Professional Documents
Culture Documents
Các doanh nghiệp đều có bảng cân đối kế toán (bảng cân đối tài sản), trong đó phần tài sản phản
ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm, hoặc kết dư trung bình trong kì. Đối với họ, hoặc
người tiêu dùng ngân hàng yêu cầu các thông tin về tình hình kinh doanh, tài sản cá nhân, lương
và các khoản thu thập khác. Các thông tin về tài sản cho thấy quy mô, khả năng quản lí của
khách hàng rất quan trọng đối với quyết định cho vay. Quan trọng hơn, tài sản (tất cả hoặc một
phần) của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi
khách hàng mất khả năng sinh lời.
Ngân quỹ: Bao gồm tiền gửi ngân hàng, tiền mặt trong két, các khoản phải thu. Tiền gửi và tiền
mặt là tài sản có thể dùng để chi trả ngay, song thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản của
khách hàng. Các khoản phải thu (chủ yếu là tiền bán hàng hoá và dịch vụ chưa thu được tiền)
luôn có khả năng chuyển thành tiền gửi hoặc tiền mặt. Ngân hàng cần xem xét kĩ khoản này để
loại trừ các khoản bán chịu không thu được, khó thu được hoặc đã bán lại cho người khác. Các
khoản cho vay ngắn hạn liên quan chặt chẽ tới tình hình ngân quỹ của khách hàng, đặc biệt thời
hạn cho vay có thể tính toán dựa trên số ngày của kì thu tiền.
Các chứng khoán có giá : Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các tài sản này làm tăng
nguồn thu và có thể mang bán khi cần tiền để chi trả.
Hàng hoá trong kho: Rất nhiều các món vay ngắn hạn với mục tiêu tăng dự trữ hàng hoá, có
nghĩa là một phần hàng hoá trong kho được hình thành từ vốn vay ngân hàng. Do đó, ngân hàng
quan tâm tới số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã, bảo hiểm, rủi ro đối với hàng hoá trong kho.
Ngoài xem xét trên sổ sách, ngân hàng còn yêu cầu người vay mở kho hàng kiểm tra để loại trừ
hàng hoá kém, mất phẩm chất, chậm tiêu thụ, phát hiện hàng giả, hàng người khác gửi…
Tài sản cố định: Gồm nhà cửa, sân bãi, trang thiết bị, phương tiện vận chuyển, thiết bị văn
phòng…thường là đối tượng tài trợ trung và dài hạn.
Nợ của người vay có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Về thời gian: Gồm nợ ngắn hạn (vay ngắn hạn) và nợ trung và dài hạn (vay trung và dài hạn);
nhiều khi ngân hàng còn xem xét các khoản nợ đến hạn trong năm (các khoản nợ ngắn và trung,
dài hạn phải trả trong năm) và các khoản nợ phải trả trong các năm sau. Nhìn chung, các khoản
vay ngắn hạn thường dùng tài trợ cho tài sản lưu động, còn các khoản vay trung và dài hạn dùng
tài trợ cho tài sản cố định. Do đó, tính tương quan giữa chúng là đối tượng phân tích của ngân
hàng. Nếu khoản cho vay của ngân hàng phải trả trong năm thì các khoản nợ đến hạn và ngân
quỹ trong năm của khách hàng la hai yếu tố chính tạo nên quyết định của ngân hàng. Ngân hàng
cũng quan tâm tới nợ quá hạn và các nguyên nhân.
Ngân hàng quan tâm tới tất cả các chủ nợ của khách hàng: Có thể là các khoản nợ cũ, các khoản
nợ của các ngân hàng khác, nợ người cung cấp, nợ người lao động. Vị trí của ngân hàng trong
danh sách chủ nợ luôn được nghiên cứu kĩ lưỡng. Nếu ngân hàng giành vị trí quan trọng nhất, nó
dễ dàng thu được nợ hơn là các vị trí khác.
Ngân hàng cũng xem xét các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm và nợ khác. Các tài sản đã làm đảm
bảo cho khoản vay cũ cần phải được tính lại theo giá thị trường và bị loại trừ; nếu chúng được
lấy làm tài sản đảm bảo cho khoản vay mới thì cần tính toán giá trị dôi thừa so với tiền vay cũ.
Nhiều khách hàng tạo ra lợi nhuận trong quá khứ, thậm chí có khả năng tạo ra lợi nhuận trong
tương lai. Tuy nhiên, việc trả nợ ngân hàng lại liên quan chặt chẽ tới ngân quỹ của người vay (ví
dụ ,cho vay tiêu dùng, nguồn trả nợ là các khoản thu nhập bằng tiền của người vay, kì hạn thu nợ
có thể lệch pha với các khoản thu của người vay). Trong khi lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng
phản ánh khả năng sinh lời, chênh lệch dòng tiền vào và ra là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với dự
đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai. Tuy nhiên nhiều khoản mục có liên quan đến dòng tiền
không được chỉ dẫn đầy đủ trong cân đối tài sản của công ty: Phần lớn luồng tiền sau tháng 12
đều không ghi vào bảng cân đối (các tài khoản chỉ ghi lại những gì xảy ra trong năm vừa qua),
phần lớn các trách nhiệm thanh toán không được chỉ ra trong cân đối khi mà vào thời điểm đó nó
không tồn tại. Bán hàng là nguồn tiền quan trọng để trả nợ song bảng cân đối nói rất ít về bán
hàng.
Để hỗ trợ ngân hàng và khách hàng, các luồng tiền trong tương lai – phụ thuộc vào kế hoạch chi
tiêu trong tương lai – cần được dự kiến. Kế hoạch này ghi lại vận động hàng tháng của các khoản
tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản thanh toán hàng tháng. Người vay có lợi nhuận trong
hiện tại có thể có dự án chi trong tương lai cao và với thu bán hàng không đổi, sẽ có thể có luồng
tiền âm (không có khả năng chi trả).
Sau khủng hoảng 1929-1932, rất nhiều các ngân hàng phát hiện rằng họ không thu được nợ (và
như vậy là không có khả năng chi trả) ngay cả khi họ cho vay các khoản vốn lưu động phù hợp.
Cùng các khoản cho vay ngắn hạn, đã xuất hiện ngày càng nhiều các khoản cho vay dài hạn mà
mối tương quan với vốn của chủ sở hữu và các luồng trả nợ trở nên rất quan trọng. Để quá trình
phân tích tín dụng được thực hiện với thời gian ngắn và phần nào được tiêu chuẩn hoá, các ngân
hàng đều cố gắng xây dựng các tỷ lệ phản ánh năng lực tài chính của người vay có liên quan đến
khả năng trả nợ. Các tỷ lệ này sẽ được áp dụng trong phân tích đối với từng người vay có tính
đến các điều kiện cụ thể. Trong nhiều trường hợp,, ban lãnh đạo ngân hàng còn yêu cầu cán bộ
tín dụng sắp xếp và cho điểm đối với từng tỉ lệ của mỗi người vay. Điểm cần chú ý là các tỉ lệ
này thường được cấu thành từ hai số có bản chất khác nhau, do đó, tìm kiếm các số liệu có mối
tương quan với nhau là rất cần thiết. Hơn nữa các tỷ lệ này lấy từ các báo cáo tài chính phản ánh
tình hình đã và đang xảy ra, do đó, các tỷ lệ này không phải lúc nào cũng là những chỉ dẫn cho
các quyết định của ngân hàng.
Các loại tỷ lệ: Những tỷ lệ đo thanh khoản, tỷ lệ đo khả năng tạo lợi nhuận, tỷ lệ khả năng tài trợ
bằng vốn tự có, tỷ lệ đo rủi ro.
Nhóm tỷ lệ thanh khoản: Đo khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài chính
ngắn hạn. Dựa vào đó ngân hàng tìm kiếm khả năng thanh toán các trái khoán khi đến hạn của
người vay. Nhìn chung các tỷ lệ này càng cao thì khả năng thanh toán của người vay có thể càng
tốt. Một là, tỷ lệ thanh khoản nhanh được đo bằng ngân quỹ của người vay trên các khoản nợ
hiện hành( gồm các khoản nợ ngắn hạn và trung, dài hạn đến hạn trong kì). Mẫu số phản ánh nợ
đến hạn sắp phải trả, trong khi đó tử số gồm tiền mặt trong két và tiền gửi ngân hàng hiện có, các
khoản đang trong quá trình thu (sắp thu). Chú ý là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng có thể giảm
nhanh chòng do người vay cần thanh toán tiền mua hàng hoá hoặc trả lương, các khoản đang
trong quá trình thu có thể không thu được. Do đó, ngân hàng cần xem xét kĩ lưỡng các khoản
đang trong quá trình thu, tính số ngày của một kì thu, loại trừ nợ nần dây dưa. Hai là, tỷ lệ thanh
khoản trung bình đo bằng tỷ lệ tài sản lưu động trên nợ hiện hành. Tử số gồm ngân quỹe và hàng
hoá của người vay (hàng hoá trong kho, trên đường, trên quầy). Điều đáng quan tâm là giá cả
hàng hoá tồn kho và các loại hàng hoá kém luân chuyển. Ngân hàng phân loại những hàng hoá
này ra khỏi tử số của tỷ lệ thanh khoản.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng phân tích các tỷ lệ thích hợp. Nếu cho vay trong thời
gian ngắn 2-3 tháng, ngân hàng cần chú ý đến tỷ lệ thanh toán nhanh; còn cho vay 9-12 tháng
ngân hàng cần chú ý đến thanh khoản trung bình.
Nhóm tỷ lệ sinh lời: Đo khả năng tạo lợi nhuận của người vay. Khả năng sinh lời của người vay
quyết định khả năng hoàn trả vốn và lãi ngân hàng. Các tỷ lệ này đều có tử số là lợi nhuận ròng
trước hoặc sau thuế lợi tức, hoặc doanh thu và mẫu số là vốn tự có, vốn lưu động, vốn cố định
hoặc tổng vốn. Có thể hỏi tại sao ngân hàng lại quan tâm đến khả năng sinh lợi khi mà luồng tiên
có tầm quan trọn đối với khoản trả nợ? Khả năng trả nợ thực chất là bắt nguồn từ khả năng tạo
thu nhập, tức là người vay có khả năng thu về lượng giá trị lớn hơn giá trị đầu tư ban đầu. Một
người vay làm ăn thua lỗ mà vẫn trả nợ được ngân hàng thì chỉ có thể dùng vốn tự có (hoặc giảm
vốn tự có) hoặc dùng nợ nuôi nợ (vay người này trả người khác). Cả hai con đường này đều tiềm
ẩn tổn thất đối với người cho vay.
Để phân tích tỷ lệ sinh lợi, bên cạnh bảng cân đối tài sản ngân hàng cần có báo cáo thu nhập của
người vay.
Nhóm tỷ lệ rủi ro (RR): RR của người vay rất đa dạng.Chúng ta cần có nhiều trường hợp điều
chỉnh RR trong mọi trường hợp. Danh sách sau trình bày cách tiếp cận rủi ro của người vay:
Sản xuất: Doanh nghiệp có bao nhiêu nguồn cung cấp nguyên vật liệu? Tác động trong thay đổi
chi phí là gì? Cái gì là yếu tố chi phí quan trọng nhất? Lao động? Vốn? Có thay đổi nhanh trong
kĩ thuậ? Chi phí là bao nhiêu? Tính phụ thuộc vào các doanh nghiệp khác như thế nào? Tác động
của nghiên cứu và phát triển? Tác động của thay đổi cơ cấu chi phí là gì? RR tác động tới việc sử
dụng trang thiết bị là gì?
Tiếp thị : Các nhân tố tác động tới việc bán hàng? Cầu co giãn với giá? Thu nhập là co dãn? Sản
phẩm thay thế là gì ? Nhập khẩu có lớn không? Chiến lược cạnh tranh là gì? Những gì cản trở
việc đối thủ khác gia nhập vào ngành? Thay đổi trong nhu cầu của khách? Người bán có quyền
lực hơn người mua? Rủi ro thua lỗ của khách hàng chính là gì?
Nhân sự: Cái gì làm năng suất lao động tăng? Cái gì khuyến khích người lao động? Rủi ro của
đình công? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào những cá nhân đặc biệt?
Tài chính : Sức chịu đựng của doanh nghiệp đối với lãi suất? Có bao nhiêu cách huy động tiền?
Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào một dự án? Việc đa dạng các nguồn thu?
Chính sách của Chính phủ: Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thể tác động tới khách hàng
như thế nào? Chính sách kinh tế? Bảo vệ nhập khẩu? Trợ cấp xuất khẩu? Hợp đồng với Nhà
nước? Giấy phép đối với sản phẩm mới?
Nhóm tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn sở hữu: Thông thường một doanh nghiệp phải có vốn sở
hữư đủ dể tài trợ một phần cho tài sản lưu động và tài sản cố định.
Tỷ lệ tài trợ bằng vốn sở hữu =Vốn sở hữu/ Tổng tài sản
Tỷ lệ này cho thấy sức mạnh tài chính của người vay. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay tỷ
lệ này vào khoảng 0,3- 0,4 hoặc thấp hơn buộc ngân hàng phải thận trọng và kiểm soát chặt chẽ
các khoản cho vay.
Tuỳ theo yêu cầu vay ngắn hạn hay trung và dài hạn mà ngân hàng tập trung chú ý vào tỷ lệ tài
trợ cho tài sản lưu động hay tài sản cố định. Khi cho vay ngắn hạn, ngân hàng xem xét vốn lưu
động tự có của doanh nghiệp. Một khoản xin vay ngắn hạn có thể được ngân hàng chấp nhận nếu
không làm xấu đi tình trạng tài trợ của doanh nghiệp (ngân hàng sẽ cộng thêm khoản vay mới để
xác định lại tỷ lệ này). Nếu doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn thì khấu hao và thu nhập sau
thuế cùng với giá trị còn lại của tài sản cố định là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định cho
vay của ngân hàng.
Các kết quả phân tích trên cho ngân hàng thấy một phần quá khứ và hiện tại của khách hàng.
Điều ngân hàng quan tâm hơn là khả năng trong tương lai của khách hàng, có thể là trong mấy
tháng hoặc mấy năm. Thời hạn càng dài, dự đoán càng khó chính xác, đó là do tác động của các
điều kiện kinh tế. Thiên tai,các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng hoảng kinh tế
vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành… làm thay đổi các tính toán ban đầu, dẫn đến giảm
hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng. Tổn thất của khách hàng đến tổn thất của ngân hàng
chỉ trong gang tấc.
Bước 2: Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (khách hàng) và
ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng
(hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là
văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng,
đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các luật , các quy định. Do vậy, cả ngân hàng lẫn
khách hàng đều cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi kí kết hợp đồng tín dụng. Sau đây là nội dung
chính của hợp đồng tín dụng.
+ Khách hàng: Họ tên, địa chỉ , tư cách pháp nhân (nếu có).
+ Mục đích sử dụng: Khách hàng phải ghi rõ vay để làm gì.
+ Số lượng tín dụng: Là số tiền (hoặc hạn mức tín dụng) ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng.
Số lượng tín dụng có thể được chia nhỏ trong các khoảng thời gian khác nhau và dưới các hình
thức tiền tệ khác nhau.
+ Lãi suất: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ lãi suất mà khách hàng trả đồng thời xác định tính chất
của lãi suất (là lãi suất cố định hay biến đổi trong suốt kì hạn tín dụng). Nếu lãi suất có thay đổi
thì phải xác định rõ các điều kiện thay đổi đó.
+ Phí : Để có được các cam kết tín dụng có thể khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản phí
(ví dụ, phí cam kết) được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên hạn mức cam kết. Mức phí và các điều
kiện nộp phải được thể hiện trong Hợp đồng tín dụng.
+ Thời hạn tín dụng: Ngân hàng thường xác định rõ thời hạn tín dụng trong hợp đồng như tài trợ
trong 6 tháng, 9 tháng, 2 năm… kể từ lúc khoản cho vay đầu tiên được phát ra đến khi người vay
trả toàn bộ gốc và lãi. Cũng có trường hợp thời hạn không xác định cụ thể trước mà tuỳ theo thời
gian luân chuyển của vật tư hàng hoá là đối tượng tài trợ của ngân hàng. Thời hạn tín dụng có thể
được chia thành thời gian đầu tư, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ; thời gian trả nợ có thể
được chia thành nhiều kì hạn trả nợ nhỏ.
+ Các loại đảm bảo: Hợp đồng tín dụng có thể ghi rõ các loại đảm bảo (nếu có) cho các khoản tín
dụng (kèm theo các hợp đồng phụ) như hợp đồng bảo lãnh ,vật tư hàng hoá trong kho, tài sản cố
định, hoặc các chứng khoán có giá… Các nội dung quan trọng liên quan đến các đảm bảo như
quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng hoặc bán, định giá, bảo hiểm, người bảo quản, quyền sử
dụng đối với các đảm bảo… đều phải được xác định và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng.
+ Giải ngân: Hợp đồng tín dụng thường xác định các điều kiện và kì hạn giải ngân. Thường các
khoản cho vay nhỏ và trong thời gian ngắn, ngân hàng cấp tiền vay một lần vào đầu kì. Đối với
các khoản vay lớn và trong thời gian dài, ngân hàng cấp tiền theo nhiều kì hạn và với các điều
kiện cụ thể của mỗi lần cấp vốn.
Ví dụ: Hợp đồng kí cho vay 300 triệu trong thời hạn 9 tháng để thanh toán tiền hàng nhập khẩu.
Điều kiện giải ngân là hàng nhập về đến đâu cho vay đến đó (kèm chứng từ) , hoặc trả xong
khoản vay đợt trước mới cấp tiền đợt sau.
+ Điều kiện thanh toán: Bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận
về cách thức thanh toán gốc và lãi (ngày trả và cách trả) .
+ Các điều kiện khác: Tuỳ thuộc điều khoản cuối cùng song rất quan trọng, bao gồm các thoả
thuận giữa ngân hàng và khách hàng về ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thế chấp và các hoạt
động khác của người vay, phong toả tài sản, điều kiện và phương thức phát mại tài sản, nộp báo
cáo định kì, phạt vi phạm hợp đồng…
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng.
Sau khi hợp đồng tín dụng đã được kí kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền (hoặc thanh
toán tiền hàng) cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng kiếm
soát khách hàng: Sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không? Quá trình sản
xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ?...Quá
trình này cho phép ngân hàng thu thậpthêm các thông tinvề khách hàng. Nếu các thông tin phản
ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại, khi chất lượng
khoản cho vay bị đe doạ ngân hàng cần có các biện pháp xử lí kịp thời. Ngân hàng được quyền
thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có
thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay… khi thấy cần thiết để đảm
bảo an toàn tín dụng. Đối với ngân hàng đây là bước đi nguy hiểm. Do vậy cho tài trợ gắn liền
với kiểm soát khách hàng giúp ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục
đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình ngân hàng thu thập thêm các thông tin bổ sung cho
các thông tin ở bước 1và ra các quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng
xấu.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo
hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Một số trường hợp, các khoản tín
dụng đã không hoàn trả hoặc hông hoàn trả đủ đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn
cho ngân hàng cho thấy các “ trục trặc” trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét, tìm
nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan
đến tính an toàn của khoản tín dụng.
+ Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa, hoặc làm ăn yếu
kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lí, tức là sử dụng các
biện pháp có thể được thu hồi khoản nợ, bao gồm phong toả và bán các tài sản thế cấp, tước đoạt
các khoản tiền gửi…
+ Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để
trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho
vay thêm.
Tuy ngân hàng đã cải tiến và có nhiều thành tựu nổi bật nhưng vẫn không tránh khỏi khuyết
điểm.
Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhưng hoạt động phân tích tín dụng ở Việt
Nam hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế và vướng mắc nhất định.
Tín dụng vẫn là hoạt động tạo thu nhập chính của các ngân hàng Việt Nam, nhưng tình trạng
""độc canh" tín dụng lại quá phổ biến. Sự ngại thay đổi, chia lẻ thị trường và "ngại hy sinh" của
các nhà băng đang làm tăng khả năng tổn thương với thị trường tài chính.
Đáng nói hiện nay, tình trạng "độc canh" tín dụng vẫn còn phổ biến ở nhiều ngân hàng. Tín dụng
vẫn là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu của các NHTM Việt Nam, nơi mà các hoạt động phi tín
dụng và dịch vụ phụ chưa phát triển. Hầu hết các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại mới chỉ
ở giai đoạn thứ nghiệp hoặc triển khai thí điểm. Gần như mỗi nhà băng vẫn có một nhóm khách
hàng thân quen riêng và địa bàn riêng, ngại sự thay đổi và chưa mạnh dạn ""mạo hiểm"" với thị
trường. Các chuyên gia dẫn chứng, sự chia lẻ và thiếu gắn kết của thị trường thẻ ATM đang là
một ví dụ điển hình cho sự thiếu gắn kết và ""ngại hy sinh lợi ích"" của các nhà băng Việt Nam.
Chưa có sự phân tích rõ ràng chức năng giữa bộ phận giao dịch với khách hàng với bộ phận thẩm
định lại theo dõi khách hàng.Đôi khi cán bộ tín dụng làm nhiệm vụ tiếp xúc với khách hàng cũng
làm cả việc theo dõi sau cho vay và phân tích tình hình tài chính của khách hàng sau cho
vay,đièu này mất tính khách quan, có thể dẫn tới móc ngoặc gây rủi ro tín dụng.
Hệ thống hạn mức tín dụng chưa được thiết lập đầy đủ,đôi khi chưa được thiết lập trên cơ sở
đánh giá tình hình tài chính của khách hàng.
Việc xử lí chỉ đạo công việc đôi khi còn bỏ qua yêu cầu mọi vấn đề phải được thể hiện bằng văn
bản,cấp trên có thể ra lệnh cho cấp dưới bằng miệng hay bằng những kí hiệu riêng mà không
được phép
Hệ thống kiểm soát nội bộ trong quy trình tín dụng chưa đầy đủ,chưa hiệu quả và chưa tuân thủ
một cách nghiêm túc ở mọi chi nhánh của các tổ chức tín dụng.
Tổ chức tín dụng có thể giảm rủi ro tín dụng bằng nhận cầm cố,thế chấp khi cho vay.Tuy nhiên
việc xác định giá trị của các tài sản thế chấp,cầm cố không phải là vấn đề đơn giản.Việc cho vay
đôi khi còn chịu mệnh lệnh hành chính.
Nhân viên tổ chức tín dụng còn gặp nhiều khó khăn trong đánh giá tình hình tài chính của khách
hàng vay,do một số tổ chức tín dụng chưa có quy trình dánh giá tình hình tài chính của khách
hàng vay một cách có hệ thống để xếp hạng khách hàng, do chưa có sự minh bạch trong tình
hình tài chính của khách hàng vay
Hệ thống IT tại các tổ chức tín dụng nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu, gây khó khăn trong việc xử
lí cũng như cho việc thông tin, báo cáo