Professional Documents
Culture Documents
Từ bảng 4 Dữ liệu cổ đông, ta thấy tỉ lệ nhà đầu tư giá trị và đầu tư cá nhân hưu
trí chiếm tỉ lệ lớn, những nhà đầu tư này thường chú ý đến giá trị tuyệt đối của cổ tức trên
cổ phiếu và quá trình tăng ổn định của cổ tức được trả. Nếu công ty không trả cổ tức thì
có thể ảnh hưởng đến quyết định của các nhà đầu tư trong tương lai và do đó, giá của
công ty trên thị trường cũng bị tác động xấu. Việc chi trả cổ tức sẽ tránh được tình trạng
này.
Phù hợp với kì vọng của nhà đầu tư:
Năm 1981, các nhà đầu tư tăng trưởng nắm giữ 1547 ngàn cổ phần, chiếm 12.7%,
đến năm 1991, giảm xuống còn 786 ngàn cổ phần, tương đương 6.4%, trong khi đó lượng
cổ phần mà các nhà đầu tư giá trị nắm giữ năm 1981 là 981 ngàn, tương đương 8.1% và
đến năm 1991 tăng lên 1590 ngàn,tức 12.9%. Sự sụt giảm trong tỉ lệ cổ phần của nhà đầu
tư tăng trưởng và tăng trong tỉ lệ nhà đầu tư giá trị chứng tỏ rằng, các nhà đầu tư tin là
công ty đã bước vào giai đoạn bão hoà. Trong giai đoạn này lợi nhuận công ty dần ổn
đinh và họ đầu tư vào công ty với kì vọng có nguồn thu nhập ổn định hàng năm hơn là kì
vọng vào phần thặng dư vốn tăng trưởng trong tương lai. Công ty chi trả cổ tức là điều
hợp với kì vọng của họ.
14.0%
12.0%
10.0%
8.0%
6.0%
4.0%
2.0%
0.0%
1981 1991
Sức mua thiết bị công nghiệp lâu bền 7.8 -2.6 -9.1 -1.6 7.5 8.7
GNP thực kỳ vọng tăng trưởng 3.2% và 2.8% trong hai năm tới, mặt khác chi tiêu
vốn cho các thiết bị công nghiệp lâu bền được kỳ vọng tăng mạnh trong hai năm tới ở
mức 7.5% và 8.7%. Chúng ta hoàn toàn có thể lạc quan về doanh thu các sản phẩm công
nghiệp của Northboro sắp đến sẽ tăng cao.
- Nếu công ty trả cổ tức, giá cổ phần của công ty sẽ đảm bảo ở mức tốt, tạo
thuận lợi cho công ty phát hành cổ phần mới để huy động thêm vốn.
Kết luận: Sau khi phân tích kỹ ưu nhược điểm của từng phương án chi trả hay
không chi trả cổ tức, nhóm chúng tôi đi đến kết luận rằng: Công ty nên chi trả cổ tức vì
những ưu điểm vượt trội trên và nhược điểm có thể khắc phục được. Còn chi trả theo
chính sách nào thì chúng tôi sẽ làm rõ ở phần sau:
IV. NÊN LỰA CHỌN CHÍNH SÁCH CỔ TỨC NÀO (TỈ LỆ CHI TRẢ LÀ BAO
NHIÊU)?
1. Chính sách cổ tức thặng dư
Nếu theo đuổi chính sách này, lợi nhuận dành trả lợi tức chỉ là phần còn lại sau
khi dành đủ lợi nhuận cho nhu cầu tái đầu tư hoặc trả nợ. Căn cứ vào bảng 8 – Báo cáo
nguồn và sử dụng nguồn, ta thấy năm 1992 lượng tiền thiếu hụt (trước khi chi trả cổ tức)
là 21 triệu $ và năm 1993 thiếu 6 triệu $.
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Thu nhập ròng 12 27 38 48 61 65 107
Tiền thiếu hụt
(nhu cầu vay -21 -6 3 11 23 26 67
trước cổ tức)
Như vậy, nếu công ty chọn chính sách cổ tức thặng dư, trong 2 năm này các cổ đông của
công ty sẽ không nhận được cổ tức. Điều này có vẻ đi ngược lại với chính sách cổ tức ổn
định nhất quán mà từ trước tới nay công ty đang theo đuổi. Hơn nữa, như đã phân tích,
một phần lớn các nhà đầu tư của Northboro là những người ưa thích cổ tức ổn định tin
cậy, với tình hình của công ty, chính sách cổ tức thặng dư sẽ phát tín hiệu giống như
không chi trả cổ tức, vì thế theo đuổi chính sách này không phải là lựa chọn tối ưu.
2. Tỉ lệ chi trả cổ tức là 40%
Giờ đây cô Olsen chỉ còn lại 1 phương án duy nhất: chọn tỉ lệ chi trả cổ tức là
40%, tương đương mức 0.39$/cổ phần (tính chung cả năm 1992). Nhưng liệu đây có phải
là phương án tối ưu nhất? Chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời khi phân tích kỹ bảng 8 –Báo
cáo nguồn và sử dụng nguồn. Nếu duy trì mức cổ tức ổn định 40% thì từ năm 1992 đến
năm 1996, công ty sẽ liên tục thiếu hụt tiền.
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Để bù vào lượng tiền thiếu hụt này, công ty sẽ buộc phải huy động nguồn tài trợ
từ các tổ chức tín dụng hoặc phải phát hành thêm cổ phần mới, làm gia tăng rủi ro tài
chính của công ty (xem bảng tỉ số tài chính dưới đây):
Các tỉ số tài chính (năm 1992 dự kiến với mức trả cổ tức 40%):
1. Tỉ số thanh toán
2. Tỉ số hoạt động
3. Tỉ số đòn bẩy
Tỉ suất sinh lợi trên tổng tài sản 1.93% -21.92% 2.50%
Mặt khác, “từ khi mới thành lập Northboro đã có một mức nợ bảo thủ…bất kỳ
một tỉ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu nào vượt quá 40% là “ không thể tưởng tượng nổi, cho
thấy ban điều hành cẩu thả và đang đùa cợt với vấn đề”...”. Với mức chi trả cổ tức 40%,
tỉ lệ nợ trên vốn cổ phần năm 1992 sẽ tăng lên 140%. Điều này chắc chắn sẽ vấp phải sự
phản đối dữ dội từ phía ban điều hành công ty.
Còn nếu công ty duy trì mức cổ tức cao và phát hành thêm cổ phần để huy động
nguồn tài trợ, công ty sẽ phải đối mặt với những vấn đề sau: tốn kém phát sinh do chi phí
phát hành cổ phiếu mới và quyền kiểm soát của cổ đông hiện hành có thể bị đe doạ (hiện
tượng pha loãng cổ phiếu),ảnh hưởng xấu đến giá cổ phần đang lưu hành trên thị trường.
Bảng 5 cho thấy mức độ ổn định của số lượng cổ phiếu Northboro trong suốt 15 năm, từ
năm 1976 đến 1991. Điều này chứng tỏ công ty cũng hạn chế phát hành thêm cổ phiếu.
Số cổ phiếu (triệu)
14
12
10
8
6
4
2
0
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
19
19
19
19
19
19
19
19
19
19
19
19
19
19
19
19
Số cổ phiếu (triệu)
Vậy công ty nên lựa chọn mức cổ tức thích hợp là bao nhiêu?
3. Đề xuất của nhóm
Công ty nên theo đuổi một chính sách cổ tức nhất quán, an toàn, ổn định, tức là
một chính sách cổ tức có tỉ lệ chia hợp lý sao cho vừa thoả mãn được nhu cầu có một
nguồn thu nhập ổn định, nhất quán của cổ đông (hiệu ứng nhóm khách hàng), vừa đảm
bảo một lỉ lệ thu nhập giữ lại để tài trợ cho những nhu cầu đầu tư bình thường nhằm đảm
bảo sự tăng trưởng bền vững cho công ty.
Bảng sau sẽ cho ta thấy tình hình tài chính tổng quát của công ty dưới ảnh hưởng
của những mức chi trả cổ tức khác nhau:
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng
1992-
1998
Cổ tức Cổ tức/CP
35% 4.2 9.45 13.3 16.8 21.3 22.7 37.4 125.3 0.34
30% 3.6 8.1 11.4 14.4 18.3 19.5 32.1 107.4 0.29
25% 3.0 6.75 9.5 12.0 15.25 16.25 26.75 89.50 0.24
20% 2.4 5.4 7.6 9.6 12.2 13.0 21.4 71.6 0.19
15% 1.8 4.05 5.7 7.2 9.15 9.75 16.05 53.70 0.15
10% 1.2 2.7 3.8 4.8 6.10 6.5 10.7 35.8 0.10
Với tỉ lệ chia cổ tức 40%, công ty sẽ thêm gánh nặng về tài chính, nhóm chúng
tôi đề xuất mức chia cổ tức 30%, tương đương 0.29$/cổ phần, cao hơn mức 0.25$/ cổ
phần năm 1990 và 1991. Chính sách cổ tức này là thích hợp với công ty vì những lí do
sau:
- Chính sách này hàm chứa thông tin lạc quan về tình hình tăng trưởng của
công ty qua mức tăng trong tỉ lệ chia cổ tức.
- Chính sách này sẽ giảm bớt gánh nặng tài chính của công ty.
- Thể hiện chính sách cổ tức nhất quán mà trước nay công ty vẫn thực hiện.