”, và hé mở ra rằng các dây nhận biết
không-thời gian khác với các hạt chất điểm. Ví dụ, một vòng tròn bán kính R trong
các chiều thêm vào của lí thuyết loại IIA là tương đương với một vòng tròn bán
kính 1/R trong lí thuyết loại IIB dưới “đối ngẫu T”, còn “đối ngẫu S” liên hệ một
hằng số ghép đôi mạnh trong lí thuyết loại I với một hằng số yếu trong lí thuyết lai
SO(32) – trong đó có thể sử dụng lí thuyết xáo trộn. Ngoài việc làm cho những
phép toán nhất định trong lí thuyết dây dễ kiểm soát, các đối ngẫu như thế này cho
phép Witten phỏng chừng lí thuyết dây có một cách trình bày độc nhất vô nhị nhưng
nền tảng không rõ ràng 11 chiều mà ông gọi là “lí thuyết M’.
Kết quả của Witten, được ông nêu lên tại hội nghị Strings95 ở trường đại học
Nam California, dẫn tới một loạt tiến bộ trong việc tìm hiểu phần “không xáo trộn”
của lí thuyết dây – tức là các tình huống trong đó các nỗ lực lấy gần đúng lí thuyết
đó dạng một chuỗi giản đồ Feynman tăng dần thất bại. Các ảnh hưởng phi xáo trộn
quan trọng trong việc thu được lí thuyết trường lượng tử nhằm mô tả thế giới thực tế,
nhất là trong trường hợp QCD. Đấy là do lí thuyết xáo trộn chỉ áp dụng cho từng
tương tác quark cơ bản, riêng lẻ, trong đó lực mạnh tương đối yếu, và không áp
dụng cho các hệ lớn hơn ví dụ như các proton và hadron khác.
Trong trường hợp lí thuyết dây, các ảnh hưởng phi xáo trộn giữ vai trò quan
trọng để giải thích tại sao siêu đối xứng “bị phá vỡ” ở các mức năng lượng thấp có
Bóp méo cơ cấu của không-thời gian. Sáu chiều thêm vào trong lí thuyết dây luôn luôn “bị khép
kín” trong các không gian 6 chiều gọi là các đa diện Calabi-Yau, 1 mỗi cách khác nhau trong đó
điều này được thực hiện mô tả một vũ trụ với một tập hợp các hạt và trường khác nhau.
Phép kiểm tra trực tiếp nhất về các chiều thêm vào như thế là đo độ lệch khỏi
quy luật nghịch đảo bình phương của lực hấp dẫn, vì đây là một hệ quả trực tiếp của
thực tế không gian là 3 chiều (trong thế giới 2 chiều chẳng hạn, lực hấp dẫn chỉ đơn
giản tỉ lệ nghịch với khoảng cách). Thật ra, sự bất lực của chúng ta trong việc xác
nhận bằng thực nghiệm quy luật nghịch đảo bình phương ở dưới quy mô khoảng 0,1
mm là lí do duy nhất giải thích tại sao các kịch bản thế giới brane lại được thu nhận
trong trường hợp thứ nhất (xem Physics World, số tháng 4/2005, trang 41-45).
Nhưng cho dù là các chiều thêm vào nhỏ hơn 100 triệu lần so với 0,1 mm,
theo Green thì như thế vẫn là còn “lớn một cách lố bịch”, thì nó sẽ đưa đến năng
Đối ngẫu AdS/CFT thật sự đã gặp thời vào năm 1995 khi nó là nguyên nhân
làm cho lí thuyết dây được đề cập đến trong ngữ cảnh của một kết quả thực nghiệm
quan trọng. Nguyên do là nó cho phép các nhà nghiên cứu tại Máy Va chạm Ion
nặng Tương đối tính (RHIC), ở Phòng thí nghiệm quốc gia Brookhaven, Mĩ, lập mô
hình các khía cạnh nhất định của plasma quark-gluon – một trạng thái thái cực của
vật chất trong đó các quark hành xử như thể chúng là các hạt tự do. Ở tình trạng
ngăn cách lớn như thế, lực mạnh trở nên không thể nào kiểm soát được theo phép
phân tích, có nghĩa là lí thuyết dây có thể giúp làm lộ ra chỗ QCD nhiễu loạn thất
bại. Susskind nói khi nghiên cứu các va chạm ion nặng, bạn cũng đang nghiên cứu
sự hấp dẫn lượng tử “phồng lên và xẹp xuống 1020 lần”.
Dam Son ở trường đại học Washington, người không phải là một nhà lí
thuyết dây, đã chứng kiến lợi ích của đối ngẫu AdS/CFT tại RHIC. “Lí thuyết dây
đã cho chúng ta những công cụ mới nhằm xử lí những lí thuyết chuẩn ghép nối
mạnh sẽ có triển vọng áp dụng được cho QCD thực tại RHIC”, ông nói. “Đối ngẫu
chuẩn/hấp dẫn cho phép chúng ta ước tính giới hạn lượng tử trên mức độ hoàn hảo
mà plasma quark-gluon có thể đạt tới, và từ trước đến nay giới hạn này phù hợp với
dữ liệu [xem Physics World, tháng 6/2005, trang 23-24]. Hơn nữa, một vài nhóm
nghiên cứu mới đây đã áp dụng lí thuyết dây cho sự thất thoát năng lượng của các
quark nặng di chuyển trong plasma, với kết quả đáng khích lệ”.
Đa số các nhà lí thuyết dây nghĩ rằng các đối ngẫu giữa lí thuyết dây và các
lí thuyết chuẩn là quá mạnh nên chỉ có một khoảng thời gian trước khi “đối ngẫu”
hấp dẫn của QCD thế giới thực được thực hiện. “Lí thuyết dây sẽ không ở vào hiện
trạng hiện nay của nó nếu như không có các đối ngẫu như Maldacena phỏng đoán,
trong đó ông chỉ rõ rằng các dây là những thực thể nổi bật và điểm bắt đầu của lí
thuyết đó không như trước nay người ta vẫn nghĩ”, Polchinski nói. “Việc áp dụng
thành công AdS/CFT cho nền vật lí RHIC thật ngạc nhiên vì ban đầu chúng ta nghĩ
nó không gì hơn ngoài một sự tương tự trừu tượng”. Một trong những khuynh
hướng vui vẻ hơn trong lĩnh vực này, Polchinski tiếp tục, là việc áp dụng các đối
ngẫu AdS/CFT cho những vấn đề trong nền vật lí vật chất hóa đặc, một số trong
chúng bắt nguồn trong những lí thuyết trường lượng tử 2 chiều không có giới hạn
cổ điển nào. “Tôi vẫn giữ hi vọng rằng có lẽ trước khi đạt tới phương trình cơ bản
của lí thuyết dây, chúng ta phải giải quyết cho xong bài toán siêu dẫn nhiệt độ cao!”,
ông bông đùa.
Sự hóm hỉnh của Polchinski không được chia sẻ bởi nhà vật lí vật chất hóa
đặc Philip Anderson thuộc trường đại học Princeton, người cùng chia giải thường
Nobel Vật lí năm 1977 cho công trình của ông về cấu trúc điện tử trong các hệ từ
tính và mất trật tự. “Thứ cuối cùng mà chúng ta cần là các nhà lí thuyết dây”, ông
nói. “Thứ gì ngoài ấy cũng quá cường điệu. Siêu dẫn là một khoa học thực nghiệm,
và đa số các nhà lí thuyết dây không có ý tưởng làm sao hiểu được một thí nghiệm
vì họ chưa bao giờ nhìn thấy một lần nào!”.
Thông tin trên brane. Với tư cách là một lí thuyết lượng tử của hấp dẫn, lí thuyết dây đã cho các
nhà vật lí một sự hiểu biết tốt hơn về những tính chất nhiệt động lực học của
các lỗ đen ở thang vi mô.
Vấn đề chung là làm sao đi từ sự đối xứng tự nhiên của lí thuyết dây trong 10
chiều đến thế giới bất đối xứng lộn xộn của vật lí hạt trong 4 chiều mà không làm
mất quá nhiều lũy thừa hàm mũ – một vấn đề mà Witten và những người khác (xem
bảng ở trang 8) đã giải quyết một phần vào năm 1985 bằng cách sử dụng các không
gian 6 chiều gọi là các mặt Calabi-Yau.
Vấn đề này làm bùng nổ một số lượng lớn các nỗ lực xây dựng mô hình, vì
“các lí thuyết hiệu quả” 4 chiều thu được khi những không gian 6 chiều như thế bị
khép kín bắt giữ nhiều đặc trưng quan trọng của Mô hình Chuẩn. “Trong quá khứ,
nhiều nhà lí thuyết dây chính thống tin rằng, theo quan điểm của tôi là có chút ngây
Phân nhánh. Các “đối ngẫu” mạnh giữa lí thuyết dây và lí thuyết trường lượng tử cho phép các
nhà nghiên cứu lập mô hình những mặt nhất định của các va chạm ion nặng tại Máy Va chạm Ion
nặng Tương đối tính ở Brookhaven.
Tuy nhiên, kịch bản KKLT làm cho việc xây dựng các mô hình vũ trụ học là
một phương pháp hứa hẹn liên hệ lí thuyết dây với thực nghiệm trong những năm
sắp tới. “Cơ sở của lí thuyết dây không thể kiểm tra được trong các máy gia tốc
năng lượng cao, nên vũ trụ sơ khai là phòng thí nghiệm duy nhất mà chúng ta có để
nghiên cứu các năng lượng thích đáng”, Kallosh nói. Kỉ nguyên vũ trụ học ở trong
nghi vấn là sự lạm phát – một thời kì dãn nở theo hàm mũ xảy ra 10-35 giây sau Big
Bang và giải thích tại sao vũ trụ lại phẳng ở những quy mô lớn nhất. Lí thuyết dây
phải, với tư cách là một lí thuyết cơ bản, có khả năng giải thích nguyên nhân vi mô
của sự lạm phát đó, gọi là trường vô hướng hay “inflaton” được giả định đã điều
khiển sự dãn nở to lớn.
Năm 1999, Gia Dvali ở đại học Harvard và Henry Tye ở đại học Cornell
nhận ra rằng một D-brane ở trạng thái liền kề với một phản D-brane có thể thực
hiện điều này tốt hơn, với sự phân cách giữa các D-brane mang lại trường inflaton
và sự lạm phát đi đến kết thúc khi các brane cuối cùng va chạm nhau. Nếu như thế
nghe có vẻ lạ lùng, thì Paul Steinhardt ở đại học Princeton và Neil Turok ở đại học
Cambridge đã mở rộng những ý tưởng như thế trong một nỗ lực xử lí sự tiến hóa vũ
Phân bố địa hình lí thuyết dây. Mô hình vũ trụ học lạm phát tiên đoán các dao động trong trường
inflaton (chiều cao của các nhánh) dẫn tới một “đa vũ trụ” của các vũ trụ khác nhau.
Vấn đề chủ yếu trong lí thuyết dây là sự thiếu hiểu biết của
chúng ta về các kì dị vũ trụ, ví dụ như Big Bang. Chúng ta
không biết thời gian có ra đời cùng với Big Bang hay không.
Nếu nó ra đời cùng với Big Bang, chúng ta không thể mô tả
sự xuất hiện của thời gian theo cách chính xác. Nhưng các
lỗ đen có thể giúp chúng ta hiểu được vấn đề này.
Juan Maldacena, Viện Nghiên cứu Cao cấp Princeton
“Lời giải thích phù hợp duy nhất mà tôi biết cho
hằng số vũ trụ - khi các lời giải thích không phù hợp xuất
hiện mỗi 3 tháng một lần – là một hệ quả của sự lạm phát, vũ trụ là cực kì lớn và
càng lộn xộn càng tốt”, Susskind giải thích. “Địa hình xuất hiện lớn đến mức về mặt
thống kê nó sẽ cho phép hằng số vũ trụ nhỏ cần thiết cho sự tồn tại của chúng ta:
chúng ta đang nói về chữ A!” Chữ A là “anthropic” [thuộc về con người] – ý tưởng
là các tính chất của tự nhiên bị chi phối bởi thực tế là chúng ta đang ở đây quan sát
chúng – và cho các nhà lí thuyết dây tiến xa hơn đến sử dụng từ “Smolin” hay
“Woit”.
Mặc dù ông có sự dè dặt về việc sử dụng nguyên lí con người, nhưng năm
1987, Steven Weinberg ở trường đại học Texas, Austin, người chia giải thưởng
Nobel năm 1979 cho lí thuyết điện yếu, đã sử dụng nguyên do con người để thiết
Kĩ sư người Đức Werner Von Braun (trái), người từng là thiếu tá trong đoàn SS, và nhà khoa học
Soviet Sergei Korolyov, người từng sống 11 năm trong một trại cải tạo ở Siberia,
cả hai đều rất đam mê không gian.
Khi người Liên Xô đến Mittelwerk, họ thấy một khu vực hầu như hoàn toàn
bị xóa sạch mọi vết tích của các nhà khoa học tên lửa và công trình của họ. Nhà
khoa học duy nhất được chọn ở lại là Helmut Gröttrup, lúc ấy là một kĩ sư người Đức
độc thân, hóa ra lại có nhiều năng lực hơn nữa vào việc cách mạng hóa công nghệ
tên lửa Soviet khi tham vào đội nghiên cứu cùng với một trong những nhà khoa học
tên lửa có sức ảnh hưởng lớn nhất của mọi thời đại: Sergei Korolyov.
Korolyov, giống như Von Braun, đã bị cám dỗ bởi các tên lửa, và sự quyến
rũ của không gian bên ngoài Trái Đất chiếm phần lờn cuộc đời của ông. Cho đến
lúc ấy, những cố gắng của ông đã không được ca ngợi và ủng hộ do tâm trạng lo âu
công trình của ông có thể bị lợi dụng theo kiểu như Đức đã ủng hộ Von Braun.
Thay vì vậy, cuối thập niên 1930, Korolyov đã bị kết án đưa đi cải tạo hình sự ở mỏ
uranium Kolyma, vì bằng chứng tố giác của một trong những người đồng nghiệp
xưa kia của ông, chuyên gia động cơ tên lửa Valentin Glushko. Glushko đã trở
thành nạn nhân của chiến dịch Thanh lọc Lớn của Stalin năm 1938 (trong đó hàng
triệu người bất đồng với chính kiến cộng sản của Stalin đã bị hành quyết hay gửi tới
các trại cải tạo) và đã tố cáo Korolyov là một kẻ thù của Đảng Cộng sản để chứng
minh cho lòng trung thành của cá nhân ông. Korolyov đã ở đó suốt 11 năm trời
trước khi được phóng thích, lúc tình hình thế giới đã có sự chuyển biến lớn.
Sputnik 1 là một quả cầu kim loại đường kính chỉ có 60 cm, chỉ chứa một máy phát vô tuyến –
nhưng như thế đã đủ để hoàn thành mục tiêu của nó là chứng minh cho sức mạnh công nghệ Soviet
và làm bẽ mặt nước Mĩ.
Cuộc chiến tuyên truyền
Cho đến năm 1956, chính quyền Soviet – dưới thời người kế vị của Stalin là
Nikita Khrushchev – không tán thành ý tưởng phóng vệ tinh vì họ muốn Korolyov
và nhóm giúp việc của ông tập trung vào phát triển tên lửa. Tuy nhiên, khi tin tức về
kế hoạch phóng vệ tinh của Mĩ như là một phần của IGY đến Moscow, Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản đã thay đổi quan điểm. Một lần Khrushchev gặp
Korolyov và nói về tiềm năng trinh sát không gian của các vệ tinh quỹ đạo Trái Đất,
ông đã chỉ đạo rằng dự án vệ tinh phải tiến hành ở tốc độ thật nhanh – cho thấy
người không gây cản trở cho chương trình tên lửa đạn đạo xuyên lục địa.
Mặc dù nỗ lực đầu tiên của người Mĩ đưa một vệ tinh nhân tạo lên quỹ đạo đã thất bại thảm hại
khi tên lửa Vanguard mang nó nổ tung chẳng mấy chốc sau khi phóng lên, nhưng thất bại đó đã
đặt nền tảng cho việc phóng thành công vào ngày 31 tháng 1 năm 1958 của Explorer 1 bằng tên
lửa Juno-1 (hình) do nhà chế tạo cựu Quốc xã Werner Von Braun thiết kế.
Tuy nhiên, thảm họa đó đã có một kết quả xác thực, nó cho phép Von Braun
thuyết phục chính phủ Mĩ sử dụng thiết kế tên lửa của riêng ông để phóng vệ tinh
IGY. Juno-1 là phiên bản mạnh hơn của một tên lửa có mức độ thành công cao mà
Von Braun đã thiết kế dựa trên nền tảng V-2 nguyên bản. Vào ngày 31/1/1958, nó
đã phóng thành công vệ tinh Explorer 1 – trang bị một máy dò bức xạ do nhà thiên
văn vật lí James Van Allen ở trường đại học Iowa thiết kế - vào quỹ đạo. Chỉ trong
vài ngày, Explorer 1 đã xác nhận sự tồn tại của một vành đai bức xạ mạnh mang tên
Van Allen từ đó cho đến nay.
Bất chấp sự thành công sáng tạo của Von Braun và Van Allen, không còn có
thời gian cũng như không còn có sự ngon ăn nào cho sự tự mãn với chương trình
tên lửa của Mĩ. Vào ngày 3 tháng 11 năm 1957, Liên Xô lại thành công với một
Vào ngày 3/11/1957, chú chó Laika trở thành con vật đầu tiên được đưa lên quỹ đạo thành công,
trong khi vào năm 1961, người Nga Yuri Gagarin (hình giữa) trở thành người đầu tiên bay lên quỹ
đạo, và vào năm 1962 John Glenn là người Mĩ đầu tiên thực hiện việc này.
Lúc đó, chính phủ Mĩ đang lộn xộn. Lyndon Johnson, nhà lãnh đạo phe đa số
Thượng viện, nói rằng ai làm chủ được “tầng cao” không gian thì người đó sẽ điều
khiển được thế giới và ông là người “không có ý định lên giường dưới ánh sáng của
Mặt trăng Cộng sản”. John F Kenedy phát minh ra cụm từ “khoảng trống tên lửa”để
mô tả sự cách biệt giữa số lượng và sức mạnh vũ khí ở Liên Xô và ở Mĩ, và dùng nó
làm gậy đánh vào phe Cộng hòa trong cuộc chạy đua vào chức tổng thống năm
1960. Một hệ quả lâu dài của cuộc tranh cãi là hệ thống giáo dục Mĩ đã được đại tu,
chú trọng hơn vào khoa học cơ bản và kĩ thuật nhằm mang lại sự cạnh tranh tốt hơn
đối với các nhà khoa học Soviet.
Tuy nhiên, tất cả những việc làm đó chả giúp ích được gì, vì vào ngày 12
tháng 4 năm 1961, Liên Xô đã đưa một nhà du hành vũ trụ lên quỹ đạo trên con tàu
Vostock 1. Việc này còn làm nhục quốc thể hơn nữa đối với người Mĩ, vào ngày 5/5
họ đã phóng Alan Shepherd lên một quả lốp hạ quỹ đạo tồn tại chỉ có 15 phút. Mãi
cho đến tháng 2 năm 1962, cuối cùng thì Mĩ đã phóng John Glenn vào quỹ đạo
hoàn chỉnh quanh Trái Đất trong tổ hợp Mercury bằng tên lửa Atlas mạnh hơn
nhiều do Không quân Mĩ thiết kế.
W E Burrows 1999 This New Ocean: The Story of the First Space Age (Modern
Library, New York)
D Cadbury 2006 Space Race (Harper Collins, London)
P Dickinson 2001 Sputnik: The Shock of the Century (Walker and Company, New
York)
H Gavaghan 1997 Something New Under the Sun: Satellites and the Beginning of
the Space Race (Springer, New York)
T Wolfe 1991 The Right Stuff (Picador, London)
www.space50.org.uk
Nhưng như thế là đã phớt lờ đi tầm quan trọng của việc có một trạm không
gian có con người điều khiển thường xuyên. Trong khi các tổ hợp lắp ghép, các giàn
khung ngoài và các tấm pin Mặt Trời khó mà giống với cái bánh xe quay tráng lệ
của Arthur C Clarke hồi năm 2001: A Space Odyssey, trạm không gian quốc tế là sản
phẩm của sự truy tìm của loài người cho cả một cuộc sống tốt hơn ở đây trên Trái
Đất này và cảm giác bẩm sinh thích phiêu lưu mạo hiểm. Ra đời một phần tư thế kỉ
sau khi Liên Xô phóng vệ tinh Sputnik 1, ISS đã trở nên quá lỗi thời đối với hỗn
hợp các thiết kế dành cho những trạm không gian đã lên kế hoạch trước đây nhưng
không thực hiện được. Chúng bao gồm Trạm không gian tự do của Mĩ, Mir-2 của
Nga, và tổ hợp nghiên cứu Colombus đơn độc của Cơ quan không gian châu Âu
(ESA).
Một khi được lắp ghép vào ISS vào cuối năm nay, tổ hợp nghiên cứu Colombus của Cơ quan
Không gian châu Âu - dài 7 m, đường kính 4,5 m và có khối lượng trên 10 000 kg - sẽ mang lại
không gian rộng hơn để tiến hành các thí nghiệm vi hấp dẫn.
Một khi ISS đạt tới trạng thái “lắp ghép xong hoàn toàn” vào năm 2010 –
công việc đã bắt đầu lên lịch trình hồi năm 2003 – một phi hành đoàn thường trực
sáu người sẽ ở trong thể tích điều áp 935 m3 lưu trú trong sáu tháng. Thể tích đó gấp
khoảng bốn lần trạm không gian Mir của Nga, trạm đã được con người điều khiển
liên tục trong hầu như suốt 10 năm trước khi buộc phải cho rơi vào bầu khí quyển
hồi năm 2001, và gấp chừng năm lần kích thước của trạm Skylab hồi thập niên 1970
của NASA. Theo số liệu không chính thức, chi phí của NASA chi cho ISS tổng
Chiếc máy dao động tự do cho phép các thành viên phi hành đoàn ISS giữ lại
khối lượng xương và cơ mà không làm ảnh hưởng tới cấu trúc của trạm.
Khoảng 200 thí nghiệm đã được thực hiện trên trạm không gian hoặc vẫn
đang được triển khai, và ít nhất là 500 thí nghiệm nữa đã được lên kế hoạch cho 5
năm tới. Chúng bao gồm từ các quan sát Trái Đất để chứng tỏ giá trị của công nghệ
đối với công nghiệp, bao gồm các nghiên cứu về tác động của vi hấp dẫn lên sinh lí
động vật, thực vật và con người. Như thế, những thí nghiệm này đã và đang được
thực hiện trên môđun dịch vụ của Nga và phòng lab nghiên cứu Destiny của Mĩ.
Tuy nhiên, tàu con thoi không gian đã được lên lịch trình để triển khai phòng thí
nghiệm Colombus của ESA trong tháng 12 năm nay và môđun nghiên cứu Kibo của
Nhật vào tháng 4 năm 2008. Ngoài ra, Nga hi vọng sẽ phát triển và triển khai một
môđun nghiên cứu có lẽ vào năm 2011.
Mỗi đối tác của ISS chịu trách nhiệm lựa chọn (và tài trợ) các thí nghiệm
riêng của mình, thường bắt đầu với một số loại tiến trình kiểm chứng để cân đong
giá trị của từng đề xuất khoa học. Chúng có thể tiến hành ở bất kì đâu từ 6 tháng
đến 8 năm trước khi những đề xuất này cuối cùng được thực hiện trên quỹ đạo Trái
Đất. Trong khi đa số các thí nghiệm không yêu cầu nhiều sự thu hút tâm trí từ phía
các nhà du hành, các thành viên phi hành đoàn thường phải khởi động và kết thúc
thí nghiệm cũng như ghi lại kết quả bằng hình ảnh kĩ thuật số và video dùng để
phân tích dưới đất sau này. Nhưng cho dù rằng nhiều nhà du hành đã có học vị tiến
Các thí nghiệm dòng mao dẫn thực hiện trên ISS có thể đưa đến các hệ thống điểu khiển nhiên liệu
tốt hơn cho tàu vũ trụ, chúng sẽ quan trọng cho các sứ mệnh liên hành tinh trong tương lai.
Việc tìm hiểu xem chất lỏng xử sự như thế nào trong điều kiện không có lực
hấp dẫn là yếu tố sống còn khi điều khiển các bể nhiên liệu tàu vũ trụ. Nhưng nó
cũng thật quan trọng đối với các hệ thống duy trì sự sống, việc vứt bỏ chất thải lỏng,
xử lí nước, làm lạnh bằng nhiệt và có khả năng là cả những máy phát điện tuabin
quay đặt trên không gian. Vào năm 2004, Weislogel là nhà nghiên cứu chính về một
loạt thí nghiệm dòng mao dẫn trên ISS, trong đó ông và các cộng sự của mình đã
nghiên cứu xem lực căng bề mặt mao dẫn điều khiển chất lỏng như thế nào cả trên
không gian và trên mặt đất. Để nghiên cứu lực mao dẫn trên không gian, các nhà du
hành ISS sử dụng video số hóa ghi lại sự chuyển động của dầu silicone chứa trong 6
lọ kiểm tra 2 kg. Dữ liệu hiện đang được phân tích bởi các nhà nghiên cứu ở mặt đất.
“Giả sử bạn vừa mới phóng thích một trong những tầng trên của tên lửa của
bạn và bây giờ bạn đang lênh đênh trong môi trường hấp dẫn thấp”, Weislogel nói.
“Đó là khoảng thời gian đốt tên lửa tiếp theo, nhưng nếu bể chứa không đầy thì bạn
Hình nộm MTR-2 trên ISS được gắn các máy đo liều lượng bức xạ cho phép
các nhà nghiên cứu tiếp cận với mối hiểm họa bức xạ trong không gian.
Phá vỡ định luật thứ hai
Mặc dù ISS có lợi cho việc nghiên cứu tác động sinh vật học của sự sống
trong quỹ đạo Trái Đất tầng thấp, nhưng các điều kiện vi hấp dẫn trên trạm không
gian cũng mang lại một nơi thích hợp quan trọng cho nghiên cứu chất lỏng và vật
liệu học. Một thí nghiệm như thế khảo sát một trong những nguyên lí cơ bản nhất
của chương trình vật lí bậc học phổ thông: đó là nguyên lí thứ hai của nhiệt động
lực học, nguyên lí phát biểu rằng entropy (số đo mức độ mất trật tự) luôn luôn tăng
khi một hệ biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Khi một tinh thể hình thành trong điều kiện vi hấp dẫn, các hạt riêng lẻ trong
hệ có mức độ dao động tự do hơn so với tình hình trên mặt đất. Như vậy, trong
không gian, một cấu trúc có trật tự có thể, có phần nào đó không bình thường, phát
sinh từ một trạng thái có entropy cao hơn. “Hãy đưa các chất keo [các vi hạt lơ lửng
trong chất lỏng] lên không gian”, William Meyer, một nhà khoa học quyền lực tại
Trung tâm Chất lỏng và Chất đốt quốc gia tại Trung tâm nghiên cứu Glenn của
NASA ở Cleveland nói, “và bạn sẽ tự động lấy mất đi sự lắng đọng và ép chặt của
hấp dẫn”.
Các thí nghiệm trên ISS về chất keo có thể đưa đến
những chất liệu có tính chất quang độc nhất vô nhị.
Một ứng dụng kém mang tính công nghệ cao hơn, nhưng có lẽ gây ngạc
nhiên nhiều hơn, của các thí nghiệm thủy tinh Plexi của Weitz và các cộng sự có thể
tìm thấy trong các sản phẩm giặt rửa. Nếu như các nhà chế tạo bột giặt và cả một số
loại thực phẩm có sự hiểu biết tốt hơn về quãng đời tự sinh của một sản phẩm cho
trước (thường bị chi phối bởi tốc độ co hấp dẫn của nó), thì kiến thức đó có khả
năng giúp họ tiết kiệm được hàng triệu đôla. Ví dụ, Weitz nói ít nhất thì một nhà
chế tạo chất tẩy rửa chuyên nghiệp ở Mĩ cũng sẽ thích làm cho chất làm mềm vải
hiện nay của nó giàu polymer hơn sao cho vải vóc có cảm giác mềm hơn. Nhưng
Một khi tàu con thoi ngừng sử dụng vào năm 2010, Crew Exploration Vehicle của NASA – phóng
vào năm 2014 – sẽ là lộ trình chính của chúng ta trong quỹ đạo Trái Đất.
Bruce Dorminey là một nhà báo chuyên viết về khoa học của Mĩ và là tác giả quyển sách
Distant Wanderers: The Search for Planets beyond the Solar System (Springer, New York).
hiepkhachquay dịch
(theo Physics World Online, tháng 10/2007)
An Minh, 07/10/2007 17:05:33
Mặc dù được biết tới nhiều hơn bởi tên tuổi mà sau này ông có được trong cuộc sống,
nhưng ngài Kelvin sinh ra trong gia đình William Thomson chất phác ở Belfast, vào ngày
26/6/1824. Không bao lâu sau đó, gia đình ông chuyển đến Scotland, nơi đó cha ông trở
thành giáo sư toán học ở trường đại học Glasgow. Thomson tham dự các buổi thuyết giảng
của cha ông từ khi lên 7 tuổi, được nhận vào làm sinh viên chính khóa khi lên 10, và ở tuổi
15 đã công bố một bài báo về chuỗi Fourier. Chàng trai trẻ Thomson được kết nạp vào đại
học Cambrdige năm 1841, cha ông khuyên can ông nên tránh xa sự ảnh hưởng phung phí
của thể thao và giải trí. Mặc dù bơi thuyền nhiều trên dòng sông Cam và chơi kèn concert
trong hội âm nhạc, nhưng Thosom dễ dàng được công nhận là trí tuệ uyên bác nhất vào
thời của ông.
Khi người giữ ghế giáo sư triết học tự nhiên của Glasgow qua đời năm 1846, cha của
Thomson đã thực hiện vận động chính trị tích cực để nâng đỡ người con trai của ông vào
giữ chức vụ còn trống đó. Thomson đảm nhận trọng trách ở Glasgow ở tuổi mới 22, và rồi
ông bắt đầu một sự nghiệp thành công đến mức đáng kinh ngạc kéo dài hơn nửa thế kỉ trời.
Chuyển động giống như bước của các phức tạp kinesin trong cơ thể người là đối tượng cho các
dao động ngẫu nhiên và không thể mô tả bằng nhiệt động lực học trạng thái cân bằng.
Một ví dụ của động cơ sống là protein kinesin, protein cần thiết cho sự vận
chuyển các chất bên trong tế bào. Kinesin chuyển hóa hóa năng thành chuyển động
bằng liên kết adenine triphosphate (ATP) – kho hóa chất vô song của sinh vật học –
theo kiểu protein thay đổi hình dạng, nhờ đó cho phép nó “đi bộ” theo giàn khung
hay cytoskeleton của tế bào. Nhưng các tế bào hoạt động cũng nhờ nhiều protein
khác, từ màng bơm điều khiển dòng chất dinh dưỡng đi vào tế bào cho đến các chất
trùng hợp cấu trúc nên chuỗi RNA và DNA. Tất cả các phân tử này chuyển hóa
năng lượng làm chuyển dời vật chất – nói cách khác, chúng đều là động cơ.
Nhờ những thành công trong kĩ thuật bẫy laser, ngày nay các nhà khoa học
có thể quan sát những động cơ vi mô này lúc đang hoạt động. Chẳng hạn, năm 2000,
một nhóm nghiên cứu đứng đầu là Toshio Yanagida ở trường đại học Osaka, Nhật
Bản, đã nghiên cứu chuyển động của từng phân tử kinesin theo chiều dài của
cytoskeleton liên kết với các hạt bột có thể giữ trong bẫy laser. Bằng cách gắn các
chất đánh dấu huỳnh quang lên các kinesin để làm cho chúng khả kiến, các nhà
nghiên cứu đã quan sát được từng protein thả bộ dọc theo các rãnh cytoskeleton.
Nghiên cứu này xây dựng trên công trình thực hiện bởi Steven Block, hiện nay ở
trường đại học Stanford, Mĩ, người cùng với các cộng sự hồi năm 1994 đã đo được
các lực piconewton nhỏ xiu do một phân tử kinesin gây ra.
Bằng cách nghiên cứu cách thức những động cơ phân tử này chuyển hóa
năng lượng thành chuyển động, các nhà nghiên cứu như Yanagida và Block đang
lần theo bước chân của các nhà khoa học thế kỉ 19 như Kelvin và Clausius. Nhưng
bây giờ các động cơ là những phân tử vi mô, chứ không phải những cỗ máy gớm
ghiếc của nền công nghiệp thời Victoria, và đang thách thức nền nhiệt động lực học
đã thiết lập.
Giảm kích thước động cơ
Các nhà tiên phong của nhiệt động lực học đã phát triển các định luật của họ
dựa trên các hệ vĩ mô mà họ có thể mô tả dưới dạng những đại lượng “trung bình”,
ví dụ như áp suất và nhiệt độ. Điều này chính xác cho một động cơ hơi nước tiêu
Khi bị kéo căng bởi ngoại lực, các phân tử RNA bị nới lỏng lộn xộn,
không giống như, ví dụ, một dải đàn hồi.
Nếu một động cơ vĩ mô, ví dụ như động cơ xe hơi, chịu sự thăng giáng năng
lượng như thế, piston của nó sẽ nhảy lên xuống ngẫu nhiên bên trong xilanh và làm
giảm hiệu suất động cơ. Nhưng vì năng lượng đi kèm một chu trình piston của động
cơ đốt trong là khoảng 100 J (bằng với xấp xỉ 1022 kBT), nên sự tăng hay giảm tự
nhiên của một hoặc hai kBT là hoàn toàn không đáng kể. Hãy so sánh giá trị này với
lượng năng lượng sử dụng bởi một động cơ protein: một phân tử kinesin sử dụng
khoảng 12 kBT / “bước”, có nghĩa là thăng giáng vào bậc kBT tương ứng với gần
10% năng lượng chuyển động. Kết quả là phân tử thường không tiến lên được do sự
thăng giáng năng lượng.
Hệ quả của sự thăng giáng năng lượng này của động ở động cơ protein có thể
nhìn thấy trực tiếp trong những thí nghiệm, chẳng hạn như thí nghiệm do Yanagida
thực hiện, cho thấy kinesin leo theo rãnh cytoskeleton theo một chuyển động rung
Trạng thái cân bằng của một hệ vi mô, ví dụ một tập hợp những hạt bột nhỏ, có thể điều khiển
được bằng cách điều chỉnh cường độ của bẫy quang laser cảm ứng từ mạnh (trái) đến yếu (phải),
nhờ đó cho phép các nhà nghiên cứu khảo sát các giới hạn của nhiệt động lực học truyền thống.
Các hệ cân bằng vĩ mô có thể mô tả dễ dàng bằng cách xét sự biến đổi năng
lượng toàn phần, yếu tố chi phối các tính chất ví dụ như tốc độ của phản ứng hóa
học. Tuy nhiên, một quá trình vi mô, không cân bằng là đối tượng cho sự thăng
giáng năng lượng sẽ không chia sẻ nhiều với số đo năng lượng cân bằng. Vì thế,
việc tiên đoán hành vi của một động cơ vi mô thì phức tạp hơn nhiều, vì người ta
không thể chỉ đo năng lượng biến đổi cùng với một phân tử và sau đó giả sử rằng
kết quả này áp dụng được cho mọi động cơ tương tự. Tuy nhiên, một thập niên
trước, Christopher Jarzynski ở trường đại học Maryland, Mĩ, đã tiên đoán rằng ngay
cả những thí nghiệm hết sức không cân bằng về từng phân tử cũng ẩn chứa những
dấu hiệu bí ẩn của sự cân bằng
Giống như các bản sao sinh vật của chúng, các động cơ nano – ví dụ như vòng phân tử RNA này –
tuân theo một dạng mới của nhiệt động lực học vượt xa ra khỏi giới hạn lí thuyết của Kelvin.
Việc tìm hiểu nhiệt động lực học của các động cơ vi mô có thể đưa đến
những tiến bộ tương tự ở cấp độ vi mô. Chẳng hạn, bằng cách làm sáng tỏ nhiệt
động lực học của các động cơ sinh học như kinesin, có thể một ngày nào đó nền y
khoa sẽ chuyển biến từ cách xử lí vấn đề tương đối bừa bãi thành một môn học
mang tính công nghệ trong đó các động cơ sinh học như protein được sửa lại và
thậm chí được điều chế để đảm nhận chức năng một cách xác thực và hiệu quả hơn.
Thật vậy, có lẽ vấn đề khoa học lớn nhất là làm thế nào mà sự sống dựa trên những
động cơ vi mô này, với sự nhạy cảm của chúng với các thăng giáng năng lượng, lại
khởi động được ở vị trí đầu tiên.
Nền nhiệt động lực học mới cũng cần thiết cho công nghệ nano. Phần nhiều
trích dẫn nguồn gốc về lĩnh vực này trong thập niên 1990 đã bỏ qua thực tế là các
động cơ nano, như protein, được cấp nguồn bởi năng lượng thuộc cấp độ vi mô. Vì
thế, nền khoa học của các động cơ nano không thể tách rời khỏi nền nhiệt động lực
học của các động cơ vi mô. Cho đến nay, thậm chí bỏ qua trong tích tắc những khác
biệt huyền ảo giữa cấp độ vĩ mô và vi mô, và giữa sự định nghĩa cân bằng và không
cân bằng, thì vẫn có một giới hạn sau cùng của nhiệt động lực học thế kỉ 19 có khả
năng còn đáng kể hơn nữa.
Tác giả Mark Haw hiện làm việc tại Khoa Hóa học và Công nghệ Môi trường, đại
học Nottingham, Anh. Ông là tác giả của quyển sách Middle World: The Restless
Heart of Matter and Life (2007, Macmillan).
hiepkhachquay dịch
Nguyên bản: The industry of life
(tạp chí Physics World, số tháng 11/2007)
An Minh, ngày 06/11/2007, 9:56:47 PM
Vũ trụ không chỉ dãn nở, mà còn dãn nở với tốc độ ngày càng nhanh.
Giống như một người đương đầu với việc chẩn đoán một căn bệnh đe dọa
tính mạng, cộng đồng khoa học đã tiến triển qua năm giai đoạn phản ứng với việc
khám phá ra năng lượng tối: phủ nhận, giận dữ, mặc cả, suy sụp tinh thần và chấp
nhận. Nhờ một số quan sát độc lập, ngày nay chúng ta biết nhiều về giai đoạn thứ
nhất ở trên.
© hiepkhachquay 1
Đầu tiên, những phép đo nền vi sóng vũ trụ - bể bức xạ vi sóng còn lại từ
thời Big Bang – thực hiện hồi năm 2000 bởi các thí nghiệm khí cầu Boomerang và
MAXIMA, và hồi năm 2003 bởi thí nghiệm WMAP, đã độc lập nhau mang lại sự
ủng hộ cho một vũ trụ đang gia tốc. Bằng chứng thêm nữa đến từ Cuộc khảo sát
bầu trời Kĩ thuật số Sloan, hồi năm 2005 đã đo “các gợn sóng” trong sự phân bố
của các thiên hà để lại dấu vết trong các dao động âm của plasma nguyên thủy
360.000 năm sau Big Bang khi vũ trụ đã đủ lạnh để cho vật chất và bức xạ tách
riêng ra. Các nhà thiên văn cũng chống đỡ bằng chứng của họ cho một vũ trụ đang
gia tốc bằng nghiên cứu thấu kính hấp dẫn – cách thức ánh sáng phát ra từ những
nguồn ở xa bị bẻ cong bởi trường hấp dẫn của các cụm thiên hà khối lượng lớn ở
dọc đường. Cuối cùng, cách tiếp cận sao siêu mới nguyên thủy đã tự mở rộng và
củng cố thêm bởi việc bao gồm nhiều vật thể hơn, đo được chính xác hơn và một
phạm vi lớn hơn của lịch sử vũ trụ, với sự hỗ trợ của các kính thiên văn trên mặt đất
và Kính thiên văn vũ trụ Hubble (xem hình).
Khám phá năng lượng tối được làm cho có thể thực hiện được nhờ thực tế đáng chú ý là độ sáng
định cỡ của sao siêu mới loại Ia – sao đang bùng nổ - là như nhau cho dù nó ở cách bao xa đi nữa.
Do đó, sao siêu mới tác dụng giống như một vật chỉ thị khoảng cách chính xác, nhờ đó cho phép
các nhà nghiên cứu tìm hiểu động lực học vũ trụ. Hình trên biểu diễn “đường cong ánh sáng” của
73 sao siêu mới – độ sáng tăng lên từ khoảng 18 ngày trước độ sáng cực đại (được định nghĩa là
ngày 0) và sau đó mờ dần đi - theo số liệu đo bởi Cuộc khảo sát sao siêu mới. Đường cong ánh
sáng giống hệt biểu hiện bởi sao siêu mới ở độ lệch đỏ cao, z > 0,589 (màu đỏ), và độ lệch đỏ kém
hơn có z < 0,589 (màu xanh).
Cùng với nhau, những quan trắc này đã đưa các nhà vũ trụ học đến một bản
mô tả vũ trụ gọi là mô hình tương thích. Theo bức tranh này, 75% khối lượng năng
lượng vũ trụ tồn tại dưới dạng một thành phần gia tốc đẩy hấp dẫn, bí ẩn, còn 25%
còn lại có tương tác hút hấp dẫn. Thật ra, đa phần trong số 25% này (khoảng 5/6)
không phải là vật chất thông thường mà là một số chất không biết nữa – gọi là vật
© hiepkhachquay 2
chất tối – hút hấp dẫn bình thường cho đến nay vẫn chưa kết hợp được với bức xạ
điện từ. Nói chung, mô hình tương thích cho thấy chúng ta chỉ hiểu được một phần
đáng xấu hổ chừng 4% thành phần của vũ trụ của chúng ta.
Đối mặt với số liệu
Cuối năm 2003, việc phủ nhận sự gia tốc vũ trụ không còn là một sự lựa
chọn nữa. Tuy nhiên, vào lúc đó, sự thất vọng hoặc giận dữ mới bắt đầu dâng lên.
Giống hệt như một người bệnh kêu gào lên “tại sao lại là tôi, tại sao lại là lúc này ?”,
nên các nhà vật lí thật sự muốn tìm hiểu xem tại sao vũ trụ lại đang gia tốc chứ, và
nhất là tại sao nó lại gia tốc vào lúc này. Đây là do các quan sát sao siêu mới không
thể cho chúng ta biết sao siêu mới là cái gì, thì tác dụng của nó lên việc xé toạc vũ
trụ ra giống một cách trêu ngươi với cái mà người ta mong đợi nếu như vũ trụ thấm
nhuần một hằng số vũ trụ lâu nay bị bỏ rơi của Einstein.
Ngay sau khi Einstein công khai lí thuyết tương đối rộng của ông vào năm
1915 – lí thuyết mô tả động lực học của vũ trụ và sự tiến hóa của vật chất và năng
lượng bên trong nó – ông đã đưa một hằng số vào trong các phương trình của mình
để trung hòa lực hút hấp dẫn của vật chất thông thường. Ông làm điều này vì ông
muốn lí thuyết mới của mình phù hợp với niềm tin lúc ấy rằng vũ trụ là tĩnh tại.
Nhưng khi ấy, vào năm 1929, Edwin Hubble chỉ ra rằng vũ trụ đang dãn nở,
Einstein buộc phải đưa ra hằng số vũ trụ ra khỏi lí thuyết trở lại. Tuy nhiên, kể từ đó
thì khả năng có năng lượng đẩy hấp dẫn vẫn còn tiềm ẩn trong lí thuyết của Einstein.
Thật kịch tính, mặc dù “hằng số vũ trụ” rốt cuộc là một nguồn gây ra sự thất
vọng não nề đối với các nhà vật lí, nhưng nó cũng được tiên đoán bởi nền vật lí của
những đối tượng rất nhỏ: cơ học lượng tử. Lí thuyết trường lượng tử tiên đoán rằng
ngay cả không gian trống rỗng cũng có mật độ năng lượng do sự sinh và hủy tự phát
của các hạt sơ cấp. Tuy nhiên, trên cơ sở các hạt mà chúng ta đã biết là tồn tại, thì
mật độ năng lượng chân không theo cơ học lượng tử sẽ lớn đến mức gây lúng túng
gấp 10120 lần so với giá trị cần thiết để giải thích cho sự gia tốc vũ trụ.
Ngoài câu hỏi hóc búa xem có một ứng cử viên tự nhiên nào như thế cho
năng lượng tối vào 120 bậc độ lớn là quá lớn, thì sự gia tốc vũ trụ hình như chỉ mới
bắt đầu gần đây trong lịch sử vũ trụ. Có lẽ hằng số vũ trụ đã vượt quá tác dụng hấp
dẫn của vật chất tại mọi thời điểm trong 13,7 tỉ năm qua, trong thời gian đó vũ trụ
đã dãn nở lên gấp 1028 hay ngần ấy lần. Cho đến nay nó chỉ đóng góp hai bậc của
hai lần dãn nở gần đây – giống như tỉ lệ so le 2 trong 1028 ! Những điều vô lí này
hình như đơn thuần sắp đặt để làm cho các nhà khoa học điên dại, hay cho một lời
giải thích kiểu con người trong đó các định luật của tự nhiên vì lí do gì đó liên kết
với sự có mặt của chúng ta.
Các nhà vật lí chống lại sự giận dữ với việc mặc cả rằng có lẽ chúng ta
không phải đối phó với một hằng số vũ trụ thật sự mà là một trường lượng tử biến
thiên điều chỉnh mật độ năng lượng của chân không như thể vũ trụ dãn nở. Cách lí
giải này cũng gợi đến sự lạm phát – giai đoạn tức thời sau Big Bang trong đó vũ trụ
dãn nở thêm khoảng có lẽ chừng 1026 lần trong vòng chỉ 10-33 s. Có khả năng độ lớn
của hằng số vũ trụ đo được là nhỏ vì vũ trụ già nua, và có lẽ nguyên nhân tại sao sự
gia tốc xảy ra rất gần với thời hiện tại do vật chất mới trở nên thống trị bức xạ và
những cấu trúc đậm đặc khá gần đây thôi.
© hiepkhachquay 3
Từ năm 1998, các nhà lí thuyết đã nghiên cứu một phạm vi rộng những mô
hình như thế, ví dụ gồm những lí thuyết trường lượng tử mới như “thuyết nguyên tố
thứ năm” và các mở rộng của thuyết tương đối rộng (xem hình bên dưới). Tiến bộ
lớn đã được thực hiện trong việc sàng lọc ngôi vườn mô hình, nhưng vẫn còn đó
một lùm cây um tùm. Khó khăn trong việc lựa chọn trong số nhiều đề xuất cho năng
lượng tối – cùng với thực tế là đa số phép đo chúng ta có thể tiến hành thử và tìm
hiểu tính chất của nó dựa trên nền thiên văn vật lí phức tạp của các vật thể xa xôi –
đã mang một bộ phận cộng đồng vào giai đoạn chán nản.
Năng lượng tối – chất chưa rõ đang làm cho sự dãn nở của vũ trụ tăng tốc – có thể do những dao
động lượng tử của chân không, chúng có thể được xem là “tính co dãn” của không gian trống rỗng.
Việc tìm hiểu trường lượng tử là tĩnh tại hay biến thiên theo thời gian sẽ mang lại cho chúng ta
những manh mối quan trọng về nguồn gốc của năng lượng tối. Hằng số vũ trụ của Einstein, với nó
các số liệu hiện nay là tương thích, giống như một trường của các lò xo giống hệt nhau không thay
đổi theo thời gian (hình chèn phía trên), còn “thuyết nguyên tố thứ năm” thì giống như trường biến
thiên trong không gian và thời gian (hình chèn vào phía dưới).
Tuy nhiên, những tiến bộ đạt được trong vài năm vừa qua cho thấy có thể sẽ
có ánh sáng ở cuối đường hầm. Một sự phối hợp của các thí nghiệm thế hệ kế tiếp,
lí thuyết và chương trình máy tính sẽ sớm đưa các nhà nghiên cứu vào giai đoạn
chấp nhận, và phấn khởi hơn nữa là sự hiểu biết và đánh giá đúng bản chất của vũ
trụ đang gia tốc của chúng ta
Học cách đi
Trong 10 năm kể từ khi phát hiện ra sự gia tốc vũ trụ, các nhà vật lí đã học
được cơ sở của cách đi và nói. Phần nhiều trong số này là xác định “phương trình
trạng thái” cho năng lượng tối. Einstein đã chỉ ra rằng ngoài khối lượng, mọi dạng
năng lượng đều đóng góp cho hấp dẫn. Đặc biệt, thuyết tương đối rộng tiên đoán
rằng cường độ của lực hút hấp dẫn bị chi phối bởi sự kết hợp nhất định của mật độ
năng lượng, ρ, và áp suất p, dưới dạng: ρ + 3p. Tuy nhiên, nếu áp suất là âm (như
© hiepkhachquay 4
khi hai vật phân cách nhau bằng các lò xo cuộn lại chẳng hạn), sự kết hợp này có
thể có giá trị nhỏ hơn không, như vậy đã chuyển hấp dẫn từ lực hút thành lực đẩy.
Vì thế, các nhà vật lí thường định nghĩa phương trình trạng thái dưới dạng
w = p/ρ, trong đó w nhỏ hơn – 1/3 để gây ra sự gia tốc vũ trụ. Hằng số vũ trụ
Einstein tương ứng với w = - 1, vì tình huống trong đó áp suất bằng và đối với mật
độ năng lượng là cách duy nhất để thu được mật độ năng lượng độc nhất không thay
đổi trong không gian và thời gian, như Einstein vẫn nghĩ. Nhưng trong nỗ lực tìm
hiểu bản chất và nguồn gốc của năng lượng tối, các nhà nghiên cứu đã tiến xa khỏi
những phương trình trạng thái đơn giản nhất này và nghiên cứu những giá trị khác
của w và nhất là hiện nay đang tìm cách hiểu các tính chất của năng lượng tối là
hàm của thời gian, w(t).
Nhờ những dữ liệu thu thập qua những quan sát trên mặt đất và trên không
gian trong một thập niên vừa qua, chúng ta biết rằng w đạt mức trung bình trong 7 tỉ
năm vừa qua – từ khi vũ trụ có phân nửa kích thước hiện nay của nó – trong vòng
10% hằng số vũ trụ Einstein, w = -1. Thời kì gia tốc có lẽ bắt đầu khoảng 5 tỉ năm
trước, trước đó năng lượng tối còn hiếm nên lực hấp dẫn thống trị và làm chậm dần
sự dãn nở của vũ trụ (tức là sự giảm tốc vũ trụ).
Hiểu biết của chúng ta về việc năng lượng tối thật ra phát sinh như thế nào và
nó có biến thiên theo thời gian hay không thì khiêm tốn hơn nhiều lắm. Ví dụ, trước
giờ mọi người chúng ta có thể kết luận rằng w không biến thiên nhiều hơn hai lần
trong 7 tỉ năm vừa qua. Thách thức hiện nay là biến sự hiểu biết của chúng ta về w
thành phép đo chính xác, với sai số cỡ 2%, và biết nó biến thiên như thế nào theo
thời gian đến độ chính xác tốt hơn 10%. Khi đó, chúng ta sẽ có nhiều chỉ dẫn hơn
về nền vật lí mới chi phối vũ trụ của chúng ta.
Một phương pháp thu được kết quả này là thu thập nhiều loại dữ liệu hơn
nữa bằng các dụng cụ khảo sát vũ trụ trực tiếp và đã biết rõ. Dễ dàng thấy việc thu
thập thêm nhiều loại dữ liệu hơn so với hiện nay chúng ta có là không đủ, chúng ta
cần phải quan sát các sao siêu mới và thiên hà nằm sâu hơn nữa trong không gian và
nhờ đó là nhìn xa hơn nữa ngược dòng thời gian. Chúng ta cũng cần phải có thể
tách biệt rõ ràng hơn nhiều so với hiện nay những tính chất đích thực của vũ trụ từ
sự không hoàn hảo trong những quan sát của chúng ta. Chẳng hạn, một sao siêu mới
có thể xuất hiện trước mắt chúng ta dưới dạng mờ tối vì nó nằm ở quá xa hoặc ánh
sáng của nó bị tán xạ bởi bụi trong thiên hà nơi nó cư trú, và thấu kính hấp dẫn là vì
sự làm lu mờ hình ảnh của kính thiên văn do bầu khí quyển của Trái Đất.
Do nhiều tính chất của năng lượng tối bị hòa lẫn với các đại lượng khác,
chẳng hạn như mật độ vật chất trong vũ trụ, nên cần thiết phải sử dụng nhiều kĩ
thuật quan trắc khác nhau. Hơn nữa, do năng lượng tối vừa ảnh hưởng trực tiếp lên
các khoảng cách vũ trụ vừa ảnh hưởng gián tiếp lên sự phát triển của các thiên hà và
các cụm thiên hà (vì thật khó cho các cụm khối lượng phát triển nếu như không gian
xung quanh chúng bị kéo nhanh ra xa nhau), nên kĩ thuật bổ sung cũng có thể giúp
trả lời những câu hỏi quan trọng về mùi vị cần thiết của nền vật lí mới. Đây có thể
là một thành phần vật lí mới, ví dụ như năng lượng trường lượng tử, cái ảnh hưởng
đến khoảng cách vũ trụ và sự phát triển thiên hà theo cách giống nhau, hay một quy
luật vật lí mới mở rộng thuyết hấp dẫn Eíntein, cái ảnh hưởng đến khoảng cách và
sự phát triển thiên hà theo kiểu khác nhau.
© hiepkhachquay 5
Nếu nhìn vào bản ghi vết tích phát hiện nền vật lí mới của các nhà thiên văn,
chúng ta có thể thấy tại sao chúng ta cần có những quan sát mới để giải quyết vấn
đề. Nan đề của thế kỉ 18 về chuyển động của các hành tinh nhóm ngoài hệ Mặt Trời
đã được giải quyết bằng cách thêm một thành phần vật chất mới – đó là Hải Vương
tinh, phát hiện ra năm 1829. Nan đề của thế kỉ 19 về chuyển động của hành tinh
nhóm trong, Thủy tinh, mặt khác, đã đưa đến sự mở rộng thuyết hấp dẫn Newton:
thuyết tương đối rộng. Nan đề của thế kỉ 20 về chuyển động của các sao trong các
thiên hà có khả năng sẽ được giải quyết bằng việc khám phá ra một thành phần
mới – các hạt vật chất tối, mặc dù cho đến nay chúng ta chưa hề phát hiện ra chúng.
Đối với vật chất tối, hiện nay là vấn đề cấp thiết nhất trong vũ trụ học, bí ẩn của
thành phần mới cùng với quy luật mới chỉ có thể kết luận thông qua những những
thí nghiệm được lên kế hoạch cẩn thận.
Chuyển hướng sang vũ trụ sơ khai
Có bốn kĩ thuật thực nghiệm chủ yếu sẽ cho phép chúng ta soi ánh sáng lên
bí ẩn của năng lượng tối. Đầu tiên là tìm những gợn sóng trong sự phân bố của các
thiên hà, chúng phát ra trong những dao động âm học của vật chất baryon tính (tức
là vật chất thông thường) khi nó liên kết với bức xạ nền vũ trụ trước khi vật chất và
bức xạ tách riêng ra. Giống như những chiếc lá (baryon) trôi nổi trên mặt hồ (bức xạ
nền), các gợn sóng trong nước được nhận ra ở hình ảnh những chiếc lá. Vì chúng ta
chỉ có thể đo bước sóng của những gợn sóng từ hình mẫu dao động nhiệt độ trong
nền vi sóng vũ trụ, nên chúng ta có thể so sánh chúng với những quan sát về hình
mẫu thiên hà trên bầu trời để xác định khoảng cách đến những thiên hà này.
Vệ tinh Planck là một trong số vài dự án mới sẽ soi ánh sáng lên năng lượng tối
bằng việc nghiên cứu nền vi sóng vũ trụ.
Do chỉ có 1/6 toàn bộ vật chất là có baryon tính, trong khi phần còn lại ở
trong dạng thức có phần tối hút hấp dẫn nhưng không cặp đôi với ánh sáng (giống
như đá ở trong hồ không bị ảnh hưởng bởi chuyển động của nước), nên hình ảnh
dao động baryon tính huyền ảo hơn nhiều so với các thăng giáng nhiệt độ chúng ta
© hiepkhachquay 6
nhìn thấy ngay trong nền vi sóng bằng các thiết bị khảo sát như WMAP. Tuy nhiên,
năm 2005, Cuộc khảo sát bầu trời kĩ thuật số Sloan, tiến hành trên dữ liệu thu thập
bởi một chiếc kính thiên văn 2,5 m đặt ở New Mexico nhìn ngược trở lại 4 tỉ năm,
đã phát hiện ra các gợn sóng baryon yếu. Thật vậy, như đã nói ở phần đầu, thực tế
hình ảnh thiên hà phù hợp với mô hình tương thích ủng hộ cho khám phá ra vũ trụ
đang gia tốc.
Để cải tiến độ chính xác của những phép đo, bây giờ chúng ta cần mở rộng
những khảo sát thiên hà như thế đến thể tích lớn hơn nhiều. Bắt đầu vào năm 2009,
Cuộc khảo sát bầu trời dao động baryon được lên lịch trình bắt đầu khảo sát một
phần tư bầu trời đến độ lệch đỏ z = 0,8, khi vũ trụ ở phân nửa tuổi của nó hiện nay,
cũng như một lát mỏng bầu trời ở khoảng z = 2,5 khi nó ở vào 1/6 tuổi của nó hiện
nay. (Độ lệch đỏ là do sự trải ra của ánh sáng khi vũ trụ dãn nở và nhờ đó mang lại
một số đo khoảng cách: z = (λobs – λ0)/λ0, trong đó λobs là bước sóng của ánh sáng
phát hiện và λ0 là bước sóng của ánh sáng khi nó phát ra) Thí nghiệm Kính thiên văn
năng lượng tối Hobby—Eberly (HETDEX) theo kế hoạch bắt đầu quan sát vào năm
2010, sẽ tập trung vào lát mỏng thứ hai này một cách chi tiết hơn.
Phương pháp dao động - âm học – baryon chủ yếu nhạy với mật độ vật chất
của vũ trụ. Đây là vì những phép đo như thế cần một sự so sánh giữa kích thước
quan sát thấy của những gợn sóng âm học với kích thước mong đợi từ nền vi sóng
vũ trụ, chúng phát ra trong thời kì khi mà sức hút hấp dẫn từ phía vật chất phải
chiếm ưu thế so với sức đẩy hấp dẫn từ năng lượng tối. Tuy nhiên, khi kết hợp với
những quan sát sao siêu mới, điều này giữ vai trò quan trọng trong việc tách mật độ
vật chất khỏi các tính chất năng lượng tối.
Kĩ thuật thứ hai xử lí năng lượng tối là nghiên cứu chính nền vi sóng vũ trụ.
Nhiệt độ và quy mô không gian của các chấm nóng và lạnh trong biển bức xạ điện
từ này mang lại một công cụ thăm dò tráng lệ của vũ trụ nguyên thủy chừng
360.000 năm sau Big Bang. Vì vũ trụ sơ khai phải bị vật chất thống trị, với một ít
năng lượng tối, nên nền vi sóng phản ánh tương đối ít trực tiếp về tính chất của
năng lượng tối. Nhưng, giống như dao động âm học baryon tính, nó giữ một vai trò
quan trọng trong việc tách riêng ra vai trò của mật độ vật chất.
Ngoài những dữ liệu đang triển khai từ WMAP và những thí nghiệm trên
mặt đất, một thế hệ mới của các thí nghiệm nền vi sóng vũ trụ, như Clover, EBEX,
PolarBear, QUIET và Spider – sẽ xây dựng tại sa mạc cao Amataca ở Chile hoặc
bay trên khí cầu – được mong đợi mang lại dữ liệu từ năm 2008 đến 2010. Những q
này – không tính đến dữ liệu từ vệ tinh Planck, sẽ được phóng lên trong năm 2008 –
sẽ cho phép chúng ta đo sự phân cực của bức xạ vi sóng vũ trụ và có lẽ cho phép
chúng ta sử dụng một loại thấu kính hấp dẫn yếu, kĩ thuật thứ tư được trình bày ở
phần sau, để tim ra nhiều hơn về năng lượng tối.
Bức xạ vi sóng vũ trụ cũng mang lại “ánh sáng phản hồi” để phát hiện ra các
cụm thiên hà qua “cái bóng” của chúng khi các photon vi sóng tán xạ khỏi các
electron nóng bỏng trong lõi thiên hà. Được gọi là hiệu ứng Sunyaev–Zel'dovich,
một vài nhóm nghiên cứu hi vọng sử dụng được hiệu ứng này để đo kích thước của
các cụm thiên hà và do đó khoảng cách của chúng nhằm nghiên cứu năng lượng tối.
Các thí nghiệm như ACT và APEX-SZ ở Chile và Kinh thiên văn Nam Cực chỉ mới
bắt đầu hoạt động thử theo cách tiếp cận này.
© hiepkhachquay 7
Thăm lại sao siêu mới
Phương pháp trực tiếp nhất đo sự dãn nở vũ trụ giống như kĩ thuật đã được
sử dụng để phát hiện ra năng lượng tối ở giai đoạn thứ nhất: quan sát sao siêu mới
“loại Ia” ở xa. Đáng chú ý là toàn bộ những phép đo về những ngôi sao đang bùng
nổ này cho thấy chúng có cùng độ sáng chuẩn hóa bất chấp chúng xảy ra ngày hôm
qua hay 10 tỉ năm trước đây (độ sáng nội tại của chúng có thể biến thiên, nhưng một
khi tính đến thời gian cho ánh sáng của chúng đạt cực đại và mờ dần, thì độ sáng
của chúng có vẻ khá chuẩn). Như vậy, độ sáng đo được của sao siêu mới – có thể
nhìn vào chiều sâu của vũ trụ - cho chúng ta biết chúng ở cách bao xa.
Việc khám phá ra vũ trụ đang gia tốc hồi 10 năm trước là dựa trên quan sát
của vài tá sao siêu mới, nhưng kể từ đó các nhà nghiên cứu đã đo được vài trăm và
thu được một bức tranh thô của 10 tỉ năm vừa qua của sự dãn nở vũ trụ. Tiến bộ hơn
nữa trong vũ trụ học sao siêu mới yêu cầu những phép đo chính xác và chi tiết hơn
nữa về khoảng thời gian trọn vẹn này. Việc này giống như cách người ta xây dựng
bức tranh khí hậu của Trái Đất bằng cách nghiên cứu các vân cây, với các vân rộng
hướng tới một năm ấm hơn. Nhằm thu được bức tranh khí hậu rõ ràng nhất, người
ta không chỉ cần khảo sát nhiều cây hơn mà còn thu thập đủ dữ liệu từ các loại cây
khác nhau trong những môi trường khác nhau nhằm mang lại sự hiểu biết chính xác
hơn.
Sử dụng các phép đo vũ trụ học, chúng ta có thể lần theo khoảng cách tăng dần giữa các thiên hà
như một hàm của thời gian – tức là biểu đồ tiến hóa của sự dãn nở của vũ trụ ngược dòng thời
gian từ hiện tại (tại thời điểm 0 và khoảng cách đặt bằng 1) hay xuôi dòng thời gian tính từ Big
Bang (khoảng cách bằng 0). Kết hợp những kĩ thuật quan trắc khác nhau, như sao siêu mới, thấu
kính yếu và dao động baryon, cho phép các nhà thiên văn lập biểu đồ một ngưỡng rộng của lịch sử
vũ trụ và kiểm tra kết quả của phương pháp này so với phương pháp khác nhằm thu được sự hiểu
biết rõ ràng hơn về bản chất của vũ trụ đang gia tốc.
© hiepkhachquay 8
Trong tương lai trước mắt, những khảo sát ví dụ như Xưởng Sao siêu mới lân
cận sẽ nghiên cứu sao siêu mới từ đúng 1 tỉ năm gần đây nhất chi tiết một cách tài
tình, còn Panstarrs bắt đầu hoạt động trong năm 2008 ở Hawaii và Cuộc khảo sát
Năng lượng tối vào năm 2010 ở Chile sẽ khảo sát ngược dòng thời gian khoảng
chừng 7 tỉ năm, dù là kém chi tiết hơn. Tuy nhiên, sẽ khó mà phân biệt các mô hình
khác nhau cho năng lượng tối cho đến khi một thí nghiệm kết hợp được những đại
lượng tốt nhất của từng loại khảo sát: nói cách khác, đó là một sự xem xét chi tiết
cao độ từn sao siêu mới trong toàn bộ thời kì năng lượng tối ảnh hưởng đến vũ trụ.
Đối với các nguồn phát ở xa, ánh sáng bị lệch đỏ sang bước sóng hồng ngoại gần,
nên mục tiêu này yêu cầu một đài quan sát trên không gian.
Năm 1999, Thiết bị khảo sát Sao siêu mới/Gia tốc (SNAP) được đề xuất
nhằm thực hiện một sự so sánh “cây với cây” chi tiết cho chừng vài ngàn sao siêu
mới đang mở rộng trong 10 tỉ năm qua. NASA và Bộ Năng lượng Mĩ đã đồng ý tiến
hành Sứ mệnh Năng lượng tối chung, và hiện nay có thêm ít nhất là hai đề xuất nữa.
Đó là Kính thiên văn không gian Năng lượng tối (Destinv), thiết bị sẽ nghiên cứu
sao siêu mới và thấu kính yếu, và Kính thiên văn Vật lí Năng lượng tối tiên tiến
(ADEPT), sẽ nghiên cứu các dao động âm học baryon và sao siêu mới. Cả hai đều
đang cạnh tranh quỹ tài trợ với SNAP, và sứ mệnh thành công sớm nhất sẽ là vào
năm 2014.
Vũ khí cuối cùng mà chúng ta có để xử lí năng lượng tối là thấu kính hấp dẫn
yếu, bao gồm việc đo hình ảnh uốn cong ánh sáng phát ra bởi những thiên hà ở xa
do trường hấp dẫn của những sự tập trung khối lượng ví dụ như các thiên hà trên
đường truyền ánh sáng. Tưởng tượng một ai đó cầm một thấu kính giữa bạn và một
bức tường phủ một lớp giấy dán tường có hoa văn, sẽ méo hình sẽ phụ thuộc cả vào
sức mạnh của thấu kính lẫn khoảng cách từ nó đến hai mắt bạn và bức tường. Do đó,
thấu kính yếu khảo sát năng lượng tối vừa trực tiếp thông qua việc kéo căng khoảng
cách vừa gián tiếp thông qua khối lượng của các cụm thiên hà, vì sự dãn nở càng
nhanh thì càng khó cho lực hấp dẫn hút vật chất lại với nhau. Khi xem xét đồng thời,
những cuộc khảo sát lớn nhất và sâu xa nhất đảm nhận hình ảnh trong chừng mực
khoảng 1/400 của toàn bộ bầu trời, chủ yếu từ dữ liệu thu thập bởi Khảo sát Kính
thiên văn Canada-Pháp-Hawaii.
Những cuộc khảo sát chừng chục lần lớn hơn, đến những chiều sâu khác
nhau, sẽ được tiến hành trong vòng vài năm tới bởi Khảo sát Kilodegree ở Chile,
PanStarrs và Khảo sát Năng lượng tối. Kính thiên văn Khảo sát Khái quát Lớn
(LSST) mới trên mặt đất, bắt đầu vào năm 2013 hoặc muộn hơn, cũng được lên kế
hoạch khảo sát phân nửa của toàn bộ bầu trời, trong khi sứ mệnh SNAP cũng bao
hàm một khảo sát thấu kính yếu trên không gian có thể bao quát khoảng 1/10 bầu
trời sâu và với độ phân giải cao.
Những dữ liệu như thế, nhất là khi phối hợp với một khảo sát khoảng cách
thuần túy như khảo sát sao siêu mới, phải có thể mang lại những phép kiểm tra
chính xác tính chất của năng lượng tối – bao gồm việc làm sáng tỏ nghi vấn chủ yếu
xem năng lượng tối là một thành phần mới của vũ trụ hay là biểu hiện của những
quy luật mới của sự hấp dẫn. Đây là do sự bẻ cong ánh sáng chụp được bởi thấu
kính hấp dẫn yếu bị ảnh hưởng bởi cả sự gia tốc của vũ trụ lẫn cường độ hấp dẫn,
trong khi các khoảng cách sao siêu mới chỉ phụ thuộc vào sự gia tốc vũ trụ - bất
chấp nó bị chi phối bởi sự hấp dẫn mới hay một trường lượng tử mới. Chỉ bằng cách
© hiepkhachquay 9
sử dụng cả khảo sát khoảng cách như khảo sát sao siêu mới và khảo sát gia tăng như
thấu kính, chúng ta có thể tách riêng ra những ảnh hưởng này và khám phá ra nguồn
gốc vật lí thật sự của câu hỏi hết sức hóc búa của chúng ta, sự gia tốc vũ trụ.
Tương lai sáng sủa cho năng lượng tối
Trong 10 năm tới, chúng ta có thể lạc quan về những tiến bộ trong sự hiểu
biết của chúng ta về năng lượng tối. Những thí nghiệm phức tạp thế hệ tiếp theo
đang được thiết kế sẽ cải thiện đáng kể độ chính xác của những phép đo năng lượng
tối sử dụng nhiều kĩ thuật, phần nhiều trong số đó bổ sung cho nhau và do đó đưa
chúng ta gần hơn đến việc hiểu biết những tính chất của năng lượng tối. Trong thời
gian 10 năm, chúng ta phải có thể xác định phương trình trạng thái đến độ chính xác
2% và xem nó có biến thiên hơn 10% hay không trong 10 tỉ năm qua, đồng thời
cũng kiểm tra xem nền vật lí mới bao hàm một trường lượng tử mới hay một lí
thuyết hấp dẫn mới.
Một trong những khó khăn trong việc tìm hiểu nguồn gốc của năng lượng tối là bất kì kĩ thuật nào
khảo sát vũ trụ cũng phản hồi câu trả lời kết hợp các mảng thông tin khác nhau. May thay, những
kĩ thuật nhất định có thể kết hợp mang lại câu trả lời có sức mạnh hơn nhiều. Khi vẽ đồ thị phương
trình trạng thái thông số cho năng lượng tối, w, đại lượng đo lượng đẩy “phản hấp dẫn” mà nó có,
theo lượng vật chất có mặt hiện nay, ΩM, vật chất cấu thành nên phần còn lại của vũ trụ, chúng ta
có thể thấy dữ liệu hiện nay từ khảo sát sao siêu mới (dải màu xanh dương), bức xạ nền vi sóng vũ
trụ (màu cam), và dao động âm học baryon (màu xanh lá) đều cho góc khác lên bản chất của năng
lượng tối (vùng tô đậm hơn của từng màu biểu diễn độ tin cậy thời gian riêng 68% và vùng tô nhạt
hơn là độ tin cậy 95% và 99%). Khi kết hợp kết quả từ cả ba khảo sát này lại, chúng ta có thể đột
ngột chú ý vào bản chất của năng lượng tối. Kết quả này được chỉ ra bằng vùng màu đen nhỏ ở
chính giữa, cho thấy rằng năng lượng tối phù hợp với hằng số vũ trụ Einstein cho bởi w = - 1.
© hiepkhachquay 10
Với những tiến bộ như thế, chúng ta sẽ có thể chắc chắn chuyển sang giai
đoạn chấp nhận nền vật lí mới của vũ trụ đang gia tốc của chúng ta. Có lẽ chúng ta
sẽ còn nhận định rằng những câu hỏi hóc búa như tại sao năng lượng tối tồn tại và
tại sao nó tồn tại ngay lúc này có những lời giải đơn giản bộc lộ thứ gi đó tuyệt đẹp
về nền vật lí cơ sở. Nhưng chúng ta cũng không nên quên rằng lĩnh vực năng lượng
tối là rất trẻ, và có lẽ chúng ta sẽ còn có một thời kì khám phá lâu dài và đầy hào
hứng ở phía trước trước khi nó trưởng thành.
Việc tìm hiểu phương trình trạng thái cho năng lượng tối cũng có thể đột
ngột làm thay đổi sự hiểu biết của vũ trụ về số phận của vũ trụ. Ví dụ, sự tăng tốc
liên tục sẽ dẫn tới một vũ trụ ngày càng kém đậm đặc hơn và lạnh lẽo hơn, với
đường chân trời của vũ trụ nhìn thấy tiến gần đến xung quanh người quan sát và
cuối cùng để lại cho chúng ta một vũ trụ thật sự tối tăm. Nhưng sự hiểu biết tốt hơn
về năng lượng tối cũng làm phát sinh những nghi vấn sâu sắc khác.
Nếu như sự dãn nở tăng tốc thật sự là một cánh cửa mở vào những lí thuyết
hấp dẫn mới, chẳng hạn, thì nó có thể hé mở những chiều ẩn giấu của không-thời
gian hay không ? Năng lượng tối có hoàn toàn tối, tách rời với vật chất và các
trường lượng tử khác hay không ? Có thể nào phát hiện ra sự co cụm năng lượng
tối – một bổ sung cần thiết cho bất kì sự biến đổi nào của năng lượng tối theo thời
gian – hay không ? Và có hay không một sự biến đổi có liên quan trong cái chúng ta
cho là những hằng số, ví dụ như hằng số hấp dẫn Newton hay khối lượng của
electron ?
Tiếp theo câu trả lời cho những câu hỏi nan giải đó về bản chất của vũ trụ
của chúng ta đòi hỏi lí thuyết, mô phỏng và các quan sát liên tục phối hợp với nhau.
Trong cuộc truy lùng năng lượng tối, chúng ta sẽ không thể tránh khỏi và hài lòng
thu thập dữ liệu và đồng thời phát triển sự hiểu biết về vũ trụ thiên văn vật lí quen
thuộc hơn: các sao, thiên hà, cụm thiên hà, bức xạ nền vũ trụ, neutrino và những
khám phá đến nay vẫn chưa tưởng tượng ra. Con đường phía trước đang thách thức.
Nhưng các nhà vũ trụ có những ý tưởng rõ ràng trong việc thực thi những khảo sát
cải tiến nhằm tiếp tục sự tiến bộ đáng chú ý trong cuộc cách mạng vật lí của vũ trụ
đang tăng tốc.
Nghiên cứu sao siêu mới
Bằng cách đo sự dãn nở của vũ trụ sử dụng các sao đang bùng nổ - sao siêu
mới – làm vật chỉ thị khoảng cách, các nhà khoa học hi vọng trả lời được cho một
số câu hỏi cơ bản nhất của sự tồn tại, ví dụ như vũ trụ có vô hạn hay không, nó có
tiếp tục dãn nở mãi mã hay không, hay lực hấp dẫn sẽ có làm chậm sự dãn nở sao
cho vũ trụ cuối cùng sẽ bắt đầu co trở lại và sau cùng sẽ kết thúc trong một vụ “co
lại lớn” hay không. Sao siêu mới có ích về phương diện này vì chúng sáng đến mức
chúng có thể được nhìn thấy từ trên Trái Đất này, cho dù là ánh sáng của chúng đã
truyền đi 10 tỉ năm trước khi chạm tới chúng ta. Hơn nữa, có một họ sao siêu mới
nhất định – gọi là loại Ia – mà tất cả đều tỏa sáng đến giá trị cực đại như nhau trước
khi bắt đầu lu mờ đi. Vì chúng ta biết tốc độ ánh sáng, nên chúng ta có thể tính
được bao lâu trước đây những vụ nổ này xảy ra đơn giản bằng cách đo cực đại độ
sáng biểu kiến của sao siêu mới ngày nay.
Cái các nhà khoa học cần nghĩ tới là sao siêu mới với nhiều độ sáng biểu
kiến, nói cách khác, những sao này nằm ở những khoảng cách khác nhau tính từ
© hiepkhachquay 11
Trái Đất. Sao siêu mới chủ yếu phát ra ánh sáng xanh bước sóng ngắn bị kéo căng
thành những bước sóng dài hơn, đỏ hơn khi vũ trụ dãn nở. Bằng cách đo kích thước
của sự “lệch đỏ” này, người ta có thể xác định kích thước của vũ trụ khi vụ nổ xảy
ra tương đối so với kích thước của nó ngày nay. Cho dù là các nhà thiên văn Walter
Baade và Fritz Zwicky đã đề xuất hồi thập niên 1930 rằng một phép đo như thế có
thể thực hiện được, nhưng sao siêu mới ở bất kì độ lệch đỏ cho trước có nhiều độ
sáng thật sự, có nghĩa là ý tưởng đó héo mòn dần cho đến giữa thập niên 1980 khi
sao siêu mới loại Ia đồng đều hơn được nhận ra. Những tiến bộ trong kĩ thuật tính
toán và công nghệ camera cũng giúp làm tái sinh cách tiếp cận này: những camera
mới nhất không chỉ nhạy hơn nhiều so với các tấm phim chụp, mà còn là kĩ thuật số,
nghĩa là hình ảnh của chúng có thể dễ dàng phân tích bằng máy tính. Đặc biệt,
người ta có thể tìm kiếm sao siêu mới bằng cách quét qua các thiên hà trong một
đêm.
Sao siêu mới, ví dụ như các sao này chụp bởi Kính thiên văn vũ trụ Hubble, sáng như các thiên hà
và được rộng rãi để đo mức độ nhanh mà vũ trụ đang dãn nở.
Dẫu vậy, vấn đề không được sáng tỏ mãi cho đến cuối thập niên 1980 thì sao
siêu mới rất xa mới được tìm thấy và nghiên cứu khi tiến hành tìm kiếm sao siêu
mới. Thật vậy, một đội nhà thiên văn ở Đan Mạch, đứng đầu là Hans Nørgaard-
Nielsen, đã tiến hành một cuộc truy lùng khổng lồ tìm sao siêu mới từ năm 1986
đến 1988 mang lại chỉ một sao siêu mới loại Ia xa xôi; tệ hơn nữa, nó đã ở vào giai
đoạn lu mờ, độ sáng cực đại của nó đã qua.
Một thập niên nỗ lực là cần thiết để làm rạn ra vấn đề, bao gồm những kĩ
thuật mới tìm kiếm và nghiên cứu toàn bộ các nhánh của sao siêu mới loại Ia trước
khi chúng đạt đến độ sáng cực đại của chúng. Trong các thuyết trình tại các hội nghị
khoa học vào đầu năm 1998 và qua những bài báo công bố vào cuối năm đó, hai đội
nghiên cứu – đội Tìm kiếm Sao siêu mới Z cao đứng đầu là Brian Schmidt đến từ
trường đại học quốc gia Australia và Dự án Vũ trụ học Sao siêu mới đứng đầu là
một trong hai tác giả của bài viết này (SP) – đã đưa ra những kết quả rất bất ngờ.
Mặc dù họ đã cố gắng đo mức độ sự dãn nở vũ trụ chậm dần, nhưng cả hai đội
nghiên cứu đều tìm thấy sự dãn nở vũ trụ đang nhanh lên. Để thấy sao siêu mới bị
lệch đỏ một lượng nhất định, cả hai đội đều thấy cần phải nhìn vào những sao siêu
mới mờ nhạt hơn và ở xa hơn so với mong đợi. Nói cách khác, vũ trụ hiện nay đang
dãn nở nhanh hơn so với trong quá khứ.
© hiepkhachquay 12
Hiện nay, đã một thập niên trôi qua, các nhà khoa học vẫn không có ý kiến
tại sao sự dãn nở vũ trụ lại đang tăng tốc. Có lẽ nó là một dấu hiệu cho thấy thuyết
tương đối rộng của Einstein sẽ phải được xét lại. Nhưng nếu sự gia tốc là do cái gọi
là năng lượng tối, thì chúng ta còn lại một vấn đề khó khăn không kém – cụ thể là
gần như ba phần tư vật chất trong vũ trụ cấu thành từ thứ mà chúng ta chẳng biết gì
cả.
Năng lượng tối
• Phát hiện ra 10 năm trước đây từ những quan sát sao siêu mới do hai
đội quốc tế độc lập thực hiện, sự gia tốc vũ trụ là một trong những
khám phá nổi bật nhất trong vũ trụ học.
• Động lực chi phối sự tăng tốc vũ trụ thường được gán cho “năng
lượng tối” – một chất không biết, đẩy hấp dẫn và cấu thành đến 75%
thành phần khối lượng-năng lượng của vũ trụ.
• Dữ liệu hiện nay cho thấy năng lượng tối có thể là một số loại “hằng
số vũ trụ”, do Einstein đề xuất lần đầu tiên vào năm 1917 và có một
cách giải thích cơ lượng tử là năng lượng chân không.
• Nghi vấn chủ yếu mà các nhà nghiên cứu ngày nay đối mặt là năng
lượng thật sự là một hằng số vũ trụ hay một thứ gì đó khác còn lạ
lùng hơn. Giải quyết bài toán này bao gồm việc đo phương trình
thông số trạng thái, w, chính xác hơn nhiều nữa.
• Những phép đo chính xác hơn của sao siêu mới, các dao động âm học
baryon tính, nền vi sóng vũ trụ và thấu kính hấp dẫn yếu sẽ giúp trả
lời câu hỏi này trong thập niên tới.
• Năng lượng tối cuối cùng có thể để lại cho vũ trụ của chúng ta toàn
bộ sự tối tăm bởi việc làm cho các vật thể lùi xa khỏi Trái Đất ngày
càng nhanh hơn nữa cho đến khi chùng mờ khuất tầm nhìn.
Đọc thêm về năng lượng tối
Tác giả: Eric Linde và Saul Perlmutter hiện đang làm việc tại trường đại
học California ở Berkeley, Mĩ.
Nguyên bản: Dark energy: the decade ahead (Physics World, tháng 12/2007)
hiepkhachquay dịch
An Minh, ngày 05/12/2007, 21:29:15
© hiepkhachquay 13
MỘT TƯƠNG LAI ĐEN TỐI CHO VŨ TRỤ HỌC
Lawrence M Krauss
Cho dù với nhiều quan sát đã được lên kế hoạch trong thập niên tới, nhưng
có một sự may rủi thật sự chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được bản chất đích thực
của năng lượng tối, như Lawrence M Krauss trình bày sau đây.
Khám phá hồi 10 trước đây rằng sự dãn nở vũ trụ đang tăng tốc, ngụ ý rằng
đa phần vũ trụ cấu thành từ một chất đẩy hấp dẫn gọi là năng lượng tối, là một trong
những quan sát nổi bật nhất trong lĩnh vực vũ trụ học. Một vài nhà lí thuyết của
chúng ta hồi vài ba năm trước đây đã thật sự tranh cãi rằng một thứ gì đó giống như
năng lượng tối phải tồn tại – nguyên do là một chất như thế có thể giải quyết sự mâu
thuẫn, ví dụ, trong những phép đo của sự tổng hợp hạt nhân Big Bang và tuổi của
vũ trụ. Nhưng quan sát trực tiếp của sự gia tốc vũ trụ thông qua những phép đo sao
siêu mới ở xa chứng minh cho toàn bộ cộng đồng rằng hiểu biết của chúng ta về sự
tiến hóa của vũ trụ cần phải đại tu lại.
Các phép đo có lẽ không bao giờ tiết lộ vật chất tối có thể giải thích
được hay không bằng một hằng số vũ trụ.
Chúng ta không hề có bất cứ lời giải thích nào cho mật độ đo được của năng
lượng tối dựa trên các lí thuyết cơ sở của chúng ta về vật lí hạt cơ bản. Vì những
điều kiện ban đầu của vũ trụ có lẽ được xác định bởi những quy luật cơ sở như thế,
nên việc tìm hiểu xem năng lượng tối là cái gì chắc chắn sẽ buộc chúng ta phải nghi
vấn sự hiểu biết của mình về những thời khắc sớm nhất của Big Bang. Đây là
nguyên nhân vì sao người ta lại quá hào hứng với việc cố gắng và giải quyết bí ẩn
của nguồn gốc lẫn bản chất của loại năng lượng kì lạ này, thứ năng lượng hình như
thấm đẫm không gian trống rỗng.
Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ rất có khả năng những quan sát tương lai – bị hạn
chế bởi cả sai số thực nghiệm và thiếu sự chỉ dẫn lí thuyết về thứ tìm kiếm – sẽ rọi
chút ít ánh sáng mới lên những nghi vấn hết sức quan trọng này. Thay vì vậy, có lẽ
chúng ta cần những ý tưởng lí thuyết mới để giải quyết bản chất của năng lượng tối,
và chúng thường khí xuất hiện hơn những quan sát mới.
© hiepkhachquay 14
Sự tiên đoán ngược đời
Mặc dù chúng ta không có một lí thuyết cho phép mình tiên đoán giá trị quan
sát được của mật độ của năng lượng tối, nhưng chúng ta thật sự có một ứng cử viên
tiềm năng cho nguồn gốc của nó: hằng số vũ trụ học. Do Einstein đề xuất vào năm
1917 là một thuật ngữ bổ sung trong những phương trình thuyết tương đối rộng của
ông làm cho vũ trụ có thể tĩnh tại và vĩnh hằng (một sự khôn ngoan thịnh hành thời
đó), hằng số vũ trụ là một loại “phản hấp dẫn” tràn ngập toàn bộ không gian.
Tuy nhiên, kể từ thập niên 1960, một thuật ngữ hằng số như thế đã có trụ cột
lí thuyết khác. Cơ học lượng tử, cùng với thuyết tương đối, ngụ ý rằng không gian
trống rỗng tràn đầy một mẻ hoang dại các hạt ảo tạt đến và biến mất nhanh đến mức
chúng ta không thể trực tiếp phát hiện ra chúng được. Tuy nhiên, những hạt này để
lại vết tích có thể đo được lên mọi thứ từ khoảng cách giữa các mức năng lượng
nguyên tử cho đến lực Casimir đẩy các tấm kim loại mang lại rất gần nhau.
Người ta có thể trông đợi những hạt ảo này đóng góp năng lượng cho không
gian trống rỗng, thu được dạng thức giống hệt hằng số vũ trụ nguyên bản của
Einstein đã đưa đến lực đẩy vũ trụ và do đó là một vũ trụ đang gia tốc. Dạng “năng
lượng chân không” này có tính đẩy hấp dẫn vì nó có áp suất âm bằng và ngược dấu
độ lớn với mật độ năng lượng của nó. Nói cách khác, tỉ số áp suất trên mật độ năng
lượng – gọi là “phương trình trạng thái” thông số, w – có giá trị - 1.
Một sự giải thích cơ bản, vi mô như thế cho năng lượng tối đúng là cái các
nhà vũ trụ học đang tìm kiếm. Nhưng có một cái bẫy gài lớn: khi chúng ta nỗ lực
ước tính độ lớn của năng lượng chân không dựa trên sự hiểu biết hiện nay của
chúng ta về vật lí hạt cơ bản, chúng ta thu được một giá trị lớn hơn 120 bậc so với
giá trị đo được! Điều này có nghĩa là nếu như năng lượng tối tương ứng với một
hằng số vũ trụ phát sinh từ năng lượng chân không khác không, thì có cái gì đó về
cơ bản là sai lầm với sự hiểu biết của chúng ta về nền vật lí hạt. Mặt khác, nguồn
năng lượng tối có lẽ chỉ nhạy lại hằng số vũ trụ ở thời hiện tại, và có lẽ nó là một cái
gì đó phức tạp hơn là biến thiên như một hàm của thời gian. Thật vậy, có thể một
nguồn năng lượng tối như thế sẽ biến mất hoàn toàn vào một lúc nào đó trong tương
lai, điều đó có thể ngụ ý rằng năng lượng chân không cơ bản của tự nhiên chính xác
là bằng không. Khi đó, chúng ta có thể hiểu một giá trị như thế, có lẽ, là do một số
đối xứng mới của tự nhiên triệt tiêu chính xác hết đóng góp của tất cả các hạt ảo.
Nhưng vấn đề là ở chỗ đó. Cách duy nhất chúng ta có thể xác định từ các
quan sát rằng năng lượng tối không phải là một hằng số vũ trụ là bằng cách nào đó
đo phương trình trạng thái thông số, w, của nó, và tìm thấy nó không, hay đã từng
không, bằng – 1. Nếu giá trị đo được không thể phân biệt với – 1 trong sai số thực
nghiệm, thì chúng ta không biết điều gì hết vì năng lượng tối có thể là một hằng số
vũ trụ hay một thứ gì khác kém kì lạ hơn (hoặc kì lạ hơn) hành xử rất giống với nó.
Những thách thức quan sát trong việc phân biệt giữa những kịch bản này đang hết
sức thoái chí.
Thách thức quan sát
Dữ liệu hiện có cho thấy – 1,2 < w < - 0,8, w rất gần với giá trị hằng số vũ trụ
- 1. Nhưng vì không hề có thứ lí thuyết nào chỉ dẫn chúng ta biết w hóa ra có không
bằng -1 hay không, hoặc là hiện nay hoặc là sớm hơn trong lịch sử vũ trụ, chúng ta
© hiepkhachquay 15
buộc phải cho phép khả năng w biến thiên tùy tiện theo thời gian. Khi sai số lí
thuyết này kết hợp với sai số hệ thống khả dĩ của quan sát – ví dụ do những khó
khăn trong việc xác định độ sáng tuyệt đối của sao siêu mới – sẽ thật khó nói
phương trình trạng thái của năng lượng tối có thật sự bị lệch khỏi -1 hay không vào
bất cứ thời điểm nào trong quá khứ.
Hồi đầu năm nay, tôi cùng với Dragan Huterer ở trường đại học Chicago và
Kate Jones-Smith thuộc trường đại học Case Western Reserve, tính được rằng cho
dù là quan sát 3000 sao siêu mới được thực hiện với độ chính xác phép đo tốt hơn
chút xíu thôi so với độ chính xác đã có trước nay, thì sự ràng buộc trên giá trị đo có
thể cải thiện nhiều nhất là 2 lần một khi sai số lí thuyết ở w được hợp nhất vào. Nói
cách khác, - 1,1 < w < - 0,9.
Nhưng, vì mục đích lập luận, chúng ta hãy nói rằng giá trị thật sự của
phương trình trạng thái thông số là w = - 0,96. Khi đó, cho dù chúng ta có khả năng
cải thiện sai số hiện có ở w lên 10 lần bằng những kĩ thuật được đề xuất ngoài việc
đơn giản đo sao siêu mới ở xa, giá trị w = - 1 sẽ chỉ là hai độ lệch chuẩn khỏi giá trị
phù hợp nhất (không thể tương ứng với w = - 0,96). Thật không may, những khoảng
thời gian riêng như thế thường xuất hiện trong vật lí và, trong khi gợi ý, không đủ
để khẳng định là một khám phá.
Điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ phải từ bỏ các nỗ lực đo w. Nó chỉ có
nghĩa là nhà quan sát sẽ phải làm việc rất vất vả để làm giảm sai số hệ thống, ví dụ,
trong những phép đo sao siêu mới xuống dưới mức hiện nay. Và dẫu cho các nhà
thực nghiệm làm chủ được một kì công như thế, thì chúng ta phải sống phải khả
năng rõ ràng rằng việc mang đến sự tiến bộ to lớn – tức là trả lời được câu hỏi năng
lượng tối là một hằng số vũ trụ hay là một cái gì khác – có khả năng nằm ngoài tầm
với thực nghiệm của chúng ta.
Một thời điểm rất đặc biệt
Nếu như chúng ta không thể trả lời câu
hỏi này, thì khả năng chúng ta làm chủ các mô
hình trong nền vật lí hạt cơ bản sẽ bị hạn chế vì
chúng ta không biết năng lượng tối là do năng
lượng chân không hay một thứ gì khác. Nhưng
sự mù tịt như thế cũng sẽ làm cho khó mà đoán
được tương lai lâu dài của vũ trụ. Thật vậy, nếu
năng lượng tối thật sự là một hằng số vũ trụ, thì
các nhà khoa học cách nay 100 tỉ hay ngần ấy
năm sẽ đều mất hết bằng chứng rằng chúng ta
đang sống trong một vũ trụ đang dãn nở bị
năng lượng tối thống trị. Đây là do khi đó sự
gia tốc vũ trụ sẽ làm cho các thiên hà và sao
siêu mới xa xôi lùi xa nhau ở tốc độ lớn hơn
tốc độ ánh sáng, vì thế đưa những vật chỉ thị
Lawrence M.Krauss
này của động lực học vũ trụ mãi mãi ra khỏi
tầm nhìn.
Do đó, dường như chúng ta đang sống trong một thời khắc rất đặc biệt, ấy là
thời gian duy nhất trong lịch sử vũ trụ chúng ta thật sự có thể suy luận ra sự tồn tại
© hiepkhachquay 16
của chính năng lượng tối. Vì thế, có lẽ chúng ta không nên cảm thấy quá tồi tệ nếu
như quan sát trong những thập niên sắp tới không cho phép chúng ta giải mã bí ẩn
nguồn gốc và bản chất của năng lượng tối. Sau hết thảy, thường thường thì chính
các bí ẩn đã giữ các nhà khoa học tiến lên, tiếp thêm sinh lực cho các nhà lí thuyết
tiếp tục giải thích về bản chất tối hậu của thực tại và thúc đẩy các nhà quan sát tìm
kiếm những công cụ mới để khảo sát nó.
Tác giả: Lawrence M.Krauss, Giám đốc Trung tâm Giáo dục và Nghiên
cứu Vũ trụ học và Thiên văn vật lí tại trường đại học Case Western Reserve, Mĩ.
Cuốn sách mới đây nhất của ông viết về năng lượng tối là Hiding in the Mirror.
Nguyên bản: A dark future for cosmology (Physics World, tháng 12/2007)
hiepkhachquay dịch
An Minh, ngày 06/12/2007, 22:12:21
© hiepkhachquay 17
NĂNG LƯỢNG TỐI
Robert P Crease
Cuộc đối đầu giữa hai đội nhà khoa học phát hiện ra sự dãn nở của vũ trụ
đang tăng tốc cho thấy thật khó như thế nào việc công nhận một thành tựu khoa học
thuộc về ai – nhất là khi giải Nobel có thể được trao vào một ngày nào đó, như
Robert P Crease giải thích.
Khám phá của hai đội nhà khoa học độc lập cách nay một thập niên rằng sự
dãn nở của vũ trụ đang tăng tốc là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong
lĩnh vực vũ trụ học những năm gần đây. Bản niên đại cạnh tranh giữa hai đội – và
vai trò mà các đối thủ giữ trong những sự kiện tiếp theo – minh họa cho những sự
nhập nhằng chủ yếu trong nét đặc trưng của tiến bộ khoa học, bao gồm bản chất của
khám phá, cách thức các thông cáo được thực hiện và khó khăn trong việc công
nhận thành tựu.
Thực hiện khám phá
Câu chuyện khám phá ra vũ trụ đang tăng tốc bắt đầu vào năm 1987 khi các
nhà vật lí tại trường đại học quốc gia Lawrence Berkeley và trường đại học
California ở Berkeley khởi động Dự án Vũ trụ học Sao siêu mới săn tìm những ngôi
sao đang bùng nổ ở xa nhất định, gọi là sao siêu mới loại Ia. Họ hi vọng sử dụng
các sao này để tính ra, trong số những thứ khác, tốc độ chậm dần đi của sự dãn nở
của vũ trụ. Sự giảm tốc được người ta trông đợi vì trong sự vắng mặt của cái mà
Einstein gọi là hằng số hấp dẫn – một lực phản hấp dẫn, Λ, đẩy vật chất ra xa
nhau – nhiều người nghĩ rằng ΩM, lượng vật chất quan sát thấy trong vũ trụ ngày
nay là một phần của mật độ tới hạn, là đủ để làm chậm lại mãi mãi sự dãn nở vũ trụ,
nếu như không mang nó đến một sự dừng lại sau cùng.
© hiepkhachquay 18
Saul Perlmutter, người nghiên cứu về các phương pháp tự động hóa việc tìm
kiếm sao siêu mới lân cận là một phần của luận án tiến sĩ của ông, cuối cùng trở
thành lãnh đạo của đội nghiên cứu. Trong các đồng sự của ông có Gerson
Goldhaber, một nhà vật lí khác khá thông thạo các kĩ thuật ghi ảnh vật lí hạt. Việc
nhận ra các sao siêu mới phù du – xuất hiện bất ngờ và rồi lụi mất vài tuần sau đó –
là cực kì khó khăn. Thật vậy, cũng khoảng thời gian đó, các nhà nghiên cứu ở Đan
Mạch, đứng đầu là Hans Nørgaard-Nielsen đã mất hai năm tích cực tìm kiếm sao
siêu mới loại Ia ở xa nhưng họ chỉ làm chủ được một sao siêu mới duy nhất, 1988u.
Hơn nữa, các sao siêu mới đã qua vài tuần sau độ sáng cực đại tới hạn của nó được
dùng để định cỡ sao siêu mới – và vì thế không thể dùng cho loại phép đo mong
muốn. Một cách độc lập, đội SCP, khi đó đã đếm được gần nửa tá nhưng các sao
trong số đó biến thiên theo năm tháng, đã phát triển một số phương pháp thực
nghiệm mới khắc phục thử thách và dự án của đội đang tiến triển. Trong số này có
một camera trường rộng mới có thể quan sát những thiên hà ở rất xa chỉ trong một
đêm.
Không giống như các nhà nghiên cứu người Đan Mạch, đội SCP tìm kiếm
sao siêu mới bằng phương pháp “hai lần thăm”, gồm việc ghi ảnh cùng một khu vực
của bầu trời hai lần giữa hai chu kì trăng mới. Quan sát thứ hai được thiết kế nhằm
khám phá một nhánh ứng cử viên sao siêu mới vừa tỏa sáng không có mặt trong
quan sát thứ nhất; sau đó đội nghiên cứu có thể lên lịch trình tiếp theo trên những
kính thiên văn khác nhằm đo những sao siêu mới này một cách chi tiết. Các nhà
khoa học SCP cũng đưa ra những cách tân khác. Ví dụ, trong khi đa số nhà thiên
văn sử dụng bậc độ lớn lôga cho độ sáng, thì đội SCP sử dụng các đơn vị thực sự
của thông lượng và năng lượng trong số liệu thống kê của họ. Đội cũng nghĩ ra
phương pháp cải tiến “hiệu chỉnh K” cho sao siêu mới, trong đó các bộ lọc khác
nhau được sử dụng để bắt ánh sáng lệch đỏ và lệch xanh. Phương pháp này thỉnh
thoảng được dùng trong quá khứ để nghiên cứu các thiên hà, nhưng bây giờ nó
được chấp nhận bởi tất cả các đội nghiên cứu sao siêu mới.
Ban đầu, các thành viên của đội SCP, là những người tương đối mới mẻ, đã
vấp phải, trong thế giới thiên văn cạnh tranh khốc liệt, việc đảm bảo thời gian liên
tục ở những chiếc kính thiên văn hàng đầu quá tải như Đài quan sát Cerro Tololo ở
Chile. Đội nghiên cứu đã mất vài năm hiệu chỉnh cẩn thận phương pháp của mình,
vật lộn với những đợt thời tiết xấu và trở ngại từ phía ủy ban điều phối chương trình
trước việc dành thời gian kính thiên văn cho một kĩ thuật chưa được chứng minh.
Trong những phép đo quang phổ học sau đó, đội nghiên cứu đã tìm kiếm và nhận
được sự hỗ trợ từ phía các nhà thiên văn với những chương trình đã được phê chuẩn.
Năm 1992, cuối cùng các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một sao siêu mới – 1992bi –
sao siêu mới xa nhất từng được phát hiện lúc đó, và công bố một bài báo. Nó trở
thành ấn phẩm đầu tiên về một sao siêu mới ở xa từng được phát hiện đủ sớm để đo
được độ sáng cực đại của nó.
Nhưng không phải thành công ngay tức thời. Người phản biện của nó, nhà
thiên văn vật lí Harvard Robert Kirshner, cho rằng ông đã nhìn thấy những thiếu sót
mang tính khái niệm trong bài báo đó. Trong số những thứ khác, ông không đồng ý
với phương pháp xử lí bụi của đội SCP. (Bụi làm cho sao siêu mới có vẻ mờ đi và
do đó trông xa hơn trên thực tế và có khả năng bóp méo các kết luận về vũ trụ học)
Bài báo của đội SCP (Astrophys. J. 440 L41) không được xuất bản mãi cho đến năm
© hiepkhachquay 19
1995, khi đội nghiên cứu cuối cùng thuyết phục được nhà phản biện thâm niên nổi
tiếng thứ hai, Allan Sandage, rằng kĩ thuật của đội, bao gồm việc xử lí hiệu chỉnh K
mới lạ và không theo chuẩn, là đáng tin cậy và ông cho phép đội nghiên cứu không
phải lo lắng về bụi vào lúc này.
Năm 1995, nhóm SCP đã đưa ra đều đặn các ứng cử viên sao siêu mới, tìm
thấy và đã đo bảy, và chứng minh đươc sự thoải mái và tính hiệu quả của phương
pháp. Brian Schmidt (một cựu học trò của Krishner) đã chú ý, hiểu rõ giá trị những
khó khăn mà đội SCP vướng phải với bụi, cho rằng có những cách xử lí nó tốt hơn
cách đội SCP đã sử dụng, và đã tuyển thêm vài nhà thiên văn khác, thành lập một
đội hợp tác nữa, gọi là Đội Tìm kiếm Sao siêu mới Z cao. “Liên tục không yên với
vấn đề bụi”, Schmidt nói với tôi, “hơn hết thảy, đưa đến việc thành lập đội Z cao”.
Schmidt cũng viết rằng đội cũng sử dụng “sự tinh thông trong việc hiểu biết và đo
đạc sao siêu mới làm lợi thế cạnh tranh [của mình]”, nhất là đối với nghi vấn bụi đòi
hỏi phải tinh tế. Những thành viên chỉ đạo khác bao gồm Nicholas Suntzeff, khi đó
ở Cerro Tololo, Kirshner và cựu học trò của ông là Adam Riess, người đã nghiên
cứu bụi giữa các sao trong luận án tiến sĩ của ông. Alex Filippenko, một chuyên gia
quốc tế về phân tích phổ sao siêu mới, sớm bỏ nhóm SCP sang gia nhập đội Z cao.
Các nhà thiên văn Z cao nhanh chóng tìm được thời gian trên kính thiên văn Cerro
Tololo. Tuy nhiên, đội Z cao vẫn bị bỏ lại đằng sau, và Krishner thậm chí còn tự hỏi
không biết nó có quá muộn so với các nhà nghiên cứu SCP.
Nhưng những đối thủ của nó không chú tâm đến. Như Goldhaber nhận định
“Bầu trời là một nơi to lớn”.
Đội SCP công bố một bài báo mô tả kĩ thuật của mình và số liệu trên loạt đầu
tiên trong số 7 sao siêu mới (1997 Astrophys. J. 483 565). Do vật thể nhỏ nên dữ
liệu có thanh sai số lớn. Nó hướng tới một giá trị ΩM trong vũ trụ là 0,88. Ở giá trị
mặt, con số này gần một cách trêu ngươi với một mô hình lí thuyết tương đối đơn
giản, thịnh hành khi đó, trong đó ΩM = 1, cho thấy rằng vũ trụ đang ở trên lưỡi
ngạnh của sự co trở lại. Các nhà nghiên cứu cũng biết rằng con đường dẫn đến câu
trả lời cuối cùng nằm ở chỗ yêu cầu nhiều tập hợp thống kê hơn, và lưu ý trong bài
báo của họ rằng 18 sao siêu mới khác đang được đo. “Lại một lần nữa, phép phân
tích tập hợp sao siêu mới lệch đỏ cao tiếp theo của chúng tôi sẽ kiểm tra và sàng lọc
những kết quả này”, bài báo kết luận.
Đội SCP sớm đưa thêm nhiều sao siêu mới vào trong phân tích của mình,
trong đó có 1997ap, sao siêu mới ở xa nhất từng được phát hiện. Vì 1997ap nằm
quá xa ngoài không gian và dễ dàng đo bằng Kính thiên văn vũ trụ Hubble, nên nó
ảnh hưởng mạnh mẽ lên phép phân tích. Khi đội SCP hợp nhất nó vào trong bài báo
xuất bản tháng 1/1998 (Nature 391 51), số liệu đề xuất giá trị cho ΩM nhỏ hơn 0,88.
Như bài bình luận có liên quan trong số báo đó của tờ Nature đã lưu ý, một giá trị
như thế ngụ ý sự tồn tại của một hằng số vũ trụ, nếu như lí thuyết lạm phát chuẩn
của sự khai sinh ra vũ trụ là chính xác. Vào ngày 7/10/1997 – một tuần sau khi đội
SCP công bố bài báo Nature của mình – đội Z cao độc lập công bố bài báo đầu tiên
của họ, tác giả đứng đầu là Peter Garnavich. Bài báo đó, xuất bản trong tháng
2/1998 trên tờ Astrophysical Journal (493 L53), cũng mang lại một giá trị thấp cho
ΩM
© hiepkhachquay 20
Nhà lãnh đạo đội Z cao Brian Schmidt
(hình trên cùng, bên trái) bắt tay với
nhà lãnh đạo nhóm SCP Saul
Perlmutter hồi đầu năm nay. Hình
giữa là các thành viên của đội Z cao
và hình dưới là các thành viên nhóm
SCP.
Hai nhóm khá khác biệt, với phong cách và truyền thống chuyên môn ngược
nhau, hiện đang săn tìm các sao siêu mới ở xa – và hơn nữa là tốc độ giảm tốc của
vũ trụ. Mỗi nhóm làm việc cuống cuồng, e ngại sự có mặt của nhóm kia; đôi khi họ
còn sử dụng thời gian trên kính thiên văn liên tiếp nhau. Nhưng vì cộng đồng sao
siêu mới là nhỏ và gắn bó chặt chẽ với nhau, nên sự tác động qua lại không thể
tránh khỏi. “Chúng tôi chia sẻ ý kiến hay của từng nhóm khác”, Schmidt nói. Đội Z
cao giúp đội SCP bằng việc trao đổi thời gian sử dụng kính thiên văn trong cơn
khủng hoảng lịch trình khai thác, và đội SCP hỗ trợ đội Z cao bằng cách đo quang
phổ trong khoảng thời gian thời tiết xấu và cung cấp bản thảo tính toán hiệu chỉnh
K. Thật vậy, một vài ấn phẩm theo năm tháng có tác giả bao gồm các thành viên
thuộc cả hai nhóm. Như một điểm chuẩn, cả hai đội sử dụng cơ sở dữ liệu có giá trị
của sao siêu mới loại Ia Z thấp được biên soạn bởi một đội các nhà thiên văn Chile
và Mĩ, gọi là đội Calan/Tololo – tất cả các thành viên trong đội (kể cả Suntzeff) kể
từ đó đã gia nhập đội Z cao. Trong khi đó, một số thành viên của đội người Đan
Mạch cũ gia nhập nhóm SCP.
© hiepkhachquay 21
Sự nhập nhằng chỉ mới bắt đầu.
Công bố tin tức
Mùa thu năm 1997, đội SCP đã xây dựng số liệu thống kê của mình, tìm ra
40 sao siêu mới ở xa. Các thành viên trong đội đã làm việc không nghỉ ở những giai
đoạn khác nhau của phép phân tích. Thoáng nhìn vào những gợi ý cho vũ trụ học,
trong sổ ghi chép của ông, Goldhaber đã vẽ đồ thị cường độ sao siêu mới theo độ
lệch đỏ, tạo ra cái gọi là biểu đồ Hubble. Ông lưu ý – như những người khác trong
đội cũng bắt đầu ngờ vực – rằng dữ liệu gợi ý một giá trị âm cho mật độ khối lượng
ΩM. Đây là một kết quả vô lí chỉ có thể làm cho có nghĩa bằng cách đưa vào một
hằng số vũ trụ - một lực đẩy hướng ra xa. Thành ra điều này gợi ý rằng vũ trụ đang
tăng tốc.
Mặc dù dữ liệu trong bài báo Nature của đội SCP, lúc ấy đang in ấn, chứa
những dấu hiệu của một hằng số vũ trụ cho bởi kịch bản vũ trụ lạm phát, nhưng bây
giờ dữ liệu sinh ra bằng chứng của một hằng số vũ trụ mà chúng ta sống hay không
sống trong một vũ trụ lạm phát. Gợi ý này – bác bỏ cách hiểu của bài báo trước đây
của nó – làm tăng thêm mối quan tâm rằng bài báo của đội SCP đã giải thích quá
nhiều từ một kích thước vật mẫu nhỏ bé.
Trong khi đó, ở đội Z cao, Schmidt đi tới nỗ lực tìm kiếm và khám phá sao
siêu mới, với Riess bây giờ lãnh đạo việc thẩm tra và phân tích số liệu. Sổ ghi chép
trong phòng thí nghiệm của Riess từ mùa thu năm 1997 cho thấy ông cũng nhìn
thấy dấu hiệu của sự gia tốc vũ trụ dưới dạng khối lượng âm, và các thành viên Z
cao cũng đưa ra một biểu đồ Hubble sơ bộ với các vật thể ở trong địa hạt đang tăng
tốc. Dù vậy, trong cách trình bày phổ thông, đội nghiên cứu vẫn theo thuyết bất khả
tri, nói rằng “Chúng tôi không rõ!” về câu hỏi xem vũ trụ đang tăng tốc hay giảm
tốc.
Sau đó nổ ra một loạt sự kiện, ý nghĩa của chúng vẫn gây tranh luận kịch liệt
bởi những cá nhân nhất định ở hai nhóm.
Goldhaber đưa ra biểu đồ Hubble sơ bộ của ông tại một cuộc họp nhóm SCP
vào hôm 24/9/1997. Ngờ vực nhưng phấn chấn, các đồng sự của ông bắt đầu kiểm
tra chéo các chi tiết. Perlmutter và Goldhaber đưa sự thông tục vào kết quả hiện tại
của họ. Ngày 8 tháng 1 năm 1998, tại một cuộc họp của Hội Thiên văn học Mĩ
(AAS) ở thủ đô Washington, đội SCP thực hiện trình diễn quy mô lớn lần đầu tiên
của dữ liệu của đội trước cộng đồng khoa học. Đội nghiên cứu tổ chức một cuộc
thảo luận, phân phát tài liệu hội nghị và trưng bày một áp phích.
Bức áp phích (đặt online tại http://www.supernova.lbl.gov/ và vào ngày
30/12/1998 trên arXiv.org preprint server) thảo luận các kĩ thuật và tập hợp số liệu.
Nó bao gồm một biểu đồ Hubble cũng như một đồ thị ΩM theo ΩΛ (mật độ năng
lượng của hằng số vũ trụ) gồm một hình giống như con mắt bò cho thấy bằng chứng
rõ ràng của một hằng số vũ trụ. Trong kịch bản trường hợp xấu nhất, biểu đồ vẫn
chỉ ra xác suất không có hằng số vũ trụ chỉ là một cái đuôi nhỏ, trong trường hợp kì
lạ của một vũ trụ có không gian cong nhiều và khối lượng rất thấp. Bức áp phích ghi
“lưu các vùng riêng không bao hàm vũ trụ lạm phát ‘mô hình chuẩn’ không có hằng
số vũ trụ”. Nó cũng cảnh báo rằng “vùng riêng đường đứt nét ở bên phải đồ thị biểu
© hiepkhachquay 22
diễn ước tính sơ bộ của chúng tôi về sai số hệ thống này… Cần thêm những phân
tích khác để làm giảm sai số này.
Ấn phẩm công bố của đội nghiên cứu – mang tựa đề “Các sao đang bùng nổ
ở xa báo hiệu số phận của vũ trụ” – tập trung vào khám phá rằng vũ trụ sẽ không co
trở lại. Tại một cuộc họp báo đầy đủ, một nhà lí thuyết đã được mời đến và giải
thích với cánh nhà báo hằng số vũ trụ là cái gì và tại sao nó lại quan trọng. Một vài
phóng viên đã đưa tin. Một người là James Glanz của tờ Science, người viết bài báo
tựa đề “Các sao đang bùng nổ hướng tới một lực đẩy vũ trụ”. Một người khác nữa
là Charles Petit, người có câu chuyện trên trang nhất tờ San Francisco Chronicle số
ra ngày hôm sau mang dòng tít “Các nhà khoa học nhìn thấy sự tăng trưởng vũ trụ
bộc phát” và là người có câu chuyện “Một vài sự thật lấp lánh như sao và phổ biến”
trên tờ US News & World Report một vài ngày sau đó viết về báo cáo của các nhà
thiên văn về “sự dãn nở tăng tốc” của vũ trụ.
“Nếu như nó hiển nhiên với tôi, thì nó cũng hiển nhiên đối với mọi nhà vũ
trụ học” Petit nói với tôi. “Tôi thật rất ngạc nhiên khi nó không trở thành một câu
chuyện to hơn”. Tuy nhiên, các phóng viên khác không nhận ra cái Petit có, và chỉ
đưa tin rằng vũ trụ sẽ dãn nở đến vô cùng. Việc đưa ra sai số hệ thống của nó có thể
khiến các phóng viên nghĩ rằng câu trả lời cuối cùng có lẽ không bao giờ có được.
Như Glanz đã trích lời Perlmutter như sau: “[Ông ta] cảnh báo rằng nhóm ông vẫn
đang hiệu chỉnh cho sự mờ đi có thể có của ánh sáng do bụi và các kết luận có khả
năng vẫn còn thay đổi”.
Trong khi đó, Schmidt và Riess đang tranh luận về những kết quả sơ bộ của
họ. Họ hoàn thành phân tích của họ vào hôm 08/01/1988, ngày họp AAS – không
kịp đưa ra công bố, và không hề biết cái đội SCP sẽ trình bày. Một vài ngày sau
cuộc họp, các nhà nghiên cứu Z cao bắt đầu bàn luận số liệu của họ với tư cách toàn
đội. Riess, kẻ lấy vợ vào hôm 10/01/1988 và đã phân tích số liệu trong kì trăng mật
của ông, gửi thư điện tử cho các thành viên còn lại của đội nghiên cứu hai ngày sau
© hiepkhachquay 23
đó rằng “số liệu đòi hỏi một hằng số vũ trụ khác không! Hãy tiếp cận những kết quả
này không phải bằng trái tim hay cái đầu của bạn mà là với đôi mắt của bạn”, lại
thêm rằng “kết quả thật quá bất ngờ, thậm chí gây sốc”. Nhằm cạnh tranh, đội Z cao
giữ riêng kết luận của mình chưa đưa ra công bố chính thức – hãy thận trọng với
việc gào lên “Trời ơi!”, Riess nói. Riess bông đùa trong thư điện tử của ông về
“ngáo ộp LBL chạy loanh quanh” và thôi thúc các cộng tác viên của ông “làm việc
thận trọng và hiệu quả, và có khả năng rùa sẽ đuổi kịp thỏ”.
Tinh thần của đội Z cao một phần nằm ở lòng tự tin vào khả năng của mình
xử lí các hiệu chỉnh bụi – luận án năm 1996 của Riess về đề tài đó đã giành giải
thưởng – và vào sự hoài nghi của họ rằng đội SCP sẽ không có một chiến lược đầy
đủ để xử lí vấn đề đó. Đội cũng có một bộ số liệu nhỏ hơn về sao siêu mới để phân
tích: 10 phân tích trọn vẹn và 4 sao siêu mới “thoáng qua” (các sao có dữ liệu yếu
hơn), cộng với 2 đã công bố trước đó từ công trình của đội SCP, trong đó có 1997ap
(mặc dù trong công bố sau đó nó không được nhận dạng rõ ràng như thế).
Vào ngày 18 tháng 2, tại Hội thảo Năng lượng tối ở Marina Del Rey,
California, Goldhaber và Perlmutter đã thảo luận kết quả của đội SCP. Đi theo sau
họ là Filippenko, người đã rời khỏi nhóm SCP vài năm trước đó. Filippenko công
bố kết luận của nhóm Z cao rằng vũ trụ đang dãn nở ở tốc độ ngày càng tăng.
Con rùa (Z cao) thật sự đã bắt kịp chú thỏ rừng (SCP) ngay khi các bài báo
được nhắc tới. Chưa đầy một tháng sau, đội Z cao công bố một bài báo chi tiết về
16 sao siêu mới của mình (10 đã phân tích trọn vẹn, 4 thoáng qua và 2 sao siêu mới
SCP) với tựa đề rõ ràng “Bằng chứng quan sát từ sao siêu mới cho một vũ trụ đang
tăng tốc và hằng số vũ trụ” trên tờ Astronomical Journal. Bài báo được xác nhận,
đăng trực tuyến vào tháng 5 và xuất bản vào tháng 9 năm 1998 (A G Riess et al.
Astron. J. 116 1009). Đội SCP mất lâu hơn mới hoàn thành mọi phép phân tích về
42 sao siêu mới của họ, và công bố một bài báo vào ngày 8 tháng 9 năm 1998. Theo
truyền thống vật lí đặt tựa đề ngây ngô cho những bài báo công bố những khám phá
kịch tính, nó được đặt đầu đề là “Các phép đo omega và lambda từ 42 sao siêu mới
lệch đỏ cao”. Nó được đăng trực tuyến vào tháng 12 năm 1998 và xuất bản vào
tháng 6 năm 1999 (S Perlmutter et al. Astrophys. J. 517 565).
Giải thưởng công nhận
Bằng chứng kết hợp cho một hằng số vũ trụ từ hai đội đã thuyết phục đa số
cộng đồng khoa học với tốc độ ngoại hạng đối với một khám phá mới kịch tính và
bất ngờ. Tháng 3 năm 1998, tại Fermilab, các thành viên của hai nhóm thuyết trình
trường hợp của họ; và cuối cùng, các thành viên chủ tọa được yêu cầu giơ tay biểu
quyết nếu họ tin hằng số vũ trụ là tồn tại. Một số lượng rất lớn trong họ đã giơ tay.
Tháng 12 năm 1998, tạp chí Science đã bầu chọn công trình đó là một đột phá của
năm. Năm 2001, một nghiên cứu (có thể gây tranh cãi về mặt phương pháp luận)
tiến hành tại đại học Princeton bởi Richard Gott và các đồng sự (Astron. J. 549 1)
nhấn mạnh rằng sự tin cậy vào những loại kết quả bất ngờ này phụ thuộc nhiều vào
việc có đủ số lượng thống kê để thực hiện một phép đo có sức mạnh, và quả quyết
rằng số liệu của đội SCP đã hoàn thành mục tiêu này. Mỗi một trong hai bài báo
mang tính khám phá – bài báo năm 1998 của Riess, và bài báo năm 1999 của
Perlmutter – nhận được hơn 3000 trích dẫn tính cho đến nay.
© hiepkhachquay 24
Trong vòng hai năm khám phá, những thí nghiệm khác đã loại trừ khả năng
được nhắc tới trong bức áp phích hồi tháng 1 năm 1998 của đội SCP về một sự kết
hợp của không gian cong đến mức kinh ngạc, khối lượng thấp và sự thông đồng của
những thành kiến mang tính hệ thống có thể mở ra khả năng không có hằng số vũ
trụ: các thí nghiệm nền vi sóng vũ trụ cho thấy không gian không phải cong sít sao,
còn những phép đo cụm thiên hà gợi ý rằng khối lượng vũ trụ không phải là thấp.
Kể từ đó, công trình đó liên tục làm mưa làm gió với những giải thưởng có
uy tín. Perlmutter giành giải thưởng E O Lawrence năm 2002, giải thưởng
Feltrinelli năm 2005 và cùng chia sẻ giải thưởng Shaw năm 2006 với Schmidt và
Riess. Giải thưởng Warner năm 2003 và giải thưởng Sackler năm 2004 đến với
Riess, còn giải Padua năm 2005 được trao cho Perlmutter chung với Schmidt. Giải
thưởng vũ trụ học Gruber năm 2007, tổng trị giá 500.000 đôla, được chia cho
Perlmutter và Schmidt mỗi người một phần tư, và mỗi phần tư còn lại trao cho các
thành viên của mỗi đội nghiên cứu.
Kể từ đó, các nhà lãnh đạo của đội SCP và Z cao làm việc hòa nhã và êm ái
cùng nhau. Perlmutter và Schmidt công bố một bài báo phê bình chung về lĩnh vực
đó trong năm 2003 (arXiv:astro-ph/0303428v1), và Perlmutter và Riess cũng làm
điều tương tự trong năm 1999. Tại sự kiện trao giải Gruber, Perlmutter và Schmidt
đã mang lại một buổi nói chuyện vui vẻ và đặc sắc, sửa chữa câu cú từng trang
chiếu và rọi đèn chỉ laser tới lui như thế nó là một gậy gỗ truyền tay. Thỉnh thoảng,
các cá nhân ở đội Z cao cho in ấn những khẳng định ưu tiên dựa trên bản thảo của
những ấn phẩm sau cùng. Trong cuốn sách Vũ trụ phi mã của ông, Krishner viết
rằng đội Z cao hưởng lợi từ sự cãi vã ồn ào mà đội SCP tạo ra về hằng số vũ trụ,
nhưng lại đặt tựa đề dễ gây tranh cãi cho hai chương của ông là “Xử lí trước” và
“Xử lí đúng”. Từ đó, các nhà đứng đầu và thành viên chủ chốt của những chương
trình hợp tác – bao gồm Goldhaber, Kirshner và Perlmutter – trao đổi thư từ và thư
điện tử bàn luận về niên đại học và ý nghĩa của một số sự kiện.
Điểm nhấn
Các định luật giống như thỏi xúc xích, bạn càng ít biết chúng cấu tạo từ cái
gì, bạn càng quý trọng sản phẩm – và người ta thỉnh thoảng bị cám dỗ phát biểu
những điều tương tự của những khám phá khoa học. Nhưng cách phát biểu khéo léo
hơn sự thực. Nó phụ thuộc vào sự trông đợi của con người; những người thật sự
hiểu được óc sáng tạo nhân loại không hề khó khăn với ý tưởng rằng một tác động
khách quan có thể phát triển ra khỏi thực tiễn con người bẩn thỉu.
Khoa học phát triển sang nền tảng phong phú hơn, thoáng hơn và sâu sắc hơn
nhiều so với những hình ảnh giáo khoa của quy trình của nó đề xuất. Cạnh tranh
không phải là con đường duy nhất dẫn đến khám phá, nhưng những câu chuyện
cạnh tranh giống như thế này biểu hiện đặc điểm nhập nhằng của quá trình này –
được xem là bản chất của khám phá, thông cáo và chứng nhận – theo kiểu mà
những câu chuyện khác không có. Chúng đề xuất rằng những chi tiết dường như
không liên quan gì, ví dụ như ai nói cái gì với ai và khi nào, có thể ảnh hưởng mạnh
mẽ đến cách thức cá nhân và các đội nghiên cứu dẫn ra những tìm kiếm, thực hiện
khám phá, và loan báo và công bố kết quả.
Hơn nữa, những câu chuyện cạnh tranh có thể cho thấy rằng không phải lúc
nào một khám phá cũng được định rõ ngày tháng khi một bài báo nhất định được
© hiepkhachquay 25
công bố, không phải khi nó được loan báo trước công chúng lần đầu tiên, hay khi nó
được công bố trước công chúng một cách trọn vẹn mà không hề báo trước. Vậy một
khám phá có thể xác định ngày tại đó một thuyết trình rõ ràng được thực hiện trước
cộng đồng khoa học, hay có lẽ trước một cuộc họp nhóm chuyên gia ? Hay là một
khám phá phải buộc chặt với ngày tháng khi bằng chứng đầu tiên xuất hiện trong sổ
tay ghi chép trong phòng thí nghiệm của một người nào đó ?
Những câu chuyện như thế cũng cho thấy sự nhập nhằng bản chất của thông
cáo, nó khác nhau phụ thuộc vào người ta đang nói với các đồng sự, với cộng đồng
khoa học rộng lớn hơn hay với các phương tiện truyền thông. Có hay không cuộc
chạy đua đến các phương tiện đó xem ai đưa ra bằng chứng cho một điều kết luận
và những sự báo trước có thể có, hay xem ai là kẻ dứt khoát ? Những câu chuyện
như thế này cũng cho thấy có thể khó mà chứng nhận giải thưởng khi mà các đội
nghiên cứu tác động qua lại lẫn nhau.
Câu chuyện này cũng vạch ra hình ảnh của một khám phá khoa học là thứ gì
đó xuất hiện cùng một lúc, với sự rõ ràng và trọn vẹn, có thể được công bố với sự
dứt khoát và chắc chắn, như những kẻ lãng mạn thái quá và lỗi thời. Những khám
phá xuất hiện dần dần từ các số liệu thống kê không được tạo ra cho những dòng tít
hay ho, nhưng có khả năng làm dậy sóng tương lai.
Khi và nếu một giải thưởng Nobel cuối cùng được trao cho khám phá mang
tính bất ngờ này, thì ủy ban Nobel sẽ phải thuyết phục các vị thẩm phán trường phái
Solomon trong việc quyết định phân chia giải thưởng như thế nào, chia phần nhiều
nhất cho ba cá nhân trong hai đội. Đối với phần nhiều trong cộng đồng nhỏ đã giúp
đội này hay đội kia – hoặc cả hai – và tác động của sự nhập nhằng, như đa số thành
viên các đội đều hài lòng trông thấy, là chia đều giải thưởng ra. Nút thắt cuối cùng
trong câu chuyện cạnh tranh khốc liệt đầy kịch tính này có lẽ là sự trớ trêu rộng
lượng rằng sự ghi nhận cuối cùng trao cho cả hai đội – trên thực tế là cho toàn bộ
cộng đồng sao siêu mới.
Tác giả: Robert P Crease là trưởng khoa Triết học, đại học Stony Brook, và
là nhà sử học tại Phòng thí nghiệm quốc gia Brookhaven, Mĩ.
Nguyên bản: Dark Energy (Physics World, tháng 12/2007)
hiepkhachquay dịch
An Minh, ngày 8 tháng 12 năm 2007, 20:37:00
© hiepkhachquay 26
PHẦN
”CƠM THÊM”
Thuyết lượng tử và giải thưởng Nobel
Robert Marc Friedman
Thành kiến cá nhân và sự thiếu hiểu biết của ủy ban xét trao giải Nobel khiến cho
nhiều nhà tiên phong của cơ học lượng tử không được nhận giải, mãi cho đến khi
phát hiện ra phản vật chất vào năm 1932.
Năm 1933, giải thưởng Nobel hình như cũng kém phần quan trọng đi so với cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới và sự leo thang quyền lực của chế độ phát xít, nhưng
nhiều nhà vật lí vẫn giữ cái nhìn thận trọng hướng về Stockholm. Họ cảm thấy
hoang mang và tràn trề thất vọng trước những quyết định trước đó của Viện Hàn
lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển. Không có giải thưởng cho ngành vật lí trong
năm 1930, nhưng những thành tựu lí thuyết và thực nghiệm trong thời gian gần đấy
đã dẫn đến cuộc cách mạng mô tả nguyên tử bằng cơ chế lượng tử mới. Liệu rồi
cuối cùng Viện Hàn lâm có chịu công nhận những thành tựu này không ?
Các giải thưởng Nobel cho thấy lịch sử thật phức tạp (Nguồn: Nobel Foundation)
Sau cùng, khi Viện Hàn lâm công bố quyết định của họ vào tháng 11, kết quả làm
một số người cảm thấy hài lòng, một số tỏ ra giận dữ và một số khác thì cảm thấy
khó hiểu. Giải thưởng dành riêng cho năm 1932 trao cho một mình Werner
Heisenberg, cho “việc sáng tạo ra cơ học lượng tử, mà những ứng dụng của nó,
không kể đến những thứ khác, đã dẫn đến việc khám phá ra hình thái đặc trưng của
hydro”. Trong khi đó, giải thưởng năm 1933 chia cho Erwin Schrödinger and Paul
Dirac, cho việc “khám phá ra hình thức hữu ích mới của thuyết nguyên tử”.
Giải thưởng Nobel dành cho cơ học lượng tử từ lâu luôn là đề tài mà nhiều người
bàn tán và dị nghị. Tại sao cũng những nhà khoa học này nhưng có khi một người
một mình một giải, có khi giải thưởng lại chia cho nhiều người, và tại sao lí do
chính thức để trao giải lại linh tinh như vậy ? Nói chung, quyết định trao giải năm
1933 đã mang đến một câu hỏi lớn như rắc tiêu lên cả lịch sử đời thường và học
thuật của nền vật lí hiện đại: tại sao có quá ít giải thưởng Nobel cho những đóng
góp về mặt lí thuyết ? Liệu đây có phải là làm theo di chúc của Alfred Nobel, trong
1
đó ghi rõ rằng giải thưởng được trao cho những “khám phá hay phát minh trong lĩnh
vực vật lí” ? Phải chăng vốn dĩ việc xác định một đột phá về mặt lí thuyết là một
khám phá thì khó khăn hơn ?
Tôi đã nghiên cứu những công trình đạt giải Nobel, cũng như thư từ trao đổi giữa
các vị là cựu thành viên của ủy ban trao giải, trong một nỗ lực làm sáng tỏ lí do mà
người ta đã xao lãng các công trình lí thuyết, cũng như để có một cảm nhận về giải
thưởng năm 1933. Những hoạt động này sẽ cung cấp cho chúng ta một cái nhìn sâu
sắc hơn về việc nhìn nhận các thành tựu lí thuyết của ủy ban cho đến trước năm
1933, giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của giải thưởng năm đó, kể cả việc bổ sung
Paul Dirac vào danh sách những người đạt giải vào phút cuối.
Dirac (trái), Heisenberg (giữa) và Schrödinger (phải) đến Stockholm năm 1933 để nhận giải
Nobel. (Nguồn: Max Planck Institute fur Physik/AIP Emilio Segrè Visual Archives)
2
thành công trong việc tập hợp đồng nghiệp của mình để phản đối tuyên bố của ủy
ban rằng những ứng cử viên này không xứng đáng để trao giải.
Mặc dù có những quy định chính thức chỉ đạo mọi mặt của hệ thống trao giải,
nhưng điều đó không có nghĩa là ủy ban trao giải được cung cấp quy chế rõ ràng để
làm việc. Trong di chúc, một số cụm từ thiết yếu như “khám phá hay phát minh có ý
nghĩa nhất trong lĩnh vực vật lí”, hoặc “gần đây”, hoặc “có ích cho nhân loại”
không được định nghĩa rõ ràng. Cho nên phát sinh nhiều cách hiểu và cách hiểu lại
thay đổi theo thời gian. Nhưng ngay cả khi mọi thành viên đã cố gắng vượt qua
định kiến và lòng ích kỉ, nhỏ nhen, thì công việc lựa chọn người thắng giải luôn
luôn – và vẫn luôn luôn – là một việc hết sức khó khăn. Đôi lúc các thành viên ủy
ban thổ lộ rằng, có khi, có một số ứng cử viên đều xứng đáng như nhau cả.
Khuynh hướng thực nghiệm
Những năm đầu thập niên 1900, các thành viên ủy ban đã cố gắng ủng hộ các ứng
cử viên mà công trình nghiên cứu của họ phản ánh khuynh hướng khoa học riêng
của họ. Đa số thành viên trong ủy ban thuộc về Khoa Vật lí thực nghiệm ở trường
đại học Uppsala, họ xem phương pháp đo lường chính xác là mục tiêu cao nhất
trong ngành của mình. Chẳng hạn, Bernhard Hasselberg – một thành viên từ năm
1901 đến 1922 – luôn xem Albert Michelson là một nhà vật lí mẫu mực vì những
nghiên cứu của ông đã đẩy giới hạn của độ chính xác lên rất cao.
Do đó, Michelson không có lí do gì mà chả nhận được giải. Nhưng thay vì chỉ nhận
được một vài đề cử, đằng này ông bắt đầu nổi bật là một ứng cử viên đáng kể trong
năm 1904 nhờ sự ủng hộ tích cực của Hasselberg. Các nhà vật lí Thụy Điển trao
giải Nobel cho Michelson nhằm công nhận công dụng của cái giao thoa kế của ông
trong khoa đo lường, và đặc biệt, cho việc xác định bằng thực nghiệm chiều dài của
thanh mét chuẩn quốc tế. Năm 1907, Hasselberf thổ lộ rằng ông đã chuẩn bị “làm
mọi thứ trong quyền hạn của mình để mang giải thưởng đến cho ông ta
(Michelson)”. Tuy nhiên, Hasselberg đã phải thất bại trước thực tế rằng Michelson
không phải là một ứng cử viên công chúng và công trình nghiên cứu của ông ta
không đáp ứng được yêu cầu của quy định phải có một “khám phá”.
Trong bản báo cáo của mình trước ủy ban, Hasselberg không úp mở rằng những
nghiên cứu của Michelson xứng đáng được trao giải, mặc dù chúng không đưa tới
một khám phá lớn nào. Ông khẳng định, phương pháp đo lường chính xác tự nó đã
cấu thành một điều kiện tiên quyết cho việc khám phá. Một thành viên khác cố gắng
giải thích rằng những quy định ngặt nghèo không đề cập đến vấn đề này, nhưng
Hasselberg vẫn cứ khăng khăng với lí lẽ của mình. Ông biết rằng đa số trong ủy
ban, kể cả ông chủ tịch Knut Ångström, chia sẻ quan điểm của ông về việc xem
phương pháp đo lường chính xác là yếu tố tiên quyết cho sự tiến bộ trong vật lí học.
Giải Nobel vật lí năm 1907 vì vậy được trao cho Michelson, cho “những dụng cụ
quang chính xác và những nghiên cứu về quang phổ học và đo lường được thực
hiện với sự hỗ trợ của chúng”. Thi nghiệm ête kéo theo nổi tiếng của ông vừa được
nhắc đến trong đó.
Việc trao giải cho Michelson khiến cho Hasselberg và những đồng nghiệp cùng
quan điểm với ông ở Uppsala tranh luận rằng phương pháp đo lường chính xác “là
điều kiện rất căn bản, thiết yếu, để chúng ta thâm nhập sâu hơn vào những quy luật
3
của vật lí – là con đường duy nhất để chúng ta đi đến những khám phá mới”. Đây
đúng là một cơ hội tốt để tán dương và khẳng định quan điểm này trong vật lí học.
Khi mà một khuynh hướng thực nghiệm trong ủy ban làm lợi cho Michelson thì nó
cũng gây tổn hại đến những ứng cử viên được đề cử cho những thành tựu lí thuyết.
Năm 1911, Vilhelm Carlheim-Gyllensköld, một thành viên mới được bầu vào ủy
ban đến từ trường đại học Stockholm, đã đệ trình một kháng nghị thư lên Viện Hàn
lâm, trong đó ông nêu rõ sự đối lập giữa vị thế cao lớn của nền vật lí toán và vật lí lí
thuyết trong thế giới khoa học với sự ít ỏi của những giải thưởng Nobel dành cho
các lĩnh vực này.
Ngoài việc Hendrik Lorentz cùng chia giải thưởng năm 1902 cho việc giải thích
hiệu ứng Zeeman, và giải thưởng trao cho J J Thomson năm 1906 cho sự dẫn điện
trong chất khí, Carlheim-Gyllensköld phàn nàn rằng “giải Nobel hiện nay chỉ dành
cho các nhà vật lí thực nghiệm”. Ông nhấn mạnh rằng việc xao lãng vật lí toán và
vật lí lí thuyết không phải là do thiếu người đề cử. Trong số những nhà lí thuyết nổi
trội được đề xuất có thể kể đến Ludwig Boltzmann, Oliver Heaviside, William
Thomson (huân tước Kelvin), Max Planck, Poincaré, John Poynting và Wilhelm
Wien. Đa số những trường hợp này được đề cử từ những người có khả năng thực
nghiệm không chê vào đâu được, như Henri Becquerel, Philipp Lenard, Wilhelm
Röntgen and Pieter Zeeman, họ đều đã nhận giải Nobel. “Hàng loạt phiếu bầu rất
đáng được chú ý khi xét giải”, Carlheim-Gyllensköld khẩn khoản.
Nhưng các ủy ban sau đó liên tiếp phớt lờ số lượng đề cử không ngừng tăng lên
dành cho Planck và những nhà vật lí lí thuyết khác. Nguyên nhân là vì một số, nếu
không nói là tất cả, các thành viên trong ủy ban không đủ khả năng theo đuổi sự
phát triển của cơ học lượng tử và thuyết tương đối. Thật vậy, cuối cùng thì giải
thường được trao cho Planck – giải năm 1918, trao giải năm 1919 – công nhận vai
trò của ông trong việc lãnh đạo nền khoa học Đức trong thời kì xảy ra thảm kịch
quốc gia hơn là công nhận thuyết lượng tử. Thực ra thì những người theo chủ nghĩa
thực nghiệm trong ủy ban muốn dành giải thưởng năm 1918 cho nhà vật lí nguyên
tử Johanes Stark và giải thưởng năm 1919 mới trao cho Planck để nhấn mạnh tầm
quan trọng của những thí nghiệm chính xác so với việc nghiên cứu lí thuyết. Tất
nhiên, lịch sử xảy ra như thế nào thì như chúng ta đã biết.
Thời khắc quyết định cho nền vật lí lí thuyết
Trường hợp của Einstein đánh dấu một bước ngoặt. Sau cuộc thám hiểm nhật thực
vào tháng 11 năm 1919, xác nhận ánh sáng phát ra từ các ngôi sao ở xa bị trường
hấp dẫn của Mặt Trời bẻ cong đi, Einstein bắt đầu nhận được số tiến cử tăng dần
cho công trình của ông về thuyết tương đối. Tuy nhiên, Viện Hàn lâm công bố
người thắng giải năm 1920 lại là Charles-Edouard Guillaume – người được chỉ có
một mình nhà vật lí người Thụy Sĩ Charles Guye tiến cử - cho việc phát minh ra
hợp kim thép – nickel, một phát minh không ảnh hưởng gì nhiều lắm đến những
thay đổi trong ngành luyện kim. Mặc dù hợp kim “invar” cho khả năng chế tạo
nhiều loại thiết bị đo lường có độ chính xác rất cao, nhưng các quan sát viên nước
ngoài, kể cả những người không thích công trình của Einstein, cũng nhận thấy
Guillaume là một sự lựa chọn kì quặc.
Vậy chuyện gì đang xảy ra ở Viện Hàn lâm ? Đơn giản thôi: một số, nếu không nói
là tất cả, các thành viên của ủy ban chưa bị thuyết phục thích đáng bởi kì nhật thực
4
năm 1919 để thay đổi thái độ phản đối đối với Einstein. Hơn nữa, đó là một trong
những lời thỉnh cầu cuối cùng của Hasselberg, sau hai thập kỉ phục vụ trong ủy ban,
muốn nhìn thấy người đồng nghiệp đo lường chính xác Guillaume của ông được
trao giải.
Năm 1921, những người tiến cử đã miêu tả Einstein như là một người khổng lồ
trong thế giới vật lí mà người ta chưa từng thấy kể từ thởi Newton. Năm 1921,
Allvar Gullstrand, giáo sư ngành quang lí và quang sinh lí thuộc trường đại học
Uppsala và là một trong những thành viên có tư cách đàng hoàng nhất trong Viện
Hàn lâm, yêu cầu muốn được nghe báo cáo về những đóng góp của Einstein cho
thuyết tương đối và thuyết hấp dẫn. Đơn giản là Gullstrand không hiểu nổi công
trình nghiên cứu của Einstein. Tuy vậy, ông vẫn kiên quyết rằng Einstein không thể
nào nhận giải được.
Trong khi chuẩn bị bản báo cáo đặc biệt trước ủy ban, Gullstrand chuyển sang cầu
viện đồng nghiệp của ông ở Uppsala và là người bạn Carl Wilhelm Oseen, một giáo
sư cơ học và vật lí toán. Ông đã trình bày một số đoạn phê bình với Oseen, và ông
này đã chỉ ra cho Gullstrand thấy những sai lầm của ông. Chính Oseen cũng nghi
ngờ lớn về giá trị của thuyết tương đối, nhưng ông vui lòng cho Einstein một bình
phẩm hợp lí. Sau này, ông có thổ lộ rằng, thật là một thảm họa cho ủy ban xét giải
vì có Gullstrand, người đại diện vật lí lí thuyết, ông ta phải thẩm định những thứ mà
ông ta chả hiểu gì cả !
Carl Wilhelm Oseen, giáo sư cơ học và vật lí toán tại trường đại học Uppsala,
người thống trị ủy ban Nobel từ năm 1922 - 1944
Gullstrand không việc gì phải cản trở Einstein trước ủy ban. Không thành viên nào
tán đồng thuyết tương đối cả. Như lời Hasselberg viết từ giường bệnh năm 1921:
“Người ta không chắc lắm những nghiên cứu như thế này có phải là đối tượng trao
giải như lời di chúc của Alfred Nobel hay không”. Đa số các thành viên trong ủy
5
ban đơn giản là không chấp nhận một công trình nghiên cứu như vậy là nền vật lí
thật sự. Cách thức Einstein xem xét các giả thuyết cơ sở của mình và cách ông cố
gắng hợp nhất các lí thuyết cho thấy chúng là công trình của một nhà siêu hình học
hơn là một thành viên của cộng đồng khoa học đương thời.
Nếu như bản báo cáo của Gullstrand có nhiều khiếm khuyết thì, về nguyên tắc, Viện
Hàn lâm có quyền tự do hành động một khi điều đó mang đến ánh sáng giải quyết
vấn đề. Nhưng đa số mọi người trong Viện không muốn trao giải cho Einstein, và
không ai muốn làm phật lòng những thành viên kính mến trong ủy ban của mình.
Như “giới chuyên môn” Thụy Điển đã nói, Viện Hàn lâm giữ uy quyền và lẽ phải
của mình để định giá và phán xét. Khi chiếc đồng hồ điểm đến nửa đêm ngày 21
tháng 11 năm 1921, Viện Hàn lâm đã bỏ phiếu không trao giải Nobel vật lí cho năm
đó.
Carl Wilhem Oseen vào cuộc
Oseen gia nhập ủy ban năm 1922. Ông muốn có một giải thường cho Einstein,
nhưng không phải cho nghiên cứu về thuyết tương đối. Ông cũng rất muốn được
nhìn thấy Niels Bohr nhận giải. Với địa vị cao quý trong ban vật lí và năng lực phân
tích sắc bén, Oseen đã tìm thấy một cách khéo léo để trao giải cho cả hai người họ.
Chính ông đã tiến cử thành công Einstein cho việc khám phá ra định luật quang
điện. Ông lí giải rằng, không kể đến phương pháp lí thuyết mà Einstein đã sử dụng
– nó bao hàm quá nhiều thuyết lượng tử trong đó khiến ủy ban khó chấp nhận được
– bản thân định luật quang điện đã được xác nhận bằng kinh nghiệm. Và với việc
công nhận định luật quang điện là một chân lí cơ bản của tự nhiên, Oseen có thể
biện hộ cho mẫu nguyên tử lượng tử của Bohr. Trước đây, ủy ban đã bác bỏ công
trình này vì cho rằng nó mâu thuẫn với thực tế. Nay Oseen khẳng định rằng mẫu
nguyên tử Bohr là dựa trên cơ sở chắc chắn – định luật quang điện của Einstein – và
đã tập hợp được ủy ban và Viện Hàn lâm ủng hộ cho đề xuất của ông.
Sự có mặt của Oseen trong ủy ban vào năm 1922 làm cho ủy ban lần đầu tiên có
được sự tinh thông về vật lí lí thuyết, nhưng điều đó không có nghĩa là những công
trình lí thuyết sẽ dễ được tán thành hơn. Oseen là một tri thức vừa nghiêm khắc vừa
kiêu ngạo, và đây không nhất thiết là đức tính phải có ở một thành viên trong ủy
ban. Ông thường giữ vai trò người phản biện, vừa là quan tòa vừa là đao phủ, khi
đánh giá các ứng cử viên luôn nặng tay hơn so với những đồng sự khác. Khi có
người phản đối quan điểm của ông thi ông cực lực chỉ trích lại, cũng như trả thù cá
nhân.
Oseen để lại tiếng tăm sâu sắc trong cuộc đua giảnh giải Nobel cả một thời gian dài
sau khi ông không còn quyền hạn trong ủy ban vào năm 1944. Ông lãnh đạo phong
trào thu hẹp lại quy mô của “vật lí học” đủ tư cách cho việc nhận giải, trái với
những hành động trước đây bao hàm những lĩnh vực như vật lí thiên văn và địa vật
lí. Nhưng, điều quan trọng nhất, mặc dù nghiên cứu riêng của ông dẫn đến thủy
động lực học và khoa vật lí nghiên cứu mạng tinh thể, nhưng ông vẫn ngồi ở ghế
thẩm phán đối với hầu hết các vấn đề vật lí lí thuyết, đặc biệt là thuyết nguyên tử.
Oseen không hài lòng với con đường mà nền vật lí đang tiến triển; quan điểm rằng
mọi thứ cần phải kiên định, rõ ràng, hợp lí khiến ông thật sự thất vọng trước những
giải pháp cục bộ và nhất thời trước cuộc khủng hoảng sâu sắc của nền vật lí nguyên
tử trong thập niên 1920. Ông thấy không có chút lí do gì để tôn vinh những giải
6
pháp nửa vời, những vật liệu nhất thời, và những bước tiến dò dầm về một tương lai
chưa biết.
Từ trái sang: Carl Wilhelm Oseen, Niels Bohr, James Franck và Oskar Klein cùng với Max Born
(ngồi) trong lễ kỉ niệm công trình của Bohr ở Göttingen năm 1922. Khi đó, Oseen đã coi mẫu
nguyên tử lượng tử sơ khai của Bohr là “đẹp nhất” trong số những phát triển mới tuyệt vời trong
vật lí lí thuyết. Oseen đã thuyết phục được ủy ban trao giải cho Bohr vào năm đó (Nguồn: AIP
Emilio Segrè Visual Archives)
Thay vì tìm một giải pháp hòa giải giữa những cuộc tìm kiếm mang tính chất hỗn
loạn của vật lí lượng tử với những cơ sở vật lí cổ điển, như Oseen hi vọng, các nhà
nghiên cứu lại đề xuất những lí thuyết càng ngày càng kì dị hơn. Giữa thập niên
1920, Heisenberg đề xuất rằng mục tiêu lâu nay cố gắng mường tượng ra các quá
trình nguyên tử cần phải vứt bỏ đi. Những phương trình toán học rắc rối lại cho đáp
số phù hợp với dữ liệu quan sát. Điều này khiến Oseen không ưa. Và rồi người ta đi
đến khẳng định rằng ở cấp độ nguyên tử thì xác suất thống trị chứ không phải là
tính quyết định luận.
Oseen đã phải khổ sở trước những phát triển này, nhưng ông vẫn không chịu rút lui
vào hậu trường. Ông không muốn từ bỏ quyền lực trong ủy ban. Sự thiếu vắng giải
thường dành cho những công trình nghiên cứu lí thuyết trong thời gian ngự trị của
Oseen trong ủy ban phản ánh tính nhạy cảm của ông trước thời cuộc chứ không phải
những cản trở nghi thức hay thiếu vắng ứng cử viên.
Sự chấp nhận cơ học lượng tử
Từ giữa thập kỉ 1920, Werner Heisenberg và Erwin Schrödinger bắt đầu đặt nền
tảng mới cho việc hiểu các hiện tượng nguyên tử. Năm 1928 bắt đầu có một số
lượng nhỏ đề cử cho cách tiếp cận vấn đề không giống ai của họ, và sau đó số tiến
cử ngày càng thuyết phục hơn cả về số lượng và cơ sở tiến cử vào cuối thập kỉ đó.
Một số nhà tiến cử thích sự miêu tả trực quan các quỹ đạo electron như một dạng cơ
học sóng của Schrödinger hơn. Trong khi những nhà lí thuyết kì cựu như Einstein,
Planck và Max von Laue lại thích cách tiếp cận phi trực quan triệt để hơn của
7
Heisenberg. Hơn nữa, sự dấn ngày càng sâu từ nghiên cứu của Heisenberg hình như
đã đánh đổ niềm tin lâu nay của các nhà vật lí về quan hệ nhân quả. Một số nhà vật
lí làm việc thân cận với Heisenberg – gồm Bohr, Wolfgang Pauli và Max Born – đã
mở ra một cánh cửa đi vào thế giới hạ nguyên tử, trong đó mọi hiện tượng xảy ra
khác biệt tận gốc rễ với nền vật lí của thế giới vĩ mô. Tuy nhiên, các lí thuyết vẫn
đang trong quá trình hoàn thiện, và chúng bắt đầu được tiến cử bởi những nhà vật lí
hàng đầu.
Oseen đã làm những gì mà ông có thể làm để tránh phải công nhận Schrödinger và
Heisenberg. Có lẽ ông có thiện ý với phương pháp của Schrödinger nhưng ông cũng
đồng ý với số đông những người tiến cử rằng – nếu trao giải thưởng cho cơ học
lượng tử - thì cả hai người này phải nhận chung. Không thèm đếm xỉa tới số đông,
Oseen đã tạo ra cuộc đua giữa những người ủng hộ hai người này. Những cuộc đua
tranh này có nguyên nhân từ tính khí hay đua tranh và thủ đoạn của ông.
Đáp lại những sự tiến cử vào năm 1929, Oseen cho rằng lí thuyết của Schrödinger
và Heisenberg chưa đủ chín chắn “từ một góc nhìn hợp lí” để cho phép mô tả có hệ
thống các nguyên tử. Hơn nữa, ông không thể tuyên bố họ đủ tư cách nhận giải khi
mà lí thuyết của họ chưa thu được kết quả trong bất kì khám phá có tầm quan trọng
cơ sở nào. Nói cách khác, ông cố làm ngăn trở họ bằng quy chế của giải.
Hai nhà lí thuyết tiếp tục được ủng hộ trong năm 1930. Một lần nữa, một số người
đề cử thích Schrödinger, một số khác thì thích Heisenberg, hoặc là chia hai giữa
Heisenberg và Born, người đã giúp sáng tạo ra lí thuyết. Nhưng những nhà vật lí đạt
giải Nobel lắm đổi thay như Planck và Perrin lại tán thành việc trao giải cho
Schrödinger và Heisenberg.
Để chống lại tính cố chấp của Oseen, The Svedberg, một thành viên Viện Hàn lâm
và là một nhà hóa lí, đề cử Heisenberg và nhấn mạnh rằng lí thuyết của ông đã tiên
đoán và sau đó đưa tới một khám phá quan trọng – một dạng mới của phân tử
hydro. Oseen đáp lại mỉa mai rằng như thế có lẽ Heisenberg phải được xem xét cho
một giải thưởng về hóa học ! Mặc dù thừa nhận rằng việc trao giải thưởng vật lí cho
một công trình lí thuyết thu được kết quả là một khám phá hóa học không phải là
không có, nhưng một lần nữa ông lại từ chối chứng thực cho hai nhà vật lí này đạt
giải.
Có lẽ vấn đề là ở chỗ, như một số nhà đề cử đã đề cập, việc chia giải thưởng cho hai
người thật là một sự bất công. Tại sao hai trí tuệ lớn như thế phải chấp nhận chia
chung một giải thưởng, trong khi một số người khác sau này nhận trọn vẹn giải cho
những thành tựu kém hơn ? Oseen và những người còn lại trong ủy ban đã tìm thấy
một con đường vòng lảng tránh toàn bộ vấn đề này. Nhà vật lí thực nghiệm người
Ấn Độ Chandrasekhara Raman đột ngột xuất hiện như một ứng cử viên công chúng
cho việc khám phá ra một quá trình mới, nhờ đó các phân tử làm tán xạ ánh sáng;
và ông nhận giải thưởng năm 1930.
Năm 1931, số tiến cử cho những nhà tiên phong của cơ học lượng tử giảm xuống,
có lẽ do những người đề cử không muốn lãng phí những phiếu bầu của họ cho
những ứng cử viên mà ủy ban tỏ ra chống đối quá quyết liệt. Một lần nữa, thế giới
vật lí thật nhỏ bé; nhiều nhà tiến cử đều biết ai đang ngồi ở ghế thẩm phán và xu
hướng mà họ nắm giữ. Nhà lí thuyết bị chỉ trích mạnh mẽ, nhưng thông minh,
Wolgang Pauli lúc ấy bình luận rằng không có nhà vật lí lí thuyết nào ở Thụy Điển
8
cả, ông không thèm đếm xỉa tới cả Oseen. Một số nhà tiến cử cảm thấy bối rối và từ
chối không đề cử ai hết.
Nhưng, bất kể những chỉ trích ngày càng mạnh mẽ, Oseen tuyên bố rằng sự giảm
sút số đề cử cho Heisenberg và Schrödinger là một dấu hiệu cho thấy sự nhiệt tình
đối với công trình nghiên cứu của họ đã “lạnh đi”. Ông quy việc thiếu sự ủng hộ
này là do thuyết lượng tử không bao hàm các hiệu ứng tương đối tính của chuyển
động electron. “Vấn đề này lún sâu đến nỗi cần có một ý tưởng hoàn toàn mới mới
giải quyết được nó”. Không ai có thể nói ý tưởng mới này và, cho đến tận bấy giờ,
sự đột phá phi thường sẽ tác động như thế nào đến lí thuyết cơ học lượng tử. Do đó,
ông thúc giục ủy ban rằng Heisenberg và Schrödinger phải chờ đã; giải thưởng năm
1931 đành gác lại cho năm sau.
Khẳng định vị thế vững chắc
Lại một lần nữa, các tiêu chuẩn cao không thể đạt được của Oseen thúc giục ông đòi
hỏi một lí thuyết hoàn hảo. Hoặc lả một lí thuyết hoàn toàn có khả năng giải thích
tất cả các hiện tượng có liên quan, hoặc là nó không được công nhận có giá trị.
Không ai phủ nhận yêu cầu phải bao hàm các hiệu ứng tương đối tính, nhưng điều
này không làm giảm bớt sự kính trọng mà nhiều nhà vật lí dành cho Heisenberg và
Schrödinger. Có lẽ, như một số người nhận xét, Oseen và các thành viên trong ủy
ban đang cố mua thời gian để cho Heisenberg và Schrödinger có thể mỗi người
nhận một giải trọn vẹn vào năm sau.
Năm 1932, một số nhà đề cử bắt đầu tỏ ra thiếu kiên nhẫn. Một số người thậm chí
còn chất vấn thiện ý và năng lực của ủy ban trong việc định giá nghiên cứu của
Heisenberg và Schrödinger. Pauli chỉ tiến cử một mình Heisenberg. Ông tự hỏi
không biết ủy ban có thể quyết định chọn được một trong hai cách tiếp cận vấn đề.
Trong trường hợp đó, ông cho rằng đóng góp của Heisenberg là cơ bản hơn, vì
Schrödinger xuất phát nghiên cứu từ Louis de Broglie. Có thể thấy rõ giọng điệu
cộc cằn của Pauli trong bức thư tiến cử tràn đầy bực dọc. Ông lớn tiếng rằng
Heisenberg dễ dàng đáp ứng mọi điều kiện của mọi thứ quy định cũng như di chúc
của Alfred Nobel. Hãy trao cho ông ta một giải !
Ngay cả Einstein, người chỉ thỉnh thoảng mới đề cử, cũng dành thời gian gởi một
bản kiến nghị cho cả hai người. Ông nhấn mạnh rằng, về mặt cá nhân, ông thích sự
trình bày rõ ràng, chính xác của Schrödinger hơn, nhưng thừa nhận rằng ông thực là
sai lầm khi đã đứng về một phía. Vì cả hai nhà lí thuyết đều có đóng góp quan
trọng, nên ông không muốn hai người chia chung một giải. Einstein muốn thấy
Schrödinger nhận giải trước, nếu như chỉ có một trong hai người được trao giải.
Bohr cũng đề cử cả hai nhà tiên phong của cơ học lượng tử. Ông hiểu rõ những giới
hạn của lí thuyết và đồng ý rằng chúng không phải là dấu chấm hết mà là một điểm
khởi đầu quan trọng. Bohr vẫn giữ quan điểm rằng những đóng góp của Heisenberg
và Schrödinger đã bất ngờ mang đến một viễn cảnh thỏa đáng về nhưng hiện tượng
nguyên tử đã biết và cũng dẫn tới một lọat những tiên đoán mới. Ông đề nghị dành
hai giải thưởng có sẵn đó cho cả hai người.
Ủy ban đồng ý cho một thành viên tương đối mới, nhà vật lí nguyên tử thực nghiệm
Eric Hulthén, chuẩn bị một bài báo cáo đặc biệt về mối liên hệ giữa cơ học lượng tử
và các nghiên cứu nguyên tử thực nghiệm. Hulthén đã phân tích mối quan hệ qua lại
9
giữa lí thuyết và thực nghiệm; lí thuyết của Heisenberg và Schrödinger đã cho
những dữ liệu quyết định và đã kích động đáng kể những nghiên cứu lí thuyết và
thực nghiệm.. Trong khi đồng ý cần có thêm những đột phá mới để áp dụng cơ học
lượng tử cho các electron lớp trong cùng gần hạt nhân nguyên tử nhất, thì những
thành công đáng chú ý của lí thuyết phải được đánh giá đúng là một chương mở ra
một thời kì mới trong nền vật lí nguyên tử. Nhưng Oseen lại không chịu thua.
Khi bước vào ngành vật lí, Dirac (trái) đã dành hết nghị lực và óc sáng tạo của mình đẻ hiểu hết
lí thuyết do Heisenberg (phải) phát triển (Nguồn: AIP Emilio Segrè Visual Archives)
Oseen cố làm hết sức tìm mọi lí lẽ ngăn cản việc trao giải. Ông lại yêu cầu phải hiểu
chặt chẽ từ “khám phá”. Thật thú vị, chỉ mấy năm trước đó, ông còn hô hào phải
hiểu sao cho thoáng, nhưng đó là để cho người đồng nghiệp của ông ở Uppsala có
đủ tư cách nhận giải cho những cải tiến đáng kể đối với độ chính xác của quang phổ
kế tia X. Một mặt, Oseen lại yêu cầu một khám phá có ý nghĩa phải xuất phát từ lí
thuyết. Nhưng mặt khác, ông vẫn giữ quan điểm phải hiểu từ “khám phá” trong quy
chế giống như cách hiểu của công chúng nói chung – tức là “những tiến bộ có ý
nghĩa trong việc hiểu biết thực tại khách quan” – và do đó quy chế không được thỏa
mãn.
Tại sao Oseen, trong bài báo cáo của ông trước ủy ban, lại cảm thấy biết ơn đối với
cụm từ thực tại khách quan mà ông nhấn mạnh ? Hình như là ông không thể nào
chấp nhận một số hàm ý rộng hơn của cơ học lượng tử. Cũng như Einstein đã bị dội
trước cách hiểu xác suất của thực tại khách quan hạ nguyên tử, Oseen đã nghĩ tới
nhánh văn hóa và thần học của lí thuyết. Nhưng, dù Einstein không tán thành,
nhưng ông vẫn xem những đóng góp của Heisenberg là đáng kể. Cả Einstein và
Oseen đều cần chờ phương thức chữa trị của tương lai, nhưng Oseen dường như đã
chuyển sang hờn dỗi, mãi cho đến khi ông ra đi.
Cứu tinh xuất hiện
10
Trong số những người tiến cử kêu gọi một giải thưởng cho cơ học lượng tử có hai
giáo sư vật lí lí thuyết ở Stockholm. Mặc dù không phải là thành viên trong ủy ban,
nhưng Oskar Klein và David Enskog đã tranh luận hết sức thuyết phục trong thư đề
cử của mình. Klein nổi tiếng thế giới là một người có đóng góp đáng kể cho nền vật
lí nguyên tử mới. Đã từng làm việc tại Viện Bohr trong nhiều năm, ông nằm trong
“vòng” trao đổi thông tin thân mật giữa các nhà vật lí nguyên tử. Ông thừa nhận
tính non yếu của cơ học lượng tử, nhưng cho rằng các thách thức trước mắt không
hề làm giảm đi những thành tựu của Heisenberg và Schrödinger.
Nhiều nhà vật lí thấy lí thuyết cơ học sóng do Schrödinger phát triển mang tính trực quan hơn
so với phương pháp ma trận của Heisenberg
(Nguồn: Lotte Meitner-Graf/AIP Emilio Segrè Visual Archives)
Enskog cũng đề cử Heisenberg và Schrödinger trong một bức thư tiến cử dài dòng.
Trong một số đoạn, ông nhắc nhở Oseen rằng ông này rất có thể phạm sai lầm khi
đánh giá các công trình vật lí. Một thập kỉ trước đó, Oseen đã đánh rớt luận án của
Enskog và có vẻ đã đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp học thuật của ông. Tuy nhiên,
sau đó Enskog đã đi ra nước ngoài nghiên cứu và được xem là một người có đóng
góp lớn cho lí thuyết khuếch tán chất khí. Oseen vẫn được giữ lại ngồi chiếc ghế
quan tòa Thụy Điển xét xử nền vật lí lí thuyết. Ông không thèm để ý tới những ý
kiến của họ.
Oseen nhắc lại rằng một lí thuyết thỏa mãn nền vật lí nguyên tử phải tính đến các
hiệu ứng tương đối tính, vì thế Heisenberg và Schrödinger đơn giản là chưa đạt yêu
cầu đó. Ông hối thúc ủy ban đưa khoản tiền giải thưởng năm 1931 vào nguồn quỹ
đặc biệt và hoãn giải thưởng năm 1932 sang năm 1933. Lãnh đạo ủy ban đồng ý với
Oseen; Hulthén thì không tán thành việc chia giải cho Heisenberg và Schrödinger.
Khi toàn Viện Hàn lâm bỏ phiếu về ý kiến của ủy ban, nhiều thành viên mới hiểu
rằng Oseen không phải là nhà chuyên môn duy nhất ở Thụy Điển. Trong bài báo
11
nghi thức do thư kí thường trực của Viện viết, số phiếu – thường chưa bao giờ được
ghi nhận – cho thấy một sự phân chia sâu sắc: 40 người bỏ phiếu bác bỏ việc trao
giải, còn 23 người muốn trao giải cho Heisenberg và Schrödinger.
Cuối cùng, năm 1933, Oseen chấp nhận rằng thời điểm cần thiết đã đến. Một vị cứu
tinh đã lờ mờ hiện ra phía chân trời. Oseen đã học được qua người học trò nhiều
năng khiếu Ivar Waller của mình rằng những tiến bộ đáng chú ý của cơ học lượng
tử về phía thuyết tương đối là có thể đạt được. Không giống như Oseen, Waller
thường tham dự các hội nghị quốc tế và đi thăm những trung tâm nghiên cứu vật lí
quan trọng. Ông gởi tin tức từ Cambrige và Copenhagen về kiệt tác lí thuyết của
Paul Dirac, bắt đầu với bài báo năm 1928: “Thuyết lượng tử của electron”, cũng
như các kết quả thực nghiệm củng cố thêm lí thuyết. Thật ra, Waller và Dirac chơi
khá thân; những bài bình luận gay gắt của những người đi trước về các bài báo ban
đầu của Dirac lại còn giúp đặt nền tảng cho lí thuyết hố năng lượng nổi tiếng đã đưa
đến việc tiên đoán sự tồn tại của phản vật chất. Tất nhiên, Oseen vẫn thận trọng
trước những kết luận của Dirac.
Với số đông áp đảo, những nhà đề cử vẫn bộc lộ nguyện vọng của họ muốn trao
giải thưởng năm 1933 cho Heisenberg và Schrödinger trước khi cân nhắc đến
những người khác hoạt động trong lĩnh vực này, cho dù là Dirac, Pauli hay Born.
Chỉ có hai nhà đề cử - William Lawrence Bragg and Czeslaw Bialobrzeski – bổ
sung thêm Dirac vào danh sách ứng cử viên của họ. Tại cuộc họp trù bị thảo luận
việc trao giải, ủy ban đã bỏ phiếu thăm dò khả năng trao giải năm 1932 cho
Heisenberg và giải năm 1933 cho Schrödinger.
Dirac phá vỡ sự bế tắc
Đánh giá của Oseen về Dirac dần dần đã hiện rõ. Ông tự hỏi không biết nhà lí
thuyết lỗi lạc người Anh này có thể sánh với Planck, Einstein và Bohr – những
người hội đủ tiêu chuẩn nhận giải Nobel – hay không. Oseen làm việc rất có nguyên
tắc. Nhưng ông muốn chọn thời gian hợp lí: khi bước vào làm vật lí, Dirac đã phải
đương đầu với Heisenberg và đã dành hết công sức và trí tuệ cho việc giải quyết
những mâu thuẫn trong lí thuyết của nhà khoa học Đức. Lưu ý thấy đa số các
nghiên cứu của Dirac chỉ mới được công bố, nên Oseen cảm thấy chắc chắn rằng
ngôi sao mới nổi trên bầu trời vật lí này sẽ còn gặt hái được nhiều thành tựu to lớn
trong tương lai.
Sang tháng 9, Oseen thay đổi hẳn tâm tính. Đột nhiên ông hối thúc chia bổng lộc
Nobel cho Dirac. Tiên đoán kì cục của Dirac về một hạt electron mang điện tích
dương đã được xác nhận bởi hai thí nghiệm độc lập nhau. Oseen cảm thấy hài lòng,
đây đúng là một “thực tại khách quan” quan trọng được khám phá như một thành
quả của cơ học lượng tử - một khám phá “đã dẹp bỏ một trong những dè dặt khó
khăn nhất chống lại thuyết nguyên tử mới nhằm khẳng định lí thuyết này”.
Chuẩn bị cho cuộc họp ủy ban vào đầu tháng 9, Oseen kể cả Dirac vào cùng bản
báo cáo đặc biệt về Heisenberg và Schrödinger. Ông liên hệ ba ứng cử viên này như
đầu và vai của cơ thể người. Oseen kêu gọi trao giải năm 1932 cho Heisenberg,
nhấn mạnh việc khám phá ra dạng thù hinh hydro mới hơn là nguyên lí bất định.
Tuy nhiên, ông cho phép trích dẫn để mô tả Heisenberg là nhà sáng lập ra cơ học
lượng tử. Còn Schrödinger và Dirac cùng nhận giải năm 1933 cho những đóng góp
quan trọng cho nền vật lí nguyên tử.
12
Oseen bảo đảm rằng cả Pauli và Born – hai người giữ vai trò trong sự phát triển cơ
học lượng tử - sẽ không được nhận giải, ít nhất là trong thời gian ông còn sống.Theo
Oseen, Pauli là người vừa mới trưởng thành. Và mặc dù Waller đã hết sức cố gắng
thuyết phục ông rằng việc Pauli chậm cho xuất bản các công trình nghiên cứu vào
lúc đó là vì ông còn gặp phải nhiều vấn đề tương đối tính khó giải quyết chứ không
phải là do cạn kiệt sức sáng tạo, nhưng Oseen vẫn nhất quyết Pauli không thể nào
chia giải được.
Mãi đến cuối năm 1944 – năm ông qua đời – Oseen vẫn tiếp tục gạt sang một bên
những đóng góp của Pauli cho cơ học lượng tử, ông coi Pauli là một nhà lí thuyết
suông. Vào năm sau đó, Waller gia nhập ủy ban và góp phần đảm bảo một giải
thưởng cho Pauli vào năm 1945. Born thì phải chờ lâu hơn – mãi đến năm 1954.
Mặc dù Heisenberg có viết thư cho Born vào năm 1933 để bày tỏ sự tiếc nuối vì họ
không cùng nhận giải được, nhưng ông chẳng làm gì để cứu vãn tình hình cả.
Chẳng hạn, ông đã không bỏ phiếu tiến cử cho Born, người lúc ấy phải đi tị nạn bởi
chế độ phát xít bài Do Thái. Dirac, Schrödinger và Heisenberg nhận giải là hoàn
toàn xứng đáng, nhưng việc người ta xét trao giải cho những nhà tiên phong của cơ
học lượng tử có lẽ là chưa hợp lí.
Vỡ một giấc mộng dài
Như phần giữa bài viết đã cho thấy, để trả lời những câu hỏi “tại sao và do đâu” của
giải thưởng Nobel, việc nhìn vào ủy ban xét giải và ngữ cảnh Thụy Điển của nó là
đúng bản chất vấn đề. Lịch sử trao giải trong 50 năm đầu – mà hồ sơ lưu trữ vẫn
còn khai thác được – cho thấy một số thành viên trong ủy ban quá thiên vị và thật sự
có vấn đề, còn một số thành viên khác thì đơn giản là vì họ không thể nảo nắm bắt
được những thành tựu nằm ngoài chân trời hiểu biết của họ.
Tất nhiên, cả trong thời gian gần đây, sự càu nhàu, nghi vấn vẫn không ngừng gia
tăng. Dirac đã mất hết tinh thần khi cố gắng vận động trao giải cho những thành tựu
vật lí hạt cơ bản lí thuyết vào cuối những năm 1960 và 1970. Ông nhận thấy một số
thành viên ủy ban đơn giản là vì họ không muốn trao giải cho lí thuyết, trong khi
những thành viên khác thì ưu tiên cho những nghiên cứu theo lối kinh nghiệm trước
rồi mới tính đến chuyện trao giải cho nghiên cứu lí thuyết. Chỉ vào năm 1933, Dirac
mới nhận ra rằng giải thưởng Nobel đúng là một tấm huy chương vàng được khắc
bằng tính nhu nhược của con người.
(theo Physics World)
13
Nhìn lại lịch sử 50 năm đầu của giải thưởng Nobel vật lí 1901 – 1950
Elisabeth Crawford
! " # $
%
& '
( # ) * + $ * , - $ . # / # 0 $ 1 2 $ 3
$
%
1
4 , 5 ! 4 6 5 $ 7
8 9 $ 7 (
9 $ # :
%
; , , $ 2 2 ! " # $
& '
( < # )
+ $ = >
2 : $ 2 $ 4
?
7
# 8 , , $ 2 >
$ $ @ A
Ngày 10 tháng 12 năm 2001, Quỹ Nobel đã tổ chức lễ kỉ niệm 100 năm kể từ
ngày giải thưởng Nobel đầu tiên được trao. Với tư cách là những người thắng giải
trong năm - Eric Cornell, Wolfgang Ketterle và Carl Wieman – tụ họp ở Stockholm
và Oslo, cùng với những người thắng giải khác của năm 2001 và những người đã
từng đạt giải trong những năm trước đã tham gia buổi lễ kỉ niệm. Cũng đừng quên
rằng họ là phần nổi của tảng băng chìm thể chế Nobel. Vì chỉ có tối đa ba người có
thể chia chung một giải thưởng, cho nên người ta có thể đếm được số ứng cử viên
kém may, những người thường ít được mời đến.
Giải thưởng Nobel được xem như một tòa tháp cao hơn tất cả những giải
thưởng khác trong khoa học và y học là vì lịch sử lâu đời của nó. Thậm chí khi giải
thưởng này chưa tròn 10 tuổi thì một nhà báo người Mĩ đã viết: “Không thể viết về
lịch sử của nền khoa học hiện đại mà không nhắc đến danh tiếng của giải thưởng
Nobel dành cho những khám phá có ích cho con người trong lĩnh vực vật lí, hóa học
và y học”. Một số người có thể không đồng ý với nhận định này, chẳng hạn, họ có
thể cãi lại rằng những giải thưởng vật lí đã trao trong thế kỉ qua đã chỉ giới hạn
trong nền vật lí nguyên tử và hạt nhân, mà bỏ sót đa số các thành tựu thuộc lĩnh vực
địa vật lí, thiên văn vật lí và toán lí. Tuy nhiên, người ta cũng có thể công bằng mà
nói rằng, đa số những nhà vật lí lớn của thế kỉ qua đã được trao giải Nobel.
Năm 1974, Quỹ Nobel đã thay đổi quy chế, cho phép toàn bộ hồ sơ lưu trữ -
thuộc quyền sở hữu của Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển, đối với giải
thưởng vật lí và hóa học – được công bố để các nhà sử học khai thác, sau 50 năm
giải thưởng đã trao. Quy định này có nghĩa là toàn bộ hồ sơ lưu trữ sẽ được đưa ra
công chúng sau khi 50 ròng đã trôi qua. Ví dụ, hồ sơ liên quan đến giải thưởng năm
1951 sẽ được công bố vào ngày 1/1/2002.
Tất nhiên, sự thay đổi quy chế này đã cho phép những người viết lịch sử
khoa học nghiên cứu xem từng cá nhân nào đó đã thẳng giải như thế nào. Nhưng
Trang 1/10
thực ra những nghiên cứu này còn đi xa hơn. Các nhà lịch sử cũng xem xét cái gì đã
giới hạn “tính công chúng của giải Nobel”, và xem những người thắng giải, những
người đề cử và cả những người kém may mắn đã tham gia vào quá trình xét trao
giải như thế nào.
Trong bài báo này, chúng ta gộp chung cả các nhà vật lí và hóa học, xem như
là thành viên trong “công chúng Nobel” của chúng ta. Lí do là trong phạm vi mà ủy
ban Nobel quan tâm, một số vấn đề thường được xem là thuộc vật lí - như sự phóng
xạ chẳng hạn – có khi trở thành thuộc hóa học. Hơn nữa, giải thưởng hóa học năm
1908 và 1935 tương ứng được trao cho Ernest Rutherford và cho Frédéric Joliot và
Irène Joliot-Curie, cho nghiên cứu của họ trong lĩnh vực này
Cơ cấu giới tính, màu da và trường viện nghiên cứu
Trụ cột của công chúng Nobel là những người được đề cử cho giải thưởng
vật lí, hóa học – hoặc đôi khi cả hai ngành – bởi những nhà đề cử được mời. Những
ai có quyền đề cử được giới thiệu trong bảng bên dưới. Từ 1901 đến 1950, có
khoảng 598 cá nhân được đề cử, 104 trong số họ - chừng 1/6 – đã thắng giải. Vậy
thì họ gồm những ai ?
Một điều rõ như ban ngày. Đa phần họ là đàn ông (99%). Chỉ có vỏn vẹn 8
ứng cử viên là nữ, trong đó chỉ có 3 người thắng giải. Đó là Marie Curie, giải Nobel
vật lí 1903 và giải Nobel hóa học 1911, Irène Joliot-Curie (giải hóa học 1935) và
Dorothy Hodgkin (giải hóa học 1964).
Mặc dù chỉ có vài ứng cử viên nữ, nhưng họ nhận được nhiều đề cử hơn
(trung bình 10 đề cử/ ứng cử viên nữ, trong khi chỉ có 7 đề cử/ ứng cử viên nam).
Sự chênh lệch này chủ yếu là do một số lượng lớn phiếu đề cử từ phía Lise Meitner,
người chưa bao giờ thắng giải nào (Bà nhận được tổng cộng 20 đề cử cho giải
thưởng vật lí, 21 đề cử cho giải thưởng hóa học – chiếm hơn phân nửa số đề cử
dành cho những ứng cử viên nữ trong giai đoạn 1901-1950). Buộc phải trốn chạy
khỏi chế độ phát xít Đức không bao lâu trước khi khám phá ra sự phân hạch hạt
nhân vào tháng 12/1938, những đóng góp của bà không được ủy ban xét giải vật lí
và hóa học kể đến, và năm 1945, chỉ một mình Otto Hahn nhận giải Nobel hóa học.
Những ứng cử viên nữ kém may khác có thể kể ra đây là nhà hóa học người Đức
Ida Noddack, nhà hóa sinh và toán học người Anh-Mĩ Dorothy Wrinch, và hai nhà
vật lí nguyên tử người Áo Marietta Blau và Hertha Wambacher.
Những ứng cử viên giai đoạn 1901-1950 cũng đến từ một phạm vi hẹp các
quốc gia. Trong số 2416 đề cử trong lĩnh vực vật lí, ba phần tư là dành cho các nhà
khoa học thuộc 4 nước: Đức (25%), Mĩ (21%), Pháp (16%) và Anh (13%). Trong
những năm đầu, người Đức được đặc biệt ưu ái. Một phần tư còn lại phân đều cho
các nước châu Âu, nhất là vùng Scandinavi, Đông Âu, Hà Lan và Italia. Ứng cử
viên đến từ những lục địa khác – như Mĩ Latinh (Peru và Brazil) hay châu Á (Ấn
Độ và Nhật Bản) – chiếm chưa tới 2% số đề cử. Châu Phi thì hoàn toàn không có
mặt trong bản đồ Nobel.
Đại đa số các đề cử trong lĩnh vực vật lí (67%) dành cho những ứng cử viên
đang làm việc ở các khoa giảng dạy của trường đại học và các phòng thí nghiệm.
Nhóm nhiều đứng vào hàng thứ hai (10%) là những người làm việc ở các viện công
nghệ - từ các trường kĩ thuật đến các trường đại học công nghệ. Chỉ một vài đề cử
Trang 2/10
dành cho những viện nghiên cứu độc lập và phòng thí nghiệm thuộc chính phủ, như
James Dewar thuộc Viện Hoàng gia London, và Friedrich Kohlrausch thuộc Cục
Tiêu chuẩn Đức, cả hai người này đều không được giải. Các nhà vật lí làm việc
trong lĩnh vực công nghiệp cũng ít và hiếm. Guglielmo Marconi, người cùng nhận
giải thường vật lí năm 1909 cho khám phá ra điện báo không dây, là một thí dụ
hiếm hoi. Phần đề cử còn lại bao gồm những nhà vật lí như Oliver Heaviside và
William Crookes, những người “không đủ tư cách” và làm việc trong các phòng thí
nghiệm tự xây dựng tại nhà, một chuyện không phải hiếm thấy vào thời gian đầu
thế kỉ 20.
Tháng 6/1920, một nghi thức đặc biệt đã được tổ chức ở Stockholm để tôn vinh giải thưởng
Nobel trao trong thời kì và ngay khi vừa kết thúc Thế chiến thứ nhất. 5 trong số 9 người đạt giải
trong thời kì này là người Đức. Họ là (từ trái sang phải): Max von Laue (giải vật lí 1914), Fritz
Haber (giải hóa học 1918), Max Planck (giải vật lí 1918), Richard Willstätter (giải hóa học 1915)
và Johannes Stark (giải vật lí 1919). Những người phụ nữ trong hình là vợ của họ.
Vậy thì những đại biểu đại diện cho chuyên ngành của họ được tiến cử giải
thưởng vật lí và hóa học như thế nào ? Câu trả lời phụ thuộc vào từng thời kì.
Chẳng hạn, người ta ước tính có đến 1000 hay ngần ấy nhà vật lí đang hoạt động ở
châu Âu và Bắc Mĩ vào đầu thế kỉ 20, khoảng giữa một phần tư và một phần ba
trong số đó có thể đóng vai trò là ứng cử viên hoặc nhà tiến cử cho giải thưởng vật
lí. Thật vậy, quy chế Nobel trước Thế chiến thứ nhất đã tiến rất gần tới ý tưởng về
một “nền cộng hòa khoa học quốc tế”.
Tuy nhiên, sự phát sinh chủ nghĩa phát xít trong Thế chiến thứ hai đã dẫn tới
việc phân chia nền khoa học thế giới thành những nền khoa học mang tính “quốc
gia”. Hậu quả trực tiếp của việc Hitler lên nắm quyền là nền khoa học Đức bị cắt rời
khỏi thể chế Nobel. Nổi giận trước việc trao giải Nobel hòa bình năm 1936 cho nhà
hoạt động hòa bình cánh tả, chống phát xít, Carl von Ossietzky, Hitler đã ban hành
một đạo luật cấm công dân Đức nhận giải thưởng Nobel. Bằng sự khắc kỉ, các nhà
khoa học Đức tuân thủ đạo luật đó khá tốt. Do đó, từ 1937 đến 1945, những nhà
khoa học Đức chỉ được đề cử từ những nhà nghiên cứu ở các nước khác.
Sự suy giảm địa vị khoa học của Đức sau khi chế độ phát xít lên nắm quyền
vào năm 1933 có thể thấy rõ trong hồ sơ của giải Nobel (xem hình). Biểu đồ cũng
cho thấy sự tăng trưởng ngoạn mục của Mĩ như một lực lượng khoa học quan trọng.
Vào đầu thập niên 1900, các nhà vật lí người Mĩ chỉ nhận được một phần rất nhỏ đề
cử từ phía các đồng nghiệp ở Đức, Pháp và Anh. Nhưng, vào cuối Thế chiến thứ
hai, họ nhận được số đề cử nhiều hơn cả của ba nước này cộng lại. Đây chỉ mới là
Trang 3/10
sự bắt đầu của quyền bá chủ Mĩ trong tổ chức Nobel. Chẳng hạn, trong 10 năm vừa
qua (bài báo viết năm 2001 – ND), 15 trong tổng số 24 người nhận giải Nobel là
người Mĩ.
Các nhà đề cử thuộc nhóm 1-4 có quyền đề cử vĩnh viễn. Những người còn
lại trong nhóm 5 và 6 thì được mời theo hàng năm. Hơn 500 cá nhân đã được mời
đề cử giải thưởng vật lí và hóa học năm 1950. Hiện nay, số người đề cử có lẽ đã lên
tới con số ngàn. Xem trang web của quỹ Nobel (http://nobelprize.org) để biết thêm
chi tiết.
Kẻ chiến thắng và người thua cuộc
Do tính công chúng của giải thưởng Nobel được tạo ra từ cả những người
chiến thắng lẫn những người thất bại trong cuộc đua giành giải, nên chúng ta có thể
khảo sát sự chênh lệch giữa những ứng cử viên đạt giải và những ứng cử viên
không đạt giải. Trong tổng số 278 ứng cử viên cho giải thưởng vật lí từ năm 1901
đến 1950, chỉ có chừng 55 người – tức là cỡ 1/5 – thành công (kể cả một vài người
Trang 4/10
được trao giải thưởng hóa học). Tất nhiên, sự chênh lệch giữa số người đạt giải và
thất bại thực tế còn nhạy cảm hơn nhiều so với số liệu lưu trữ cho thấy. Đặc biệt, nó
phụ thuộc nhiều vào tư chất khoa học của các ứng cử viên và sự đánh giá của ủy
ban Nobel về khả năng của họ.
Cũng còn một số yếu tố nữa phải kể đến, chẳng hạn như quan điểm của các
thành viên trong ủy ban nghiêng về phía thực nghiệm nhiều hơn so với lí thuyết.
Điều đáng nói là những ngăn trở ban đầu đối với việc trao giải cho các nhà lí thuyết
đã bị phá vỡ sau Thế chiến thứ nhất, khi Carl Wilhelm Oseen – nhà vật lí lí thuyết ở
trường đại học Uppsala, Thụy Điển – được bầu vào ủy ban Nobel vật lí. Nhà vật lí lí
thuyết thuần túy đầu tiên được trao giải là Max Planck, ông đạt giải thưởng vật lí
năm 1918 cho việc khám phá ra thuyết lượng tử. Albert Einstein và Niels Bohr cũng
đạt giải 3 năm sau đó. Những thay đổi như thế này trong chính sách của ủy ban chỉ
có thể được đánh giá đúng qua việc nghiên cứu kĩ lưỡng các văn bản trong hồ sơ
lưu trữ Nobel. Một yếu tố cũng quan trọng nữa là phải tìm hiểu sở thích khoa học
của năm nhà khoa học người Thụy Điển có mặt trong ủy ban khi đó.
Mặc dù việc phân tích định lượng tính công chúng của giải Nobel cho thấy
số lượng phiếu đề cử mà mỗi nhà vật lí nhận được, nhưng các đề cử cho giải Nobel
không giống như việc “bầu cử”. Như quy chế đã nêu, chỉ cần một đề cử cũng đủ để
trao giải. Số lượng lớn đề cử không nhất thiết sẽ cho cơ hội thắng giải nhiều hơn.
Thí dụ, nhà phát minh người Thụy Điển Nils Dalén được trao giải năm 1912 cho
phát minh ra phao hải đăng tự động mặc dù trong năm đó, ông chỉ nhận được duy
nhất một đề cử, và chẳng nhận được đề cử nào trong những năm trước đó. Tuy
nhiên, Dalén là một trường hợp ngoại lệ, vì đa số những ứng cử viên khác – cả
người đạt giải và không đạt giải – đều nhận được nhiều đề cử trong nhiều năm.
Hồ sơ Nobel cũng có thể sử dụng để dựng nên một “top hit” 40 nhà vật lí
được đề cử nhiều nhất trong giai đoạn 1901 – 1950 (xem bảng bên dưới). Trong đó
có 22 ứng cử viên nhận giải vật lí, 3 người nhận giải hóa học (mặc dù họ nhận được
số đề cử cho giải thường vật lí nhiều hơn), và 15 người thất bại, không nhận được
giải thưởng nào hết.
Những người không đạt giải trong danh sách bên dưới cho thấy ba khó khăn
chính mà những ứng cử viên phải đối mặt. Cái khó thứ nhất – và là cái khó thường
thấy nhất – là ứng cử viên nghiên cứu trong lĩnh vực không có người đại diện trong
ủy ban Nobel vật lí. Đây là trường hợp của nhà toán học và vật lí toán người Pháp
Henri Poincaré, người nhận được đến 51 đề cử trong các năm nhưng chưa hề nhận
được giải thưởng nào. Đó cũng là trường hợp của nhà khí tượng học người Na Uy
Vilhelm Bjerknes (48 đề cử và không giải thưởng), và nhà thiên văn vật lí người Mĩ
George Ellery Hale (33 đề cử nhưng không may mắn).
Một rào cản nữa là có thể thành tựu của các ứng cử viên – mặc dù có chất
lượng khoa học cao – làm cản trở ủy ban trao giải. Nói cụ thể thì quy chế Nobel quy
định giải thưởng phải được trao cho những khám phá đặc biệt, đúng hơn là cho
những nghiên cứu phục vụ cuộc sống con người. Chướng ngại này được minh họa
bằng sự “thiếu hụt giải thưởng” dành cho những nhà vật lí đa tài như Arnold
Sommerfeld (81 đề cử), Robert Williams Wood (38) và Paul Langevin (25). Thật
vậy, Sommerfeld là trường hợp đáng nghi ngờ nhất, vì ông nhận đến 81 đề cử -
nhiều nhất trong giai đoạn 1901-1950 – mà chả hề nhận giải thưởng nào.
Trang 5/10
Thử thách sau cùng trong việc giành giải thưởng là các nhà đề cử quyết định
khởi động chiến dịch vận động cho ứng cử viên nào đó trong thời gian bao lâu.
Hình như ứng cử viên sẽ có lợi thế hơn nếu như người đề cử họ tiến hành bỏ phiếu
theo kiểu “công kích”, đúng hơn là một “cuộc chiến tinh thần” kéo dài. Thực tế cho
thấy rõ phải gần 5 năm qua đi từ sự tiến cử đầu tiên cho đến khi giải thưởng được
trao cho James Chadwick, Enrico Fermi, Werner Heisenberg, Ernest Lawrence và
Erwin Schrödinger. Và thậm chí Planck và Einstein phải chờ mất 12 năm mới được
nhận giải – vì ủy ban vật lí nhìn nhận vật lí lượng tử và thuyết tương đối với thái độ
hoài nghi cao độ - sự tích góp những phiếu ủng hộ cho họ cũng giống như một cuộc
chiến khải hoàn. Ngược lại, có những chiến dịch kéo dài và không hiệu quả đối với
những người không đạt giải như Paul Langevin (36 năm trôi qua tính từ đề cử đầu
tiên đến đề cử cuối cùng), Aimé Cotton (34 năm), Arnold Sommerfeld (33 năm) và
Robert Williams Wood (24 năm).
Top 40 nhà vật lí được đề cử nhiều nhất trong giai đoạn 1901-1950
Giải thưởng và năm
Họ tên Số đề cử Năm đề cử Nước
trao giải
Vật lí
1 Otto Stern 81 1925 - 1944 Mĩ
[1] 1943
Trang 6/10
25 Pierre Weiss 23 1916 - 1937 Pháp
Đan
28 Valdemar Poulsen 21 1909 - 1923
Mạch
Đức/
31 Lise Meitner 20 1937 - 1949 Thụy
Điển
Đan
34 Niels Bohr 20 1917 - 1922 Vật lí 1922
Mạch
Nhật
36 Hideki Yukawa 20 1940 - 1949 Vật lí 1949
Bản
Danh sách ở trên bao gồm 40 nhà vật lí đã nhận được đề cử nhiều nhất từ
năm 1901 đến 1950, cùng với số phiếu đề cử và năm họ được đề cử lần đầu tiên và
lần cuối cùng. Danh sách cũng cho biết năm họ nhận giải thưởng (nếu có), loại giải
thưởng mà họ nhận, và “quốc gia nơi họ đang làm việc”, tức là đất nước có viện
nghiên cứu mà ứng cử viên đang hoạt động khi được đề cử. Đối với những nhà
khoa học di chuyển thường xuyên – nhất là trong thập niên 1930 và 1940 – họ được
giữ quốc tịch gốc trong thời gian 7 năm. Nếu họ sinh sống ở đất nước nào đó từ 8
năm trở lên, thì họ phải mang quốc tịch mới.
Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế trong các đề cử
Bất kì ai được mời làm người đề cử cho giải Nobel cũng phải, về nguyên tắc,
tuân theo di chúc của Nobel quả quyết rằng “không xét đến quốc tịch của ứng cử
viên”. Tuy nhiên, quốc tịch của ứng cử viên vẫn luôn luôn đóng một vai trò quan
Trang 7/10
trọng. Thứ nhất là các nhà đề cử có xu hướng đề xuất ứng cử viên của nước mình –
tôi tạm gọi họ là những nhà đề cử “quốc nội”. Kế đến là việc tập trung số đề cử đến
từ nước “mình” hay nước “khác” dành cho một ứng cử viên nào đó có ảnh hưởng
lớn đến việc quyết định trao giải. Tôi sẽ phân tích kĩ từng vấn đề này.
Nếu chúng ta giới hạn chỉ phân tích 4 nền khoa học chủ đạo là Đức, Pháp,
Anh và Mĩ – những nước chiếm tới ba phần tư số lượng đề cử và một phần ba số
người đề cử trong giai đoạn 1901-1950 – chúng ta sẽ thấy sự chênh lệch đáng kể về
mức độ tham gia của các nhà vật lí đến từ những nước này trong quá trình đề cử
giải thưởng. Các nhà khoa học Đức hoạt động tích cực nhất, họ chiếm tới 34% số
lượng đề cử. Người Mĩ đứng thứ hai với 28%, theo sau là Pháp (21%) và Anh
(17%). Sự chênh lệch này không phải do sự chênh lệch số lượng thư mời đề cử gởi
tới từng nước – ít nhất là đối với các nước Pháp, Anh và Mĩ. Chỉ có người Đức hơi
chiếm thế thượng phong hơn một chút, chủ yếu do họ có nhiều người đạt giải Nobel
hơn ba nước kia. Sự chênh lệch đó cũng có nguyên nhân do quan điểm của giới
khoa học mỗi nước đối với việc đề cử giải thưởng, và nó cho chúng ta biết được đôi
điều về nền văn hóa khoa học ở mỗi nước.
Chỉ trên phân nửa (51%) số nhà đề cử ở bốn nước trên có thiện ý với những
người đồng bào của họ, mặc dù quan điểm của họ cũng thay đổi theo từng nước và
từng thời gian cụ thể. Từ năm 1901 đến 1950, người Pháp mang tính chất Sô vanh
nhất, với chừng 60% số lượng đề cử đến từ chính các nhà khoa học Pháp. Người
Anh thẳng thắn nhất, với chỉ 35% số lượng đề cử dành cho những người bạn đồng
chí nước họ. Người Đức và người Mĩ thì nằm giữa hai thái cực này, tương ứng là
53% và 49%.
Tuy nhiên, ở cả 4 nước đều thấy có sự tăng bộc phát số lượng đề cử quốc nội
trong thời gian và sau hai cuộc chiến tranh thế giới. Khuynh hướng này đặc biệt
mạnh mẽ trong thời gian Thế chiến thứ hai ở Pháp, Anh và Mĩ, và có lẽ là do lòng
yêu nước, cũng như giới khoa học ở từng nước đã bị cô lập với giới khoa học nước
ngoài. Sự vắng mặt các nhà đề cử người Đức từ 1937 đến 1945 là do đạo luật chống
lại giải Nobel của Hitler, và tất nhiên, không có nhân vật người Đức nào xuất hiện
trong thời kì này.
Tuy nhiên, sự bất đồng giữa người Anh và người Pháp trong việc đề cử ngày
càng phức tạp hơn so với khi nó mới xuất hiện. Chẳng hạn, khi phát hiện không có
nhà khoa học hay tác giả người Anh nào được kể đến trong số những người thắng
giải năm 1901, một cuộc tranh luận gay gắt đã bùng nổ trên trang điểm thư của tạp
chí Times. Một số phóng viên giữ quan điểm cho rằng sự thiếu vắng một tổ chức
trung tâm để sắp xếp quá trình đề cử của người Anh là bất lợi, trong khi theo họ thì
người Pháp có cả một hệ thống học viện được tổ chức tốt để làm việc này. Nhưng,
trong khi đúng là có nhiều chiến dịch ủng hộ ứng cử viên người Pháp tập trung ở
Viện Hàn lâm Khoa học Paris, thì không gì phải nghi ngờ việc họ hay viện hàn lâm
có tiếp tay thêm bằng cách này hay không. Thật vậy, điều đáng nói là không có ứng
cử viên người Anh nào thành công trong số top 40 nhà vật lí, còn người Pháp thì có
4 người: Poincaré, Cotton, Langevin và Weiss.
Sự bất đồng chiến lược đề cử ở người Anh và người Pháp thấy rõ nhất trong
lĩnh vực nổi bật nhất – số giải Nobel thực tế nhận được. Như chúng ta đã thấy, các
nhà đề cử người Pháp hoạt động tích cực hơn những đồng nghiệp người Anh của
Trang 8/10
mình. Hệ quả của tỉ lệ đề cử quốc nội cao là ứng cử viên người Pháp thường nhận
được nhiều hơn ứng cử viên người Anh gần một phần ba số đề cử. Tuy nhiên, sự
thuận lợi qua những con số này cũng khác biệt nhiều. Ví dụ, trong lĩnh vực vật lí, từ
năm 1901 đến 1950, Pháp chỉ nhận được có 7 giải, so với 13 giải dành cho Anh, 12
giải cho Mĩ, và 10 cho Đức.
Tất nhiên, còn có những nguyên nhân khác đã mang đến sự thành công của
người Anh ở số lượng giải Nobel thực tế được nhận. Điều này chỉ có thể bàn luận
trong phạm vi rất rộng, đối với những trường hợp và cơ hội mang đến giải thưởng,
nếu không có gì bất ngờ, thường thì là độc nhất vô nhị đối với một ứng cử viên nào
đó. Tuy nhiên, thực tế thì ứng cử viên người Anh, thay vì nhận được nhiều đề cử từ
phía những người trong nước, họ lại nhận được sự ủng hộ hết sức thuyết phục – đặc
biệt là từ phía nước ngoài, điều đó mới là quan trọng. Một lí do nữa là do quy mô,
sức mạnh và Anh là nơi khởi sinh các nghiên cứu vật lí nguyên tử và hạt nhân, lĩnh
vực mà ủy ban Nobel vật lí quan tâm trong nửa đầu thế kỉ 20. Các thành viên ủy ban
cũng có quan hệ gắn kết chặt chẽ hơn với nền khoa học Anh so với với những người
đồng nghiệp Pháp, họ thấy xa lạ với ngôn ngữ và nền văn hóa khoa học Pháp.
Trong thời kì sau Thế chiến thứ hai, quan hệ chặt chẽ của các thành viên ủy ban với
Đức, và một số với Anh, bị thay thế bằng quan hệ trên quy mô lớn với người Mĩ.
Tuy nhiên, tinh thần dân tộc chủ nghĩa của các nhà đề cử thật ra không sai
khiến được việc quyết định trao giải. Cho dù có chủ ý hay không có chủ ý, ủy ban
xét trao giải vẫn sử dụng đặc quyền của họ ra phán quyết cuối cùng, san phẳng
quyết định trao giải cho mang tính chất quốc tế. Một số đo thô của cơ chế này có thể
thu được bằng cách so sánh số lượng đề cử nhận được giải và không nhận được giải
trong giai đoạn 1901-1950, trong cả lĩnh vực vật lí và hóa học. Trong khi những
người thắng giải nhận được 83% số đề cử dành cho họ từ các nước khác, thì những
người thất bại chỉ nhận được phân nửa số đó (43%) từ phía giới khoa học nước
ngoài. Khi chỉ tính riêng với 4 nước đã giới hạn thì tương ứng là 53% cho những
người thắng cuộc và 40% cho những người thua cuộc. Điều này cho thấy kết quả
phụ thuộc nhiều vào mong muốn của những người xét trao giải ủng hộ tinh thần
quốc tế trong khoa học, chứ không phải ứng cử viên nào nhận được nhiều “phiếu”
là sẽ thắng. “Tiến ra quốc tế” tỏ ra là một lợi thế thực sự trong chiến lược tranh
giành giải thưởng Nobel.
Hồ sơ từ năm 1951: một chút suy đoán
Sau đợt sụt giảm số lượng đề cử do Thế chiến thứ hai, số lượng đề cử thường
niên trong lĩnh vực vật lí nhanh chóng tăng vọt trở lại như thời trước chiến tranh, ở
mức từ 50 đến 75. Khi nào hồ sơ lưu trữ của thập niên 1950 và 1960 được mở,
chúng ta có thể trông đợi tính công chúng của giải thưởng Nobel sẽ còn tăng nhanh
hơn – và sau cùng thì số đề cử đã lên tới hàng trăm cho một năm.
Do tính công chúng của giải Nobel mang đến nhiều cơ hội nghiên cứu không
chỉ về quy chế Nobel, mà còn phản ánh cả cộng đồng vật lí quốc tế rộng lớn hơn
nhiều, nên nó vẫn là nguồn thông tin có giá trị cho các nhà lịch sử khoa học, rất lâu
sau khi những tai tiếng rùm beng xung quanh giải thưởng đã lắng dịu. Các nghiên
cứu này sẽ được làm phong phú thêm bằng những ấn phẩm có liên quan và tỉ lệ
trích dẫn đã bắt đầu đánh lừa cộng đồng khoa học – và đặc biệt là những nhà tài trợ
- trong thập niên 1950 và sau đó. Tất cả những thông tin này thật tuyệt vời, nhưng
Trang 9/10
các nhà nghiên cứu vẫn có nhận thức sâu sắc về những giới hạn của các loại dữ liệu
định lượng này. Tuy vậy, việc nghiên cứu lịch sử trên kho tư liệu Nobel giúp chúng
ta tiến gần hơn đến việc hiểu được những người thắng giải đã được bầu chọn như
thế nào. Còn lại, mọi thông tin khác chỉ thuần túy là suy đoán mà thôi.
$ + $ $
( 9 $ $ $ # #
(
Trang 10/10
Werner Heisenberg – nhà khoa học gây tranh cãi
Michael Eckert (m.eckert@deutsches-museum.de)
Hơn 100 năm đã trôi qua kể từ khi cha đẻ của nguyên lí bất định chào đời, nhưng
các nhà lịch sử khoa học vẫn tiếp tục tranh cãi về vai trò của con người này trong
Thế chiến thứ hai.
Hãy đọc bất cứ lời giải thích nào cho sự phát triển của nền vật lí học hồi đầu thế kỉ
20, bạn sẽ hầu như chắc chắn thấy rằng được sống ở Đức là điều bắt buộc đối với
bất kì nhà vật lí trẻ có tham vọng nào. Một nhà vật lí Đức trở nên nổi tiếng là ông
thầy của một thế hệ những người học trò xuất sắc là Arnold Sommerfeld. Vào mùa
hè năm 1922, không bao lâu sau khi chàng trai trẻ Werner Heisenberg đến đầu quân
dưới trướng của ông, Sommerfeld đã viết cho Paul Epstein, một cựu sinh viên lúc
ấy đã trở thành giáo sư vật lí lí thuyết tại Viện Công nghệ California: “Tôi chờ đợi
những thành tựu to lớn từ Heisenberg, anh chàng tôi tin là có nhiều năng khiếu nhất
trong số hết thảy học trò của mình, kể cả Debye và Pauli”. Chỉ 10 năm sau đó,
Heisenberg đã được trao giải Nobel vật lí cho việc “sáng lập ra cơ học lượng tử”.
Ủy ban Nobel trao riêng danh dự một giải thưởng cho một mình ông.
Bản in khắc vào cuối thế kỉ 18 này, từ bản mẫu nay không còn,
là chân dung xác thực duy nhất của William Gilbert.
Bất chấp bản chất cách mạng của cả hai công trình này, trong những năm
qua, cái tên Gilbert vẫn chìm vào quên lãng trong lịch sử khoa học – theo chúng tôi,
như thế khá là bất công. Vậy tại sao thành tựu mang tính cách mạng của ông trong
khoa từ học lại được ít người biết đến ?
Câu chuyện về Gilbert bắt đầu từ Conchester, Essex, nơi ông sinh ra năm
1544. Ông vào học trường đại học Cambrige khi tròn 14 tuổi. Tại đó, ông đã làm
quen, và sau đó đã từ bỏ, nền khoa học chính thống lúc bấy giờ, như triết học tự
nhiên của Aristotle, y học của Galen và thiên văn học của Ptolemy. Lí thuyết thiên
văn của Ptolemy đặt Trái Đất bất động tại tâm của vũ trụ, còn các hành tinh và Mặt
Trời thì chuyển động xung quanh trên những mặt cầu trong suốt.
Một cách định tính, chúng ta có thể mô tả nhiệt độ của một vật là đại lượng xác định
cảm giác nóng hoặc lạnh khi ta tiếp xúc với nó.
Dễ dàng chứng minh được rằng khi ta đặt hai vật đồng chất ở cùng nhau (các nhà
vật lí nói rằng chúng được đặt tiếp xúc nhiệt với nhau), thì vật có nhiệt độ cao hơn
sẽ lạnh đi, còn vật có nhiệt độ thấp hơn sẽ nóng lên, cho tới khi đạt tới một giá trị
nào đó thì không còn có sự biến đổi gì nữa, và đối với giác quan của chúng ta,
chúng ta cảm nhận được chúng như nhau. Khi sự biến đổi nhiệt dừng lại, chúng ta
nói hai vật (các nhà vật lí định nghĩa chặt chẽ hơn là hai hệ) cân bằng nhiệt với
nhau. Khi đó, chúng ta có thể định nghĩa nhiệt độ của hệ bằng cách nói rằng đại
lượng đó là như nhau đối với cả hai hệ khi chúng ở vào trạng thái cân bằng nhiệt
với nhau.
Nếu chúng ta tiếp tục thí nghiệm với nhiều hơn hai hệ, chúng ta nhận thấy rằng
nhiều hệ có thể được mang vào trạng thái cân bằng nhiệt với nhau; sự cân bằng
nhiệt không phụ thuộc vào loại vật mà ta sử dụng. Nói chính xác hơn thì
% & ' & ( ' & ) * + , - . / 0 & ( 1 , 2 0 3 4 0 5 0 & ' ) 6 7 8 ' 9 + 6 & ) 6 & : 3 (
6 & ; % & ' * < , & = 0 5 , > 0 5 , 2 0 3 4 0 5 0 & ' ) 6 7 8 ' 0 & ( 1
và chúng phải có cùng nhiệt độ, cho dù chúng được làm bằng chất gì cũng vậy.
0 5 1 ? @ 0 - A 6 & : % & B 0 5 , C ( 0 & ' ) 6 * + 0 5 - D , & E ,
Nhiệt kế là dụng cụ dùng để đo nhiệt độ của hệ một cách định lượng. Cách đơn giản
nhất là tìm một chất có tính chất biến thiên đều đặn theo nhiệt độ của nó. Phương
pháp “chính thống” trực tiếp nhất là phương pháp tuyến tính
t (x) = a (x) + b
trong đó t là nhiệt độ của chất và biến thiên khi tính chất x của chất biến thiên. Các
hằng số a và b tùy thuộc vào loại chất sử dụng và có thể định giá bằng việc định rõ
hai điểm nhiệt độ trên thang đo, như 32o cho điểm đông đặc của nước và 212o cho
điểm sôi của nước.
Ví dụ, nguyên tố thủy ngân là chất lỏng trong ngưỡng nhiệt độ từ - 38,9oC đến
356,7oC (chúng ta sẽ bàn về thang nhiệt độ Celsius oC ở phần sau). Ở trạng thái
lỏng, thủy ngân nở ra khi nhiệt độ của nó tăng, tỉ lệ giãn nở của nó là tuyến tính và
có thể được xác định một cách chính xác.
Nhiệt kế thủy ngân được minh họa trong hình trên, gồm một bầu thủy tinh chứa đầy
thủy ngân được phép giãn nở trong một ống mao dẫn, tỉ lệ giãn nở của thủy ngân
được đánh dấu trên ống thủy tinh.
F G ! "
Một trong những nỗ lực đầu tiên nhằm chế tạo một thang đo nhiệt độ chuẩn đã xuất
hiện hồi khoảng năm 170, khi Galen, trong những tác phẩm y học của ông, đã đề
xuất chuẩn nhiệt độ “trung hòa” tạo thành từ những lượng bằng nhau của nước sôi
và băng tuyết; ở mỗi phía của nhiệt độ này tương ứng là bốn độ nóng và bốn độ
lạnh.
Những dụng cụ đầu tiên dùng để đo nhiệt độ được gọi là nhiệt nghiệm.
Cấu tạo của chúng gồm một bầu thủy tinh có một ống dài nhúng xuống vào một
bình chứa nước có màu, mặc dù hồi năm 1610 Galileo đã đề nghị sử dụng rượu.
Một phần không khí trong bầu bị tống ra ngoài trước khi nhúng nó vào chất lỏng,
làm cho chất lỏng dâng lên trong ống. Khi phần không khí còn lại trong bầu được
làm cho nóng lên hay lạnh đi, mực chất lỏng trong ống sẽ phản ảnh sự biến đổi
nhiệt độ không khí. Một thang đo khắc sẵn trên ống cho phép đo định lượng độ lên
xuống của nhiệt độ.
Không khí ở trong bầu được xem là môi trường đo nhiệt, tức là môi trường có tính
chất biến thiên theo nhiệt độ.
Năm 1641, lần đầu tiên nhiệt kế hàn kín sử dụng chất lỏng thay cho không khí làm
môi trường đo nhiệt được phát triển bởi công tước Ferdinand II. Nhiệt kế của ông
dùng rượu đựng trong bầu thủy tinh hàn kín, với 50 “độ” được đánh dấu trên ống,
nhưng không có “điểm cố định” nào dùng làm điểm không của thang đo. Do đó,
chúng thường được xem là loại nhiệt kế “cảm tính”.
Robert Hook, ủy viên Hội Hoàng gia, vào năm 1664 đã dùng thuốc nhuộm màu đỏ
trong rượu. Thang đo của ông, mỗi độ tương ứng với đương lượng tăng thể tích
khoảng 1/500 phần thể tích chất lỏng trong nhiệt kế, chỉ cần một điểm cố định. Ông
chọn điểm đông đặc của nước. Bằng cách lập thang đo theo kiểu này, Hook chỉ rõ
rằng một thang đo chuẩn có thể được thiết lập cho những chiếc nhiệt kế có kích
thước đủ cỡ. Chiếc nhiệt kế nguyên bản của Hook trở thành chuẩn của trường
Gresham và được Hội Hoàng gia sử dụng cho tới năm 1709 (Những hồ sơ sổ sách
khí tượng học dễ hiểu đầu tiên đã sử dụng thang đo này).
Năm 1702, nhà thiên văn học Ole Roemer, ở Copenhagen, thiết lập thang đo sử
dụng hai điểm cố định: tuyết (hoặc băng vụn) và điểm sôi của nước, và ông đã ghi
lại nhiệt độ hàng ngày ở Copenhagen từ năm 1708 đến 1709 với chiếc nhiệt kế này.
Năm 1724, Gabriel Fahrenheit, nhà chế tạo dụng cụ ở Däanzig và Amsterdam, dùng
thủy ngân làm chất lỏng đo nhiệt. Sự giãn nở nhiệt của thủy ngân lớn và khá ổn
định, nó không bám dính vào thủy tinh, và nó vẫn ở thể lỏng trong một ngưỡng
nhiệt độ rộng. Vẻ ngoài lóng lánh của nó làm cho nó dễ đọc.
Fahrenheit mô tả cách chia độ thang đo của nhiệt kế thủy ngân của ông như sau:
“đặt nhiệt kế vào trong hỗn hợp gồm muối amoniac hoặc muối biển, băng và
nước, điểm đầu tiên trên thang đo thu được được đánh dấu làm điểm không.
Điểm thứ hai thu được nếu cũng dùng hỗn hợp trên nhưng không có muối.
Đánh dấu điểm này là 30. Điểm thứ ba, được đánh dấu 96, thu được nếu đặt
nhiệt kế trong miệng để thu nhiệt của cơ thể người khỏe mạnh” (D. G.
& ' - ( 0 0 0
Trên thang đo này, Fahrenheit đo được điểm sôi của nước là 212. Sau đó, ông đã
điều chỉnh điểm đông đặc của nước là 32 để cho khoảng giữa điểm sôi và điểm
đông đặc của nước có thể được biểu thị bằng số 180 thích hợp hơn. Nhiệt độ đo
theo thang này được gọi là độ Fahrenheit (oF).
Năm 1745, Carolus Linnaeus ở Uppsala, Thụy Điển, mô tả một thang đo trong đó
điểm đông đặc của nước là 0, và điểm sôi là 100, khiến nó là một thang đo bách
phân (100 nấc). Anders Celsius (1701-1744) lại dùng thang đo ngược lại, trong đó
100 biểu thị điểm đông đặc của nước và 0 biểu thị điểm sôi của nước, tuy nhiên,
vẫn có 100 độ giữa hai điểm đã xác định trước đó.
Năm 1948, việc dùng thang đo bách phân được điều chỉnh thành một thang đo mới
sử dụng độ Celsius (oC). Nhiệt giai Celsius được định nghĩa bằng hai luận điểm sau
(chúng ta sẽ bàn kĩ hơn về nó trong phần sau bài viết này):
(i) Điểm ba của nước được định nghĩa là 0,01oC.
(ii) Một độ Celsius bằng với một độ trong nhiệt giai khí lí tưởng.
Trong nhiệt giai Celsius, điểm sôi của nước ở áp suất khí quyển chuẩn là 99,975oC,
trái với 100 được xác định trong thang đo bách phân.
Để đổi từ độ Celsius sang độ Fahrenheit: nhân với 1,8 và cộng thêm 32.
o
F = 1,8 . oC + 32
Năm 1780, J. A. C. Charles, nhà vật lí người Pháp, chỉ rõ rằng đối với cùng một độ
tăng nhiệt độ, tất cả các chất khí biểu hiện độ tăng thể tích như nhau. Bởi vì hệ số
giãn nở của chất khí rất gần nhau, cho nên có thể thiết lập một thang đo nhiệt độ
trên cơ sở một điểm cố định thay cho thang đo có hai điểm cố định, như thang đo
Fahrenheit và Celsius. Việc này đưa chúng ta trở lại với nhiệt kế sử dụng chất khí
làm môi trường đo nhiệt.
Trong nhiệt kế khí thể tích không đổi, bầu lớn B chứa chất khí, hydrogen chẳng
hạn, dưới một áp suất định trước, nối với một áp kế chứa đầy thủy ngân bằng một
ống có thể tích rất nhỏ. (Bầu B là phần chia cảm nhiệt và phải chứa đa phần lượng
hydrogen). Mực thủy ngân ở C có thể điều chỉnh bằng cách nâng hay hạ khối thủy
ngân trong bình R. Áp suất của khí hydrogen, là biến x trong mối quan hệ tuyến tính
với nhiệt độ, là độ chênh lệch giữa mực D và C cộng với áp suất phía trên D.
P. Chappuis, vào năm 1887, đã tiến hành nghiên cứu trên phạm vi rộng các nhiệt kế
khí có áp suất không đổi, hoặc thể tích không đổi, dùng hydrogen, nitrogen, và
carbon dioxide làm môi trường đo nhiệt. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của ông,
Comité International des Poids et Mesures đã công nhận nhiệt giai hydrogen thể tích
không đổi dựa trên các điểm cố định tại điểm băng (0oC) và điểm hóa hơi của nước
(100oC) là thang đo thực hành dùng trong ngành khí tượng quốc tế.
Các thí nghiệm với nhiệt kế khí cho thấy có rất ít sự khác biệt về thang đo nhiệt độ
đối với những chất khí khác nhau. Như vậy, người ta có thể thiết lập được một
thang đo nhiệt độ độc lập với môi trường đo nhiệt nếu đó là chất khí ở áp suất thấp.
Trong trường hợp này, mọi chất khí đều hành xử giống như “khí lí tưởng” và có
một mối liên hệ rất đơn giản giữa áp suất, thể tích và nhiệt độ của chúng:
pV = hằng số . T
Nhiệt độ này được gọi là
0 & ' ) 6 * + 0 & ' ) 6 * + 0 5 - D , & E ,
trạng thái cân bằng); giá trị của nó được thiết đặt là 273,16. Đơn vị nhiệt độ trong
nhiệt giai này là kelvin, ghi công của huân tước Kelvin (William Thompson), 1824-
1907, và kí hiệu là K (không có kí hiệu độ).
Đổi từ độ Celsius sang kelvin, ta cộng thêm 273
K = o C + 273
& ' ) 6 * + 0 & ' ) 6 * + 0 5 - D , & E , - 0 & ' ) 6 * + , * 0 7 , C ( 0 < - % - 7 ' 0 *
,
, C ( 0 8 ,
Ngài William Siemens, vào năm 1871, đề xuất một nhiệt kế có môi trường đo nhiệt
là kim loại dẫn điện có điện trở biến thiên theo nhiệt độ. Nguyên tố platinum không
bị oxi hóa ở nhiệt độ cao và có sự điện trở biến thiên tương đối ổn định theo nhiệt & ' ) 6 % * ' ) 0 6 / - ( 6 ' 0 1 9
rộng rãi là nhiệt kế nhiệt điện và có thể đo nhiệt độ từ - 260 C đến 1235oC.
o
Một số nhiệt độ được chấp nhận làm điểm tham chiếu cơ sở để định nghĩa Nhiệt
giai quốc tế năm 1968. Nhiệt giai quốc tế năm 1990 được Ủy ban quốc tế về Cân
nặng và Đo lường công nhận tại cuộc họp vào năm 1989. Giữa 0,65 K và 5,0 K,
nhiệt độ được xác định dưới dạng mối liên hệ áp suất hơi – nhiệt độ của các đồng vị
helium. Giữa 3,0 K và điểm ba của neon (24,5561 K), nhiệt độ được xác định bằng
nhiệt kế khí helium. Giữa điểm ba của hydrogen (13,8033 K) và điểm đông đặc của
bạc (961,78 K), nhiệt độ được xác định bằng nhiệt kế điện trở platinum. Trên điểm
đông đặc của bạc, nhiệt độ được xác định bằng định luật bức xạ Planck.
Năm 1826, T. J. Seebeck, phát hiện thấy khi nối các dây kim loại khác nhau ở một
đầu và đun nóng nó, có một dòng điện chạy từ sợi này sang sợi kia. Lực điện động
phát sinh có thể liên hệ định lượng với nhiệt độ và do đó hệ có thể được sử dụng
làm nhiệt kế - gọi là cặp nhiệt điện. Cặp nhiệt điện được dùng trong công nghiệp, và
nhiều kim loại được sử dụng – ví dụ như platinum và platinum/rhodium, nickel-
chromium và nickel-aluminum. Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ quốc gia Mĩ (NIST)
vẫn lưu giữ cơ sở dữ liệu để chuẩn hóa các nhiệt kế.
Trong các phép đo ở nhiệt độ rất thấp, tính nhạy từ của chất thuận từ được dùng làm
đại lượng vật lí đo nhiệt. Đối với một số chất, tính nhạy từ biến thiên tỉ lệ nghịch
với nhiệt độ. Các tinh thể như magnesium nitrate và phèn chromic potassium được
dùng để do nhiệt độ dưới 0,05 K; các tinh thể này được định cỡ trong helium lỏng.
Đối với những nhiệt độ rất thấp, và thấp hơn nữa, nhiệt kế cũng nằm trong cơ cấu
làm lạnh. Một số phòng thí nghiệm nhiệt độ thấp trên thế giới đang tiến hành nghiên
cứu trên lí thuyết và triển khai thực hiện nhằm đạt tới nhiệt độ thấp nhất có thể được
và tìm kiếm các ứng dụng thực tiễn của nhiệt độ thấp.
" ! "
Cho tới thế kỉ 19, người ta vẫn tin rằng cảm giác nóng hay lạnh mà một vật mang
đến được xác định bởi “lượng nhiệt” mà nó chứa. Nhiệt lượng được hình dung là
một thứ chất lỏng chảy từ vật nóng hơn sang vật lạnh hơn, chất lỏng không trọng
lượng này được gọi tên là “caloric”, và mãi cho tới các tác phẩm của Joseph Black
(1728-1799), không có sự phân biệt nào giữa nhiệt lượng và nhiệt độ. Black đã phân
biệt giữa số lượng (caloric) và cường độ (nhiệt độ) của nhiệt.
Benjamin Thomson, Count Rumford, cho in một bài báo vào năm 1798 tựa đề
“Khảo sát nguồn nhiệt được kích thích bằng ma sát”. Rumford đã lưu ý tới số lượng
lớn nhiệt sinh ra khi khoan một khẩu đại bác. Ông ngờ rằng chất nhiệt đang tuôn
chảy vào khẩu đại bác và kết luận “có vẻ quá khó khăn cho tôi nếu không thể hình
dung ra một ý tưởng riêng nào về một cái gì đó có khả năng bị kích thích và truyền
theo kiểu như nhiệt được kích thích và truyền trong những thí nghiệm này, ngoại trừ
chuyển động”.
Nhưng vẫn không có gì biến chuyển cho tới khi J. P. Joule công bố một bài báo
chắc nịch, vào năm 1847, trong đó ý tưởng về caloric bị bác bỏ. Joule đã chỉ rõ một
cách thuyết phục rằng nhiệt là một dạng năng lượng. Kết quả từ những thí nghiệm
của Rumford, Joule, và những người khác, người ta đã chứng minh được (như
Helmholtz phát biểu rõ ràng hồi năm 1847), các dạng năng lượng khác nhau có thể
chuyển hóa lẫn nhau.
& ' 0 & ' ) 6 , & 1 ? 0 & < ( 6 & 0 & 3 6 % ; 0 5 0 0 5 -
0 5 0 % & , & ( ? % & ' , ,
0 5 0 0 5 -
0 5 % & , , & 1 ? 0 & < ( 6 & 0 & 0 & ' ) 6 6 & ; 6 0 5 0 0 5 -
0 5 0 & ' ) 6
, + 0 5 7 8 ' 0 0 5 -
0 5 % & ,
, C ( & ) - 9 + 6 & 4 0 5
Cũng có thể phát biểu theo cách thứ hai nói về hoạt động của động cơ. Một động cơ
hơi nước sử dụng nguồn nhiệt để sinh công. Vậy người ta có thể chuyển hóa hoàn
toàn năng lượng nhiệt thành công, tức là chế tạo một cỗ máy có hiệu suất 100% hay * 0 & - 1 . 6 6 & : & ( ' 0 & ' ) 6 * + 0 5 - D , & E ,
Định luật thứ hai của nhiệt động lực học đưa đến tính không thuận nghịch trong
những quá trình nhất định – như quá trình chuyển toàn bộ nhiệt thành năng lượng
cơ, mặc dù có thể có loại động cơ không cần làm gì cả vẫn chuyển hóa được năng
lượng cơ thành nhiệt !
Sadi Carnot (1796-1832) đã tiến hành nghiên cứu lí thuyết hiệu suất của động cơ
nhiệt (loại động cơ chuyển hóa một phần năng lượng nhiệt thành công có ích). Công
trình nghiên cứu lí thuyết của ông đã cung cấp cơ sở cho những cải tiến kĩ thuật ở
động cơ hơi nước và cũng đặt nền tảng cho nhiệt động lực học. Ông mô tả một loại
động cơ lí tưởng, gọi là động cơ Carnot, đó là loại hiệu quả nhất mà một động cơ có
thể được chế tạo. Ông chỉ rõ hiệu suất của động cơ nhiệt loại như vậy được cho bởi
hiệu suất = 1 – T” / T’
trong đó T’ và T” tương ứng là nhiệt độ của “nguồn nóng” và “nguồn lạnh” mà giữa
chúng động cơ hoạt động. Trong thang nhiệt độ này, một động cơ nhiệt có nguồn
lạnh nhất là 0 độ sẽ hoạt động với hiệu suất 100%. Đây là một định nghĩa của độ
không tuyệt đối, và nó có thể được dùng để nhận ra độ không tuyệt đối như chúng
ta đã đề cập tới trong phần trước. Thang nhiệt độ này được gọi là nhiệt giai tuyệt
đối, nhiệt giai nhiệt động lực học, hay nhiệt giai Kelvin.
Phương pháp mà nhiệt giai khí và nhiệt giai nhiệt động lực học dùng để nhận ra độ 7 ' 9 B
không tuyệt đối là dựa trên cách hiểu của nhiệt độ, coi đại lượng vĩ mô có thể
đo được gọi là nhiệt độ là kết quả của chuyển động hỗn loạn của các hạt vi mô cấu
tạo nên hệ.
G "
Cũng vào khoảng thời gian mà nhiệt động lực học phát triển, James Clerk Maxwell
(1831-1879) và Ludwig Boltzmann (1844-1906) đã phát triển một lí thuyết mô tả
cách các phân tử chuyển động – thuyết động học phân tử. Các phân tử cấu tạo nên
chất khí hoàn chỉnh chuyển động qua lại, va chạm lên nhau như những quả billard
và bật khỏi bề mặt thành bình chứa chúng. Năng lượng liên quan với chuyển động
được gọi là động năng, và cách tiếp cận động năng này đối với hành trạng của khí lí
tưởng đã dẫn tới một cách hiểu về khái niệm nhiệt độ ở cấp vi mô.
Lượng động năng mà mỗi phân tử có là một hàm theo nhiệt độ của nó; đối với một
số lượng lớn phân tử trong chất khí (cả ở nhiệt độ thấp), phải có một khoảng giới
hạn của vận tốc trong khoảng thời gian chốc lát nào đó. Độ lớn vận tốc của các hạt
khác nhau biến thiên rất nhiều – không có hai hạt nào được mong đợi là có vận tốc
chính xác bằng nhau. Một số có thể chuyển động rất nhanh, trong khi một số khác
lại chậm chạp. Maxwell nhận thấy ông có thể biểu diễn sự phân bố vận tốc về mặt
& 9 / & 2 0 3 ( - -
nhiệt động lực học, với nhiệt độ của phân bố Maxwell, và với định luật chất khí
hoàn hảo.
Nhiệt độ trở thành một đại lượng có thể định nghĩa, hoặc dưới dạng các đại
lượng nhiệt động lực học vĩ mô như nhiệt và công, hoặc, cũng có giá trị nhận
dạng và hợp thức tương đương, dưới dạng một đại lượng đặc trưng cho sự
phân bố năng lượng giữa các hạt trong hệ.
Với cách hiểu này của khái niệm nhiệt độ, người ta có thể giải thích được cách thức
nhiệt lượng (năng lượng nhiệt) chảy từ vật này sang vật khác. Năng lượng nhiệt
được mang bởi các phân tử dưới dạng chuyển động của chúng và một phần của
năng lượng nhiệt, qua các va chạm phân tử, được truyền cho các phân tử của vật thứ
hai khi đặt tiếp xúc với vật. Cơ chế truyền năng lượng nhiệt bằng tiếp xúc như thế
0 0 & ' ) 6
này gọi là sự .
Cơ chế truyền nhiệt thứ hai được minh họa bằng một ấm nước để sôi trên bếp lò –
phần nước nóng hơn gần ngọn lửa nhất sẽ đi lên trên trộn lẫn với phần nước lạnh
D * ' - 1
hơn gần nắp ấm. bao hàm sự chuyển động toàn thể của các phân tử giàu
Bản chất của bức xạ đã thách đố các nhà khoa học trong nhiều thế kỉ. Maxwell đề
xuất rằng dạng năng lượng này truyền đi như một dao động điện và từ lan tỏa trong
không gian theo hướng vuông góc với hướng dao động của chúng.
Trong biểu đồ, các dao động điện (màu đỏ) và từ (màu xanh) trực giao với nhau –
dao động điện nằm trong mặt phẳng xy, dao động từ nằm trong mặt phẳng xz. Sóng
truyền đi theo hướng x. Một sóng điện từ có thể được định nghĩa dưới dạng tần số
dao động của nó, kí hiệu bằng chữ cái Hy Lạp nu (ν). Sóng truyền đi theo đường
thẳng với một vận tốc không đổi (kí hiệu là c nếu nó truyền trong chân không),
khoảng cách giữa hai “đỉnh” sóng liên tiếp là bước sóng, λ (lambda), bằng vận tốc
sóng chia cho tần số sóng.
Phổ điện từ bao quát một ngưỡng rộng bước sóng, từ những sóng rất ngắn đến
những sóng rất dài.
Chỉ có vùng phổ điện từ mà mắt người cảm nhận được là vùng “khả kiến” có thể
nhận rõ trong biểu đồ qua bảy sắc cầu vồng.
Mặt Trời không phải là đối tượng duy nhất phát ra năng lượng bức xạ, mà bất kì vật
thể nào có nhiệt độ trên 0 K đều sẽ phát ra một số năng lượng bức xạ. Thách thức
đối với các nhà khoa học là việc chỉ rõ xem năng lượng bức xạ này liên hệ với nhiệt
độ của vật như thế nào.
Nếu đặt một vật trong một bình chứa mà các thành bên có nhiệt độ đồng đều, chúng
ta chờ đợi vật tiến tới trạng thái cân bằng nhiệt với các thành bình chứa, và vật sẽ
phải phát ra năng lượng bức xạ giống hệt như các thành bình. Một vật như thế sẽ
hấp thụ và phát xạ cùng một lượng năng lượng. Một bề mặt tô đen hẩp thụ mọi bức
xạ chiếu tới nó và nó phải phát xạ theo kiểu giống như thế nếu nó ở trạng thái cân
3 : , 7 . 6 * 0
đường cong Planck của nó nằm trong vùng bước sóng khả kiến. Đối với những vật
lạnh hơn Mặt Trời, cực đại của đường cong Planck của nó lệch về phía bước sóng
dài hơn cho tới khi nhiệt độ của nó đạt đến giá trị mà rất ít năng lượng bức xạ được
phát ra trong vùng khả kiến.
Hình trên cho thấy một vài đường cong Planck đối với các vật đen. Cường độ là
đơn vị năng lượng trên đơn vị diện tích trên đơn vị góc khối trên đơn vị thời gian
trên đơn vị bước sóng. Đường chấm chấm biểu thị sự biến thiên theo bước sóng và
nhiệt độ của cực đại các đường cong.
Hình này là mô tả bằng hình học của định luật Wein, phát biểu như sau:
λmax ∼ 0,29 / T
trong đó λmax là bước sóng sáng cực đại tính bằng cm, T là nhiệt độ tuyệt đối của
vật đen.
Cơ thể người có nhiệt độ khoảng 310 K và phát xạ chủ yếu nằm trong vùng hồng
ngoại xa. Nếu như hình người được chụp bằng camera nhạy với vùng bước sóng
này, chúng ta sẽ có một tấm hình “nhiệt”.
Mặt Trời và các ngôi sao phát ra bức xạ nhiệt thuộc mọi bước sóng; những vật thể
khác trên bầu trời, như đám mây khí lớn trong Dải Ngân hà, cũng phát ra bức xạ
nhiệt, nhưng lạnh hơn nhiều. Những đối tượng này được phát hiện tốt nhất bằng
kính thiên văn hồng ngoại và vô tuyến – kính thiên văn có thiết bị dò nhạy với các
bước sóng dài hơn.
Năm 1965, Arno Penzias và Robert Wilson đã tiến hành kiểm tra cẩn thận kính
thiên văn vô tuyến của họ ở Phòng thí nghiệm Bell, tại Whippany, bang New
Jersey. Họ nhận thấy máy thu của họ biểu hiện một sự “nhiễu” như thể nó nằm bên
trong một bình chứa có nhiệt độ 3 K – tức là như thể nó nằm cân bằng nhiệt với một
vật đen ở 3 K. Sự “nhiễu” này hình như đến từ mọi hướng. George Gamov và các
nhà thiên văn vật lí khác trước đó đã tiên đoán về mặt lí thuyết sự tồn tại của một
bức xạ vũ trụ 3 K. Khám phá của Penzias và Wilson là bằng chứng thực nghiệm cho
bức xạ đẳng hướng đến từ vũ trụ, được cho là di tích của Big Bang. Năng lượng
nhiệt khổng lồ được giải phóng trong vụ nổ khai sinh ra vũ trụ bắt đầu lạnh đi khi
vũ trụ giãn nở. Chừng 12 tỉ năm sau đó, chúng ta đang sống trong một vũ trụ bức xạ
giống như một vật đen hiện nay lạnh còn 3 K. Năm 1978, Penzias và Wilson đã
được tặng giải Nobel vật lí cho khám phá này.
Một vật đen ở 3 K phát ra đa số năng lượng nằm trong vùng bước sóng viba. Các
phân tử trong bầu khí quyển Trái Đất hấp thụ bức xạ này cho nên tại mặt đất, các
nhà thiên văn không thể tiến hành quan sát ở vùng bước sóng này. Năm 1989, vệ
tinh thám hiểm bức xạ vũ trụ (COBE), do Trung tâm bay không gian Goddard của
NASA phát triển, được phóng lên quỹ đạo để đo bức xạ hồng ngoại và vi ba khuếch
tán đến từ vũ trụ sơ khai. Một trong các thiết bị của nó, Quang phổ kế tuyệt đối
hồng ngoại xa (FIRAS) đã so sánh phổ của bức xạ vi ba nền vũ trụ với một vật đen
chính xác. Phổ nền viba vũ trụ được đo với độ chính xác 0,03% và trùng khớp chính
xác với phổ vật đen có nhiệt độ 2,726 K. Mặc dù có hàng tỉ ngôi sao trong vũ trụ,
nhưng những đo đạc chính xác từ vệ tinh COBE này cho thấy 99,97% năng lượng
bức xạ của vũ trụ được giải phóng trong vòng năm đầu tiên sau khi Big Bang tự
khởi phát và hiện nay nó tập trung trong trường bức xạ nhiệt 3 K.
Khái niệm nhiệt độ là một khái niệm vật lí cơ sở, tương tự ba đại lượng cơ sở của cơ
học – khối lượng, chiều dài, và thời gian. Qua việc nghiên cứu những vấn đề thực tế
như làm sao chế tạo được động cơ hơi nước có hiệu suất cao, các lí thuyết vật lí cơ
sở đã hình thành, kể cả các khái niệm của cơ học lượng tử và hai định luật của nhiệt
động lực học. Định luật thứ hai, với yêu cầu về tính không thuận nghịch của nó, tiên
đoán sự tiến triển không thuận nghịch từ các dạng năng lượng khác sang năng
lượng nhiệt. Chính định luật thứ hai nhiệt động lực học đã cung cấp “mũi tên” cho
khái niệm thời gian.
Nghiên cứu nhiệt độ thấp và các hiện tượng xảy ra ở nhiệt độ thấp là một xu hướng
vật lí phát triển mạnh mẽ hiện nay. Chúng ta biết có một giới hạn thấp nhất cho
nhiệt độ, đó là không độ tuyệt đối. Nhưng kĩ thuật hiện đại đã lập nhiều kỉ lục trong
cuộc đua đến với những nhiệt độ cực thấp. Với ngưỡng nhiệt độ mà con người biết
đến hiện nay có đến 18 thang bậc độ lớn (xem hình bên dưới), phải có nhiều loại
nhiệt kế được phát triển mới có thể khai thác nó trong nhiều lĩnh vực ứng dụng.
Nhiệt học là ngành vật lí có nhiều áp dụng lí thuyết và thực tiễn.
, &
hiepkhachquay