You are on page 1of 20

1. Thuế tiêu thụ là gì?

Thuế tiêu thụ là một loại thuế đánh vào tiêu dùng của hộ gia đình. Thuế bán
lẻ là một ví dụ về thuế tiêu thụ. Như thuế bán lẻ 6%, nghĩa là người tiêu dùng mua
hàng hóa giá 100$ phải trả thuế là 6$ cho chính phủ. Một người bị đánh thuế bán
lẻ theo số tiền ông ta đã chi cho hàng tiêu dùng của mình. Thuế tiêu thụ quan trọng
nhất và phổ biến nhất trên thế giới hiện nay không phải là thuế bán lẻ mà là thuế
giá trị gia tăng. Nhiều quốc gia tiền thu từ thuế VAT chiếm từ 5% đến 20% đóng
góp một phần quan trọng cho doanh thu thuế của họ. Khó thấy được sự rõ ràng là
thuế giá trị gia tăng là một loại thuế tiêu thụ, nhưng ta thấy ngay rằng phân tích
kinh tế dẫn đến kết luận rằng thuế VAT là thuế tiêu thụ.

Mặc dù cả thuế bán lẻ và thuế VAT là thuế tiêu thụ nói chung, thực tế thuế
tiêu thụ được miễn cho một số loại dịch vụ hoặc hàng hóa như thức ăn hoặc thuốc
uống. ngoài ra còn có loại thuế tiêu thụ đặc biệt, chẳng hạn như xăng dầu, rượu và
thuốc lá, với lý do đánh thuế là ngăn chặn sự ô nhiễm, trả tiền cho cơ sở hạ tầng
giao thông vận tải, hoặc không khuyến khích hàng hóa độc hại. Nó có thể đánh
thuế hàng năm đối với một hộ gia đình, mỗi hộ gia đình sẽ tính toán mức tiêu thụ
của nó bằng cách trừ tiết kiệm từ thu nhập của mình (chẳng hạn như thuế chưa
được ban hành và thực hiện). Chương này xem xét và phân tích các loại thuế tiêu
thụ khác nhau.

Chính phủ mỹ không thu cả tiền thuế bán lẻ và thuế giá trị gia tăng.

2. Thuế bán lẻ (RST) và thuế giá trị gia tăng (VAT):


Thuế bán lẻ (RST): Thuế bán lẻ là tỷ lệ phần trăm thuế trên doanh số bán
hàng của các nhà bán lẻ, về nguyên tắc, hàng hóa đầu tư được cho là miễn thuế, do
đó thuế bán lẻ là thuế tiêu thụ. trong thực tế, đôi khi khó tránh đánh thuế một số
mặt hàng đầu tư. Điều này là thích hợp nếu nó được sử dụng bởi một hộ gia đình
cho mục đích phi kinh doanh, bởi vì việc sử dụng đó có thể được coi là tiêu dùng.
nhưng nếu nó được sử dụng bởi một doanh nghiệp, sau đó nó thực sự là một hàng
hóa đầu tư đóng góp vào việc sản xuất các đầu ra của doanh nghiệp đó.
Thuế được đánh vào những doanh nghiệp bán lẻ. như chúng ta đã biết ở
chương 7. nếu chúng ta giả định nhu cầu đó là co giãn tương đối so với cung cấp,
hầu hết các gánh nặng rơi vào người tiêu dùng thông qua giá cả cao hơn. Trong
thực tế, hầu hết người tiêu dùng có thể giả định rằng họ đang mang toàn bộ gánh
nặng, bởi vì thuế sẽ được hiển thị một cách riêng biệt tại máy tính tiền. Khi người
tiêu dùng mua một món hàng có giá nhãn dán là 100 $ trong một nhà nước có thuế
6% doanh số bán lẻ, 6 $ tiền thuế được ghi nhận thêm vào một hiển thị trên giấy
biên nhận, và người tiêu dùng phải trả 106 $ để mua hàng hóa. Nhớ lại từ chương
7 mà người tiêu dùng là chịu toàn bộ gánh nặng nếu giá là 100 $ không bao gồm
thuế doanh thu bán lẻ, có thể là không có thuế, giá sẽ có được, nói, 101 $ nếu như
vậy , sau đó là gánh nặng của người tiêu dùng là 5 $ và gánh nặng của nhà bán lẻ
là 1 $. Khi nhà kinh tế gọi là thuế bán lẻ là thuế tiêu dùng, họ là giả định, khá hợp
lý, mà hầu hết các gánh nặng rơi vào người tiêu dùng chứ không phải về các nhà
bán lẻ.
Với giả định rằng hầu hết các gánh nặng của thuế doanh thu bán lẻ rơi vào
người tiêu dùng, thuế bán lẻ là làm giảm đối với thu nhập: như khi chúng đi từ các
hộ gia đình có thu nhập thấp đến các hộ gia đình có thu nhập cao trong một năm,
tỷ lệ gánh nặng thuế đối với thu nhập thường giảm. vì người có thu nhập cao hơn
thường tiết kiệm phần lớn thu nhập của họ so với người có thu nhập thấp.

Bảng 9.1 minh họa điều này. Như chúng ta chuyển từ các hộ gia đình có
thu nhập $ 20,000 cho hộ thu nhập 100.000 $, thuế / thu nhập tỷ lệ giảm từ 20%
đến 15%, vì việc tiêu thụ / thu nhập tỷ lệ giảm (từ 16.000 $ / 20.000 $ 80% = đến
60.000 $ / 100.000 $ = 60%).

Lưu ý rằng trong ví dụ này, tiêu dùng là số tiền mà các hộ gia đình bỏ ra
không bao gồm thuế bán hàng. Bao gồm cả thuế bán hàng, hộ gia đình 100000 $
chi ra 75000 $ và hộ gia đình 20.000 $ chi ra 20000 $. Như vậy, thuế bằng 20%
của số tiền mỗi người bỏ ra bao gồm thuế (15.000 $ / 75.000 $ = 20% và 4.000 $ /
20.000 $ = 20%). các nhà kinh tế nói rằng 25% là mức thuế suất thuế độc quyền -
tỷ lệ phần trăm mà người tiêu dùng thực sự sẽ nhìn thấy trên biên nhận bán hàng,
đó là tỷ lệ được áp dụng cho giá nhãn dán - trong đó 20% đã bao gồm thuế suất.

Thuế giá trị gia tăng (VAT): Thuế giá trị gia tăng là tỷ lệ phần trăm thuế
trên giá trị được thêm vào ở mỗi giai đoạn của sản xuất. Bảng 9,2 cho thấy cách
mà 10% giá trị thuế được thêm vào mỗi phần hoạt động. Khối đầu bảng 9,2 chỉ ra
cách thuế GTGT áp dụng đối với việc sản xuất tiêu dùng một hàng hóa - bánh mì.
Người nông dân trồng lúa mì và bán cho các chủ cối xay, chủ cối xay nghiền thành
bột và bán cho thợ làm bánh, người làm bánh sử dụng để nướng bánh mì và bán
bánh mì cho khách hàng. Với thuế VAT, thuế được thu ở từng giai đoạn của sản
xuất. ở mỗi giai đoạn, giá trị gia tăng được xác định là doanh thu trừ đi giá mua
hàng, vì vậy nông dân phải trả 3 $ thuế (10% của 30%), các chủ cối xay trả 4 $
thuế (10% của 40%), và người làm bánh trả 3 $ thuế (10% của 30%), tổng cộng là
10%. Lưu ý rằng tổng giá trị gia tăng là 100 $, tương đương với giá trị của sản
phẩm cuối cùng (bánh mì) đã bán người tiêu dùng.

T = t(S-P)

Chủ xưởng bột : 4$ = 1 (70$ - 30$)

Trong đó t là mức thuế suất, S là doanh thu, và P là chi phí mua hàng. Đây
được gọi là phương pháp trừ.

Một cách khác để chủ cối xay tính thuế GTGT của ông ta là có thể lấy 10%
từ 70$ của doanh số bán hàng để có được một khoản thuế dự kiến là 7%, nhưng
sau đó trừ đi một khoản tín dụng thuế bằng 10% của 30 $ chi phí ông ta mua hàng
là 3 $. Do đó, thuế cuối cùng của ông là 7 $ - 3 $ = 4 $. Tổng quát hơn:
T = tS – tP.

Miller : 4$ = 1(70$) – 1(30$)

Trong đó tS là thuế dự kiến và tP là tín dụng thuế. Đây được gọi là phương
pháp hoá đơn tín dụng. Tất nhiên t (SP) = TS - TP, do đó, trong hai phương pháp
cho kết quả tương tự.
Tuy nhiên, hai phương pháp khác nhau về cách thể hiện. Phương pháp làm
phép trừ thuế GTGT thực hiện tương tự như thuế thu nhập doanh nghiệp, đối với
thuế thu nhập doanh nghiệp, chi phí hàng bán (lao động bồi thường, vv) được trừ
vào doanh thu. Với thuế GTGT, giá mua từ các công ty khác là được trừ vào
doanh thu. Nếu một quốc gia đang xem xét thay thế thuế thu nhập doanh nghiệp
bằng thuế GTGT, Có thể để nguyên bản chất để tiến hành một phương pháp trừ
thuế GTGT.
Thuế GTGT khấu trừ:
Một số bước sau sẽ được yêu cầu để chuyển đổi một thuế thu nhập doanh
nghiệp thành thuế GTGT khấu trừ. Nhớ lại từ chương 8 cách một công ty xác định
thuế thu nhập của mình. Thu nhập doanh nghiệp (lợi nhuận) bằng doanh thu trừ đi
chi phí hàng bán trong năm nay. Giá vốn hàng bán trong năm này bao gồm đền bù
cho người lao động, chi phí vật liệu (sản phẩm trung gian) được sử dụng lên làm
cho các sản phẩm cuối cùng, lãi suất trả cho các chủ nợ và khấu hao (hao mòn tài
sản) của hàng hoá đầu tư. Tỷ lệ thuế doanh nghiệp sau đó được áp dụng đối với
thu nhập này.
Tương tự, với thuế GTGT, doanh thu bán hàng được thêm vào và chi phí về
nguyên vật liệu được trừ di, nhưng để chuyển đổi thuế thu nhập doanh nghiệp
thành thuế GTGT khấu trừ, những thay đổi này phải được thực hiện: không khấu
trừ đối với các khoản bồi thường cho người lao động, lãi suất cho các chủ nợ hoặc
giảm giá tài sản đầu tư năm nay. Thuế suất thuế GTGT là sau đó áp dụng cho cơ
sở tính thuế này.
Các phương pháp hoá đơn tín dụng làm cho thuế GTGT thể hiện tương tự
như thuế tiêu thụ vì bước đầu tiên của nó là để áp dụng một mức thuế suất thuế
doanh thu bán hàng để có được (tS) (sau khi tính toán tS thuế dự kiến của nó, công
ty này được phép giảm thuế của nó bằng cách lấy một khoản tín dụng thuế bằng
đến tP). Nếu một quốc gia ban đầu đánh thuế tất cả các công ty (không chỉ các nhà
bán lẻ) trên doanh số bán hàng của họ - như một loại thuế bán hàng được gọi là
thuế doanh thu - nó có vẻ tự nhiên để lập một hóa đơn GTGT tín dụng. Cách đây
vài thập kỷ, nhiều nước châu Âu đã có thuế doanh thu, và họ tìm thấy nó tự nhiên
để thay thế thuế doanh thu của họ với một phương pháp hoá đơn tín dụng được sử
dụng bởi nhiều quốc gia hơn các phương pháp khấu trừ)

So sánh thuế bán lẻ và thuế giá trị gia tăng: So sánh 10% thuế Vat với 10%
thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đối với 10% thuế thu nhập doanh nghiệp, người nông dân và người thợ xay sẽ
không phải nộp thuê, nhưng người bán bánh sẽ phải trả 10$ thuế trên 100$ doanh
thu của họ.
Đối với cả 2 cách, 10$ thuế sẽ được tính vào giá mà người tiêu dùng phải trả.
Đối với thuế VAT, 10$ thuế sẽ được tính như sau: 3$ từ người nông dân, 4$ từ
người thợ xay, và 3$ từ người bán bánh. Đối với thuế RST, 10$ thuế sẽ được tính
vào công đoạn cuối cùng đó là từ người bán bánh.
Với cả 2 cách tính thuế trên, 10$ đều được tính vào giá bán của sản phẩm => ảnh
hưởng đến người tiêu dùng là như nhau
Đối với thuế RST, những thiết bị được bán cho hoạt động kinh doanh sẽ k phải
chịu thuế, và thuế VAT cũng vậy. Đúng như vậy, thuế VAT sẽ được thu ở những
giai đoạn đầu của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, những hoạt động SX KD mà sử
dụng những thiết bị đó sẽ được giảm tổng tiền thuế VAT phải trả ( theo công thức
ở trên) => tăng tP, giảm T.
=> bằng cách đó, nó đã làm giảm ảnh hưởng của thuế đối với những thiết bị đó.
Đối với cả RST và VAT, những hàng hóa nhập khẩu bị tính thuế cùng lãi suất với
hàng hóa nội địa để ngăn chặn quá mức từ những nhà nhập khẩu, còn đối với hàng
xuất khẩu sẽ không phải chịu thuế RST, chỉ hàng hóa nội địa được bán cho người
tiêu dùng nội địa mới bị tính thuế. Thu nhập từ việc XK hàng hóa sẽ bị bỏ sót
trong doanh thu S ( ở công thức trên). Thuế VAT sẽ được thu ở giai đoạn đầu của
công đoạn sản xuất trong quá trình xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, hợp đồng xuất
khẩu sẽ làm giảm tổng VAT vì việc bỏ sót doanh thu bán hàng S.
Dựa vào những phân tích trên đây, những chuyên gia kinh tế đã kết luận:
Thuế VAT cũng tương tự như RST, đều là thuế tiêu dùng. Với 2 loại thuế trên thì
người tiêu dùng đều chịu gánh nặng thuế như nhau, tùy thuộc và mức độ chi tiêu
tiêu dùng
Với những phân tích đó thì Thuế VAT là lũy thoái đối với thu nhập, điều đó cũng
đúng với thuế RST: Khi chúng ta di chuyển từ nơi có thu nhập thấp đến nơi có thu
nhập cao ( tính trong 1 năm), tỷ lệ thuế trên thu nhập nhìn chung là giảm. Lý dó là
khi di chuyển từ nơi thu nhập thấp sang nơi thu nhập cao, người thu nhập cao
thường có tỷ lệ tiêu dùng trên thu nhập thấp hơn người có thu nhập thấp.
Sự miễn thuế đối với RST và VAT
Vấn đề chính là phân loại những hàng hóa dịch vụ nào được miễn thuế (hoặc chỉ
chịu lãi suất thấp). Có 2 cuộc tranh cãi xoanh quanh vấn đề này. Thứ 1 là sự công
bằng cho việc miễn thuế đối với những hàng hóa là thực phẩm và thuốc men, bởi
vì chúng là những sản phẩm thiết yếu, không giống những sp khác. Thứ 2: sự miễn
thuế có thể làm giảm sự lũy thoái của RST và VAT. Nếu hộ gia đình thu nhập thấp
chi tiêu có tỷ lệ % giữa chi tiêu và thu nhập cao) cao hơn những hộ gđ có thu nhập
cao. Sự miễn thuế đối với thực phẩm và thuốc sẽ làm giảm sự lũy thoái
Có 3 lý luận đối lập với sự miễn thuế, thứ 1:nếu k có sự miễn thuế, căn cứ tính
thuế sẽ rộng nhất có thể, và doanh thu mục tiêu đặt ra sẽ được tăng lên với mức
thuế suất thấp nhất có thể, với mức thuế thấp hơn thì hiệu quả thường thấp hơn do
phải chịu tổn thất từ việc nộp thuế. Thứ 2, Có chi phí quản lý và kiểm toán đối với
những hàng hóa chịu thuế được phân loại rõ ràng. Thứ 3: sự miễn thuế không phải
là tốt hoàn toàn. Vd: sự miễn thuế đối với thực phẩm đối với người giàu cũng
giống như người nghèo
Sự miễn thuế đối với những hàng hóa tiêu dùng có thể đạt được với loại thuế
VAT. Thuế VAT được thu ở giai đoạn đầu của quá trình sản xuất hàng hóa nội
địa. Tuy nhiên, người bán hàng bán những hàng hóa này tới người tiêu dùng sẽ
làm giảm được tổng thuế VAT phải trả, bằng cách đó đã làm giảm ảnh hưởng của
thuế đối với hàng tiêu dùng
Chiết khấu với RST hay VAT
1 cách để làm giảm lũy thoái thuế RST hay VAT là phải có giấy chiết khấu của
kho bac Mỹ để giảm gánh nặng 1 phần hay hoàn toàn tùy thuộc vào gánh nặng
thuế của người tiêu dùng. Vd: mỗi hộ gia đình có thể được chiết khấu 2000$ gánh
nặng thuế mỗi năm ( hoặc nhận 4 lần 500$ trong vòng 1 năm) từ kho bạc Mỹ để
bù đắp khoản thuế RST hoặc VAT trị giá 2000$. Để trả cho số thuế này, chính phủ
Mỹ sẽ điều chỉnh thuế suất cao hơn, dẫn đến thu nhập sau thuế không thay đổi bất
chấp gánh nặng thuế
1 vấn đề nữa là sự thay đổi số tiền thuế phụ thuộc vào số lượng người lớn và trẻ
em trong gia đình. Nếu vậy, sự kiểm tra những con số đó sẽ rất cần để xác định số
thuế chính xác phải nộp.
1 vấn đề khác là sự thay đổi lượng thuế phải nộp phụ thuộc vào thu nhập hộ gia
đình. Điều này sẽ không thể thực hiện nếu thuế RST và VAT thay thế thuế thu
nhập, bởi vì chính phủ sẽ chấm dứt việc nhận thông tin về từng hộ gia đình. Điều
đó hoàn toàn có thể, tuy nhiên, điều đó chỉ được làm khi mà RST và VAT bổ sung
cho thuế thu nhập. Gánh nặng sẽ được bảo hiểm như 1 khoản tín dụng được hoàn
trả vào số tiền thuế thu nhập hàng năm của hộ gia đình, và số tiền bảo hiểm có thể
thay đổi tùy thuộc vào thu nhập của hộ gia đình theo báo cáo.
Thuế đồng loạt và thuế X
Một cách để giảm sự lũy thoái thuế VAT là thay đổi nó, trở thành thuế đồng loạt
hay thuế X. Để trở thành thuế đồng loạt, bắt đầu với phương thức tính thuế VAT
và không tính thuế thu nhập của Hộ Gia đình. Sau đó, cho phép các công ty khấu
trừ thu nhập từ tiền lương, (không theo thuế suất VAT tiêu chuẩn)nhưng đối với
thuế thu hộ gia đình thì thu nhập từ tiền lương được miễn thuế. Cái tên thuế đồng
loạt xuất hiện từ việc thuế thu nhập từ tiền lương được khấu trừ bị tính 1 thuế suất
duy nhất và tỷ lệ đó giống như thuế suất VAT. Tuy nhiên, sự miễn thuế có nghĩa
là những đồng đôla đầu tiên được áp dụng thuế suất 0% => có 2 mức thuế suất
trong thuế đồng loạt : 0% đối với việc miễn thuế và 1 thuế suất duy nhất đối với
việc miễn thuế.
Thuế X cũng giống như thuế đồng loạt ngoại trừ việc tiền lương k được miễn thuế
mà bị tính với lãi suất gộp như hệ thống thuế hiện hành của Mỹ.
Như những cải cách về thuế khác, những người ủng hộ thuế đồng loạt mở rộng để
có thể chỉ chịu 1 mức tỷ lệ thuế thấp, mở rộng ở đây được hiểu là khấu trừ 1 phần
hay toàn bộ các khoản chi tiêu. Điều quan trọng ở đây là phải hiểu được rằng vấn
đề mở rộng là 1 vấn đề hoàn toàn riêng biệt, nó có thể liên quan hay không liên
quan với thuế đồng loạt hay thuế X
Những cư dân thành thị ở đây dặt ra câu hỏi tại sao. Là 1 hộ gia đình,bị đánh thuế
dựa trên thu nhập của người lao động nhưng không đánh thuế trên vốn ( đầu tư) ?
câu trả lời là: thuế đồng loạt cũng như thuế VAT, không cho phép các doanh
nghiệp khấu trừ các khoản thu nhập từ vốn, vì vậy, thu nhập từ vốn thực chất bị
đánh thuế tùy thuộc vào cấp độ của doanh nghiệp và sẽ không bị đánh thuế đối với
cấp độ là hộ gia đình ( thu nhập từ tiền lương của hộ gia đình bị đánh thuế bởi
công ty được khấu trừ khoản thu nhập từ tiền lương). Tuy nhiên, khi nghe về thuế
đồng loạt hay thuế X được tính toán như thế nào, 1 vài cư dân không hiểu hay gặp
phải vấn đề về việc cấp độ hộ gia đình thì thuế đồng loạt hay thuế X sẽ đánh thuế
với thu nhập từ tiền lương, nhưng không đánh thuế với thu nhập từ vốn.
3. Thuế tiêu thụ hộ gia đình:
3.1 Khái niệm thuế tiêu thụ hộ gia đình:
Có khả năng sẽ thay thế thuế thu nhập gia đình bằng thuế tiêu dùng gia
đình. Trên tờ kê khai thuế 1040 hàng năm, hộ gia đình sẽ kê khai mức tiêu dùng
của gia đình mình thay vì mức thu nhập như trước và trả thuế dựa trên mức tiêu
dùng thay vì mức thu nhập. Cân nhắc lựa chọn giữa hai loại thuế, sẽ có khả năng
bổ sung thuế thu nhập gia đình bằng thuế tiêu dùng tăng dần (lũy tiến) dựa trên
mức tiêu dùng cao; trên tờ khai thuế 1040 hàng năm, thì một gia đình khá giả sẽ kê
khai mức tiêu dùng cũng như mức thu nhập của gia đình và trả thuế dựa trên mức
tiêu dùng và mức thu nhập của gia đình.
Cũng giống như thuế thu nhập, thuế tiêu dùng gia đình cũng có thể tính
theo thuế suất lũy tiến. Nếu thuế tiêu dùng gia đình dự kiến được thay cho thuế thu
nhập và tăng nhanh mức doanh thu (mức thu nhập) từ mỗi tầng lớp mức thu nhập
khác nhau (để sự thay thế là một lợi tức trung lập và thuế tiêu dùng có cùng mức
tích lũy như thuế thu nhập mà nó thay thế), tức thì tỷ lệ thuế tiêu dùng phải được
tích lũy nhiều hơn tỷ lệ thuế thu nhập. Có được điều này là bởi khi chúng ta
chuyển từ gia đình có mức thu nhập thấp sang mức thu nhập cao thì tỷ lệ của mức
tiêu dùng so với thu nhập sẽ giảm (sự giàu có giúp tiết kiệm phần trăm thu nhập
lớn hơn). Tỷ lệ cũng có thể cao hơn tỷ lệ thuế thu nhập giúp làm tăng tỷ lệ doanh
thu tương tự bởi vì theo cơ sở tính thuế , thì mức tiêu dùng nhỏ hơn thu nhập ( tiền
tiết kiệm thuộc về dạng khấu trừ thuế). Do vậy, để tăng mức doanh thu tương tự từ
sự giàu có, tỷ lệ thuế cao nhất sẽ phải thiết lập cao hơn mức đánh thuế thu nhập 35
% hiện tại.
3.2 Lịch sử ra đời thuế tiêu thụ hộ gia đình:
Trường hợp chuyển đối từ thuế thu nhập gia đình sang thuế tiêu dùng gia
đình được diễn tả vào khoảng nửa thế kỷ trước trong hai quyển sách của hai nhà
kinh tế lỗi lạc Irving Fisher của trường đại học Yale và Micholas Kelder đến từ
trường đại học Cambridge. Sau đó, việc chuyển đối này được phát triển hơn
trong………..vào khoảng giữa thập niên 1970. Ba thập kỷ trôi qua đã chứng kiến
bài báo và những quyển sách mô tả và phân tích thuế tiêu thụ gia đình (cũng còn
được gọi là thuế thu nhập được tiêu thụ hoặc thuế tiêu dùng). Năm 1995, một đạo
luật về sự chuyển đổi từ thuế thu nhập gia đình sang thuế tiêu dùng gia đình được
đưa ra giới thiệu tại thượng nghị viện của Mỹ, những người ủng hộ thuyết này là
thượng nghĩ sĩ Domenici, thuộc đảng cộng hòa, và thượng nghĩ sĩ Nunn, một đảng
viên đảng Dân chủ, và đạo luật này được gọi là Thuế Trợ cấp Tiết kiệm không giới
hạn.
Thực hiện khấu trừ thuế tiết kiệm không phải là một sự khởi đầu căn bản
bởi vì khi chúng ta nhìn vào chương 8, tiết kiệm trong các khoản tiền lương hưu
nhất định đã thực sự được khấu trừ thuế dưới chính sách thuế thu nhập hiện hành.
Cái khác nhau ở đây là khi chúng ta sử dụng thuế tiêu dùng gia đình, tất cả các
tiền tiết kiệm – dù là có cho việc nghỉ hưu hay không- thì cũng sẽ được khấu trừ
thuế.
3.3 Ước tính thuế tiêu thụ hộ gia đình:
Ví dụ theo sau sẽ mô tả làm thế nào một hộ gia đình có thể ước tính được
mức tiêu thụ của gia đình đó.
Giả sử gia đình đó kiếm khoảng 70,000 đô La từ tiền lương và nhận khoảng
6,000 tiền lãi và tiền cổ phần, chứng khoán và phiếu nợ là 4, 000 đô la. Vậy tổng
số lượng tiền mặt thu vào là 80,000. Nếu gia đình tăng cân tăng khoản tiết kiệm
khoảng 8.000 đô la, mua cổ phiếu và phiếu nợ khoảng 12.000 đô la, và khoảng
10.000 thuế giữ lại cho việc trả séc, như vậy tổng số lượng tiền mặt chi ra không
dùng vào mục đích tiêu dùng là 30.000 đô la. Vậy nên, mức tiêu dùng của gia đình
đó là 50.000 đô la (80.000 đô la trừ ra 30.000 đô la).
Có một vài vấn đề thực tiễn nảy sinh khi áp dụng thuế tiêu dùng gia đình
đó là không tồn tại thuế thu nhập. Ví dụ có thể sẽ có gắng nặng cho một gia đình
vì phải trả thuế cho mức tiêu dùng khổng lồ của toàn gia đình cho việc mua nhà
trong năm ngôi nhà được mua đó. Phải cần có những biện pháp để giúp rải thuế ra
những thời kỳ khác nhau. Một trong những lựa chọn để giải quyết chuyện mua nhà
là đầu tư khấu trừ thuế trong năm mua nhà nhưng cũng phải yêu cầu hộ gia đình
cộng thêm 5 % trượt giá hàng năm của ngôi nhà của họ đối với mức tiêu dùng dựa
trên bản kê khai thuế 1040 (5% giá trị trượt giá của ngôi nhà sẽ là một khoản ước
tính vào mức tiêu thụ nhà ở của gia đình đó), lựa chọn này đòi hỏi hộ gia đình phải
cung cấp ước tính
3.4 Thuế tiêu thụ lũy tiến đối với người có thu nhập cao:
Có một sự đề nghị đơn giản hơn việc thay thế thuế thu nhập bằng thuế tiêu
dùng sẽ được đưa ra giới thiệu về thuế tiêu dùng tích lũy dựa trên mức tiêu dùng
cao như một biên bản bổ sung cho thuế thu nhập. Tất cả các hộ gia đình sẽ vẫn
phải đóng thuế thu nhập. Tuy nhiên , các hộ gia đình có thu nhập cao sẽ còn phải
đóng thuế tiêu thụ tích lũy, thuế này sẽ được thu thập thông qua tờ khai thuế
thường xuyên. Các hộ gia đình có mức thu nhập bé hơn 500.000 đô la sẽ được
miễn thuế tiêu dùng tích lũy, và các hộ gia đình với mức thu nhập trên 500.000 đô
la sẽ phải trả thuế tiêu dùng chỉ cho khoản tiêu dùng trên 500.000 đô la.
Hai lập luận được đưa ra về việc xây dựng thuế tiêu dùng tích lũy dựa trên
mức tiêu dùng rất cao: một cái lập luận truyền thống và cái kia thì mới lạ. Lập luận
truyền thống chỉ ra việc xây dựng chính sách thuế này sẽ có ít ảnh hưởng tiêu cực
đến nền kinh tế hơn là tăng tỷ lệ thuế thu nhập vào sự giàu có. Việc tăng tỷ lệ thuế
thu nhập làm giảm việc khuyến khích tiết kiệm và đầu tư tài chính bởi vì nó sẽ làm
tăng tỷ lệ thuế vào trên lãi suất, tiền lãi cổ phần và việc thu thập vốn. Việc tiết
kiệm và đầu tư ít có nghĩa là ít tăng trưởng kinh tế. Thuế tiêu dùng tích lũy sẽ
tránh sự không hứng thú vào việc tiết kiệm và đầu tư.
Lập luận mới mẻ về việc đánh thuế vào mức tiêu thụ rất cao sẽ phát sinh ra
những cái tiêu cực bên ngoài. Theo quan điểm này thì khi sự giàu có tăng lên, kích
thước của ngôi nhà hoặc sự sang trọng của những vật sở hữu của họ hoặc là những
kỳ nghỉ hè, một cách vô ý họ gia tăng các tiêu chuẩn tuyệt đối dựa trên những cái
mà sự giàu có đơn thuần vô thức đó đạc sự tiêu dùng của họ; sự giàu có đơn thuần
trở nên ít thõa mãn sự tiêu dùng của họ hơn và cảm thấy một áp lực huyền ảo về
việc tiêu dùng nhiều chỉ để duy trì sự có ích. Trong bản kê khai thuế, khi sự giàu
có đơn thuần tăng sự tiêu dùng của họ sẽ tăng tiêu chuẩn tuyệt đối của họ một cách
vô thức về những cái mà sự giàu có tuyệt đối vô thức làm thước đo sự tiêu dùng
của họ.
Vì vậy nó tiếp tục giảm xuống khi mỗi tầng lớp vô ý đặt áp lực vào tầng lớp
dưới nó. Sự ảnh hưởng theo tầng lớp bắt đầu tại tầng lớp cao và truyền xuống các
tầng lớp trong xã hội. Từ viễn cảnh này, đánh thuế vào sự tiêu dùng rất cao chính
xác là những gì cần thiết cho việc tiếp thu những cái bên ngoài- để giảm mức tiêu
dùng rất cao tại tầng lớp cao trước khi phát sinh một làn sóng phản tác dụng.
Hãy để chúng ta phân tích sự ảnh hưởng của việc thay thế thuế thu nhập bằng thuế
tiêu dùng.
1. Phân tích tác động của việc thay thế thuế tiêu thụ bằng thuế thu nhập:
1.1. Thuế thu nhập là gì?
1.2. Tác động của thuế thu nhập lên tiết kiệm:
Bảng 9.3 chỉ ra sự ảnh hưởng vào việc tiết kiệm khi thuế tiêu dùng thay thế
cho thuế thu nhập. Chúng ta hãy xem xét một nền kinh tế với chỉ 2 người C và S.
Mỗi người có 100.000 đô la thu nhập và vậy thì họ sẽ đóng thuế thu nhập 10%,
suy ra mỗi người trả 10 nghìn đô la, hai người là 20 nghìn đô. C và S là người có
quan điểm cực đoan quá khích về tiêu dùng và tiết kiệm. Như đã được chỉ ra trong
phần đầu, sau khi trả thuế thu nhập, C tiêu dùng phần còn lại ( tức 90 nghìn đô la)
trong khi S tiết kiệm phần còn lại (90 nghìn đô la). Như vậy tổng số tiền tiết kiệm
là 90 nghìn đô la từ số tiền của S.
Giả sử thuế tiêu dùng thay thế cho thuế thu nhập thì điều đó sẽ làm tăng tỷ
lệ lợi nhuận tương tự (20 nghìn đô la). Bởi vì S không tiêu gì cả và tất cả 20 nghìn
đô của lợi nhuận thuế phải suất phát từ C. Trong phần giữa, chúng ta giả sử rằng C
tiếp tục không tiết kiệm khoản tiền nào, vì thế C trả 20 nghìn thuế và dùng 80
nghìn đô. Vậy thì, chính phủ sẽ phải thiết lập tỷ lệ thuế tiêu dùng khoảng 25%
(20/80 nghìn = 25%). Tổng tiết kiệm tăng từ 90 nghìn lên 100 nghìn đô bởi vì S
tăng tiết kiệm từ 90 nghìn lên 100 nghìn đô.
Phần giữa chỉ ra rằng thậm chí C tiếp tục không tiết kiệm khoản tiền nào thì
tổng tiết kiệm cũng sẽ tăng (từ 90 lên 100 nghìn đô). Lý do ở đây là bởi sự thay
thế làm cho S người tiết kiệm sẽ trả ít thuế (0 đô la thay cho 10 nghìn đô la) và
người C vẫn tiếp tục tiêu tiền sẽ phải trả nhiều thuế (20 nghìn đô thay cho 10
nghìn đô). Vì thế 10 nghìn đô sẽ được chuyển từ C người tiếp tục tiêu tiền sang S
người tiết kiệm tiền. Sự ảnh hưởng phân phối qua lại theo chiều ngang này làm
tăng tổng tiền tiết kiệm (đó là chiều ngang bởi vì nó là một sự chuyển dich giữa
hai người có cùng chung thu nhập chứ không phải là sự chuyển dịch tiền từ người
giàu sang người nghèo).
Phần cuối cùng của bảng chỉ ra rằng việc tăng lên trong tổng tiền tiết kiệm
sẽ lớn hơn nếu C hưởng ứng sự khích lệ thuế mới bằng cách tiết kiệm tiền. Bởi vì
S không tiêu gì nên C phải trả 20 nghìn tiền thuế. Tuy nhiên nếu C giờ trả 20
nghìn tiền thuế thì giả sư rằng C sẽ tiêu hết 60 nghìn và chỉ tiết kiệm 20 nghìn. Thì
chính phủ sẽ phải thiết lập tỷ lệ thuế là 33% (20 nghìn/ 60 nghìn= 33%). Tổng tiết
kiệm tăng từ 90 nghìn lên 120 nghìn bởi vì S tăng tiền tiết kiệm từ 90 nghìn lên
100 nghìn (sự ảnh hưởng phân phối theo chiều ngang), và C tăng tiết kiệm từ 0
nghìn lên 20 nghìn (sự ảnh hưởng hưởng ứng).
Cuối cùng thì sự thay thế thuế thu nhập bằng thuế tiêu dùng sẽ làm tăng sự
tích lũy vốn trong nền kinh tế thông qua ảnh hưởng trì hoãn. Hãy xem xét cuộc đời
của một cá nhân nào đó. Mức thu nhập của một người tăng lên thông qua công
việc của họ cho đến khi về hưu khi mà thu nhập nhờ vào lao động giảm dần và chỉ
có phần thu nhập nhờ vào vốn vẫn tiếp tục thu được, vì thế đã có một sự giảm sút
nghiêm trọng trong thu nhập lúc về hưu. Vì vậy, thông qua cuộc đời của một ai đó,
thuế thu nhập của người đó tăng lên cho đến khi về hưu thì mức thu nhập giảm
nhanh chóng, một người sẽ phải trả thuế thu nhập nhiều hơn trong một năm tiêu
biểu khi mà họ làm việc nhiều hơn khi họ về hưu. Với thuế tiêu dùng thì một cá
nhân tiết kiệm đủ tiền trong suốt những năm làm việc thì họ có thể tránh được
những tình huống phải cắt giảm tiêu dùng trong những năm về hưu sau này. Vì thế
thông qua cuộc sống của mình, một người có thể vạch ra kế hoặc phía trước để có
thể chi tiều dù là trong những năm làm việc sung sức nhất hay khi đã về hưu.
Vì thế nếu thuế thu nhập được thay bằng thuế tiêu dùng thì một người sẽ trả
ít thuế hơn trong thời kỳ chưa về hưu và có thể di chuyển thuế trong suốt những
năm đã về hưu, thuế sẽ được hoãn lại đến những năm cuối cuộc đời. Sự giảm
trong việc nộp thuế trong những năm làm việc của cuộc đời có thể cho phép một
người tiết kiệm nhiều hơn trong thời kỳ này. Vì thế một người có thể tích lũy
nhiều tiền hơn trong cuộc sống của họ và vì lẽ đó mà nền kinh tế sẽ tích lũy được
nhiều vốn hơn nhờ vào hiệu quả trì hoãn
1.3. Tác động của thuế thu nhập lên tổn thất xã hội:
Thuế thu nhập bao gồm thuế đánh trên thu nhập từ vốn và thuế đánh trên
thu nhập từ lao động. Nếu thuế trên thu nhập từ vốn gây ra tổn thất xã hội trong
sự lựa chọn giữa tiết kiệm và tiêu dùng thì thuế tiêu thụ gây ra tổn thất xã hội
trong sự lựa chọn giữa làm việc và nghỉ ngơi. Việc thay thế thuế tiêu thụ bằng thuế
thu nhập sẽ làm giảm bớt tổn thất xã hội trong việc chọn lựa giữa tiết kiệm và tiêu
thụ nhưng sẽ làm tăng tổn thất xã hội trong việc chọn lựa giữa làm việc hay nghỉ
ngơi. Vì thế, chúng ra sẽ xem xét tác động của thuế nào sẽ gây ra tổn thất xã hội
lớn hơn.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại tổn thất xã hội giữa nghỉ ngơi và làm việc. Giả sử
bạn từ bỏ 1h nghỉ ngơi để làm việc, thuế thu nhập sẽ làm giảm đi phần thu nhập
sau thuế của bạn, chính là phần thu nhập bạn kiếm được từ 1h làm việc đó. Nếu
bạn kiếm được 100$ và tỉ lệ thuế thu nhập là 25%, như vậy số tiền còn lại của bạn
là 75$. Tương tự như vậy, thuế tiêu thụ cũng làm giảm giá trị tiêu thụ mà bạn được
hưởng. Khi bạn đi mua sắm và trả 100$ bằng tiền mặt, nếu thuế bán lẻ là 33%, bạn
sẽ chỉ được tiêu dùng số tiền là 75$ bởi vì bạn phải chịu 25$ tiền thuế (giá trên
nhãn hiệu của hàng hóa là 75$, vì thế với thuế bán lẻ là 33% thì mức thuế mà bạn
phải chịu là 25%). Như vậy, thuế tiêu thụ cũng giống như thuế thu nhập, sẽ làm
giảm mức tiêu thụ mà bạn được hưởng khi bạn hy sinh 1 giờ nghỉ ngơi của mình
để làm việc, và vì thế gây ra tổn thất xã hội.
Ví dụ, một người công nhân được trả 12$ cho mỗi giờ làm thêm, với 25%
thuế thu nhập, người công nhân phải trả 4$ và chỉ nhận được 12$. Tương tự như
vậy, anh ta cũng phải trả 4$ thuế tiêu thụ (thuế suất 33%) khi tiêu dùng 16$ kiếm
được. Như vậy, mỗi công nhân làm thêm ở giờ thứ 200 thì anh ta cũng chỉ có thể
tiêu dùng 12$ thậm chí anh ta đã tạo ra lợi ích cận biên là 16$. Giống như thuế thu
nhập, thuế tiêu thụ tạo ra mức chênh lệch thuế là 4$ giữa lợi ích cận biên mà người
công nhân tạo ra (16$) và mức tiêu thụ mà anh ta được hưởng. Để làm việc ở giờ
thứ 200 anh ta cũng chỉ nhận được mức tiêu thụ là 12$ cho dù anh ta sản xuất tạo
ra giá trị là 16$. Đó chính là sự lãng phí khi anh ta không làm việc thêm giờ nào,
nhận 12$ để duy trì mức hữu dụng cố định và có 4$ từ mức hữu dụng cận biên để
nộp thuế.
Như vậy việc thay thế thuế thu nhập bằng thuế tiêu thụ sẽ loại trừ được tổn
thất xã hội trong sự lựa chọn giữa tiết kiệm và đầu tư nhưng sẽ làm gia tăng tổn
thất xã hội trong sự lựa chọn giữa làm việc và nghỉ ngơi.
1.4. Tác động của thuế thu nhập lên sự đóng góp về gánh nặng thuế:
Chuyển từ thuế thu nhập hiện hành tiến bộ hoặc là thuế doanh thu bán lẻ
hoặc thuế giá trị gia tăng làm tăng tổng doanh thu thuế cũng gây ra sự phân bố lại
gánh nặng thuế đối với hộ gia đình có thu nhập cao. Lý do nay là hiển nhiên. Xem
xét những nguồn thu nhập từ thấp đến cao, tỷ lệ tiêu thụ trên thu nhập giảm, vì bộ
phận giàu có tiết kiệm một tỷ lệ lớn thu nhập cuả họ. Do đó, thuế doanh thu bán lẻ
hoặc thuế GTGT giảm dần, gánh nặng thuế như là tỉ lệ phần trăm thu nhập giảm
khi xem xét các hộ gia đình có thu nhập từ thấp đến cao. Ngược lại, với mức thuế
thu nhập lũy tiến (tăng dần) gánh nặng thuế theo phần trăm thu nhập lại tăng lên.
Định nghĩa một cách đơn giản, một loại thuế luỹ tiến (progressive tax) là thuế mà
tỷ lệ trung bình (tỷ lệ thuế phải trả tính trên mức thu nhập)(ART) tăng lên khi thu
nhập tăng trong khi thuế luỹ thoái (regressive tax) là loại thuế có tỷ lệ thuế trung
bình giảm khi thu nhập tăng.
Bảng 9.4 và 9.5 dữ liệu hiện tại và ước tính dựa trên phân tích tỷ lệ thuế từ
một văn phòng ngân sách Quốc hội (CBO) trên bảng khảo sát.Trực tiếp cung cấp
thông tin quan trọng về sự phân bố của các gánh nặng thuế liên bang và cung cấp
một nền tảng cho việc đánh giá cách phân phối gánh nặng sẽ thay đổi nếu thuế thu
nhập đã được thay thế với thuế doanh thu bán lẻ hoặc thuế GTGT. In một cả hai
bảng, hộ gia đình của mỹ được xếp hạng theo thứ tự từ thu nhập thấp nhất đến cao
nhất. Mỗi nhóm chứa 20% hộ gia đình của quốc gia.

Để phân bổ gánh nặng thuế cho hộ gia đình, văn phòng ngân sách quốc hội
làm cho một số giả định về phạm vi ảnh hưởng của mỗi loại thuế bằng cách sử
dụng các loại phân tích, chúng tôi trình bày trong chương 7:

• Thuế thu nhập cá nhân là hoàn toàn do các hộ gia đình trả. Trong điều
khoản phân tích của chúng tôi đến đối tượng chịu thuế trong chương 7, CBO giả
định rằng việc cung cấp lao động và cung cấp tiết kiệm là hoàn toàn không đàn hồi
(nghĩa là, cả hai đều có những đường cong cung cấp theo chiều dọc), do đó, các
nhà cung cấp (tức là, hộ gia đình) phải chịu toàn bộ gánh nặng. Do đó, gánh nặng
chỉ đơn giản là mỗi hộ gia đình trả tiền cho những gì không - được chuyển sang
người yêu cầu.

• Lương có đủ các loại thuế ma công nhân chịu. Trong thời hạn phân tích
của chúng tôi trong chương 7, CBO các giả định rằng các đèn của lao động là hoàn
toàn không đàn hồi.

• Thuế thu nhập doanh nghiệp là do các chủ sở hữu vốn chịu. Trong thời
hạn phân tích của chúng tôi trong chương 7, CBO các giả định cung cấp tiết kiệm
là hoàn toàn không đàn hồi.

• Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế đánh vào hàng hóa, thì toàn bộ do người
tiêu dùng chịu.Trong điều khoản của chương 7, CBO các giả định cung cấp là
hoàn toàn đàn hồi (một đường cung nằm ngang.

Thuế suất thuế hiệu quả (phần trăm)

Loại thu Thu nhập bình quân Tất cả Thuế Thuế Thuế Thuế
nhập Trước Sau thuế các loại TNC BHX TNDN TTĐ
thuế thuế liên N H B
bang
Nhóm 15,900 15,300 4,3 -6,5 8,3 0,4 2,1
thấp nhất
Nhóm thứ 37,400 33,700 9,9 -1,0 9,2 0,5 1,3
hai
Nhóm 58,500 50,200 14,2 3,0 9,5 0,7 1,0
giữa
Nhóm thứ 85,200 70,300 17,4 6,0 9,7 1,0 0,8

Nhóm cao 231,300 172,200 25,5 14,1 6,0 4,9 0,5
nhất
Tất cả các 84,800 67,400 20,5 9,0 7,6 3,1 0,8
nhóm
Trên 10% 339,100 246,300 27,4 16,0 4,8 6,1 0,4
Trên 5% 520,200 369,800 28,9 17,6 3,5 7,4 0,3
Trên 1% 1,558,500 1,071,500 31,2 19,4 1,7 9,9 0,2
Bảng 9.4: Thuế suất thuế liên bang
Trong bảng 9,4 cột bên trái cho thu nhập trung bình trước thuế trong năm
2005 cho các hộ gia đình trong mỗi hạng thu nhập. dưới đáy nhóm, thu nhập trước
thuế trung bình là $ 15,900; cho các nhóm đứng đầu, thu nhập trước thuế trung
bình là $ 231,300 (và cho các đầu trang 1 % thu nhập trước thuế trung bình là
$1.558.500). Di chuyển một cột bên phải cho thấy bình quân thu nhập sau thuế thu
nhập trung bình sau khi trừ gánh nặng của các khoản thuế liên bang. Đối với nhóm
dưới trung bình sau thuế thu nhập là $ 15.300 so với thu nhập trước thuế của $
15,900; cho các nhóm hàng đầu, bình quân thu nhập sau thuế là $172,200 so với
thu nhập trước thuế của $231,300 (và đối đầu trang 1%, trung bình sau thuế thu
nhập là 1.071.500 so với thu nhập trước thuế của 1.558.500$).
Phần còn lại của bảng 9.4 mức thuế suất thuế hiệu quả, gánh nặng thuế mà
các hộ gia đình mang theo phần trăm của tất cả các thu nhập.Cho tất cả thuế liên
bang tăng mức thuế suất có hiệu quả từ 4,3% đối với nhóm dưới lên 25,5% nhóm
hàng đầu và 31,2% đối hàng trên 1%, do đó, hệ thống thuế liên bang là ngày càng
tăng.Đối với thuế thu nhập cá nhân, việc tăng thuế suất có hiệu quả từ -6,5% trong
nhóm dưới cùng (vì nhiều người thu nhập thấp, thay vì nộp thuế thu nhập, tiếp
nhận các tín dụng thuế thu nhập thu được bằng cách nộp đơn khai thuế lợi tức của
họ) đến 14,1% trong nhóm hàng đầu và 19,4% đối với hàng trên 1% , do đó, các
liên bang thuế thu nhập invidual là rất tiến bộ. Đối với thuế thu nhập doanh
nghiệp, tăng tỷ lệ hiệu quả từ 0,4% đối với nhóm dưới lên 4,9% trong nhóm hàng
đầu và 9,9% trong top 1%, do đó, các liên bang thuế thu nhập doanh nghiệp là rất
tiến bộ.

Ngược lại, đối với thuế tiền lương bảo hiểm xã hội, mức thuế suất hiệu quả
là 8,3% đối với nhóm dưới nhưng 6,0% cho nhóm trên và chỉ có 1,7% cho top 1%,
do đó, bảo hiểm thuế tiền lương bảo hiểm xã hội thì giảm dần.Tương tự, thuế tiêu
thụ đặc biệt cho, mức thuế suất có hiệu lực rơi từ 2,1% đối với nhóm dưới xuống
0,5% trong nhóm hàng đầu và 0,2% trong top 1%, do đó, thuế tiêu thụ đặc biệt của
liên bang là lũy thoái.

Chia sẻ nghĩa vụ thuế


Loại thu Phần thu nhập Tất cả Thuế Thuế Thuế Thuế
nhập Trước Sau các loại TNCN BHXH TNDN TTĐB
thuế thuế thuế lien
bang
Nhóm 4.0 4.8 0.8 -2.9 4.3 0.6 11.1
thấp nhất
Nhóm thứ 8.5 9.6 4.1 -0.9 10.1 1.4 14.4
hai
Nhóm 13.3 14.4 9.3 4.4 16.7 3.0 18.1
giữa
Nhóm thứ 19.8 20.6 16.9 13.1 25.1 6.2 21.9

Nhóm cao 55.1 51.6 68.7 86.3 43.6 87.8 34.1
nhất
Tất cả các 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
nhóm
Trên 10% 40.9 37.4 54.7 72.7 25.8 81.6 21.2
Trên 5% 31.1 27.8 43.8 60.7 14.4 74.9 13.5
Trên 1% 18.1 15.6 27.6 38.8 4.0 58.6 5.5
Bảng 9.5: chia sẻ nghĩa vụ thuế liên bang

Trong bảng 9.5, nhìn vào ở cột trái, thu nhập trước thuế. Trong top 20% hộ
gia đình nhận được 4,0% thu nhập trước thuế của quốc gia, trong top 20% hộ gia
đình nhận được 55,1% thu nhập trước thuế của quốc gia, và đỉnh 1% hộ gia đình
nhận được 18,1% thu nhập trước thuế của quốc gia.Di chuyển một cột sang bên
phải của thu nhập sau thuế, tỷ lệ thu nhập sau khi trừ đi gánh nặng từ thuế liên
bang.Đỉnh 20% hộ gia đình nhận được 51,6% thu nhập sau thuế của quốc gia (so
với 55,1% thu nhập trước thuế của quốc gia). một so sánh của các cột – phần chia
sẻ của các quốc gia của trước thuế và sau thuế thu nhập cho các tầng lớp thu nhập
cho thấy rằng hệ thống thuế liên bang làm cho việc phân phối thu nhập sau thuế
của quốc gia ít bất bình đẳng hơn so với phân phối thu nhập trước thuế của quốc
gia.

Phần còn lại của bảng 9,5 cho thấy sự phân bố của các gánh nặng thuế liên
bang trên toàn hạng thu nhập.Đối với tất cả các loại thuế liên bang,Nhóm 20% hộ
gia đình thấp nhất là 0,8% chịu gánh nặng thuế liên bang của quốc gia , trong khi
đó nhóm cao nhất chịu 68,7%(và đỉnh 1% chịu 27,6% của gánh nặng thuế liên
bang , 43,6% gánh nặng thuế liên bang bảo hiểm xã hội biên chế, 87,8% gánh
nặng của liên bang thuế thu nhập doanh, và 34,1% gánh nặng thuế liên bang tiêu
thụ đặc biệt (từ đỉnh 1% chịu 38 , 8% gánh nặng thuế thu nhập cá nhân liên bang ,
4,0% gánh nặng thuế liên bang bảo hiểm xã hội biên chế, 58,6% gánh nặng của
liên bang thuế thu nhập doanh nghiệp, và 5,5% gánh nặng thuế tiêu thụ đặc biệt
của liên bang.

Bảng 9.4 và 9.5 có nghĩa là thay thế thuế thu nhập với thuế doanh thu bán
lẻ, thuế giá trị gia tăng, hoặc thuế đồng loạt sẽ thay đổi sự phân bố của gánh nặng
thuế bằng cách từ hộ gia đình có thu nhập cao.Điều này chỉ đơn giản là thuế thu
nhập liên bang là một đánh giá cao tiến bộ của hệ thống thuế liên bang hiện hành.
Như hiển thị trong bảng 8.4, tăng tỷ lệ thuế thu nhập tốt nghiệp từ 10% đến 35%
về lao động và thu nhập lãi (thuế thu nhập sẽ được tiến bộ nhiều hơn nếu những
mức giá áp dụng cho cổ tức và vốn lợi nhuận, mà hiện đang có một tỷ lệ tối
đa15%).

Như đã thảo luận trước đó, rất đúng để nói rằng gánh nặng của doanh số
bán lẻ, thuế giá trị gia tăng các hộ gia đình có thu nhập thấp có thể được giảm
thiểu đáng kể hoặc thậm chí bị loại bởi một ít tiền mặt đầy đủ. cũng đúng là gánh
nặng của thuế toàn bộ trên hộ gia đình có thu nhập thấp là giảm thiểu đáng kể hoặc
thậm chí bị loại bỏ bởi việc miễn đầu tiên của $ 25.000 thu nhập lương từ
thuế.Tuy nhiên, ba loại thuế được chắc chắn ít tiến bộ về các hộ gia đình có thu
nhập cao bởi vì tất cả đều có chung một mức thuế thay vì tăng thuế suất.

Do đó, người dân tin rằng quá lớn một phần gánh nặng thuế hiện đang sinh
ra bởi hộ gia đình có thu nhập cao muốn phân phối lại là kết quả từ thay thế thuế
thu nhập với SRT, VAT, hoặc thuế toàn bộ. Ngược lại, công dân tin rằng chia sẻ
gánh nặng thuế hiện đang sinh ra bởi hộ gia đình có thu nhập cao thích hợp sẽ
không giống như các phân phối lại là kết quả của việc thay thế thuế thu nhập với
một RST, VAT, hoặc thuế toàn bộ.

Ngược lại, việc thay thế thuế thu nhập lũy tiến theo một thuế tiêu thụ hộ gia
đình với đầy đủ tỷ lệ tốt nghiệp (thay vì theo một rst, vat, hoặc thuế toàn bộ) có thể
tránh được một phân bố lại gánh nặng thuế. Các mức thuế suất thuế tiêu hộ gia
đình sẽ phải tốt nghiệp nhiều hơn so với mức thuế suất thuế thu nhập để bù đắp
một thực tế là tỷ lệ tiêu thụ để thu nhập giảm như chúng tôi di chuyển thu nhập hộ
gia đình từ thấp đến cao.Điều này, không chỉ thuế tiêu thụ mà có thể được thực
hiện như tiến bộ như là thuế thu nhập hiện tại .Thay thế thuế thu nhập với thuế tiêu
thụ hộ gia đình đều tiến bộ có thể làm tăng tiết kiệm quốc gia mà không phân phối
lại gánh nặng thuế ra từ các hộ gia đình giàu có.

2. So sánh thuế tiêu thụ với thuế thu nhập trên lao động:
2.1. Giống nhau:
Thuế thu nhập – như thuế đánh trên thu nhập từ vốn thì làm giảm mức thu
nhập có được từ tiết kiệm. Trái lại, cả thuế đánh trên thu nhập từ lao động và thuế
tiêu thụ đều ko làm giảm mức thu nhập từ tiết kiệm. Một vài ví dụ sau đây sẽ minh
họa rõ hơn quan điểm này.
Giả sử bạn có 1000$ thu nhập trước thuế từ lao động để tiết kiệm cho mình
lúc về hưu. Tỉ suất sinh lợi là 4% và giả định không có lạm phát. Nếu không có
thuế, bạn sẽ tiết kiệm được 1000$ và có thêm 40$ tiền lãi tiết kiệm – lãi suất 4% -
và có số tiền 1040$ cho lúc về hưu. Như vậy, khi không có thuế, mức lợi nhuận
mong muốn cho việc tiết kiệm của bạn sẽ là 4%.
Giả sử khung thuế thu nhập hiện tại là 15% và duy trì khung thuế này sau
khi bạn đã nghỉ hưu. Nếu bạn muốn đầu tư hơn là tiết kiệm, bạn phải đóng thuế là
150$ để tiêu dùng 850$. Nhưng nếu bạn muốn tiết kiệm, bạn phải từ bỏ sự đầu tư
850$ đó để được tiêu dùng nhiều hơn 850$ trong tương lai. Bảng biểu sau sẽ làm
rõ hơn tác động của cả hình thức thuế khác nhau đến việc tiết kiệm:

Initial Interest Taxes paid Retirement


Deposit Earned on Cosumption
withdrawal

Y tax (Saving) 850$ 34$ 5.10$ 878,90$

C tax 1000$ 40$ 156.00$ 884,00$


(consumption)

W tax (wage) 850$ 34$ 0.00 884,00$

Bảng 9.6
Khi có thuế thu nhập, lương của bạn là 1,000$ và bạn phải trả 150$ tiền
thuế, vì thế số tiền trong tài khoản tiết kiệm của bạn chỉ còn 850$. Tiền lãi sẽ là
34$ và trả thuế trên tiền lãi có được là 5,1$, vì thế tổng số tiền dành dụm cho nghỉ
hưu của bạn là 878.9$. Chú ý rằng 878,9$/850$ = 1,034, vì thế tỉ suất sinh lợi của
bạ là 3,4%. Thuế thu nhập đã làm giảm mức sinh lợi mong đợi từ tiết kiệm của
bạn từ 4% còn 3,4%.
Khi có thuế tiêu thụ, số tiền lương 1000$ của bạn sẽ không bị đánh thuế, vì
thế khoản tiền trong tài khoản tiết kiệm của bạn là 1000$ với tiền lãi là 40$, nhưng
bạn phải trả 15% thuế trên toàn bộ khoản thu nhập từ tiết kiệm là 156$ ( 15% của
1040$), còn lại 884$ dành cho việc nghỉ hưu. Chú ý rằng 884$/850$ = 1,04, vì thế
suất sinh lợi sau thuế của bạn là 4%, cũng giống như khi không có thuế. Thuế tiêu
thụ không làm giảm lợi nhuận kỳ vọng trên tiết kiệm của bạn, vẫn là 4%.
Khi có thuế đánh trên thu nhập từ lao động, tiền lương của bạn chỉ chịu
thuế thu nhập là 15% và không bị đánh thuế trên lợi nhuận từ tiết kiệm. Như vậy,
trong 1000$ tiền lương, bạn phải trả thuế là 150$, vì thế số tiền trong tài khoản tiết
kiệm của bạn sẽ là 850$, tiền lãi là 34$ và không bị đánh thuế, và số tiền mà bạn
thu được là 884$. Chú ý là 884$/850$ = 1.04, vì thế suất sinh lợi của bạn là 4%,
tương tự như khi không có thuế. Thuế thu nhập trên tiền lương không làm giảm lợi
tức mong đợi từ tiết kiệm, vẫn là 4%.
Như vậy, dưới tác động của thuế C và thuế W, bạn vẫn để dành được 884$
cho việc nghỉ hưu của mình, nhiều hơn so với khi có thuế thu nhập trên tiết kiệm.
Tỉ suất sinh lợi vẫn là 4% như khi không có thuế trong khi với thuế thu nhập trên
tiết kiệm tỉ suất sinh lợi là 3,4%.
Sự tính toán này chỉ đúng khi khung thuế áp dụng giống như sau khi bạn
nghỉ hưu (trong ví dụ này là 15%). Nếu mức thuế áp dụng thấp hơn sau khi bạn
nghỉ hưu, thuế C sẽ tạo ra mức thu nhập dành cho việc nghỉ hưu nhiều hơn so với
thuế thuế W vì mức thuế C sẽ được giảm bớt khi bạn nghỉ hưu. Nếu mức thuế tăng
khi bạn nghỉ hưu, khi đó thuế W sẽ cho bạn mức thu nhập lớn hơn khi bạn nghỉ
hưu, bởi vì mức thuế sẽ không còn khi bạn nghỉ hưu.
2.2. Khác nhau:
Có 2 điểm khác nhau quan trọng giữa thuế thu nhập trên lao động và thuế
tiêu thụ: sự công bằng và sự tích lũy vốn.
Thứ nhất, sự công bằng: Có một người được thừa kế lượng tài sản lớn,
không bao giờ lao động, và mỗi năm anh ta sẽ tiêu dùng một phần tài sản thừa kế
của mình, bằng cách ấy anh ta có thể tiêu dùng rất phung phí. Dưới tác động của
thuế thu nhập trên lao động, anh ta không chịu bất kỳ khoản thuế nào. Dưới tác
động của thuế tiêu thụ, anh ta chắc chắn phải chịu một mức thuế đáng kể mỗi năm.
Thông thương, khi có thuế tiêu thụ, bất kỳ gia đình nào có mức tiêu thụ cao thì sẽ
chịu mức thuế cao. Với thuế thu nhập, họ không chịu bất kỳ khoản thuế thu nhập
nào nếu phần thu nhập của họ có được từ thừa kế, từ tài sản hoặc thu nhập từ vốn.
Vì thế, thuế tiêu thụ sẽ công bằng hơn thuế thu nhập trên lao động.
Thứ 2, sự tích lũy vốn: khi có thuế tiêu thụ, một người sẽ nộp thuế trong
suốt cuộc đời của họ, ngay cả khi nghỉ hưu. Tuy nhiên,với thuế thu nhập trên lao
động, một người chỉ nộp thuế cho đến khi họ nghỉ hưu. Và nếu mức thuế thu nhập
cao sẽ làm giảm mức tiết kiệm của người lao động, vì thế làm giảm sự tích lũy vốn
trong suốt thời gian họ làm việc, từ đó làm giảm mức độ tích lũy vốn cho nền kinh
tế.
3. Thuế nào công bằng nhất?
3.1. Thuế lũy tiến
3.2. Mâu thuẫn…..
3.3. Châu chấu và kiến:
Hình ảnh về hai con người, Ant và Grasshopper, những con người cùng có
khoản tiền lương vào mùa hè. Ant tiêu dùng hết nửa thu nhập của anh ấy, tiết kiệm
số còn lại, kiếm thêm thu nhập từ khoản tiết kiệm đó (lãi tiết kiệm), vì vậy anh ấy
có thể tiêu dùng nhiều hơn một nửa thu nhập mùa hè cho mùa đông.
Grasshopper(Châu chấu) tiêu dùng toàn bộ thu nhập của anh ta trong mùa hè và
không dự trữ cho mùa đông.
Cách đánh thuế nào là đúng cho hai người họ? Họ cùng có cơ hội giống
nhau: Thu nhập của họ giống nhau và cũng giống nhau ở khả năng tiêu dùng và
tiết kiệm. Họ có nên trả một khoản thuế giống nhau hay không? Dưới một thuế thu
nhập từ lao động, họ phải trả một khoản thuế giống nhau, nhưng dưới cùng một
mức thuế thu nhập, Ant(Kiến) phải trả nhiều thuế hơn mỗi năm: Kiến và CC phải
trả thuế giống nhau vào mùa hè vì họ có cùng mức doanh thu, nhưng Kiến lại phải
trả thêm một khoản thuế vào mùa đông nữa do thu nhập từ đầu tư tiết kiệm của
anh ấy. Điều đó là đúng, thuế của K nhiều hơn của CC chỉ vì K có một sự lựa chọn
khác –nhiều người cho rằng, Kiến nên đưa ra sự lựa chọn có trách nhiệm hơn - sử
dụng thu nhập của anh ta như thế nào?
Phải xử ký thế nào với K và CC dưới thuế tiêu thụ? K trả thuế ít hơn CC
vào mùa hè, nhưng phải trả thuế vào mùa đông trong khi CC lại không. Xem xét
các số liệu ở bảng 9.7 bên dưới. Giả sử K và CC mỗi mùa hè kiếm được $1000 và
thuế tiêu thụ đánh 25%. Trong mùa hè,CC thiêu thụ $800 và trả $200 thuế, trong
khi K tiêu thụ $400 và trả $100 thuế; K tiết kiệm $500 và thu lãi được $250 với
lãi suất 50%. Vào mùa đông, K tiêu dùng hết $600 và trả $150 thuế.
Giá trị dòng tiền hiện tại của thuế tiêu thụ của K là $100+($150/1,5)=$200,
giống của CC. Như vậy, dưới thuế tiêu thụ , K và CC cùng trả một khoản thuế như
nhau khi quy về giá trị hiện tại.
Ngược lại, dưới thuế thu nhập, K trả nhiều hơn CC mỗi năm(quy về hiện
tại). K va CC trả thuế thu nhập như nhau và mùa hè. CC không trả thuế thu nhập
vào mùa đông, nhưng K lại phải trả thuế thu nhậ cho khoản tiết kiệm có được từ
mùa hè. Quy về hiện tại, thuế K phải trả cao hơn CC.
Như vậy, thuế thu nhập đánh vào lao động hay thuế tiêu thụ đều tạp ra giá
trị thu thuế giống nhau với cả K và CC.
4. Thuế ô nhiễm:
Như đã biết ở chương 2, thuế ô nhiễm là một biện pháp mà các nhà kinh tế
học khuyến cáo sử dụng để ngăn chặn sự ô nhiễm. Hãy nhớ lại những nước gây ô
nhiễm sẽ tìm giải pháp để giảm ô nhiễm miễn là chi phí cận biên thấp hơn thuế.
Nếu chính phủ đánh thuế bằng với thiệt hại cận biên đối môi trường, những người
tìm kiếm lợi nhuận nhưng gây vô nhiễm môi trường sẽ vô tình làm giảm mức tối
ưu xã hội có thể đạt được. Họ sẽ giảm mức độ ô nhiễm miễn là chi phí cận biên
thấp hơn thiệt hại cận biên. Thuế ô nhiễm là tối ưu để cải thiên phúc lợi xã hội bởi
vì lợi ích môi trường có được sẽ cao hơn chi phí nền kinh tế bỏ ra để giảm ô
nhiễm.
CBO dự toán cho việc đánh thuế là $100/ mỗi tấn Cacbon sẽ làm giảm
lượng Cacbon khoảng 15%. Ở Mỹ năm 2005, khoảng 1,7 triệu tấn Cacbon được
thải ra, vì vậy cứ cắt giảm 15% thì cắt giảm tương đương một lượng bằng khoảng
0,25 triệu tấn Cacbon và giảm lượng tiêu thụ Cacbon xuống còn khoảng 1,45 triệu
tấn. Cứ $100 thuế cho mỗi tấn Cacbon thì doanh thu thuế ô nhiễm sẽ là $100(mỗi
tấn)*1,45(triệu tấn) =$145 triệu, chỉ bằng khoảng 1% của GDP (GDP năm 2005
khoảng $12500 triệu). Doanh thu thuế liên bang khoảng 20%GDP, trong đó thuế
này đã đóng góp vào 5%. Như vậy, nếu chính phủ đánh một mức thuế để làm giảm
khí thải Cacbon và các nguồn ô nhiễm khác, thì doanh thu thuế ô nhiễm có thể
bằng khoảng 1%GDP và đóng góp 5% cho doanh thu liên bang.
5. Thuế giao thông vận tải:
6. Thuế sức khỏe:
Hai lý lẽ được đưa ra về việc đánh thuế đối với sản phẩm như thuốc lá và rượu
mà thường có hại cho sức khỏe khi mà tiêu dùng quá mức là:
- Đầu tiên là yếu tố khách quan,
Người sử dụng quá mức những sản phẩm gây hại cho sức khỏe có thể áp đặt
chi phí lên người khác: một người hút thuốc những người đồng bệnh ung thư phổi
hay một người nghiện rượu thường mắc các bệnh như hại gan thì ông ta cũng
không thể trả hết được toàn bộ chi phí điều trị
Một điều đáng ngạc nhiên, không phải ngay lập tức mà người hút thuốc áp đặt
một chi phí lên người khác. Và nếu như người đó chết trước 62 tuổi vì ung thư
phổi thì thực sự hút thuốc lá làm giảm chi phí áp đặt lên người khác( có thể được
coi là ngoại tác tiêu cực)
Tiêu thụ quá nhiều rượu sẽ dẫn đến lái xe say rượu có tác hại nghiêm trọng tới
người khác. Vì vậy, mặc dù người nghiện rượu bị chết trước 62 tuổi thì cũng áp
đặt một chi phí rất lớn cho người khác.
- Thứ hai là yếu tố chủ quan
Người sử dụng quá mức những sản phẩm gây hại cho sức khỏe có thể áp đặt
chi phí lên chính người đó. Nếu như có một kế hoạch hợp lý, kiến thức, tầm nhìn
xa và tự kỷ luật thì có thể tiết kiệm một số tiền lớn trong tương lai.
Vấn đề ở đây là ước tính cho các loại thuế tối ưu cho thuốc lá và rượu. Điều
này đòi hỏi phải có dự tính về chi phí khách quan và chủ quan, thuế có thể được áp
dụng đối với nhà sản xuất hoặc bán lẽ. Tuy nhiên, Ở Mỹ, Thuế thuốc lá và rượu
không phù hợp với lạm phát. Trong những năm gần đây thì thuế thuốc lá và rượu
đã được nâng lên đáng, nhưng thuế rượu thì đang dưới mức tối ưu của xã hội
Kết luận
-Chính phủ liên bang Hoa Kì không đánh một trong hai loại thuế là doanh thu
bán lẽ và thuế giá trị gia tăng. Ngược lại, chính phủ quốc gia hầu hết các nước
khác đánh thuế GTGT ( Việt Nam thì luật thuế GTGT có hiệu lực từ ngày
1/1/1999). Thuế doanh thu bán lẻ hay GTGT thì hầu hết gánh năng đều rơi vào
người tiêu dùng. Các nhà kinh tế gọi thuế RST là tương đương với VAT khá là
hợp lý, việc đánh thuế RST trên toàn bộ doanh thu phát sinh cuả sản phẩm qua
mỗi lần chuyển dịch từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Nếu các sản phẩm,
hàng hoá chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước thu cũng tăng thêm
qua các khâu nên việc áp dụng thuế doanh thu dẫn đến tình trạng thuế thu trùng
lặp đối với phần doanh thu đã chịu thuế ở công đoạn trước. Ðiều đó mang tính bất
hợp lý, tác động tiêu cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với tính ưu điểm
cuả thuế giá trị gia tăng là Nhà nước chỉ thu thuế đối với phần giá trị tăng thêm
cuả các sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông mà không thu thuế đối với toàn
bộ doanh thu phát sinh như mô hình thuế doanh thu. Nếu như không có các sự
kiện biến động về tài chính, tiền tệ, sản xuất và lưu thông giảm sút, yếu kém, kinh
tế suy thoái và các nguyên nhân khác tác động thì việc áp dụng thuế giá trị gia
tăng thay cho thuế doanh thu sẽ không ảnh hưởng gì đến giá cả các sản phẩm tiêu
dùng, mà trái lại giá cả càng hợp lý hơn, chính xác hơn vì tránh được thuế chồng
lên thuế.
- Có thể thay thế thuế thu nhập hộ gia đình (the household income tax) với thuế
tiêu thụ hộ gia đình (the household consumption tax). Hộ gia đình sẽ đưa ra mức
tiêu thụ thay vì thu nhập của mình. Họ sẽ đưa ra tổng luồng tiền thu nhập trong
năm trừ đi tổng luồng tiền chi trong năm, phần còn lại sẽ theo tỷ lệ và nộp
thuế.Giống như thuế thu nhập hộ gia đình thuế tiêu thụ hộ gia đình sẽ có mức giá
tôt hơn
- Có thể thay thế thuế thu nhập và thuế tiêu thụ. Nó sẽ làm tăng tiết kiệm quốc
gia vì trong cùng một khoàn thời gian nó sẽ giảm gánh nặng về thuế trong trường
hợp người tiết kiệm cao và giảm với người tiết kiệm thấp.
- Thuế tiêu thụ không tương đương với thuế thu nhập lao động vì đối với thuế
tiêu thụ thì những người không làm việc thì cùng hưởng một thuế như nhau, tuy
nhiên đối với thuê thu nhập lao động thì không
Cuối cùng. Thu nhập từ thuế sẽ được sử dụng để ngăn chặn ô nhiễm môi
trường, trả tiền cho cơ sở hạ tầng giao thong, hoặc đánh thuế có thể giảm sự tiêu
thụ quá mức các sản phẩm không có ích cho sức khỏe như thuốc lá hay rượu

You might also like