You are on page 1of 51

GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

LỜI MỞ ĐẦU

Ngày nay, hội nhập quốc tế đã và đang là xu hướng chung của mọi quốc gia, trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó rõ nhất là trong lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực
thông tin. Xét riêng trong lĩnh vực kinh tế, toàn cầu hóa là cách hiệu quả giúp cho các
nước chậm tiến thực hiện con đường phát triển rút ngắn và từng bước đuổi kịp các nước
kinh tế phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nó còn đem lại nhiều vấn đề tiêu cực, điển
hình là việc trốn thuế của các công ty đa quốc gia thông qua hoạt động chuyển giá. Hầu
hết các doanh nghiệp FDI đều khai báo kinh doanh thua lỗ nhưng thực tế vẫn có khoản
lợi nhuận chuyển về công ty mẹ.

Trước tình hình đó, và theo Bộ trưởng tài chính Vũ Văn Ninh đánh giá trong phiên
họp Quốc hội Việt Nam ngày 05 tháng 10 năm 2008 là tình hình chuyển giá “không kiểm
soát được”, thì việc nghiên cứu để tìm giải pháp kiểm soát hoạt động chuyển giá là cấp
thiết, khi mà luồng vốn FDI đổ vào Việt Nam ngày càng nhiều.

Vì vậy, nhóm đã tiến hành tìm hiểu và phân tích cơ sở lí thuyết, thực trạng và những
giải pháp để góp phần hạn chế tình hình chuyển giá ở Việt Nam trong giai đoạn mở cửa
hội nhập hiện nay. Trong quá trình phân tích có những sai sót mong được sự góp ý của
thầy. Nhóm xin chân thành tiếp nhận ý kiến đóng góp để hoàn thiện bài nghiên cứu.

1
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Chương 1 CHUYỂN GIÁ

I. Lý thuyết

1. Khái niệm:

Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và
tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá
thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia (Multi Nations
Company) trên toàn cầu.

2. Nguyên nhân:

2.1 Từ bên trong

Để có một hình ảnh đẹp về tình hình tài chính trước các cổ đông và các bên hữu quan
khác. Trong một số trường hợp khi MNC phạm phải các sai lầm trong kế hoạch kinh
doanh, sai lầm trong việc nghiên cứu và đưa sản phẩm mới vào thị trường, các chi phí
quảng cáo, quảng bá sản phẩm quá cao và hậu quả là tình trạng thua lỗ của MNC tại
chính quốc hay của các công ty thành viên trên các quốc gia khác. Vì thế, để có một hình
ảnh đẹp về tình hình tài chính trước các cổ đông và các bên hữu quan khác, thì chuyển
giá là một giải pháp để có thể thực hiện được ý đồ trên. Chuyển giá giúp các MNC chia
sẻ việc thua lỗ với các thành viên, nhờ vậy các khoản thuế phải nộp giảm xuống và tình
hình kinh doanh trở nên sáng sủa hơn một cách giả tạo vi phạm pháp luật các quốc gia.

Chiếm lĩnh được thị trường là một trong những tham vọng của các MNC. Nhưng để
làm được điều đó, MNC phải đánh bật được các đối thủ của mình, đồng thời chiếm toàn
bộ quyền kiểm soát và quyền sở hữu công ty. MNC thực hiện việc này bằng cách tăng
cường các hoạt động quảng cáo, quảng bá sản phẩm trong giai đoạn mới thâm nhập thị
trường, làm cho MNC bị lỗ nặng và kéo dài. Bằng nguồn lực tài chính dồi dào của mình,
các MNC thực hiện hành vi chuyển giá bất hợp pháp để kéo dài tình trạng thua lỗ nhằm
chiếm lấy quyền kiểm soát và quyền quản lý công ty. Tồi tệ hơn là đẩy các đối tác ra khỏi
hoạt động kinh doanh và chiếm toàn bộ quyền kiểm soát cũng như sở hữu công ty. Sau

2
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

khi chiếm lĩnh được thị trường, các MNC thực hiện nâng giá sản phẩm để bù đắp cho
phần lỗ lúc trước. Tình trạng này thường thấy ở các nước đang phát triển như Việt Nam,
khi mà trình độ quản lý còn nhiều yếu kém.

Ngoài ra, các MNC còn thực hiện việc chuyển giá nhằm giảm thiểu rủi ro khi giao
dịch các sản phẩm và dịch vụ có tính đặc thù cao, độc quyền và tính bảo mật cao như
trong các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, y dược …

2.2 Từ bên ngoài

2.2.1 Thuế:

Hiện nay chính sách thuế giữa các quốc gia có sự chênh lệch rất lớn, chính vì điều đó
đã tạo môi trường thuận lợi để MNC thực hiện hành vi chuyển giá. Có rất nhiều quốc gia
ban hành một chính sách thuế vô cùng ưu đãi nhằm thu hút dòng vốn quốc tế chảy vào
nước mình, đặc biệt ở một số quốc gia thì mức thuế áp dụng là vô cùng thấp thường được
gọi là “thiên đường thuế”, trong khi đó thì các quốc gia còn lại đánh mức thuế suất tương
đối cao. Cụ thể như sau:

Thuế TNDN
Bahamas 0% Trung quốc 25%
Bahrain 0% Việt Nam 25%
Bermuda 0% Anh 28%
Macau 12% Ấn Độ 33.99%
Hồng Kông 16.5% Mỹ 40%
(Nguồn: KPMG’s Corporate and Indirect Tax Rate Survey 2009)

Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình, các MNC luôn tìm kiếm một lợi thế từ
thuế suất thuế TNDN của các quốc gia có mức thuế suất khác nhau bằng các hành vi
chuyển giá. Các thủ thuật thường sử dụng là nâng giá mua đầu vào các nguyên vật liệu,
hàng hóa và định giá bán ra hay giá xuất khẩu thấp tại các công ty con đóng tại các quốc
gia có thuế suất thuế TNDN cao. Nhờ vậy, các MNC đã chuyển một phần lợi nhuận từ
quốc gia có thuế suất thuế TNDN cao sang quốc gia có thuế suất thuế TNDN thấp, như

3
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

thế các MNC đã thực hiện được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình. Nói tóm lại, sự
khác biệt về thuế suất thuế TNDN là động cơ lớn thúc đẩy chuyển giá.

2.2.2.Tỷ giá:

Với mục tiêu bảo toàn vốn ban đầu theo nguyên tệ, MNC rút vốn đầu tư ở quốc gia
mà họ kỳ vọng vào việc đồng tiền nước đó sẽ yếu đi trong tương lai. Như vậy lúc này
ngoài lợi nhuận thu được, MNC còn thu được một khoản lợi nhuận chênh lệch do sự biến
động có lợi về tỷ giá.

2.2.3.Hoạt động liên doanh liên kết:

Nhằm tăng cường tỷ lệ vốn góp trong hoạt động liên doanh liên kết, MNC định giá
thật cao các yếu tố đầu vào từ công ty mẹ đẻ nắm quyền quản lý.

2.2.4.Lạm phát:

MNC sẽ tiến hành chuyển giá ở các nước có tỷ lệ lạm phát cao để bảo toàn số vốn đầu
tư và lợi nhuận trong điều kiện đồng tiền nước đang đầu tư bị mất giá.

2.2.5.Tình hình kinh tế - chính trị:

MNC sẽ thực hiện chuyển giá để chống lại các tác động bất lợi của các chính sách
kinh tế ở nước đang đầu tư, mặt khác hoạt động chuyển giá làm giảm các khoản lãi dẫn
đến giảm áp lực đòi tăng lương của lực lượng lao động.

2.2.6.Ưu đãi của các quốc gia:

Lợi dụng sự ưu đãi mà các quốc gia đưa ra trong chính sách kêu gọi đầu tư của nước
mình, MNC xem công ty con đặt tại các quốc gia này như một nơi tập trung toàn bộ lợi
nhuận của MNC, thực hiện hành vi chuyển giá để lại hậu quả xấu cho nước tiếp nhận đầu
tư.

3. Các kĩ thuật chuyển giá quốc tế:

Tùy vào hoàn cảnh kinh doanh khác nhau mà các MNC sử dụng các biện pháp khác
nhau để thực hiện chuyển giá nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu.

4
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

3.1 Chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn

Đầu tư dưới dạng liên doanh: việc nâng giá trị tài sản đóng góp sẽ làm cho phần vốn
góp của bên phía có ý nâng giá trị góp vốn tăng, nhờ đó, sự chi phối trong các quyết định
liên quan đến hoạt dộng của dự án liên doanh sẽ gia tăng và mức lời được chia sẽ tăng.
Ngoài ra, khi dự án kết thúc hoạt động thì tỷ lệ trị giá tài sản được chia cao hơn.

Đối với các công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài thì việc nâng tài sản góp vốn sẽ
giúp họ tăng mức khấu hao trích hàng năm, làm tăng chi phí đầu vào. Việc tăng mức
khấu hao tài sản cố định sẽ giúp chủ đầu tư:

• Nhanh hoàn vốn đầu tư cố định, nhờ đó giảm thiểu rủi ro đầu tư.

• Giảm mức thuế TNDN phải đóng cho nước tiếp nhận đầu tư

3.2 Chuyển giá bằng cách nâng khống trị giá công nghệ, thương hiệu…(tài sản

vô hình)

Việc định giá chính xác được tài sản vô hình của các nhà đầu tư hết sức khó, lợi dụng
việc này mà các MNC chủ ý thổi phồng phần góp vốn bằng thương hiệu, công thức pha
chế, chuyển giao công nghệ… nhằm tăng phần góp vốn của mình lên. Một số trường hợp
phía góp vốn bằn tài sản vô hình có xuất trình gấy chứng nhận của công ty kiểm toán
nhưng độ tin cậy, trung thực của các giấy chứng nhận này rất khó kiểm định.

3.3 Nhập khẩu nguyên vật liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài, hoặc từ công ty đối

tác trong liên doanh với giá cao

Đây là hình thức chuyển một phần lợi nhuận ra nước ngoài thông qua việc thanh toán
tiền hàng nhập khẩu. Ngoài ra, việc mua hàng nhập khẩu với giá đắt làm chi phí sản xuất
tăng, dẫn tới lợi nhuận chịu thuế TNDN giảm.

3.4 Chuyển giá thông qua hình thức nâng chi phí các đơn vị hành chính và quản

5
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Các công ty mẹ thường sử dụng các hợp đồng tư vấn hay thuê trung gian. Một số đối
tác liên doanh còn bị ép nhận chuyên gia với chi phí rất cao nhưng hiệu quả lại thấp. Chi
phí này phía liên doanh nước chủ nhà gánh chịu.

Một số công ty thuê người quản lý doanh nghiệp FDI với lương cao, ngoài ra còn phải
trả một khoản tiền lớn cho công ty nước ngoài cung cấp nhà quản lý. Ở một số trường
hợp cũng có hiện tượng chuyển giá ở khâu này khi công ty cung cấp nguồn nhân lực cũng
là công ty con của cùng một tập đoàn.

Một số trường hợp còn thực hiện chuyển giá thông qua hình thức đào tạo ở nước
ngoài: cử chuyên viên, công nhân sang học tập, thực tập tại công ty mẹ với chi phí cao.

Một hình thức chuyển giá của công ty có vốn FDI là trả lương, chi phí cho chuyên gia
tư vấn được gởi đến từ công ty mẹ. Loại hình tư vấn này rất khó xác định số lượng và
chất lượng để xác định chi phí cao hay thấp. Lợi dụng điều này, nhiều công ty FDI thực
hiện hành vi chuyển giá mà thực chất là chuyển lợi nhuận về nước dưới danh nghĩa là phí
dịch vụ tư vấn.

3.5 Thực hiện chuyển giá thông qua việc điều tiết giá mua bán hàng hóa

Khi thuế nhập khẩu cao thì công ty mẹ bán nguyên liệu, hàng hóa với giá thấp nhằm
tránh nộp thuế nhập khẩu nhiều. Trong trường hợp này, công ty mẹ sẽ tăng cường hoạt
động tư vấn, huấn luyện, hỗ trợ tiếp thị với giá cao để bù đắp lại hoặc mua lại sản phẩm
với giá thấp. Đối với hàng hóa nhập khẩu mà thuế suất thấp, thì công ty ký hợp đồng
nhập khẩu với giá cao nhằm nâng chi phí để tránh thuế.

3.6 Chuyển giá thông qua hình thức tài trợ bằng nghiệp vụ vay từ công ty mẹ

Bằng hình thức này, các công ty con tạo ra cơ cấu vốn và nguồn vốn bất hợp lý như
dùng nguồn vốn vay từ công ty mẹ để tài trợ cho tài sản cố định và tài sản đầu tư dài hạn
mà không tăng vốn góp và vốn chủ sở hữu nhằm đẩy chi phí hoạt động tài chính lên cao
như chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí lãi vay… và chuyển một phần lợi nhuận về nước
dưới dạng lãi vay, chi phí bảo lãnh vay vốn để tránh thuế, tránh lỗ do chênh lệch tỷ giá về
sau.

6
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

3.7 Chuyển giá thông các trung tâm tái tạo hóa đơn

Trung tâm tái tạo hóa đơn đóng vai trò người trung gian giữa công ty mẹ và
các công ty con. Hàng hóa trên chứng từ hóa đơn thì được bán từ công ty nơi sản
xuất hàng hóa qua trung tâm tái tạo hóa đơn và sau đó thì trung tâm này lại bán lại cho
công ty phân phối bằng cách xuất hóa đơn và chứng từ kèm theo. Thông qua việc này sẽ
định vị lại loại ngoại tệ của cả đơn vị sản xuất và trung tâm tái tạo hóa đơn. Nhưng trên
thực tế, hàng hóa được chuyển giao trực tiếp từ công ty sản xuất qua thẳng công ty
phân phối mà không qua trung tâm tái tạo hóa đơn. Hình thức này thường xảy ra trong
ngành dược phẩm.

4. Tác động của chuyển giá:

4.1 Đối với MNCs:

- Tác động tích cực

Được hưởng lợi từ chính sách ưu đãi đầu tư (như thuế suất, lĩnh vực đầu tư…) tạo
điều kiện cho các MNC dễ dàng trong việc thực hiện giảm thiểu trách nhiệm ở quốc gia
MNC đang đầu tư.

Thực hiện chuyển giá, các MNC sẽ bảo toàn được nguồn vốn đầu tư, nhanh chóng có
được dòng ngân lưu cho các cơ hội đầu tư khác.

Thực hiện chuyển giá sẽ giúp các MNC nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường ở các
nước đang đầu tư.

- Tác động tiêu cực

Nếu bị các quốc gia phát hiện và thực hiện chế tài thì các MNC phải chịu một khoản
phạt rất lớn, bị rút giấy phép kinh doanh tại quốc gia đó hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng
trên thương trường quốc tế dẫn tới sự chú ý nhiều và chặt chẽ hơn của các cơ quan thuế ở
những nước MNC đi đầu tư sau đó.

4.2 Đối với các quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư

- Tác động tích cực:

7
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Khi có hoạt động chuyển giá ngược, do nước thu hút đầu tư có mức thuế thu nhậpthấp
làm tăng thu nhập cho nước tiếp nhận vốn.

- Tác động tiêu cực:

Cơ cấu vốn của nền kinh tế ở quốc gia tiếp nhận vốn sẽ bị đột ngột thay đổi do việc
thực hiện hành vi chuyển giá của các MNC làm các luồng vốn chảy vào nhanh mạnh, sau
đó lại có xu hướng chảy ra trong thời gian ngắn. Hậu quả là tạo ra một bức tranh kinh tế
bị sai lệch ở các quốc gia này trong các thời kì khác nhau.

Đối với các quốc gia được coi là thiên đường về thuế, họ là người được hưởng lợi từ
hoạt động chuyển giá trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn, họ phải đương đầu với các
khó khăn tài chính khi các MNC thoái vốn do các thu nhập không bền vững trước đây
trong ngắn hạn không phản ánh chính xác sức mạnh của nền kinh tế.

Với việc thực hiện hành vi chuyển giá và thao túng thị trường, chính phủ các nước
tiếp nhận đầu tư sẽ khó khăn hơn trong việc hoạch định chính sách điều tiết nền kinh tế vĩ
mô và khó khăn trong việc thúc đẩy các ngành sản xuất trong nước phát triển.

Hoạt động chuyển giá sẽ phá vỡ cán cân thanh toán quốc tế và các kế hoạch kinh tế
của các quốc gia tiếp nhận đầu tư, chính vì thế nếu không kiểm soát tốt sẽ dễ dẫn tới lệ
thuộc vào nền kinh tế của chính quốc, về lâu dài có thể dẫn tới lệ thuộc về chính trị.

4.3 Đối với các quốc gia xuất khẩu đầu tư

- Tác động tích cực:

Nước xuất khẩu vốn thu được ngoại tệ nhiều hơn nhờ đó góp phần cải thiện cán cân
thương mại, cán cân thanh toán quốc tế. Sự hoạt động của các công ty mẹ tốt hơn về hình
thức thì cũng tác động tốt hơn đến hiệu quả kinh tế xã hội: đóng góp nhiều thuế hơn cho
nhà nước, tác động tốt tới tăng trưởng GNP của nước xuất khẩu vốn đầu tư.

- Tác động tiêu cực:

8
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Nếu thuế suất ở các quốc gia tiếp nhận đầu tư thấp hơn thuế suất ở chính quốc, sẽ làm
cho các nước xuất khẩu đầu tư bị mất cân đối trong kế hoạch thuế của nước này do việc
thất thu một khoản thu nhập từ thuế.

Mục tiêu quản lý nền kinh tế vĩ mô ở các quốc gia này sẽ gặp một số khó khăn nhất
định do việc các dòng vốn đầu tư dịch chuyển không theo ý muốn quản lý của chính phủ.

II. Thực trạng chuyển giá:

1. Tình hình chung:

Sự chênh lệch lớn về thuế giữa các quốc gia cùng với tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn
của các MNC đã khiến chuyển giá trở thành vấn nạn của các quốc gia trên thế giới. Điều
này được thể hiện rõ qua các số liệu sau:

- Các quốc gia làm nơi trú ẩn thuế chiếm 1,2% dân số thế giới nhưng tập trung tới
26% tài sản và 31% lợi nhuận ròng của các tập đoàn đa quốc gia của Mỹ (Hines và Rice,
1994). Mỗi năm có khoảng 200.000 công ty mới được thành lập tại đây và con số tích lũy
lên đến hơn 3 triệu công ty (Baker, 2005).

- Khoảng 3.600 công ty lớn của Mỹ đặt nơi trú ẩn tại quần đảo Virgin và Barbados
(Rugman, 2000, pp. 22-23).

- Thống kê liên bang ước tính rằng, giữa năm 1990 và năm 1995, lên đến 400 tỷ vốn
có thể đã được đưa ra khỏi Nga vào Mỹ, Anh, Cyprus, Thụy Sĩ, Hà Lan và Đan Mạch
(Tikhomirov, 1997).

- Người ta ước tính rằng 11.500 tỷ USD tài sản ra nước ngoài cư trú tại nơi trú ẩn
thuế (The Observer, ngày 27 Tháng Ba năm 2005).

- Nghiên cứu của Christain Aid tháng 5/2008 cho thấy rằng 60 tỷ USD tiền thuế đã
biến mất từ việc chuyển giao tiền và hàng hóa .

Từ những số liệu trên đã cho ta thấy, chính hoạt động chuyển giá làm cho nền kinh tế
thế giới hàng năm bị thiệt hại nặng. Do đó, việc ban hành các biện pháp nhằm ngăn chặn
hành vi chuyển giá đã trở thành ưu tiên hàng đầu trong chính sách của nhiều quốc gia.

9
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

2. Các trường hợp chuyển giá cụ thể trên Thế giới

2.1 Google

Đại bản doanh của Google tại các thị trường ngoài Mỹ được đặt tại trung tâm thủ đô
Dublin của Ireland. Năm 2009, tòa nhà văn phòng là nơi làm việc của 2.000 nhân viên
Google này, được cho là nơi đóng góp 88% vào doanh thu 12,5 tỷ USD tại thị trường
nước ngoài của hãng này. Tuy nhiên, phần lớn số lợi nhuận từ doanh thu này đã được gửi
gắm sang “thiên đường thuế” Bermuda.

Để giảm số thuế phải đóng ở thị trường ngoài Mỹ, Google vận dụng một cơ chế pháp
lý phức tạp. Cách làm này đã giúp công ty tiết kiệm được 3,1 tỷ USD tiền thuế lẽ ra phải
đóng từ năm 2007 tới nay, đồng thời làm gia tăng lợi nhuận gộp của năm 2009 thêm
26%.

Mặc dù nhiều công ty đa quốc gia khác cũng có cách “né” thuế tương tự, Google
thành công hơn khi đẩy được mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thực tế xuống
thấp hơn so với nhiều công ty ngang tầm khác trong lĩnh vực công nghệ.

Từ năm 2007 tới nay, thuế suất thực tế mà Google phải chịu ở thị trường nước ngoài
chỉ là 2,4%. Trong khi đó, theo báo cáo của các công ty, Apple, Oracle, Microsoft và
IBM - những doanh nghiệp cùng Google hợp thành nhóm 5 công ty có giá trị vốn hóa lớn
nhất trên thị trường chứng khoán Mỹ - chịu mức thuế suất dao động trong khoảng 4,5%-
25,8% trong thời kỳ 2007-2009 tại các thị trường ngoài Mỹ.

Điều đáng nói là mức thuế suất thực tế của Google rất thấp. Trong khi đó, Google
hoạt động khắp thế giới, mà chủ yếu là những quốc gia thuế cao, nơi thuế suất doanh
nghiệp bình quân trên 20%”. Thuế suất doanh nghiệp ở Anh - thị trường lớn thứ hai của
Google sau Mỹ là 28%, tại Mỹ là 40%. Nhưng tại Bermuda, thuế thu nhập là thứ không
tồn tại. Lợi nhuận của Google được gửi tới quần đảo này bằng hai “thủ thuật” mà giới
luật sư về thuế gọi là “Double Irish” và “Dutch Sandwich”.

Trong trường hợp Google, hai “thủ thuật” trên được vận dụng như sau: Khi một công
ty ở châu Âu, Trung Đông hoặc châu Phi mua một quảng cáo trên Google, số tiền phải trả

10
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

được gửi tới chi nhánh của Google ở Dublin. Mức thuế suất doanh nghiệp mà Chính phủ
Ireland đặt ra là 12,5% - đã vào hàng thấp so với nhiều quốc gia châu Âu khác - nhưng
Google vẫn gần như không phải chịu thuế suất này, vì lợi nhuận của hãng đã âm thầm rời
khỏi văn phòng ở Dublin - nơi báo cáo mức lợi nhuận trước thuế chưa đầy 1% trên doanh
thu của năm 2008.

Luật của Ireland khiến Google không dễ chuyển thẳng lợi nhuận tới Bermuda mà
không bị đánh thuế cao. Do vậy, Google phải đi “đường vòng” sang Hà Lan, vì Ireland
không đánh thuế các khoản tiền được chuyển sang cho các công ty thuộc các quốc gia
khác trong Liên minh châu Âu (EU).

Một khi tiền đã tới Hà Lan, Google có thể tận dụng luật thuế hào phóng của quốc gia
này. Chi nhánh Google tại Hà Lan là Google Netherlands Holdings, vốn chỉ là một “vỏ sò
rỗng” vì không có một nhân viên nào, sẽ thực hiện chuyển 99,8% số tiền nhận được sang
Bermuda với tư cách là tiền mà chi nhánh Google ở Dublin trả để mua bản quyền sở hữu
trí tuệ từ Google Ireland Holdings - một thực thể “ảo” do Google ở Bermuda quản lý.

Chi nhánh Google ở Bermuda về phương diện kỹ thuật là một công ty Ireland nữa
được gán cho chức năng là “quản lý hoạt động của Google Ireland Holdings”. Cách trốn
thuế này dựa trên hai công ty Ireland - một công ty (chi nhánh Google ở Dublin) trả tiền
bản quyền để sử dụng quyền sở hữu trí tuệ, làm phát sinh các chi phí nhằm giảm thu nhập
chịu thuế ở Ireland; công ty kia (Google Ireland Holdings do Google ở Bermuda quản lý)
thu số tiền bản quyền đó ở một “thiên đường thuế” như Bermuda, nhằm tránh thuế ở
Ireland. Bởi vậy, cách làm này được gọi là “Double Irish”.

Do Hà Lan trở thành địa điểm trung chuyển giữa hai công ty Ireland trong chiến thuật
trốn thuế nói trên, nên cách làm như vậy được gọi là “Dutch Sandwich”.

Trên thực tế, Google Ireland Holdings là một thực thể thuộc sở hữu của hai chi nhánh
Google có ban lãnh đạo là hai luật sư và một giám đốc thuộc công ty luật Conyers Dill &
Pearman có văn phòng khá đơn sơ ở Bermuda. Tất cả những bước đi trên của Google đều
hợp pháp. Nhờ chiến thuật né thuế, Google phải đóng ít thuế hơn ở nước ngoài.

11
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Google tại Ireland được cấp phép sử dụng công nghệ tìm kiếm và quảng cáo trực
tuyến được tạo ra từ trụ sở của Google ở Mountain View, California, Mỹ. Thỏa thuận cấp
phép này cho phép Google báo cáo lợi nhuận tại các thị trường nước ngoài là lợi nhuận từ
hoạt động của Google tại Ireland, thay vì Google ở Mỹ - nơi phần lớn các công nghệ của
Google được phát triển.

Theo luật Mỹ, Google tại Ireland phải trả một mức giá ngang với một công ty không
có quan hệ gì với Google phải trả để có được quyền sử dụng công nghệ của Google. Tuy
nhiên, do phí cấp phép thu từ chi nhánh Ireland tạo ra cho Google khoản lợi nhuận có thể
bị đánh thuế ở mức 40% ở Mỹ - vào hàng cao nhất trong các mức thuế suất doanh nghiệp
trên thế giới - nên Google có lý do để đưa ra mức giá cấp phép thấp nhất có thể. Kết quả
là một phần trong lợi nhuận của Google ở Mỹ được dịch chuyển ra nước ngoài, và cách
làm này được các chuyên gia gọi là hiện tượng chuyển giá (“transfer pricing”).

Năm 2009, Google nộp hơn 1,5 tỷ USD thuế thu nhập tại Mỹ. Theo các chuyên gia,
bằng cách chuyển giá, Google đã giảm được mức thuế suất thực tế phải chịu tại Mỹ về
22,2% trong năm ngoái.

2.2 SmithKline

SmithKline là một công ty dược phẩm lớn đã bị sự giám sát của cơ quan thuế Canada.
Từ 1980-1989, chính quyền đã nghi ngờ công ty này thực hiện chuyển giá qua thuốc
cimetidine, một thành phần được sử dụng trong thuốc Tagamet. SmithKline sản xuất,
đóng gói và phân phối thuốc và thu được lợi nhuận đáng kể ở Canada. Tuy nhiên, theo
một thỏa thuận vào năm 1977, công ty này đã mua các thành phần chính của thuốc (đã
được bảo hộ bằng sáng chế) với mức giá 400 USD/kg từ các chi nhánh nước ngoài chịu
mức thuế thấp của nó như Bahamas và Ireland.

Trong đầu những năm 1980, dạng chính của thành phần này đã được bán trên thị
trường với mức giá từ 50 – 250 USD/kg và điều này làm giảm giá thị trường của thuốc.
Trong khi đó, SmithKline tiếp tục mua các thành phần theo thỏa thuận từ trước ở mức giá
400 USD/kg, dẫn đến báo cáo lợi nhuận thấp hơn và thậm chí thua lỗ ở Canada.

12
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Cơ quan thuế cho rằng lợi nhuận ở Canada đã bị làm giảm bớt do công ty đã sử dụng
giá chuyển giao nội bộ mà không quan tâm tới giá thị trường. Sau vụ kiện kéo dài, một
thẩm phán đã kết luận rằng: nếu công ty này trả theo giá thị trường quốc tế cho việc cung
cấp thuốc này, lợi nhuận hoạt động của nó đã có thể nhiều hơn gấp ba lần. Một suy đoán
đơn giản rằng công ty sẽ vẫn có lợi nhuận nếu quyết định không mua thuốc với giá đắt
hơn từ chi nhánh của mình.

Sau một tranh cãi quyết liệt trong tám năm, cơ quan thuế cuối cùng đã không cho
phép khấu trừ 515 triệu USD và công ty đã phải trả 3,2 tỷ USD chi phí pháp lý.

2.3 Yukos

Yukos là công ty năng lượng tư nhân lớn nhất của Nga. Khodorkovsky là người sáng
lập và cựu giám đốc điều hành của Yukos. Năm 1988, Khodorkovsky thành lập ngân
hàng Menatep rất phát triển dưới sự đỡ đầu của các doanh nhân và chính trị gia Nga.

Để thực hiện việc gian lận của mình, ông sử dụng các công ty vỏ bọc (shell company)
ở nước ngoài. Những công ty giả tạo này được thành lập ở những “thiên đường thuế” để
cung cấp sự bảo mật cho doanh nghiệp và ngân hàng. Trong số khoảng 70 “thiên đường
thuế” trên thế giới, Khodorkovsky thường chọn Thụy Sĩ, Gibraltar, Panama, và Isle of
Man.

Trong năm 1994, Khodorkovsky và bạn bè đã mua 20% cổ phần của Apatit, một công
ty nhà nước của Nga, trị giá 1,4 tỷ USD vào lúc đó, với số tiền 225.000 USD và một lời
hứa đầu tư 283 triệu USD. Khi công ty được đưa ra bán đấu giá, Khodorkovsky bố trí cho
bốn công ty vỏ bọc của mình đủ điều kiện để mua nó. Nhưng sau khi trúng thầu, chủ đầu
tư không bơm tiền vào công ty và cũng phớt lờ lệnh trả lại cổ phần của tòa án. Thay vào
đó, họ đã bán cổ phần cho Menatep, và Menatep chuyển giao nó cho các công ty vỏ bọc
nước ngoài.

Những nhà quản trị công ty thiết lập một chương trình chuyển giá, bán sản phẩm của
Apatit với giá thấp cho các công ty vỏ bọc của họ, và bán chúng trên thị trường thế giới
với giá cao hơn. Do đó, các loại thuế và cổ tức được trả thấp hơn. Tại vụ xử của

13
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Khodorkovsky, các công tố viên cho biết với việc chuyển giá, Khodorkovsky đã lừa hơn
200 triệu USD của các cổ đông và công ty cũng như hàng triệu đô la tiền thuế của đất
nước.

Năm 1995, Khodorkovsky đã tiếp tục làm một chương trình tương tự đối với Avisma,
một công ty khoáng sản. Một lần nữa, Ngân hàng Menatep lại chiến thắng. Sau đó
Menatep thiết lập một hệ thống chuyển giá, điều này có nghĩa là họ sử dụng một công ty
vỏ bọc nước ngoài để “mua” titan của Avisma với giá thấp hơn giá thị trường và sau đó
bán nó với giá cao hơn, chính vì vậy nó trả thuế thấp và đạt được lợi nhuận tiềm ẩn, mức
lợi nhuận này không được chia sẻ các cổ đông còn lại.

Menatep đã mua công ty dầu Yukos trong một cuộc đấu giá gian lận của Menatep.
Khodorkovsky đã trả 309 triệu USD để kiểm soát 78% cổ phần của Yukos. Các “chủ sở
hữu mới” này là các công ty vỏ bọc nước ngoài của Khodorkovsky. Tháng sau đó, Yukos
giao dịch trên thị trường chứng khoán Nga với giá trị vốn hóa thị trường là 6 tỷ USD.

Các chương trình chuyển giá của Yukos và chi nhánh của nó đã làm giảm 210 tỷ RUR
doanh thu trong năm 2000 và chính phủ đã yêu cầu công ty trả 28 tỷ USD thuế hoàn trả
và tiền phạt. Chính phủ Nga đã tuyên bố rằng một chi nhánh sản xuất của Yukos đã bán
dầu thô dưới giá thị trường cho một công ty vỏ bọc có liên kết với Yukos và được thành
lập ở một khu vực có thuế thấp hoặc không có thuế. Các công ty vỏ bọc này sẽ bán dầu
lại cho người mua trong và ngoài nước theo giá thị trường. Yukos kiểm soát toàn bộ quá
trình hoạt động và tài chính của các công ty vỏ bọc bao thông qua vị trí giám đốc, quyền
hạn của luật sư và cũng như một hợp đồng với công ty vỏ bọc. Hầu hết các giao dịch của
công ty vỏ bọc được thực hiện với các chi nhánh Yukos khác. Yukos sẽ nhận hoa hồng
danh nghĩa cho các dịch vụ này (chỉ 0,01-0,5%); và các công ty vỏ bọc nhận được phần
lớn lợi nhuận trong toàn bộ quá trình sản xuất và bán dầu. Việc chuyển giá giúp Yukos
tránh các loại thuế cũng như các công ty vỏ bọc được hưởng các nhượng bộ về thuế do
các công ty này thường được thành lập ở những “thiên đường thuế”.

2.4 Toyota

14
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Việc chuyển giá của tập đoàn Toyota bằng cách chuyển thu nhập tới những nơi có
thuế TNDN thấp. Doanh thu nội địa trong sổ sách kế toán của Toyota (UK) tính đến ngày
31 Tháng Ba 2003 thì công ty này đã bị lỗ trước thuế là 116 triệu bảng Anh trong khi
doanh thu bán hàng là 1,4 tỷ bảng Anh, trong khi đó Toyota (GB), là chi nhánh phân phối
và bán hàng lại có lợi nhuận là 3 triệu bảng Anh trên doanh thu bán hàng là 1,5 tỷ bảng
Anh. Các nhà máy sản xuất của Toyota ở châu Âu đều tập trung tại Anh và Pháp, và
Toyota cũng tuyên bố lợi nhuận hoạt động ở khu vực châu Âu của mình trong sổ sách kế
toán so với tập đoàn ở Nhật Bản trong cùng thời kỳ. Nhưng lợi nhuận lại không phát sinh
tại UK, bởi đây là một trong nơi có luật thuế TNDN cao nhất ở châu Âu.

3. Thực trạng chuyển giá ở Việt nam

3.1 Tình hình chung về chuyển giá hiện nay ở Việt Nam

Sau hơn 20 năm mở cửa, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã có những
đóng góp đáng kể vào thành tích xuất khẩu, giải quyết việc làm cho người lao động và
hiện đang trở thành đầu tàu tăng trưởng về giá trị sản xuất của ngành công nghiệp. Tuy
nhiên, đóng góp của khu vực kinh tế này cho ngân sách quốc gia lại khác hẳn.

Về cơ bản, sản phẩm của khu vực FDI thường được chia làm ba loại: Thứ nhất là sản
phẩm trung gian. Thứ hai là sản phẩm cuối cùng nhưng được tiêu thụ ở thị trường nước
ngoài theo đơn đặt hàng của công ty mẹ. Thứ ba là các sản phẩm được tiêu thụ trong
nước.

Với loại sản phẩm thứ nhất, các doanh nghiệp FDI thực chất là một công xưởng với
nguyên vật liệu chính được nhập khẩu, toàn bộ giá trị của sản phẩm được xuất khẩu để đi
qua các công đoạn tiếp theo, từ đó mới hình thành giá bán. Như vậy, về thực chất toàn bộ
hoạt động của loại doanh nghiệp này hầu như không hạch toán lợi nhuận. Phía Việt Nam
không những không thu được đồng thuế giá trị gia tăng nào mà ngược lại các doanh
nghiệp FDI được hoàn thuế; thuế thu nhập doanh nghiệp cũng coi như không có vì không
có lợi nhuận .

15
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Với loại sản phẩm thứ hai, doanh nghiệp FDI tuy có chút lãi nhưng không đáng kể,
đó là một quy trình gần như khép kín. Về hạch toán lợi nhuận phía Việt Nam không
được phép biết hoặc tham gia gì vì vốn của chủ doanh nghiệp nước ngoài, như vậy việc
xuất khẩu được bao nhiêu cũng không đóng góp giá trị gia tăng trong GDP.

Với loại sản phẩm thứ ba, tuy được tiêu thụ trong nước, nhưng hầu hết các nguyên vật
liệu chính đều được nhập khẩu từ bên ngoài. Chẳng hạn như bột ngọt gần như 100%
nguyên vật liệu là nhập khẩu, da cứng chiếm 83%; giày thể thao là 76%; sứ vệ sinh 74%;
sơn hóa học 68,3%; bột giặt 56%... Do quá trình hạch toán lợi nhuận khép kín của các
doanh nghiệp FDI, nên dù là tiêu thụ trong nước cũng được xem thực chất là nhập khẩu.

Thống kê của Cục Thuế TPHCM về kết quả kinh doanh năm 2009 của doanh nghiệp
FDI trên địa bàn cho thấy, gần 60% số doanh nghiệp báo cáo thua lỗ. Năm 2008, tỷ lệ
doanh nghiệp FDI ở TPHCM thua lỗ cũng chiếm tới 61,3% và trước đó, năm 2007, năm
hưng thịnh của kinh tế Việt Nam, vẫn có gần 70% doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế
này lỗ. Kết quả trên đồng nghĩa với TPHCM không thu được một khoản thuế thu nhập
doanh nghiệp từ những công ty này.

Có thể nói, thua lỗ đã trở thành xu hướng chung của doanh nghiệp FDI, không chỉ ở
TPHCM, mà trên cả nước. Nó được phản ánh qua tỷ lệ đóng góp cho ngân sách quốc gia
của khối này (không kể dầu thô) khá thấp. Trong các năm 2005-2008 chỉ dao động quanh
9-10% tổng thu ngân sách của quốc gia.

Theo các chuyên gia kinh tế, tỷ lệ thua lỗ cao bất thường của doanh nghiệp FDI không
hẳn tại khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh mà còn do nhiều công ty đã thực
hiện chính sách chuyển giá, nhằm trốn thuế ở Việt Nam.

Các trường hợp chuyển giá ở Việt Nam

3.2.1. Chuyển giá thông qua việc nâng giá trị vốn góp

Việc định giá cao thiết bị máy móc đầu tư ban đầu đã giúp cho các MNC chuyển một
lượng tiền đi ngược trở ra cho công ty mẹ ngay từ lúc đầu tư và thông qua chi phí khấu
hao hàng năm sẽ làm cho nhà nước thất thu thuế.

16
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Điển hình như, một khách sạn liên doanh giữa Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn và
Vina Group đã xác định giá trị đưa vào góp vốn của Vina Group là 4,34 triệu USD.
Nhưng theo sự thẩm định giá của công ty giám định giá Quốc Tế thì giá trị tài sản góp
vốn của Vina Group chỉ có giá trị là 2,99 triệu USD. Như vậy trong nghiệp vụ định giá
giá trị góp vốn liên doanh này phía Việt Nam đã bị thiệt 1,35 triệu USD tương đương
45.2%. Theo một báo cáo giám định của công ty kiểm định Quốc Tế về việc xác định giá
trị vốn góp của các bên liên doanh thực hiện vào năm 1993 cho ta kết quả trong bảng số
liệu dưới đây:

Bảng: Xác định giá trị vốn góp của các bên liên doanh

Stt Tên dự án liên doanh Giá trị thiết Giá trị thiết bị Chênh lệch do Tỷ lệ khai
bị khai báo thẩm định khai khống khống
1 Liên doanh k/s Thăng 496.906 306.900 190.006 40.43%
Long (tp HCM)
2 Công ty ô tô Hòa 5.823.818 4.221.520 1.602.298 27.51%
Bình (Hà Nội)
3 Công ty BGI Tiền 28.461.914 20.667.436 7.794.478 27.38%
Giang
4 Nhà máy sợi Joubo 3.497.848 3.003.930 493.918 14.12%
(Tp HCM)
5 K/s Hà Nội (Hà Nội) 2.002.612 1.738.752 263.860 13.17%

6 TT quốc tế DV-VP 1.288.170 1.028.170 260.000 21.16%


Hà Nội
7 Công ty Sài Gòn 4.972.072 4.612.640 359.433 7.22%
Vewong Tp HCM
(Nguồn: Báo cáo kết quả giám định của SGS năm 1993)

Tình trạng nâng giá tài sản góp vốn trên mang lại sự thiệt hại cho cả 3 đối tượng là
phía liên doanh góp vốn Việt Nam, chính phủ Việt Nam và cả người tiêu dùng Việt Nam.
Bên liên doanh Việt Nam bị thiệt trong phần vốn góp, làm cho tỷ lệ góp vốn nhỏ lại;

17
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế; còn người tiêu dùng Việt Nam phải tiêu dùng sản
phẩm với giá cả đắt hơn giá trị thực tế của sản phẩm.

Do nâng giá trị tài sản góp vốn nên tỷ lệ vốn cao hơn phía Việt Nam, vì vậy bên đối
tác nước ngoài thường sẽ nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Đối tác nước
ngoài sẽ điều hành công ty theo mục đích của họ để cho tình hình thua lỗ kéo dài và bên
liên doanh Việt Nam không đủ tiềm lực tài chính để tiếp tục hoạt động đành phải bán lại
phần vốn góp và hàng loạt các công ty liên doanh trở thành công ty 100% vốn nước
ngoài.

3.2.2. Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ

Ngoài việc nâng giá trị tài sản vốn góp khi tiến hành liên doanh thì các MNC còn
thực hiện việc chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ và thu phí tiền bản
quyền, đây là một loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn do khấu hao giá trị tài sản cố định vô
hình. Một ví dụ điển hình cho việc chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ đó là tại
Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam.

Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam là một công ty liên doanh hoạt động
theo Luật Đầu tư Nước ngoài của Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế
hoạch và Đầu tư) cấp phép số 287/GP ngày 9/12/1991. Hai đối tác liên doanh là Công ty
Thực phẩm II tại thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Heneiken International Behler (Hà
Lan). Đến năm 1994 thì giấy phép liên doanh này được chuyển nhượng sang giấy phép số
287/GPDCI ngày 27/10/1994 liên doanh với Asia Pacific Breweries PTE.LTD
(Singapore). Tổng số vốn đầu tư là 49,5 triệu USD và vốn pháp định là 17 triệu USD.
Bên liên doanh Việt Nam chiếm 40% và bên liên doanh Singapore chiếm 60% vốn,
ngành nghề sản xuất của liên doanh là sản xuất bia để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tình trạng kinh doanh của công ty bị thua lỗ
kéo dài qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là do phải trả cho chi phí bản quyền quá cao
và tăng dần qua các năm. Trong tình hình công ty liên doanh thường xuyên thua lỗ, phía
liên doanh Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề nhưng ngược lại phía liên doanh nước

18
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

ngoài vẫn không hề hấn gì vì họ vẫn nhận đủ tiền bản quyền từ nhãn hiệu và tiền bản
quyền lại có xu hướng ngày càng tăng.

Trong hơn 2.000 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép thì chỉ có 94 trường hợp
chuyển giao công nghệ với tổng giá trị hơn 200 triệu USD được trình lên Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường. Trong đó có 80 hợp đồng đã được phê duyệt, còn lại đang
được xem xét và yêu cầu bổ sung. Trong các dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt
Nam, một số công nghệ đã rất lỗi thời và bán tự động do không thông qua việc đăng ký
với Bộ Khoa Học và Môi Trường vẫn được xem là chuyển giao công nghệ trong các liên
doanh. Điều này đã dẫn đến tình trạng là chúng ta vẫn đang sử dụng công nghệ cũ, lỗi
thời trên thế giới. Hậu quả là một mặt gây ảnh hưởng môi trường, đồng thời chúng ta phải
trả phí bản quyền chuyển giao công nghệ. Một nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng này
là do chúng ta không chuẩn bị tốt trong khâu soạn thảo hợp đồng và đàm phán chi phí
bản quyền khi tham gia liên doanh vì vậy mà chi phí cao hơn mức chi phí chuyển giao
công nghệ cho phép là 5%. Phía Việt Nam thường ký vào hợp đồng đã được bên đối tác
soạn sẵn. Trong số hơn 80% hợp đồng đã được Bộ Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường
phê duyệt thì bên Việt Nam sau khi thực hiện đàm phán lại chi phí bản quyền đã giảm đi
so với giá trị hợp đồng trước khi đàm phán từ 20 đến 50%. Trong năm 1998, chỉ riêng 6
trong số các hợp đồng đã được phê duyệt đã thu lai được 35 triệu USD.

Một ví dụ cho việc này là ban đầu, liên doanh Mecedes- Benz (Đức) trước khi đàm
phán đòi chi phí bản quyền chuyển giao công nghệ là 42 triệu USD. Sau khi phía Việt
Nam đàm phán lại giảm xuống chỉ còn 9,6 triệu USD; giảm đi 77% so với chi phí ban
đầu phía Đức đưa ra. Trường hợp khác, cũng trong ngành sản xuất xe ô tô, đó là công ty
Mitsubishi Motor Corporation (Nhật Bản) trong liên doanh sản xuất ôtô Ngôi Sao đòi phí
bản quyền chuyển giao công nghệ là 61 triệu USD. Sau khi đàm phán lại thì giảm xuống
chỉ còn 4,4 triệu USD; tức giảm đi gần 15 lần. Một trường hợp nữa là công ty mía đường
Đài Loan đòi phí bản quyền là 54 triệu USD nhưng sau khi đàm phán thì phí bản quyền
chỉ còn là 6 triệu USD, giảm 9 lần.

3.2.3. Chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường

19
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Các MNC khi đi vào đầu tư kinh doanh tại một quốc gia thì họ thường sẽ thích liên
doanh với một công ty nội địa hơn là vào đầu tư thẳng là công ty 100% vốn nước ngoài.
Nguyên nhân là các MNC này muốn sử dụng hệ thống phân phối và thị phần có sẵn của
các công ty nội địa. Sau một thời gian liên doanh thì các MNC này sẽ dùng các thủ thuật
khác nhau, trong đó có thủ thuật chuyển giá để đẩy công ty nội địa ra và chuyển công ty
liên doanh thành công ty 100% vốn nước ngoài. Dưới đây chúng ta sẽ theo dõi hai ví dụ
đã xảy ra tại công ty P&G Việt Nam và công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương.

• Trường hợp P&G Việt Nam

P&G Việt Nam là một công ty liên doanh giữa Công ty Proter & Gamble Far Earst
với Công ty Phương Đông, được thành lập vào ngày 23 tháng 11 năm 1994. Tổng số vốn
đầu tư ban đầu của liên doanh này là 14,3 triệu USD và đến năm 1996 tăng lên là 367
triệu USD. Trong đó Việt Nam góp 30% và phía đối tác chiếm 70% (tương đương 28
triệu USD). Sau hai năm hoạt động (năm 1995 và 1996) liên doanh này đã lỗ đến một con
số khổng lồ là 311 tỷ VND. Số tiền lỗ này tương đương với ¾ giá trị vốn góp của cả liên
doanh. Trong con số thua lỗ 311 tỷ này thì năm 1995 lỗ 123,7 tỷ VND và năm 1996 lỗ
187,5 tỷ VND. Để giải thích cho số tiền thua lỗ này thì chúng ta sẽ phân tích các nguyên
nhân và chi phí sau: Do thời điểm năm 1995 và 1996 đây là gia đoạn mới vào Việt Nam
nên P&G muốn xây dựng thương hiệu tại Việt Nam và muốn các sản phẩm của mình đều
được người tiêu dùng biết đến và sử dụng. Với mục đích chiếm lĩnh thị trường, trong hai
năm 1995 và 1996, P&G đã chi cho quảng cáo một số tiền rất lớn lên đến 65,8 tỷ đồng.
Đây là một con số quá lớn đối với quảng cáo tại Việt Nam vào thời điểm đó. Trong thời
điểm này hầu như các kênh truyền hình. đài phát thanh và báo chí đều có sự xuất hiện
quảng cáo của các sản phẩm của công ty P&G như Safeguard, Lux, Pantene, Header &
Shouder, Rejoice… Vào thời điểm này, mọi người đều nghe các khẩu hiệu quảng cáo như
“Rejoice tạo mái tóc mượt và không có gàu”, “Pantene giúp tóc bạn khỏe hơn”, “Header
& Shoulder khám phá bí quyết trị gàu”,“bột giặt Tide thách thức mọi vết bẩn”… Tổng
các chi phí quảng cáo này chiếm đến 35% doanh thu thuần của công ty và đã vượt xa

20
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

mức cho phép của luật thuế là không quá 5% trên tổng chi phí và nó cũng đã gấp 7 lần so
với chi phí trong luận chứng kinh tế ban đầu.

Ngoài các khoản quảng cáo này thì các khoản chi phí khác cũng vượt xa so với luận
chứng kinh tế ban đầu. Quỹ lương năm đầu tiên xây dựng trong luận chứng kinh tế là 1
triệu USD nhưng thực tế đã chi đến 3,4 triệu USD, tức là gấp 3,4 lần. Nguyên nhân chủ
yếu là do P&G đã sử dụng đến 16 chuyên gia là người nước ngoài trong khi trong luận
chứng kinh tế chỉ đưa ra từ 5 đến 6 người.

Ngoài hai chi phí trên thì các chi phí khác cũng phát sinh lớn hơn nhiều so với luận
chứng kinh tế ban đầu như chi phí cho chuyên gia xây dựng cơ bản ban đầu là 7 tỷ VND,
chi phí tư vấn pháp lý hết 7,6 tỷ VND và chi phí thanh lý hết 20 tỷ VND… Ngoài ra một
nguyên nhân khác dẫn đến việc thua lỗ nặng nề trong năm đầu tiên là do doanh số thực tế
năm chỉ đạt 54% kế hoạch và phải gánh chịu chi phí tăng cao, dẫn đến kết quả là năm đầu
tiên hoạt động thua lỗ 123,7 tỷ VND.

Tình hình này lại tiếp tục lặp lại vào năm thứ hai và kết quả là năm thứ hai lại tiếp
tục thua lỗ thêm 187,5 tỷ VND với con số thua lỗ lũy kế hai năm đến 311,2 tỷ VND;
chiếm ¾ tổng số vốn của liên doanh, và đến tháng 7 năm 1997 thì tổng giám đốc của
P&G đã đầu tư quá giấy phép là 6 triệu USD, công ty phải vay tiền mặt để trả tiền lương
cho nhân viên. Đứng trước tình thế thua lỗ nặng nề và để tiếp tục kinh doanh thì bên phía
đối tác nước ngoài đề nghị tăng vốn thêm 60 triệu USD. Như vậy phía Việt Nam cần phải
tăng theo tỷ lệ vốn góp 30% (18 triệu USD). Vì bên phía Việt Nam không có đủ tiềm lực
tài chính nên cuối cùng đã phải bán lại toàn bộ số cổ phần của mình cho đối tác nước
ngoài. Như vậy công ty P&G Việt Nam từ hình thức là công ty liên doanh đã trở thành
công ty 100% vốn nước ngoài.

• Trường hợp công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương

Công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương là một liên doanh giữa hai đối tác là
Công ty Nước giải khát Chương Dương trực thuộc Bộ Công Nghiệp Việt Nam và Công
ty Coca Cola Indochina PTE.. LTD. Liên doanh này được cấp phép hoạt động vào ngày

21
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

27 tháng 9 năm 1995 với tổng số vốn đầu tư là 48,7 triệu USD. Vốn pháp định của liên
doanh này là 20,7 triệu USD. Trong đó phía Việt Nam góp 8,3 triệu USD bằng quyền sử
dụng 6 ha đất trong thời gian là 30 năm và chiếm 40% trong tổng vốn đầu tư. Liên doanh
này được cấp phép ngành nghề sản xuất kinh doanh là nước giải khát mang nhãn hiệu
Coca Cola, Fanta, Sprite theo license của công ty Coca Cola Company, Atlanta, Georgia
Hoa Kỳ và một số loại nước giải khát khác. Sau khi đi vào hoạt động thì công ty đã tiến
hành các hoạt động chuyển giá thông qua các hành vi như sau: Khi tham gia góp vốn liên
doanh thì bên đối tác nước ngoài đã tiến hành nâng giá trị tài sản vốn góp bằng cách định
giá cao các máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất nước giải khát. Do tại thời điểm này
trình độ chuyên môn cũng như thẩm định giá trị tài sản của Việt Nam còn nhiều hạn chế
nên không kiểm soát được vấn đề này. Luật pháp trong giai đoạn này cũng chưa điều
chỉnh được các tình huống trên. Đến năm 1996, do nhận thấy được tình trạng trên nên
Luật đầu tư đã có những sửa đổi nhưng vẫn còn chung chung, chưa cụ thể hóa. Như vậy
bên liên doanh đã định giá cao các thiết bị máy móc và dây chuyền sản xuất và thực hiện
thành công việc chuyển giá thông qua việc nâng giá trị tài sản vốn góp.

Sau khi bắt đầu sản xuất kinh doanh thì công ty Coca Cola bắt đầu thực hiện các chiến
lược chiếm lĩnh thị phần của các công ty nội địa. Để thực hiện việc chiếm lĩnh thị trường
thì công ty Coca Cola đã thực hiện các chiến lược bán phá giá sản phẩm, chiến lược
quảng bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu thông qua quảng cáo và marketing sản
phẩm, thực hiện các chiến lược khuyến mãi, tài trợ để xây dựng thương hiệu và đánh
bóng tên tuổi tại thị trường Việt Nam. Mặc dù mới xâm nhập vào thị trường Việt Nam
với một thời gian không lâu nhưng sản phẩm mang nhãn hiệu Coca Cola đã tràn ngập thị
trường và đã dần dần chiếm lấy thị phần của các công ty nội địa. Cuộc đối đầu giữa hai
nhãn hiệu nước giải khát lớn là Coca Cola và Pepsi đã dần dần loại bỏ các nhà sản xuất
nước giải khát nội địa như Hòa Bình, Cavinco, Chương Dương… Các công ty nội địa
một số phải đóng cửa hoặc phải bỏ thị trường chính như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội
và các thành thị để chuyển đến các thị trường nông thôn. Một số ít các công ty phải
chuyển đổi sang kinh doanh sản phẩm khác như công ty Tribico. Tribico nhờ chuyển

22
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

hướng kinh doanh sang sản phẩm sữa đậu nành và đây là một sản phẩm mà hai đại gia
trong ngành nước giải khát chưa sản xuất nên mới có thể tiếp tục tồn tại.

Trong chiến lược xâm chiếm thị phần của mình thì công ty Coca Cola Chương Dương
đã thực hiện chính sách bán phá giá. Giá bán của sản phẩm giảm một cách rõ rệt qua từng
năm. Có những thời điểm giá bán phá giá từ 25% đến 30% doanh thu. Chính điều này
góp phần vào làm cho công ty Coca Cola Chương Dương lỗ nặng nề hơn. Theo số liệu
thống kê của Cục Thuế TP.HCM thì giá bán giữa tháng 3 năm 2007 và tháng 3 năm 2008
giảm đến 23%.

Bảng: Giá bán của một thùng Coca Cola từ năm 1996 đến 1999

Thời điểm Giá bán (VND/thùng) Tỷ lệ thay


đổi
23-06-96 32.400
03-06-97 29.700 9%
01-09-97 28.350 5%
19-09-97 27.700 2%
01-03-98 22.600 24%
(Nguồn: Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh)

Thông qua việc bán phá giá này thì công ty Coca Cola Chương Dương đã thao túng
thị trường nội địa Việt Nam. Giá bán của một thùng sản phẩm giảm nhưng doanh số của
Coca Cola vẫn tăng. Điều này chứng tỏ lượng hàng tiêu thụ tăng từ thị phần được mở
rộng của Coca Cola. Khi tiến hành so sánh giá của một lon coca được bán tại thị trường
Việt Nam và thị trường Mỹ thì chúng ta sẽ thấy sự chênh lệch giá một cách rõ rệt. Giá
một lon coca tại thị trường Mỹ tại thời điểm lúc bấy giờ được bán với giá là 75 cents với
tỷ giá lúc bấy giờ 1 USD = 14.000 VND, tức là 1 lon coca được bán với giá 10.500 VND.
Một lon coca cùng thời điểm trên được bán tại thị trường Việt Nam với giá từ 5.000 VND
đến 7.000 VND (tương đương từ 40 đến 50 cents). Như vậy giá một lon coca được bán
tại Việt Nam thấp hơn so với thị trường Mỹ là 25 cent (khoảng 50%). Thông qua phân

23
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

tích giá bán sản phẩm thì liệu chúng ta có thể xác định chính sách bán phá giá này có
được sự điều phối từ công ty mẹ ở chính quốc.

Trong thời điểm diễn ra cúp bóng đá thế giới vào năm 1998, để đánh bóng thêm cho
tên tuổi và thương hiệu Coca Cola tại thị trường Việt Nam thì công ty Coca Cola còn tiếp
tục thực hiện việc tài trợ 1,3 tỷ VND bất chấp sự không đồng ý của phía liên doanh Việt
Nam. Đi đôi với chiến dịch khuyến mãi này là việc tăng dung tích chai Coca Cola từ 200
ml lên thành 300 ml (tương đương 50%) nhưng giá bán không đổi. Chiến dịch khuyến
mãi này được quảng cáo rầm rộ trong suốt thời gian diễn ra cúp bóng đá thế giới trên các
phương tiện truyền thông như các kênh truyền hình, đài phát thanh, và báo chí… Kết quả
của chiến dịch khuyến mãi này đã làm cho công ty Coca Cola đã lỗ hết 20 tỷ đồng.

Bảng: Kết quả kinh doanh của công ty Coca Cola từ năm 1996 đến 1998

Diễn giải 1996 1997 1998


Tỷ suất lợi nhuận -24.80% -24.50% -52.10%
Lợi nhuận/ Tài sản ròng -11.30% -26.30%
Lợi nhuận/ doanh thu -22.10% -22.13% -46.50%
(Nguồn: Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh)

Ngoài những hoạt động như khuyến mãi quảng cáo thì tại công ty Coca Cola có một
đặc điểm là có hơn 40% chi phí nguyên vật liệu cho sản xuất được nhập khẩu trực tiếp từ
công ty mẹ. Đối với ngành sản xuất nước giải khát thì chi phí nguyên vật liệu chiếm hơn
50% trong tổng chi phí, vì vậy giá trị nguyên vật liệu nhập từ công ty mẹ là rất lớn. Do đó
chắc chắn sẽ có hiện tượng nâng giá đầu vào tại khâu mua nguyên vật liệu từ công ty mẹ.

Theo báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty, xem xét tỷ trọng chi phí
nguyên vật liệu chiếm trong tổng chi phí thì chi phí nguyên vật liệu chiếm tới 60,14%
trong tổng chi phí. Khi so sánh với doanh thu thì chi phí nguyên vật liệu chiếm 66,82%.
Nếu đem tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu so với doanh thu và chi phí tại công ty Coca Cola
so sánh với các công ty trong cùng ngành sản xuất nước giải khát thì tỷ lệ này quá cao và
không phù hợp với đặc điểm và tỷ suất lợi nhuận của ngành này.

24
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Trong thời điểm mà Nhà nước chưa quản lý được giá mua nguyên vật liệu giữa công
ty Coca Cola Chương Dương và công ty Coca Cola mẹ ở chính quốc thì có thể xảy ra
tình trạng kê khai nâng giá mua vào trên hóa đơn so với giá thực tế (đây là hiện tượng
chuyển giá). Mục đích của việc làm này là gây lỗ cho công ty tại Việt Nam nhưng công
ty mẹ tại chính quốc sẽ thu lợi do giá nguyên vật liệu đuợc bán với giá cao. Đây cũng là
một hình thức chuyển lợi nhuận về chính quốc trong khi công ty con tại Việt Nam phải
chịu lỗ. So sánh tỷ lệ nguyên vật liệu trên giá vốn hàng bán (NVL/GVHB) của công ty
Coca Cola Chương Dương và hai công ty con của Coca Cola mẹ hoạt động tại Úc và
Canada. Cả ba công ty này cùng mua nguyên vật liệu và hương liệu từ công ty mẹ trong
bảng sau:

Bảng: So sánh tổng hợp giữa ba công ty Coca Cola con tại ba quốc gia:

Năm Coca Cola Enterprises Coca Cola Amati Coca Cola Chương Dương
NVL NVL/ GVHB NVL/ NVL/ GVHB NVL/ NVL/ GVHB/
/DTT GVHB /DTT DTT GVHB /DTT DTT GVH DTT
(%) (%) (%) (%) (%) (%) (%) B (%) (%|)
1996 20.20 32.67 61.81 15.49 25.01 59.80 66.82
1997 22.16 35.23 62.92 17.87 31.68 56.41 52.42 81.00 74.80
1998 23.11 36.94 12.55 20.00 34.84 57.38 70.00 86.87 89.13
(Nguồn Cục thuế TP. Hồ Chí Minh)

Xem xét trong bảng phân tích chúng ta có thể thấy được là tỷ lệ nguyên vật liệu trên
giá vốn của hai công ty Coca Cola Enterpises and Coca Cola Amati chỉ chiếm từ 31%
đến 37%. Trong khi tỷ lệ nguyên vật liệu trên giá vốn hàng bán tại Coca Cola Chương
Dương luôn luôn lớn hơn 80% trong cả hai năm 1997 và 1998. Điều này đã đặt ra câu hỏi
tại sao lại có sự khác biệt quá lớn về tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu trong cùng một
ngành sản xuất nước giải khát như vậy? Và điều này cũng khẳng định thêm là có hành vi
chuyển giá trong các nghiệp vụ mua nguyên vật liệu từ công ty mẹ. Cụ thể hơn chúng ta
có thể xem xét bảng số liệu doanh thu và chi phí của công ty Coca Cola Chương Dương
năm 1996.

25
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Bảng: Số liệu doanh thu và chi phí của công ty Coca Cola Chương Dương 1996

Chỉ tiêu Giá trị (USD) Tỷ lệ % trên


tổng chi phí
Doanh thu 239.761.715
Tổng chi phí 266.375.982 10%
Chi phí nguyên vật liệu 160.204.461 60%
Chi phí khấu hao 7.991.279 3%
Thuế doanh thu 18.646.318 7%
Chi phí tiếp thị bán hang 71.921.515 27%
Các khoản khấu trừ khác 7.612.409 3%
(Nguồn: Cục thuế Tp HCM)

3.2.4. Chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất

Các trường hợp chuyển giá được xem xét ở trên là chuyển giá dựa vào sự chênh lệch
thuế suất thuế TNDN giữa các quốc gia. Trong trường hợp của công ty Foster’s Việt Nam
đã né tránh thuế tiêu thụ đặc biệt. Công ty Foster’s Việt Nam đã dựa vào luật pháp của
Việt Nam tại thời điểm đó chưa được chặt chẽ để né tránh và lách thuế nhằm giám đáng
kể số thuế phải nộp.

Vào thời điểm mà giá bán một két bia Foster’s được công ty bia Foster’s Việt Nam
bán cho các đại lý là 240.000 VND/két với thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cho bia chai là
75% thì mỗi két bia phải đóng thuế tiêu thu đặc biệt là:

Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt = Giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt/(1+thuế suất)

= 240.000/(1+75%) = 137.143 VND.

Như vậy với giá bán một két bia là 240.000 VND thì công ty bia Foster’s Việt Nam
phải có nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt cho nhà nước là 102.857 VND. Với một số
thuế nộp lớn như vậy thì chủ đầu tư của Foster’s Việt Nam đã tìm cách để lách thuế và

26
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

nộp số thuế nhỏ hơn. Chủ đầu tư Foster’s tại Việt Nam đã quyết định thành lập thêm một
công ty TNHH Poster’s Việt Nam. Công ty này có nhiệm vụ chuyên thực hiện nhiệm vụ
tiêu thụ sản phẩm do hai nhà máy bia Foster’s sản xuất ra. Giá bán một két bia Foster’s
của hai nhà máy bia cho công ty TNHH Foster’s Việt Nam chỉ là 137.500 VND. Với giá
bán như vậy thì thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp cho mỗi két bia sẽ là: [137.500/
(1+75%)]*75% = 58.929 VND, Công ty TNHH Foster’s Việt Nam bán bia ra thị trường
thì công ty này phải nộp thêm thuế giá trị gia tăng là 5%. Giả sử giá bán một két bia
không đổi vẫn là 240.000 VND/két thì số thuế giá trị gia tăng mà công ty TNHH bia
Foster’s phải nộp là Như vậy tổng cộng số thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng
mà chủ đầu tư phải nộp trong trường hợp chủ đầu tư thành lập thêm công ty TNHH
Foster’s Việt Nam cho mỗi két bia là 58.929 VND + 11.429 VND = 70.358 VND. Nếu
chúng ta đem so sánh tổng số tiền thuế phải nộp của chủ đầu tư trước và sau khi thành lập
công ty TNHH Foster’s Việt Nam thì chúng ta có thể thấy là chủ đầu tư đã tiết kiệm được
một khoản tiền thuế phải nộp là 32.499 VND (tương đương 31,6%). Với cách thực hiện
này thì thuế TNDN mà chủ đầu tư phải nộp có thể là không thay đổi hoặc thay đổi theo
hướng có lợi cho chủ đầu tư vì chủ đầu tư có thể đưa thêm các chi phí quản lý doanh
nghiệp, chi phí khấu hao hay chi phí quảng cáo nhằm giảm số thuế TNDN phải nộp. Với
trường hợp trên thì các chuyên gia tài chính nhận định mặc dù cơ quan nhà nước có thể
nhận diện ra đây là một hành vi chuyển giá nhưng do pháp luật Việt Nam tại thời điểm đó
còn nhiều điểm chưa chặt chẽ hoặc không có điều luật chế tài đối với hành vi trên vì vậy
mà cơ quan nhà nước không thể bắt bẻ về thủ thuật tách rời khâu sản xuất và khâu thương
mại của công ty bia Foster nhằm mục đích lách thuế là giảm số thuế phải nộp.

Hậu quả của tình trạng chuyển giá:

Ở góc độ vĩ mô, vấn đề “chuyển giá” của các doanh nghiệp FDI gây thất thoát cho
nguồn thu ngân sách quốc gia và ảnh hưởng đến nền sản xuất hàng hóa nội địa.

Doanh nghiệp FDI kê khống giá nhập khẩu nguyên liệu, máy móc thiết bị công nghệ,
bí quyết từ công ty mẹ ở nước ngoài đã làm cho mức nhập siêu tăng lên. Do các doanh
nghiệp FDI hoạt động ở Việt Nam chủ yếu trong những ngành thâm dụng nhiều lao động.

27
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam chủ yếu vẫn là nhập khẩu
nguyên vật liệu từ nước ngoài về thực hiện công đoạn gia công. Một số doanh nghiệp
FDI không sử dụng nguồn nguyên liệu và vật tư có sẵn trong nước, họ chủ yếu tận dụng
đất đai và lao động giá rẻ ở Việt Nam trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Còn xét ở cấp độ vi mô, thủ đoạn này tạo ra bất công trong cạnh tranh giữa doanh
nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa. Chẳng hạn, một doanh nghiệp FDI sử dụng công
cụ “chuyển giá” để tối ưu hóa lợi nhuận về công ty mẹ ở nước ngoài trong khi đó báo cáo
thua lỗ tại quốc gia đang kinh doanh để khỏi đóng thuế và nhiều trường hợp được hoàn
thuế, như vậy công ty FDI đó sẽ có nhiều nguồn lực về tài chính hơn để đầu tư vào các
hoạt động tiếp thị, quảng bá. Trong khi đó, doanh nghiệp nội địa phải thực hiện nghĩa vụ
thuế nghiêm túc hơn nên ít nhiều sẽ thua thiệt với các công ty FDI. Hiện tượng này đang
có xu hướng gia tăng đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, thực phẩm,
chẳng hạn như sữa, cà phê...

Ngoài ra, với hiện tượng chuyển giá, trong ngắn hạn, người tiêu dùng được hưởng lợi
khi mua hàng giá rẻ vì các doanh nghiệp FDI trong giai đoạn đầu có thể hạ giá để giành
thị phần và bóp chết các doanh nghiệp nội địa cạnh tranh với mình. Nhưng về lâu dài, khi
họ thành công và chiếm lĩnh thị trường và thị phần, người tiêu dùng sẽ buộc phải tuân
theo luật chơi, mà chính xác hơn là sẽ phụ thuộc vào sản phẩm, vào giá cả mà các doanh
nghiệp FDI này đưa ra.

III. Các giải pháp chống chuyển giá:

1. Đối với các cơ quan quản lý:

Phải điều tra và nắm bắt được chính xác tình hình hoạt động tổng thể của các liên
doanh, cụ thể:

- Hiện nay ở nhiều nước trên thế giới nói chung,( trừ Mỹ, Nhật…)và Việt Nam nói
riêng chưa có luật chống chuyển giá cụ thể. Do đó vấn đề này cần được quan tâm đúng
mực, các cơ quan chức năng cần có các phiên họp để soạn ra các văn bản luật điều chỉnh

28
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

phù hợp các hoạt động kinh doanh của các liên doanh, theo đó các doanh nghiệp sẽ phải
tuân thủ các quy định chống chuyển giá.

- Giữa những quốc gia có các liên doanh nên phối hợp cùng nhau xây dựng được
một quy định hợp lý về định giá chuyển giao, trên nền tảng cùng nhau giảm thiệt hại cho
nền kinh tế quốc gia, mà yếu tố hợp lý ở đây được hiểu là gần với giá của thị trường sẽ
chống được hiện tượng chuyển giá giữa các chi nhánh doanh nghiệp ở hai nước.

- Đặc biệt chú ý đến những doanh nghiệp kê khai hoạt động kinh doanh thua lỗ
trong nhiều chu kì kinh doanh liên tục nhưng vẫn không ngừng mở rộng hoạt động sản
xuất – kinh doanh, tăng quy mô hoạt động. Và có những biện pháp kiểm tra, thanh tra
hợp lý.

- Thực tế cho thấy từ trước đến nay chưa hề có một báo cáo mang tính tổng quan và
cụ thể về hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu, đầu tư ... của các liên doanh, cho nên việc
lập các báo cáo như thế cần được các doanh nghiệp tiến hành. Và để thực sự nắm được
tình hình, nhà quản lý phải có những biện pháp điều tra riêng, kín đáo, sâu rộng hơn, toàn
diện hơn, có cả hoạt động, cơ chế, thuế, giá của các nhà sản xuất tại nhiều nước trên thế
giới, chứ không phải chỉ dựa vào báo cáo của các liên doanh.

Và ngược lại cho đến nay cơ quan thuế chưa thanh tra, kiểm tra về việc chuyển giá
giữa các doanh nghiệp, công tác này nên sớm được tạo điều kiện thuận lợi để triển khai.
Cơ quan thuế cũng có quyền ấn định giá tính thuế, số thuế TNDN phải nộp trong trường
hợp DN không kê khai, hoặc kê khai không đầy đủ các giao dịch liên kết phát sinh trong
năm quyết toán thuế, DN không thực hiện đúng yêu cầu về thời hạn cung cấp thông tin,
dữ liệu và tài liệu để chứng minh cho việc kê khai, hạch toán giá thị trường đối với giao
dịch liên kết,hoặc có biện pháp xử lý mạnh tay hơn bằng các hình phạt thích đáng.

- Những năm vừa qua, các liên doanh được bảo hộ, ưu đãi quá nhiều và trên thực tế
họ chưa hề phải chịu rủi ro, mà thay vào đó họ đẩy rủi ro sang người tiêu dùng. do đó
chính phủ cần có sự cân nhắc kỹ về mức độ bảo hộ cho từng liên doanh, không để họ lạm
dụng sự ưu đãi của Nhà nước để lách luật, dẫn tới hành vi chuyển giá.

29
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

- Do các liên doanh đã đẩy rủi ro của mình cho người tiêu dùng nên cần có đội ngũ
chuyên nghiệp thường xuyên điều tra thị trường, khảo sát ý kiến người tiêu dùng để biết
được họ có chịu thiệt thòi trong việc mua hàng hóa của các liên doanh hay không, từ đó
chú ý điều tra các liên doanh trong vòng nghi vấn, loại bỏ hành vi chuyển giá.

- Tuy nhiên với năng lực và điều kiện hiện nay, phải mất nhiều năm để ngành thuế
của các quốc gia đang phát triển trên thế giới nói chung cũng như của VN nói riêng làm
rõ được một công ty đa quốc gia nào đó có gian lận chuyển giá hay không! Thấy được
thực trạng đó, các cơ quan lãnh đạo cần nâng cao hơn năng lực của mình, khắc phục
những biện pháp đã thực hiện nhưng chưa có hiệu quả để ngày một quản lý tình trạng
chuyển giá tốt hơn.

- Cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhằm nâng cao năng lực nội
bộ. Đặc biệt, tăng cường tham vấn giá để đưa ra bằng chứng xử lý các DN vẫn cố tình
chống đối. Cơ quan Thuế và cơ quan Hải quan cần có sự phối hợp và bổ trợ lẫn nhau
trong việc thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế, kiểm tra sau thông quan

Để kiểm soát vấn đề “lỗ giả lãi thật” của các doanh nghiệp FDI, những số liệu của
các báo cáo cần được so sánh đối chiếu, căn cứ trên giá thực tế ở những thị trường nhập
khẩu, những quốc gia có đặt trụ sở của công ty mẹ. Xác minh những số liệu này là không
quá khó để các cơ quan kiểm tra có cơ sở bác bỏ những thông tin và báo cáo sai sự thật
của các doanh nghiệp FDI.

- Thực tế hiện nay là các cơ quan nhà nước đưa ra các văn bản, quy định, nhưng các
cơ quan chịu trách nhiệm thi hành lại làm không tới nơi tới chốn... Lẽ ra các cơ quan thực
thi những quy định này cần “mạnh tay” hơn với các doanh nghiệp FDI có dấu hiệu
“không minh bạch”, nhưng ngược lại họ lại thả nổi vấn đề này vì nhiều lý do, trong đó có
cả vấn đề năng lực cán bộ. vì vậy Nhà nước cần tăng cường năng lực đội ngũ làm chuyên
môn, chuyên trách về những lĩnh vực như thuế hoặc kiểm soát giá. Cụ thể là mỗi chuyên
viên cần được đào tạo về chuyên môn, trang bị phương tiện làm việc tốt hơn nhằm nắm
bắt và cập nhất kịp thời về giá cả thị trường thế giới. Công việc kiểm tra kiểm soát giá cả
phải được tiến hành thường xuyên, nhằm tránh tình trạng các doanh nghiệp FDI “lách”

30
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

luật. Đội ngũ thực hiện công việc này phải tận tâm, trong sạch và tất nhiên họ phải được
trả lương xứng đáng để tránh tình trạng móc ngoặc với doanh nghiệp trong vấn đề chuyển
giá

- Riêng đối với Việt Nam, căn nguyên của việc chuyển giá, theo TS. Trần Du Lịch,
thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, là do nhiều năm qua
Việt Nam đã thu hút đầu tư theo kiểu gia công, tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm trong nước
thấp. Việt Nam đang trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế. Vì vậy, đây là thời điểm
thích hợp để nhìn nhận lại chiến lược thu hút đầu tư trong thời gian qua. Nhà nước cần
sớm đưa ra chiến lược tái cấu trúc lại luồng đầu tư hợp lý hơn trong bối cảnh này, dựa
trên cơ sở thu hút và chọn lọc những ngành mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn.

2. Đối với các doanh nghiệp:

Cần nắm bắt và có sự chuẩn bị tài liệu phục vụ cho hoạt động kiểm tra, thanh tra của
cơ quan thuế, cần có sự hợp tác cung cấp cho các cơ quan quản lý những thông tin, bằng
chứng mà các DN cùng ngành nghề, lĩnh vực nhưng cũng là “đối thủ cạnh tranh” đã và
đang làm. Đây chính là biện pháp cần thiết và hữu ích để bảo vệ chính mình và cộng
đồng DN “nội”. Hơn nữa, DN cũng phải đặt vấn đề đạo đức kinh doanh lên hàng đầu.

3. Sử dụng các biện pháp kĩ thuật:

Chuyển giá đã được các nhà hoạch định chính sách tài chính Việt Nam xác định là
một vấn đề cần được quan tâm quản lý khi mà ngày càng xuất hiện nhiều dấu hiệu
chuyển giá trong giao dịch có yếu tố nước ngoài. Văn bản pháp lý đầu tiên đề cập đến
chuyển giá là Thông tư 74/1997/TT-BTC hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước
ngoài, sau đó là Thông tư 89/1999/TT-BTC và Thông tư 13/2001/TT-BTC. Đến Thông
tư 05/2005/TT-BTC hướng dẫn về thuế nhà thầu thì vấn đề này được bỏ ra khỏi nội dung
điều chỉnh. Vấn đề chuyển giá đã được nhắc lại tại Thông tư 117/2005/TT-BTC do Bộ
Tài chính ban hành hướng dẫn việc thực hiện xác định giá thị trường trong các giao dịch
kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Tính đến nay, Thông tư 66/2010/TT-BTC
có thể được xem là văn bản pháp lý điều chỉnh một cách khá chi tiết về biện pháp chống

31
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

chuyển giá bằng phương pháp định giá chuyển giao. Ý nghĩa của việc định giá chuyển
giao là xác định lại giá giao dịch giữa các doanh nghiệp liên kết nhằm đưa giá giao dịch
liên kết về đúng với giá thị trường.

- Đối tượng áp dụng phương pháp định giá chuyển giao là tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh tại
Việt Nam có giao dịch kinh doanh với các bên có quan hệ liên kết có nghĩa vụ kê khai,
xác định nghĩa vụ thuế TNDN ở Việt nam. Phạm vi áp dụng bao gồm các giao dịch mua,
bán, trao đổi, thuê, cho thuê, chuyển giao hoặc chuyển nhượng hàng hóa, dịch vụ trong
quá trình kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Nội hàm tác động của những quy
định này dường như cũng không giới hạn điều chỉnh trong các giao dịch chuyển giá quốc
tế. Các giao dịch liên kết bị điều chỉnh cũng tương tự quy định của các nước hoặc theo
Công ước mẫu của OEDC về định giá chuyển giao. Nhưng phạm vi giao dịch chuyển giá
mà Việt Nam điều chỉnh có phần hẹp hơn vì không đề cập đến những giao dịch như vay
hoặc cho vay, hay như giao dịch được đề cập mở rộng mang tính dự báo mà có thể gây
tác động đến lợi ích của doanh nghiệp liên kết.

- Để xác định giá thị trường phải tuân thủ nguyên tắc dựa trên cơ sở so sánh tính
tương đương giữa giao dịch liên kết với giao dịch độc lập từ đó lựa chọn ra phương pháp
xác định giá phù hợp. Theo đó, dù là sử dụng phương pháp nào thì việc so sánh cũng phải
đưa giao dịch độc lập làm cơ sở quy chiếu về điều kiện tương đương với giao dịch liên
kết. Do đó các giao dịch tương đối dùng để so sánh có thể không hoàn toàn giống giao
dịch liên kết nhưng phải đảm bảo là không có các khác biệt trọng yếu. Trường hợp có
khác biệt trọng yếu, việc so sánh phải dùng biện pháp phân tích và đánh giá các tiêu thức
ảnh hưởng dẫn đến khác biệt nhằm loại trừ sự khác biệt mang lại sự tương đồng. Có 4
tiêu thức được xem là những yếu tố có thể gây ra sự khác biệt, đó là đặc tính của sản
phẩm, chức năng hoạt động của cơ sở kinh doanh, điều kiện của hợp đồng giao dịch và
điều kiện kinh tế khi diễn ra giao dịch.

32
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

- Quá trình phân tính, đánh giá sẽ chỉ ra phương thức xác định giá thị trường nào là
phù hợp nhất. Thông tư 66/2010/TT-BTC đã đưa ra 5 phương pháp định giá chuyển giao.
Đó là:

• Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập: dựa vào đơn giá sản phẩm trong giao
dịch độc lập để xác định đơn giá sản phẩm trong giao dịch liên kết khi các giao dịch này
có điều kiện giao dịch tương đương nhau.

Ví dụ: Công ty V tại Việt Nam là doanh nghiệp 100% vốn của Công ty nước ngoài
S hoạt động trong lĩnh vực gia công sản phẩm dệt may. Trong năm 200x, công ty V có
hai giao dịch về nhận gia công quần âu mã số cat.347 như sau:

- Giao dịch 1: Gia công cho công ty S 1.000 tá quần với giá 60 USD/tá theo điều
kiện giao hàng tại cảng X, Việt Nam (công ty S sẽ chịu trách nhiệm xuất khẩu ).

- Giao dịch 2: Gia công cho công ty M của nước N 1.000 tá quần với giá
100USD/tá theo điều kiện giao hàng tại thành phố Y, nước N.

Giả định:

- Công ty M là một công ty không có quan hệ liên kết với công ty V và công ty S.

- Hai giao dịch nói trên tương đương về điều kiện giao dịch trừ khác biệt trọng
yếu là chi phí vận chuyển và bảo hiểm cho việc gửi hàng từ cảng X đến thành phố Y,
nước N là 3 USD/tá.

Phân tích so sánh:

- Khi so sánh giao dịch 1 (giao dịch liên kết) với giao dịch 2 (giao dịch độc lập)
cho thấy giao dịch 1 chưa phản ánh đúng mức giá thị trường. Trong trường hợp này,
doanh thu từ giao dịch với công ty S được xác định lại như sau:

(100 USD - 3 USD) x 1.000 = 97.000 USD.

- Công ty V phải kê khai doanh thu gia công nhận từ công ty S là 97.000 USD
thay cho 60.000 USD.

33
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

• Phương pháp giá bán lại: dựa vào giá bán lại (hay giá bán ra) của sản phẩm do
doanh nghiệp bán cho bên độc lập để xác định giá mua vào của sản phẩm đó từ bên liên
kết

Ví dụ : Doanh nghiệp V tại Việt Nam là bên liên kết của Công ty nước ngoài H
kinh doanh phân phối mặt hàng đồng hồ do công ty H cung cấp có một số thông tin sau:

- Trong năm 200x, công ty H giao cho doanh nghiệp V 1.000 chiếc đồng hồ và yêu
cầu doanh nghiệp V phải thanh toán số tiền là 330.000 USD (bao gồm giá CIF + thuế,
phí nhập khẩu do công ty H đã nộp).

- Cuối năm 200x, doanh thu thuần doanh nghiệpV thu được từ việc bán toàn bộ số
đồng hồ này cho người tiêu dùng tại Việt Nam được quy đổi là 400.000 USD.

− Doanh nghiệp T là doanh nghiệp độc lập tại Việt Nam hoạt động kinh doanh
phân phối đồng hồ. Năm 200x, tỷ suất lợi nhuận gộp của doanh nghiệp T đạt 20%.

Giả sử doanh nghiệp T đủ điều kiện được lựa chọn để so sánh về tỷ suất lợi nhuận
gộp với doanh nghiệp V thì doanh nghiệp V sẽ phải kê khai tính chi phí hợp lý được trừ
cho việc mua đồng hồ từ công ty H như sau:

[400.000 USD - (400.000 USD x 20%)] = 320.000 USD

Doanh nghiệp V chỉ được trừ chi phí hợp lý cho giá vốn hàng bán là 320.000
USD thay cho 330.000 USD.

Trường hợp công ty H có cung cấp dịch vụ tư vấn bán hàng và yêu cầu doanh
nghiệp V phải thanh toán chi phí này (được hạch toán vào chi phí bán hàng) thì giao
dịch này được tách riêng và phải thực hiện một trong các phương pháp xác định giá giao
dịch được quy định tại Thông tư này để xác định chi phí hợp lý được trừ cho dịch vụ tư
vấn bán hàng.

• Phương pháp giá vốn cộng lãi: dựa vào giá vốn (hoặc giá thành) của sản phẩm do
doanh nghiệp mua vào từ bên độc lập để xác định giá bán ra của sản phẩm đó cho bên
liên kết

34
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Ví dụ : Doanh nghiệp A tại Việt Nam là công ty con của công ty mẹ T (nước Y)
thực hiện gia công giày xuất khẩu theo mẫu mã do công ty T giao. Công ty mẹ chịu trách
nhiệm cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, cán bộ kỹ thuật kiểm tra chất lượng, chi phí vận
tải và bảo hiểm quốc tế. Doanh nghiệp A được trả phí gia công theo đơn vị sản phẩm và
chịu các chi phí phát sinh trong quá trình gia công. Năm 20xx, thông tin về hoạt động
gia công của doanh nghiệp A như sau:

- Doanh thu thuần (phí gia công): 15 tỷ VND

- Giá vốn hàng bán: 13 tỷ VND

- Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp: 1,8 tỷ VND.

Giả định:

- Một số doanh nghiệp độc lập khác cũng hoạt động sản xuất gia công giày cho
các tổ chức, cá nhân nước ngoài và phí gia công được tính trên cơ sở: phí gia công bằng
(=) tổng giá thành toàn bộ (giá vốn hàng bán + chi phí quản lý doanh nghiệp + chi phí
bán hàng) cộng (+) 7% tổng giá thành toàn bộ.

- Các giao dịch độc lập của các doanh nghiệp này đủ điều kiện được chọn để so
sánh với giao dịch của doanh nghiệp A.

Trong trường hợp này, doanh thu từ hoạt động gia công giày được xác định lại
như sau: (13 tỷ + 1,8 tỷ) + [7% x (13 tỷ + 1,8 tỷ)] = 15,836 tỷ VND.

Doanh nghiệp A phải thực hiện kê khai doanh thu là 15,836 tỷ VND thay cho số
liệu cũ là 15 tỷ VND.

• Phương pháp so sánh lợi nhuận: dựa vào tỷ suất sinh lời của sản phẩm trong các
giao dịch độc lập được chọn để so sánh làm cơ sở xác định tỷ suất sinh lời của sản phẩm
trong giao dịch liên kết khi các giao dịch này có điều kiện giao dịch tương đương nhau.

Ví dụ : Doanh nghiệp L hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và lắp ráp ô tô 4 chỗ
nhãn hiệu N và S, trong đó:

- Nhãn hiệu N được giao bán cho các bên độc lập.

35
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

- Nhãn hiệu S được giao bán toàn bộ cho doanh nghiệp L1 là công ty 100% vốn
của doanh nghiệp L.

- Tất cả các giao dịch mua vào cho việc sản xuất, lắp ráp 2 loại ô tô trên đều là
giao dịch độc lập.

Trong năm 200x, số liệu sổ kế toán của doanh nghiệp L như sau:

- Doanh thu thuần từ hoạt động bán xe ô tô hiệu N: 18.000 USD (là giao dịch
độc lập)

- Lợi nhuận thuần trước thuế từ hoạt động bán xe ô tô hiệu N: 2.000 USD

- Doanh thu thuần từ hoạt động bán xe ô tô hiệu S: 25.000 USD (là giao dịch
liên kết)

- Lợi nhuận thuần trước thuế từ hoạt động bán xe ô tô hiệu S: 1.800 USD.

- Công ty L1 cho công ty L vay và giá trị lãi tiền vay tính theo lãi suất thị trường
là 100 USD.

Tỷ suất lợi nhuận thuần trước thuế thu nhập doanh nghiệp trên doanh thu thuần
đối với ô tô hiệu N: 2.000/18.000 x 100% = 11,1%

Tỷ suất lợi nhuận thuần trước thuế thu nhập doanh nghiệp trên doanh thu thuần
đối với ô tô hiệu S: 1.800/25.000 x 100% = 7,2%

Giả sử các sự khác biệt có ảnh hưởng trọng yếu giữa 2 giao dịch bán xe N và xe
S đã được điều chỉnh để kết quả giao dịch với công ty L1 phải đạt tỷ suất lợi nhuận thuần
trước thuế thu nhập doanh nghiệp và trước khi chi trả lãi tiền vay trên doanh thu thuần
là 11,1%. Trường hợp này, số liệu về giao dịch bán xe ô tô hiệu S đuợc xác định lại như
sau:

Tổng giá thành toàn bộ: 25.000 – 1.800 - 100 = 23.100 USD.

Doanh thu thuần: 23.100 / (1 – 0, 111) = 25.984 USD.

Lợi nhuận thuần trước thuế, trước lãi vay: 25.984 – 23.100 = 2.884 USD

36
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Lợi nhuận thuần trước thuế: 2.884 – 100 = 2.784 USD

Công ty L phải kê khai lợi nhuận thuần trước thuế thu nhập doanh nghiệp đối với
giao dịch bán ô rô S là 2.784 USD thay cho số liệu cũ trong sổ kế toán là 1.800 USD.

• Phương pháp tách lợi nhuận: dựa vào lợi nhuận thu được từ một giao dịch liên kết
tổng hợp do nhiều doanh nghiệp liên kết thực hiện để xác định lợi nhuận thích hợp cho
từng doanh nghiệp liên kết đó theo cách các bên độc lập thực hiện phân chia lợi nhuận
trong các giao dịch độc lập tương đương.

Ví dụ : Doanh nghiệp A tại Việt Nam và doanh nghiệp B tại nước ngoài có một số
thông tin sau:

- Cả hai công ty đều là các công ty thành viên của tập đoàn T sản xuất sản phẩm
điện tử.

- Cả hai công ty tham gia vào sản xuất sản phẩm mới là ti vi màn hình tinh thể
lỏng.

- A chịu trách nhiệm thiết kế, sản xuất vỏ máy và đèn hình để chuyển cho B lắp
ráp với các bộ phận khác (cài đặt các mạch vòng, chíp điện tử ...) do B sáng chế và sản
xuất. Ti vi màn hình tinh thể lỏng thành phẩm được bán cho C là nhà phân phối độc lập
với giá là 550 USD.

- Tổng giá thành sản phẩm do A giao cho B là 300 USD. B bỏ ra chi phí để sản
xuất tiếp theo là 150 USD.

Lợi nhuận được phân bổ cho A được tính như sau:

[(550 - (300 + 150)) : 450] x 300 = 66,66 USD

4. Sử dụng Withholding tax:

Hành vi chuyển giá của các công ty đa quốc gia đã làm thất thu một khoản thuế
lớn đối với các quốc gia đầu tư cũng như là quốc gia nhận đầu tư. Chính vì vậy để hạn
chế vấn đề này cũng như làm tăng những nguồn thu thuế chính đáng khác, các quốc gia
đã đưa ra một loại thuế : withholding tax.

37
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Withholding tax đựợc đánh trên các khoản thu nhập của tổ chức, cá nhân nước
ngoài phát sinh trên lãnh thổ của một quốc gia khác.

5. Các biện pháp hành chính và biện pháp phạt

Thực hiện cải cách hành chính trong khâu nhận thủ tục và cấp giấy phép đầu tư. Khi
nhận các dự án đầu từ và cấp phép phải xem xét thật kỹ hiệu quả kinh tế mà dự án đó
mang lại trong ngắn hạn và dài hạn. Chúng ta đang rất cần vốn đầu tư nước ngoài để phát
triển kinh tế nhưng cũng phải lựa chọn công nghệ và dự án kèm theo tiêu chí môi trường
và phát triển bền vững. Không nên lựa chọn các dự án tuy có mức đầu tư lớn nhưng lại là
công nghệ cũ và tác hại đến môi trường, dự án phải hài hòa với mục tiêu quy hoạch phát
triển của từng vùng và của cả nước.

Thủ tục đăng ký kinh doanh và cấp phép sau khi đã được chấp thuận thì cần phải rút
ngắn thời gian thực hiện để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tránh trường hợp
chồng chéo thủ tục giữa các bên làm kéo dài thời gian đang ký và gây phiền hà tốn kém
cho các nhà đầu tư.

Hiện nay, Thông tư 66/2010 hướng dẫn việc xác định giá cho các giao dịch đã ra đời
nhưng văn bản hướng dẫn cụ thể các mức phạt hay các hình thức xử phạt cụ thể vẫn chưa
cụ thể rõ ràng. Thiết nghĩ, chính phủ cần ban hành qui chế xử phạt cụ thể cho các trường
hợp phát hiện hành vi chuyển giá, phổ biến rộng rãi cho mọi thành phần kinh tế và nhà
đầu tư đều biết và chấp hành. Việc cụ thể hóa hình thức phạt và mức phạt sẽ tạo nên sư
công bằng và hiệu quả trong công tác kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm đồng thời
giảm các tiêu cực có thể xảy ra trong công tác kiểm tra.

Dựa vào kinh nghiệm của các quốc gia khác thì Việt Nam có thể xây dựng cho mình
một tỷ lệ phạt cho các trường hợp thực hiện hành vi chuyển giá. Tương tự như mức phạt
tại Mỹ thì Việt Nam có thể áp dụng như sau: Khi cơ quan thuế xem xét các nghiệp vụ
chuyển giao tại MNC trên cơ sở áp dụng các phương pháp xác định giá thị trường theo
hướng dẫn Thông tư 66/2010, nếu phát hiện có sai biệt giữa giá doanh nghiệp kê khai với
giá thị trường, đồng thời doanh nghiệp không chứng minh được lý do hợp lý của sự sai

38
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

biệt này thì cơ quan thuế có thể áp dụng mức phạt từ 20% đến 40% tùy theo mức độ sai
lệch lớn hay nhỏ. Trường hợp cơ quan thuế xem xét sự khác biệt này dựa vào lợi nhuận
sau khi áp dụng các phương pháp căn bản so sánh lợi nhuận của doanh nghiệp với lợi
nhuận bình quân ngành thì có thể đưa ra một tỷ lệ phạt sao cho phù hợp, đồng thời phải
đảm bảo tính răn đe cho các doanh nghiệp khác.

Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp có đầy đủ chứng từ hợp
pháp để chứng minh sự khác biệt về giá cả là hợp lý thì doanh nghiệp sẽ không bị phạt.

Chương 2: QUẢN TRỊ VỐN LƯU ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA

Quản trị vốn lưu động của của công ty đa quốc gia là việc quan tâm đến việc chọn
sự kết hợp tài sản lưu động- tiền mặt, chứng khoán khả mại, Các khoản phải thu và hàng
tồn kho, nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động nhằm tối đa hóa giá trị tài sản công
ty. Đồng thời quan tâm đến tác động của tỷ giá hối đoái, kiểm soát ngoại hối và các luật
thuế chi phối việc ra quyết định, cùng với sự đa dạng của nguồn vốn ngắn hạn và lựa
chọn đầu tư sẵn có.

I. Quản trị tiền mặt quốc tế (International cash management)

1. Mục tiêu

- Đảm bảo nguồn tiền mặt của công ty được kiểm soát 1 cách nhanh chóng và hiệu quả

- Bảo toàn và sử dụng tốt nhất các nguồn quỹ này.

2. Các nội dung chính

Quản trị tiền mặt quốc tế gồm 7 nội dung:

2.1 Tổ chức

39
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Ưu điểm của 1 chương trình quản trị tiền mặt quốc tế tập trung:

- Công ty có thể hoạt động với 1 lượng nhỏ tiền mặt: các nguồn tiền thặng dư được sử
dụng và loại trừ; mỗi hoạt động sẽ chỉ được duy trì số dư của các thương vụ, và k giữ số
dư để đầu cơ hay vì tính thận trọng

- Bằng cách giảm tổng số tài sản, khả năng sinh lời được tăng lên và chi phí tìm nguồn
vốn giảm

- Ban quản trị TW nắm chắc toàn bộ hoạt động của công ty có thể nhận biết được
những cơ hội và khó khăn mà các đơn vị riêng lẻ k nhận ra được

- Tất cả quyết định được đưa ra dựa trên lợi ích chung của cả tập đoàn

- Bằng việc tăng kim ngạch ngoại hối và các giao dịch khác được thưc hiện thông qua
các cơ quan TW, các ngân hàng cung cấp bảng báo tỷ giá ngoại tệ có lợi hơn và dịch vụ
tốt hơn

- Có nhóm chuyên trách về hoạt động quản trị tiền mặt và chứng khoán đầu tư

- Công ty sẽ bị thiệt hại ít hơn trong trường hợp bị sung công hay sự kiểm soát tiền tệ
ngăn cản việc chuyển tiền

Ngày nay sự kết hợp của biến động tiền tệ và giao động lãi suất, những phát sinh về
vốn, sự phức tạp của các tổ chức và điều hành gia tăng, và việc nhấn mạnh mức tăng khả
năng sinh lợi hoàn toàn đòi hỏi 1 hệ thống quản trị tiền mặt quốc tế được tập trung cao,
một xu hướng dòi hỏi trách nhiệm lớn hơn cho các văn phòng đầu não của công ty. Tuy
nhiên tập trung hóa không bao gồm quyền kiểm soát của văn phòng chính về mọi khía
cạnh của quản trị tiền mặt.Thay vào đó, việc ra quyết định tập trung ở mức độ cao vừa
phải trong công ty được yêu cầu để tất cả thông tin cần thiết luôn có sẵn và có thể sử
dụng được để tạo thuận lợi cho công ty.

2.2 Thu và chi các quỹ

-Việc thúc đẩy thu tiền cả ở trong nước và nước ngoài là yếu tố them chốt của việc
quản trị tiền mặt quốc tế.Lãi suất cao, biến động lớn trong thị trường hối đoái, và sự áp

40
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

đặt định kì của những giới hạn tín dụng là đặc điểm của thị trường tài chính trong những
năm gần đâ, do vậy, chuyển tiền ngày càng trở nên đắt đỏ và nhiều rủi ro.

- Cùng với việc gia tăng tăng thường xuyên của những yếu tố trên, ban quản trị tập
đoàn thiết lập chính sách tín dụng phù hợp đối với các chi nhánh. Để tối thiểu hóa sự trôi
nổi của các khoản phải thu.

- Một trong những khó khăn lớn nhất của việc quản trị tiền mặt là việc chuyển tiền
bằng điện giữa các ngân hàng không luôn luôn hoạt động hiệu quả và an toàn.

- Quản trị việc chi tiền là một công việc đòi hỏi sự khéo léo: vừa giữ được tiền, vừa
không làm mất lòng đối tác. Việc này đòi hỏi sự hiểu biết chi tiết về từng nước và thuộc
tính của người cung cấp cũng như các phương tiện thanh toán và những dịch vụ ngân
hàng có sẵn trên thế giới.

2.3 Mạng lưới thanh toán trong quản trị tiền mặt quốc tế

-Nhiều quốc gia đang trong quá trình hợp lí hóa sản xuất trên toàn cầu. Quá trình này
liên quan đến việc trao đổi, phối hợp mang tính quốc tế của các nguyên liệu, linh kiện,
phụ kiện và thành phẩm giữa các đơn vị khác nhau của công ty đa quốc gia với nhiều chi
nhánh mua và bán lẫn nhau. Nhà quản trị tài chính phải nắm được các dòng chuyển vốn
giữa các chi nhánh, chi phí chuyển tiền qua biên giới…

- Hệ thống mạng lưới chi trả rất đơn giản: việc chi trả giữa các chi nhánh được bù trừ
lẫn nhau, chỉ chuyển số chênh lệch

2.4 Quản trị danh mục đầu tư ngắn hạn

Công việc chủ yếu của quản trị tiền mặt quốc tế là phải xác định mức tiền và loại tiền
trong đầu tư của công ty đa quốc gia đối với số dư tiền tệ và các công cụ của thị trường
tiền tệ.

Yêu cầu đối với nhà quản trị đầu tư :

- Dự đoán nhu cầu tiền mặt trong tương lai dựa vào ngân sách hiện tại và dữ liệu từ
quá khứ

41
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

- Ước tính lượng tiề mặt tối thiểu cho giai đoạn sắp tới.Tác động của các yếu tố lạm
phát và biến động tiền tệ dự đoán đối với dòng tiền trong tương lai.

Việc quản trị thành công số dư cần thiết cho 1 công ty đa quốc gia và bất kì nguồn
quỹ dư ra từ công ty và chi nhánh của nó phụ thuộc phần lớn vào sự lựa chọn tốt nhất của
các công cụ thị trường tiền tệ ngắn hạn.

2.5 Mức tiền mặt tốt nhất trên toàn cầu

Quản trị tiền mặt tập trung liên quan tới việc chuyển số tiền mặt vượt mức quy định
tối thiểu cho yêu cầu hoạt động của chi nhánh đến một tài khoản được điều hành tập
trung hay quỹ tiền mặt. Với việc góp tiền chung, mỗi chi nhánh chỉ cần giữ lại số dư tiền
tệ tối thiểu cần thiết cho mục đích giao dịch. Các số dư dự phòng do công ty mẹ giữ, hay
được giữ ở các quỹ chung. Nếu nhu cầu tiền mặt của các đơn vị khác nhau tương đối độc
lập với nhau thì việc quản trị tập trung có thể cung cấp mức an toàn tương đương với
mức dự trữ tiền mặt thấp hơn.

2.6 Lập kế hoạch và dự toán tiền mặt

Cơ bản cho sự phối hợp toàn cầu thành công tiền mặt và chứng khoán khả mại là hệ
thống báo cáo tốt. Các khoản thu tiền mặt phải được báo cáo và dự báo theo cách thức rõ
ràng, toàn diện và đúng lúc. Nhà quản trị phải biết tình trạng tài chính của các chi nhánh,
dự báo nhu cầu tiền hay nguồn quỹ dư, dòng lưu chuyển tiền thu vào và chi ra được dự
đoán, các điều kiện của thị trường tiền tệ quốc tế và từng địa phương và lưu chuyển tiền
tệ.

Huy động tiền mặt đa quốc gia là việc sử dụng những nguồn quỹ tốt nhất bằng việc
theo dõi tình trạng tiền mặt hiện thời và tiến gần đến hạn. Thông tin thu nhập được sử
dụng để giúp đỡ hệ thống mạng đa phương, để tăng hiệu quả hoạt độngcủa quỹ tiền mặt,
để xác định chính sách vay tiền ngắn hạn và đầu tư ngắn hạn hiệu quả.

2.7 Quan hệ ngân hàng

Quan hệ tốt với ngân hàng là vấn đề trung tâm của nỗ lực quản trị tiền mặt quốc tế
của 1 công ty. Một số vấn đề chung trong mối quan hệ với ngân hàng là

42
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

• Quá nhiều mối liên hệ: Sử dụng quá nhiều ngân hàng có thể tốn kém nhiều. Nó

thường xuyên làm phát sinh số dư nhàn rỗi, số dư bù trừ theo yêu cầu của ngân hàng cao
hơn, thời gian kiểm tra, làm thủ tục dài hơn, tỷ giá ngoại tệ và nợ dưới mức tốt nhất, khối
lượng hành chánh nặng nề hơn và sự kiểm soát với bị giảm đi về mỗi khía cạnh của các
mối liên hệ ngân hàng.

• Chi phí ngân hàng cao: Khi xem xét phí ngân hàng, việc quản trị nguồn quỹ phải

được theo dõi cẩn thận không chỉ chi phí trực tiếp của dịch vụ ngân hàng mà còn phí gián
tiếp phát sinh từ thời gian chuyển tiền.

• Không báo cáo đầy đủ: Ngân hàng thường không cung cấp kịp thời thông tin về việc

thu tiền và số dư tài khoản . Sự chậm trễ này gaayra mức tiền nhàn rỗi vượt mức và thời
gian thanh toán kéo dài.

• Sự chậm trễ quá mức trong thanh toán: Ở nhiều nước, thời gian chi trả của Ngân

hàng có thể làm mất nguồn quỹ sẵn có của doanh nghiệp. Nhưng các công ty thường
thương lượng được thời gian thanh toán có lợi cho mình.Điều này lại phụ thuộc vào mức
độ đáng tin cậy của khách hàng dưới sự đánh giá của ngân hàng.

II. Quản trị các khoản phải thu

Các công ty cấp tín dụng thương mại cho khách hàng trong và ngoài nước bởi vì họ
hy vọng việc đầu tư vào các khoản thu này có lợi hoặc mở rộng kim ngạch buôn bán hoặc
duy trì các mối quan hệ giao dịch có thể rơi vào tay đối thủ cạnh tranh nếu xử sự khác.
Một số công ty cũng thu được lợi nhuận từ phí tài trợ mà học tính vào vệc bán chịu.

Nhu cầu xem xét kĩ lưỡng các điều kiện tín dụng đặc biệt quan trọng ở những nước
có mức lạm phát cao. Mục đích của việc trì hoãn việc thanh toán là vì giá trị tiền hiện tại
của họ sẽ nhỏ hơn giá trị trong tương lai rất lớn. Hệ thống bù trừ có xu hướng có xu
hướng thúc đẩy giao dịch cao hơn là mức tăng đầu tư và các khoản phải thu. Các nhà
quản trị địa phương thường có động cơ mở rộng kinh doanh hơn cả trong trường hợp
công ty đa quốc gia không thu được lợi nhuận.

Phương pháp quản trị khoản phải thu

43
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

• Cho bộ phận bán hàng biết rõ vai trò của khoản phải thu đối với lợi nhuận của toàn
công ty

• Thưởng cho nhân viên bán hàng dựa trên doanh số được thanh toán.

• Buộc nhà quản trị gánh chịu chi phí cơ hội của vốn hoạt động để đảm bảo các
quyết định tín dụng, hàng tồn kho và vốn lưu động hiệu quả hơn.

III. Quản trị hàng tồn kho

Hàng tồn kho dưới dạng nguyên liệu thô, bán thành phẩm hay thành phẩm.

1. Mục đích dự trữ

• Đảm bảo nguồn cung có sẵn khi cần

• Đảm bảo giao hàng cho khách đúng hạn tại 1 thời điểm yêu cầu

2. Khó khăn trong quản trị hàng tồn kho ở công ty đa quốc gia

• Thời gian lưu thông hàng hóa ở các quốc gia khác nhau là khác nhau

• Chế độ pháp lý, thủ tục hải quan … khác nhau

3. Các biện pháp quản trị hàng tồn kho ở các công ty đa quốc gia

• Lựa chọn nơi sản xuất

Chuyển việc sản xuất trong nước ra nước ngoài để tranh thủ tài nguyên, lao động
rẻ, từ đó giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, điều này lại làm
cho chi phí dự trữ cao hơn vì sự chậm trễ trong vận tải bằng đường biển quốc tế, khối
lượng sản phẩm dở dang..

• Mua trước hàng tồn kho

Là các hợp đồng mua hàng trước, đặc biệt là hàng nhập khẩu. Việc thỏa thuận
thương mại này liên quan đến việc sở hữu hàng hóa bằng tiền tệ địa phương, do đó,
công ty gặp phải rủi ro tỷ giá

• Dự trữ hàng tồn kho

44
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Vì thời gian giao hàng kéo dài, hạn chế về phương tiện vận tải, các vấn đề về giới
hạn tiền tệ.. Các công ty thường xuyên phải đối mặt với việc không cung cấp đủ hàng
kịp thời, đặc biệt là với nguồn hàng, nguồn nguyên vật liệu từ nước ngoài.

Cách đối phó với rủi ro như vậy là đặt hàng trước. Dự trữ một lượng hàng tồn kho
là rất tốn kém chi phí, do vậy, nhiều công ty lựa chọn dự trữ tồn kho ít, tăng hiệu quả
của việc quản trị. Ngược lại, các nhà quản trị sản xuất và quản trị bán hàng muốn
lượng tồn kho tương đối cao, đặc biêt, muốn cắt giảm nguồn cung cấp được dự báo
trước

IV.Tài trợ ngắn hạn

1. Mục tiêu

• Tối thiểu hóa chi phí dự tính: bằng cách bỏ qua rủi ro, mục tiêu này giảm các đòi

hỏi thông tin, cho phép các lựa chọn vay được đánh giá trên cơ sở riêng biệt, sẵn sàng
cho vay đến phân tích hòa vốn.

• Tối thiểu hóa rủi ro mà không đề cập đến chi phí: đây là mục tiêu không thực tế

và trái với mong muốn của cổ đông.

• Cân đối chi phí ước tính và rủi ro hệ thống: cho phép các lựa chọn vay được đánh

giá trên cơ sở riêng biệt, sẵn sàng cho vay mà không cần xem xét mối quan hệ dòng
tiền đi vay và dòng tiền hoạt động kinh doanh. Trong thực tế, có sự khác biệt nhỏ giữa
phí tổn vay ước tính được điều chỉnh đối với rủi ro hệ thống và các phí tổn vay ước
tính không có điều chỉnh. Việc bỏ qua sự khác biệt này là vì mối tương quan giữa các
biến động tiền tệ và các chứng khoán khác nhau đầu tư vào các tài sản rủi ro hầu như
là quá nhỏ.

• Cân đối chi phí ước tính và rủi ro toàn bộ: ra quyết định dựa vào mối tương quan

giữa dòng tiền hoạt động và dòng tiền tài trợ. Phương án này chỉ có giá trị duy nhất tại
nơi mà hợp đồng thời hạn không được áp dụng.Ngược lại, việc chọn lựa phương án
vay với chi phí sau thuế thấp nhất, là mục tiêu hợp lí duy nhất.

2. Các lựa chọn tài trợ

45
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

• Tài trợ nội bộ: Một phương tiện thường dùng để tài trợ cho các chi nhánh là công

ty mẹ hoặc các chi nhánh khác cung cấp một khoản tiền vay nội bộ. Các yếu tố liên
quan để xác định chi phí một khoản vay nội bộ bao gồm: chi phí cơ hội trên vốn của
người cho vay, lãi suất, thuế suất, loại tiền tệ cho vay, và các thay đổi về tỷ giá.

• Tài trợ đồng nội tệ: Các chi nhánh của công ty đa quốc gia cố gắng tìm kiếm tài

trợ nhu cầu vốn hoạt đồng của họ tại địa phương, vừa tiện lợi, vừa nhằm mục đích
phòng ngừa rủi ro

Các dạng tài trợ chủ yếu bao gồm

• Các khoản vay ngân hàng

• Các nguồn vốn phi ngân hàng

o Hối phiếu

o Bao thanh toán

V. Sự cần thiết điều chỉnh vốn lưu động trong hoạt động chuyển giá

Hoạt động chuyển giá liên quan đến giá mà một thành viên của tập đoàn đa quốc gia
tính cho một bên liên quan hoạt động trong một khu vực có mức thuế khác khi mua bán
hàng hóa, dịch vụ và tài sản vô hình. Trong bối cảnh này, nguyên tắc chuyển giá là phải
nỗ lực chuyển giao cho một hay nhiều bên có liên quan (sau đây gọi tắt là bên được phân
tích) với những lợi ích của chiều dài cánh tay được quyết định bởi một nhóm các công ty
bên thứ ba dùng để so sánh.

Để đạt được mục tiêu này, các nhà kinh tế phải tìm một nhóm các công ty có thể so
sánh được (dựa trên một bộ tiêu chí) tương tự như công ty được phân tích. Sự cần thiết để
thực hiện điều chỉnh vốn lưu động gia tăng khi bên thử nghiệm cho thấy những cấp độ
khác nhau về cường độ của vốn lưu động, trong tương quan với bộ so sánh.

Trong khi vấn đề thực hiện điều chỉnh vốn lưu động đã không nhận được nhiều sự chú
ý trong các tài liệu chuyển giá, các nhà kinh tế thường xuyên phải đấu tranh với vấn đề
liệu có nên thực hiện nó hay không.

46
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Vậy trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, việc điều chỉnh vốn lưu động sẽ có tác
động như thế nào tới hoạt động chuyển giá?

1. Nguyên nhân điều chỉnh vốn lưu động

Điều chỉnh vốn lưu động nên được sử dụng khi một bên được phân tích cho thấy
cường độ vốn lưu động khác nhau, liên quan tới bộ các bên được dùng để so sánh. Điều
chỉnh vốn lưu động được chia thành 2 bộ phận chính

+ Điều chỉnh hàng tồn kho và khoản phải thu

+ Điều chỉnh khoản phải trả

Nếu công ty được phân tích, ví dụ là một nhà phân phối, có cường độ các khoản phải
thu hoặc hàng tồn kho trên doanh thu bán hàng thấp hơn tương đối so với một bộ để so
sánh, thì điều này hàm ý rằng các công ty để so sánh mà ta đang xem xét đang cung cấp
cho khách hàng của họ những sản phẩm dịch vụ có giá trị và đươc hoàn trả lại thông qua
việc định giá cao. Để hiệu chỉnh lại thực tế là các công ty dùng để so sánh được chọn đã
thực hiện chức năng giá trị gia tăng nhiều hơn công ty được phân tích, lợi nhuận thu được
bởi những công ty để so sánh phải được điều chỉnh giảm để chuyển giao cho công ty
được phân tích với biên lợi nhuận chính xác hơn.

Điều chỉnh khoản phải thu:

(AAR/Salescc – AAR/Salestp) * Salescc * interest rate/(1 + interest rate)

Điều chỉnh hàng tồn kho:

(INV/Salescc – INV/Salestp) * Salescc * interest rate

Với AAR: khoản phải thu bình quân

INV: tồn kho bình quân

Sales: doanh thu

Cc: bộ so sánh

Tp: bên phân tích

47
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Interest rate: mức lãi suất

Ngược lại, nếu các công ty để so sánh có mức độ khoản phải trả cao hơn công ty được
phân tích thì có thể hiểu các công ty để so sánh đang thực hiện chức năng tài trợ giá trị từ
nhà cung ứng của họ và có thể bị tính mức giá cao hơn. Để cải thiện tính so sánh, lợi
nhuận từ các công ty để so sánh phải được điều chỉnh tăng để phân bổ cho công ty được
phân tích.

Điều chỉnh khoản phải trả:

(AAP/Salescc – AAP/Salestp) * Salecc * interest rate/(1 + interest rate)

Với AAP: khoản phải trả bình quân

2. Sự thiếu tiêu chuẩn thống nhất ở Châu Á làm việc điều chỉnh vốn lưu động
khó thực hiện

Có nhiều lí do khiến việc điều chỉnh vốn lưu động khó thực hiện ở châu Á, nhưng
quan trọng nhất là đánh giá chất lượng của những báo cáo tài chính. Ở châu Á, tính minh
bạch, chi tiết và chính xác của báo cáo tài chính là khá thấp, điều này làm nhưng người
hoạch định thuế của MNEs gặp khó khăn.

Các công ty thương mại công chúng được yêu cầu phải tuân theo những quy tắc kế
toán xác định khi xuất trình những báo cáo tài chính, ví dụ như:

+ Nguyên tắc kế toán chấp nhận chung (Generally Accepted Accounting Principles,
US-UK)

+ Tiêu chuẩn kế toán quốc tế

Rõ ràng là báo cáo tài chính ở Bắc Mỹ là khá đầy đủ, mặc dù các trường hợp Enron
cho thấy rằng hệ thống như vậy là quá hoàn hảo. Tuy nhiên, Nguyên tắc kế toán được
chấp nhận chung (GAAP) đã cho nhà đầu tư, và những người làm việc với các báo cáo tài
chính, thoải mái tự tin khi sử dụng báo cáo tài chính ở châu Á.

Việc thiếu các chuẩn mực kế toán minh bạch ở một số quốc gia như Trung Quốc và
Nhật Bản, đã được cho là làm gia tăng sự khó khăn khi làm kinh doanh tại các nước này.

48
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

Trong đó, Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cuối những năm 1990 một phần do sự
thiếu chi tiết của chuẩn mực kế toán, ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng của dữ liệu tài
chính.

Áp dụng điều chỉnh vốn lưu động trong tình hình đó trở nên khó khăn hơn do độ tin
cậy của dữ liệu không cao, và do đó kết quả là tình hình tài chính của các công ty được sẽ
bị nghi ngờ.

Nếu có sự khác biệt quan trọng giữa các giao dịch kiểm soát và không kiểm soát được
thì việc điều chỉnh phải được thực hiện nếu ảnh hưởng của sự khác biệt như vậy về giá
hay lợi nhuận có thể được xác định chắc chắn với độ chính xác đủ để cải thiện độ tin cậy
của các kết quả. Nhìn chung, việc điều chỉnh như vậy phải được thực hiện cho kết quả
đối với công ty dùng để so sánh không kiểm soát được và phải được dựa trên tập quán
thương mại, các nguyên tắc kinh tế, hoặc phân tích thống kê. Mức độ và độ tin cậy của
bất kỳ điều chỉnh sẽ ảnh hưởng đến độ tin cậy tương đối của phân tích

Lợi thế của việc thực hiện điều chỉnh vốn lưu động như là một quy tắc hơn là áp dụng
trên cơ sở từng trường hợp là có thể loại trừ được tính chủ quan trong quyết định có thực
hiện điều chỉnh hay không. Tuy nhiêu nhiều chuyên gia phân tích lại không muốn sử
dụng phương pháp này trừ khi các bên để so sánh là gần như hoàn hảo, vì nó sẽ bóp méo
mức lợi nhuận, giảm sự tin cậy hơn. Và khi xử lí báo cáo tài chính từ Châu Á, ta nên xem
xét lợi nhuận chưa điều chỉnh được xác định bởi một bộ các công ty có thể so sánh mà
sau đó được phân bổ cho bên được phân tích với vốn tương ứng được giữ nguyên.

49
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

KẾT LUẬN

Tất cả chúng ta cần có một cái nhìn đầy đủ hơn về chuyển giá, về phạm vi tác động
của giá thị trường được định ra trong các phương pháp xác định giá để từ đó chuyển các
giao dịch liên kết về đúng với bản chất tự nhiên của nó là một giao dịch bình đẳng. Ở đây
là một sự bình đẳng theo đúng nghĩa thị trường không vì lợi ích cục bộ của riêng một chủ
thể nào. Làm được điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của Nhà nước mà tính đến lợi ích
của những chủ thể khác nhằm duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng
trong xã hội có nhiều quan hệ đa chiều như hiện nay. Việt Nam đang kêu gọi đầu tư nước
ngoài, nhiều công ty nước ngoài đã và đang mở chi nhánh hoạt động tại nước ta. Ngược
lại, nhiều công ty Việt Nam đã và sẽ mở chi nhánh hoạt động tại nước ngoài. Các doanh
nghiệp này lựa chọn giá chuyển giao dựa trên cơ sở nào là vấn đề đáng quan tâm, vì
chúng không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp, mà còn ảnh hưởng đến quyền
lợi quốc gia.

Các biện pháp trên tại nước ta cũng mới chỉ ngăn ngừa được một phần rất nhỏ hành vi
chuyển giá. Vì hầu hết các biện pháp trên cũng chỉ mới phát hiện hiện tượng này chứ
chưa đưa ra quy chế phạt đúng mức. Do đó, nếu chính phủ Việt nam muốn ngăn chăn
hiện tượng này cần thực hiện chặt chẽ hơn nữa các biện pháp trên, đồng thời cũng có
những chế tài mới và phù hợp hơn.

50
GVHD: Nguyễn Minh Sáng Đề tài 7

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

2. http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-04-09-loi-nhuan-cua-fdi-tron-ra-ngoai

3. http://www.tapchitaichinh.vn/Qu%E1%BA%A3ntr%E1%BB%8Bn%E1%BB

%99idung/ViewArticleDetail/tabid/56/Key/ViewArticleContent/ArticleId/2178/D
efault.aspx

4. http://bsc.com.vn/News/2010/11/2/118861.aspx

5. http://www.thesaigontimes.vn/Home/kinhdoanh/dautu/32454/

6. http://www.vinacorp.vn/news/lo-vi-chuyen-gia/ct-386017

7. http://www.scribd.com/doc/37290851/mnc-chuy%E1%BB%83n-gia

8. http://www.laodong.com.vn/Home/Hien-tuong-chuyen-gia-da-kha-nghiem-

trong/20085/88030.laodong

9. http://vneconomy.vn/2010102503247815P0C5/doanh-nghiep-fdi-chuyen-gia-co-

hien-tuong-do.htm

10. http://thue.nld.com.vn/tuvannguoilaodong/web/news/news_detail.jsp?

news_id=2219

11. http://www.vtca.vn/TabId/70/ArticleId/4442/PreTabId/66/Default.aspx

12. www.sdh.ueh.edu.vn/.../Luan_van_Huynh_Thien_Phu.pdf

13. http://vovnews.vn/Home/Hoi-thao-Chong-chuyen-gia-va-cap-nhat-tinh-hinh-thue-

tai-Nhat-Ban-va-Viet-Nam/20068/40762.vov

14. http://vef.vn/2010-09-27-can-lam-ro-viec-chuyen-gia-cua-fdi-lam-tang-nhap-sieu

51

You might also like