You are on page 1of 2

BÀI TẬP CÁ NHÂN

Họ và tên: Lê Thị Thúy.


MSV: 09031285.
Lớp: K54B-KHQL.
Chủ đề: Làm rõ mối quan hệ giữa thần quyền (giáo quyền) và thế quyền( vương quyền)
trong tư tưởng quản lý ở tây âu trung cổ? quan hệ này đã dẫn đến hệ lụy gì trong đời sống
xã hội ở tây âu trung cổ.
Bài làm
Cấu trúc bài làm
1. Đặc điểm, đặc trưng về nguồn gốc khinh tế - xã hội phong kiến ở tây âu trung cổ.
2. Biểu hiện của mối quan hệ này là gì?
3. Hệ lụy đến đời sống xã hội ở tây âu trung cổ.
BÀI LÀM
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Triết học thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu xuất hiện và phát triển bắt đầu từ khoảng thế kỷ
thứ V đến thế kỷ XV - tức là trong khoảng một ngàn năm lịch sử với những đặc điểm
kinh tế - xã hội nổi bật.

Vào thế kỷ V, những cuộc nổi dậy của nô lệ và những cuộc đấu tranh giai cấp bên
trong cùng với sự tiến công của những man tộc bên ngoài đã đưa tới sự sụp đổ của
đế quốc La Mã phương Tây. Chính những sự kiện đó đã dẫn đến kết quả chấm dứt
hình thái kinh tế - xã hội nô lệ cổ đại, và chế độ phong kiến Tây Âu ra đời.

Nền kinh tế trong xã hội phong kiến mang tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc. Bởi vì,
sản phẩm làm ra chỉ nhằm giải quyết các nhu cầu của các công xã và thái ấp. Các
thái ấp là một thế giới đóng kín; quyền chiếm hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất cũng
như sản phẩm làm ra không hoàn toàn thuộc về người lao động (nông dân hay nông
nô) mà thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến. Vì vậy, phong trào đấu tranh của nông
dân lao động, thợ thủ công, dân nghèo thành thị chống bọn phong kiến và tầng lớp
bóc lột khác là một nội dung chủ yếu của lịch sử xã hội phong kiến.

Trong thời đại phong kiến, tôn giáo và thần học là hệ tư tưởng thống trị trong đời
sống tinh thần của xã hội. Tôn giáo đã bắt những hình thái khác của của ý thức xã hội
phải phụ thuộc vào nó. Ăng-ghen viết: "Nhà thờ với việc chiếm hữu ruộng đất theo lối
phong kiến của nó là mối liên hệ thực tế giữa các nước khác nhau; tổ chức nhà thờ
theo lối phong kiến đã dùng tôn giáo để bảo vệ nhà nước phong kiến quý tộc. Thêm
vào đó, giáo sỹ là giai cấp độc nhất có học thức. Do đó mà tín điều của nhà thờ tất
nhiên là yếu tố xuất phát và là cơ sở của mọi sự suy nghĩ. Pháp luật, khoa học tự
nhiên, triết học - tất cả nội dung của các khoa học đó đều được trình bày sao cho phù
hợp với học thuyết của nhà thờ. Vai trò của tôn giáo biểu hiện đặc biệt ở chỗ nó làm
chủ ý thức của quần chúng nhân dân và dùng sự áp bức về tinh thần của nó để ủng
hộ sự bóc lột tàn tệ của bọn phong kiến. Điều đó giải thích vì sao giai cấp nông dân
hết sức đông đảo nhưng "tối tăm về trí tuệ" và bị tước hết mọi quyền hành”.

Về trình độ văn hoá, khoa học và kỹ thuật trong thời kỳ này bước đầu đã có sự phát
triển, tuy còn chậm chạp. Những cuộc tấn công của thập tự quân đã giúp cho phương
Tây hiểu biết văn hoá phương Đông. Thiên văn học và toán học phát triển khá mạnh
vào thế kỷ XIII; cơ học, vật lý học, hoá học hình thành mà tiêu biểu là Lêônarơ
Phibômátchi, Anbécphôn Bônstết, Rôgie Bêcơn.

Như vậy, sự thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ bằng chế độ phong kiến, ở thời kỳ đầu
xét về mặt phát triển triết học và văn hoá có sự thụt lùi so với thời kỳ cổ đại, song xét
trên bình diện toàn thể thì đã có những tiến bộ lịch sử nhất định. Đó là thời kỳ chuẩn
bị cho một nền văn minh mới, chuẩn bị cho lịch sử tương lai của châu Âu về khoa học
và văn hoá, tạo cơ sở cho sự ra đời những "bộ tộc hiện đại".

You might also like