You are on page 1of 23

VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG.

Ở VIỆT NAM NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG


THỰC HIỆN VAI TRÒ NHƯ THẾ NÀO?

MỤC LỤC

Môc lôc...............................................................................................1
Phần I: Tổng quan về vai trò điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương................2
1.1. Ngân hàng trung ương....................................................................................2
1.1.1. Sơ lược sự ra đời của ngân hàng trung ương...............................................2
1.1.2. Vị trí và hoạt động của ngân hàng trung ương............................................2
1.2. Vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương...........................................3
1.2.1. Chính sách tiền tệ và các công cụ................................................................3
1.2.2. Thanh tra ngân hàng...................................................................................10
Phần II: Vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của Ngân hàng nhà nước Việt Nam...13
2.1. Giới thiệu chung về Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam..................................13
2.2. Những thành tựu đạt được của NHNN Việt Nam ........................................14
2.2.1. Hiệu qủa của chính sách tiền tệ..................................................................14
2.2.2. Đổi mới các công cụ quản lý......................................................................15
2.2.3. Hoạt động quản lý các ngân hàng thương mại...........................................17
2.3. Một số mặt còn yếu trong hoạt động của NHNN Việt Nam.........................18
2.3.1. Hiệu quả của chính sách tiền tệ đôi khi còn hạn chế..................................18
2.3.2. Quản lý và thanh tra hoạt động của các ngân hàng thương mại.................20
2.4. Một số biện pháp hoàn thiện vai trò điều tiết vĩ mô của NHNN Việt Nam...20
2.4.1. Hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ..................................................20
2.4.2. Nâng cao khả năng hoạch định chính sách tiền tệ......................................22
2.4.3. Đổi mới hoạt động thanh tra ngân hàng.....................................................23

1
Phần I

Tổng quan về vai trò điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương

1.1. Ngân hàng trung ương


1.1.1. Sơ lược sự ra đời của ngân hàng trung ương
Từ những năm đầu của thế kỷ XV các ngân hàng thương mại ra đời, hoạt động
kinh doanh đa năng nên gọi là ngân hàng thương mại đa năng. Trong thời kỳ này, các
ngân hàng đều có chức năng hoạt động như nhau bao gồm phát hàng giấy bạc ngân
hàng, kinh doanh, nhận tiền gửi của khách hàng, chiết khấu, cho vay, thực hiện các dịch
vụ thanh toán khác... và đương nhiên mục tiêu là lợi nhuận. Để tìm kiếm lợi nhuận, các
ngân hàng bắt đầu cạnh tranh nhau. Trong quá trình cạnh tranh đó, có nhiều ngân hàng
bị phá sản, và tất yếu có nhiều ngân hàng lớn dần lên.
Đến cuối thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hóa được mở rộng cả về quy mô và phạm
vi. Hoạt động của các ngân hàng được chuyên môn hóa ngày càng cao và tách thành hai
nhóm:
+ Một số ngân hàng lớn, uy tín tách ra khỏi hệ thống ngân hàng thương mại,
không kinh doanh tiền tệ nữa, chỉ đảm nhận lệnh phát hành giấy bạc vào lưu thông, mục
tiêu vẫn là lợi nhuận.
+ Các ngân hàng còn lại không phát hành giấy bạc nữa mà chỉ kinh doanh tiền tệ
để kiếm tìm lợi nhuận.
Như vậy thực tế khách quan đã của nền kinh tế xã hội đã hình thành nên hai
nhóm ngân hàng: Nhóm ngân hàng phát hành và các ngân hàng kinh doanh tiền tệ.
Chính hoạt động của các ngân hàng phát hành chính là cơ sở để hình thành nên NHTW
sau này.
1.1.2. Vị trí và hoạt động của ngân hàng trung ương
Cho đến nay, trên thế giới có ba mô hình tổ chức và quản lý của Ngân hàng trung
ương:
+ Ngân hàng trung ương trực thuộc quốc hội (Ngân hàng dự trữ liên bang Hoa
Kỳ, Ngân hàng dự trữ của Cộng hoà liên bang Đức...)
+ Ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ (Ngân hàng Pháp, Ngân hàng Anh,
Ngân hàng nhà nước Việt Nam...)
+ Ngân hàng trung ương trực thuộc bộ tài chính (xuất hiện đầu tiên ở Pháp, Anh,
sau đó là các nước Malaysia, Thái Lan, Indonesia...Sau đó, người ta đã lần lượt từ bỏ

2
mô hình này và nó được coi là kinh nghiệm không thành công đối với nền kinh tế thị
trường)
Mặc dù được tổ chức theo những mô hình khác nhau nhưng nhìn chung, mục tiêu
của NHTW là ổn định giá trị đồng tiền cả về đối nội cũng như đối ngoại, tạo điều kiện
phát triển kinh tế, kiểm soát hệ thống ngân hàng, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt
+động theo trật tự pháp chế, ổn định, an toàn và hiệu quả. Để đạt được các mục tiêu
này, NHTW phải thực hiện các chức năng sau:
+ Phát hành tiền
+ Là ngân hàng của các ngân hàng trung gian (cấp giấy phép kinh doanh tiền tệ;
chế tài các vụ vi phạm luật ngân hàng; quy định, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc; thanh tra
kiểm soát các ngân hàng trung ương; ấn định các lãi suất, lệ phí hoa hồng áp dụng cho
các ngân hàng trung gian; quy định những thể lệ điều hành các nghiệp vụ; mở tài khoản
giao dịch và tổ chức thanh toán bù trừ cho các ngân hàng trung gian...)
+ Là ngân hàng của chính phủ (mở tài khoản và đại lý tài chính cho chính phủ;
thanh toán cho kho bạc nhà nước; thay mặt chính phủ quản lý các hoạt động tiền tệ, tín
dụng và ngân hàng; thực hiện quản lý dự trữ quốc gia về ngoại tệ, vàng bạc, kim khí, đá
quý; thực hiện tạm ứng cho ngân sách nhà nước trong những trường hợp cần thiết...)
1.2. Vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương
Vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương thể hiện qua việc lập & điều
hành chính sách tiền tệ quốc gia và thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng.
1.2.1. Chính sách tiền tệ và các công cụ
Ngân hàng trung ương là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, được độc quyền phát
hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về hoạt động
tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, với mục tiêu cơ bản là ổn định giá trị đồng tiền. Do tính
chất đó, ngân hàng trung ương nắm giữ một trong những công cụ quan trọng nhất để
quản lý nền kinh tế vĩ mô, đó là chính sách tiền tệ.
Khái niệm của chính sách tiền tệ
Hoạt động của ngân hàng liên quan đến sự ổn định hay thay đổi của tiền tệ về lưu
lượng, chi phí và giá trị, dẫn đến sự tác động vào giá cả hàng hóa và giá trị tài sản, thu
nhập của nhân dân, làm chuyển biến mức sống của họ theo hai hướng: khó khăn, đắt đỏ
hay thuận lợi tiện nghi. Vì vậy để đạt được sự biến động về đời sống và sinh hoạt kinh
tế của cả cộng đồng, người ta có thể bắt đầu bằng tác động vào tiền tệ. Mối quan hệ đó
đã làm cho những biến động về tiền tệ được gọi là “Chính sách tiền tệ”.
Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng
tiền trong nền kinh tế để phân bổ một cách hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên nhằm
thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế, trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng
tiền quốc gia.
3
Chính sách tiền tệ theo nghĩa hẹp là chính sách đảm bảo sao cho khối lượng tiền
cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế và chỉ số
lạm phát (nếu có) nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần thực hiện các mục tiêu
kinh tế vĩ mô.
Chính sách tiền tệ quốc gia là tổng thể các biện pháp của nhà nước pháp quyền
nhằm cung ứng đầy đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, trên cơ sở đó ổn
định giá trị đồng tiền quốc gia. Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương là tổng thể
tất cả các biện pháp, công cụ mà ngân hàng trung ương sử dụng nhằm điều tiết khối
lượng tiền tệ, tín dụng, ổn địng tiền tệ, góp phần đạt được các mục tiêu của các chính
sách kinh tế.
Dù quan niệm chính sách tiền tệ theo nghĩa nào, chính sách tiền tệ đều nhằm mục
tiêu ổn định giá trị tiền tệ, góp phần thực hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế;
chính sách tiền tệ là một bộ phận của tổng thể các chính sách kinh tế của Nhà nước để
thực hiện vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế; ở những nước mà Ngân hàng trung
ương trực thuộc chính phủ thì sự phân biệt chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương
với chính sách tiền tệ quốc gia không có ý nghĩa gì. Trong trường hợp này chính sách
tiền tệ mà ngân hàng trung ương thực hiện là chính sách tiền tệ quốc gia.
Chính sách tiền tệ luôn hướng vào việc thay đổi lượng tiền cung ứng nên chủ thể
nào thực hiện chức năng phát hành tiền và điều hòa lưu thông tiền tệ thì chủ thể đó phải
trực tiếp vạch ra và thực thi chính sách tiền tệ. Chủ thể đó không ai khác ngoài ngân
hàng trung ương.
Các công cụ của chính sách tiền tệ
Để đạt được các mục tiêu đề ra của Chính sách tiền tệ, NHTW phải sử dụng một
hệ thống công cụ để điều tiết lượng tiền cung ứng đó là tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng… Việc sử
dụng công cụ nào, mức độ nào tuỳ thuộc vào quan điểm của từng quốc gia.
 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu
hóa trên tổng số tiền gửi huy động nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (hoặc cho vay)
của các NHTM. Khi NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nghĩa là giảm khả năng cung ứng
tín dụng của các NHTM từ đó giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Ngược lại, giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM sẽ tăng lên (bành trướng khối
tiền tệ).
• Cơ chế tác động
Thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động đến cả khối lượng và giá cả
tín dụng của các NHTM từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng
tạo tiền của hệ thống NHTM.
4
+ Về số lượng: Tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là giải phóng hay
phong tỏa, cho hoặc không cho các NHTM sử dụng khối lượng tiền tệ trung ương bị coi
là thiếu hay dư thừa, cũng tức là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của các
NHTM.
+ Về chi phí: Giảm hay tăng dự trữ bắt buộc (dự trữ bắt buộc không được hưởng
lãi, nếu có thì thường là rất thấp) sẽ làm giảm hoặc tăng chi phí tín dụng của các
NHTM.
+ Tăng hay giảm số lượng tín dụng kép: do tăng, giảm chi phí, tăng giảm lãi suất
cho vay, dẫn đến giảm hoặc tăng dung lượng tín dụng.
Ưu điểm:
+ Nó có thể tác động đầy quyền lực đến quá trình cung ứng tiền tệ.
+ Tạo nên mối quan hệ giữa tạo tiền do NHTM thực hiện với tái cấp vốn tại
NHTW
+ Tăng cường quyền lực cho NHTW vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ
và tuỳ theo mức vốn khả dụng của các NHTM, NHTW có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ
bắt buộc và các NHTM có trách nhiệm thực hiện.
+ Đảm bảo sự cạnh tranh giữa các ngân hàng vì nó áp dụng không phân biệt mọi
ngân hàng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng.
+ Đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTM, giúp NHTM tránh được rủi ro do
mất khả năng thanh toán.
Nhược điểm:
+ Mặc dù có thể đạt những thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng những thay đổi
nhỏ trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về phí quản lý.
+ Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối
với một ngân hàng có dự trữ vượt mức thấp.
+ Việc không ngừng thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn định
cho các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của những ngân hàng
đó khó khăn hơn.
• Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua, bán giấy tờ có giá ngắn hạn
(Tín phiếu kho bạc, Tín phiếu NHTW, Chứng chỉ tiền gửi…) trên thị trường tiền tệ,
điều hòa cung - cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các NHTM, từ
đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM dẫn đến làm tăng hay giảm
khối lượng tiền tệ, cụ thể:
+ Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín
dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát.

5
+ Ngược lại, khi NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng
tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh
khoản của các NHTM.
Ưu điểm
+ NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp
vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
+ Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kì mức độ nào, mong muốn
mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ dẫu lớn hay nhỏ thế nào, NHTW cũng có thể
thực hiện được bằng cách mua hoặc bán một khối lượng lớn, nhỏ chứng khoán.
+ NHTW dễ đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về việc sử dụng
công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược việc sử dụng công cụ đó. Thí dụ, nếu NHTW
thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị
trường mở thì nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị
trường mở.
+ Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng. Khi muốn thay đổi cơ số
tiền tệ hoặc dự trữ, NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
Nhược điểm:
+ Hoạt động thị trường mở là một công cụ gián tiếp, vì vậy nếu các ngân hàng
thương mại không phản ứng với hoạt động của ngân hàng trung ương thì công cụ này
coi như không phát huy tác dụng.
+ Để đạt được mục đích điều tiết vĩ mô của mình, NHTW có thể mua với giá cao,
bán với giá thấp, do đó làm méo mó thị trường chứng khoán, không phản ánh đúng
cung - cầu của các giấy tờ có giá, phá vỡ sự cân bằng tự nhiên của thị trường.
 Công cụ lãi suất tín dụng
Lãi suất được xem là công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc
điều khiển mức cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián
tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông
nhưng sự tăng giảm lãi suất có thể kích thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất. Vì vậy,
nó là một công cụ rất lợi hại, có sức công phá ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được
hiểu là tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm
kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kì nhất
định.
• Cơ chế tác động là công cụ lãi suất
Việc điều hành lãi suất chủ yếu được thông qua hai cơ chế:
Cơ chế điều hành gián tiếp: Thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết
khấu, cho vay cầm cố chứng từ có giá...) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng,
NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối
6
với nền kinh tế. Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều hành chính
sách lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái
chiết khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng.
Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ
chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sở cung -
cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường. Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh
của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ
từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của
mình đối với các tổ chức tín dụng. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên
ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối
với các chủ thể trong nền kinh tế.
Ưu điểm: Nhờ công cụ này NHTW là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất
lượng tín dụng của các NHTM, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế
để kìm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Đối với các NHTM, với tư
cách là người đi vay để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe dọa thì NHTW là chỗ dựa, là
cứu tinh của họ. Bởi vì, với số tiền NHTM cung ứng, họ có khả năng điều tiết được vốn
khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán.
Nhược điểm: NHTW không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết. Trong
trường hợp này, quyền lực của NHTW và NHTM hầu như là ngang nhau. NHTW có
quyền cho vay và để khuyến khích vay, họ hạ lãi suất tái cấp vốn xuống, nhưng NHTM
lại có quyền quyết định có vay hay không và nếu NHTM không vay thì mục đích của
công cụ này không thực hiện được.
Cơ chế điều hành trực tiếp: thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ
chức tín dụng đối với nền kinh tế như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho
vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân... Thực
chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ
chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được cho phép, các tổ chức tín
dụng có quyền ấn định lãi suất kinh doanh cho phù hợp. Khi có các thay đổi kinh tế vĩ
mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý.
Ưu điểm: NHTW có thể quản lý chặt chẽ mức lãi suất của các tổ chức tín dụng,
thông qua đó có thể hướng cho nền kinh tế đi đúng theo mục tiêu kế hoạch đã đặt ra.
Nhược điểm: Triệt tiêu tính cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng, đặc biệt là
giữa các ngân hàng thương mại. Nhìn chung, trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất
ngày càng được tự do hóa, còn ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các
quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là
ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này.
• Công cụ hạn mức tín dụng.
7
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải tôn
trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ
vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng đó trong định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể và
nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định.
Qua sử dụng hạn mức tín dụng NHTW nhằm điều chỉnh khả năng tạo tiền của
các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh làm tăng tổng khối
lượng tiền quá mức trong nền kinh tế, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho
từng NHTM. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng được xác định căn
cứ vào tỷ trọng cho vay của hệ thống ngân hàng. NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền
kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng được quy định. Lúc này, NHTW phải theo dõi
hoạt động cho vay của các NHTM, nếu NHTM cho vay vượt quá hạn mức tín dụng quy
định sẽ bị xử phạt.
Ưu điểm: Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu
thông. Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, NHTW có thể kiểm soát khá chặt chẽ
tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế tăng cao. Khi đó, nó được NHTW sử dụng nếu các công cụ
gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.
Nhược điểm:Tuy nhiên, kiểm soát trực tiếp tín dụng có nhiều khiếm khuyết. Vì
thế, hiện nay ở các nước phát triển và đang phát triển đang từ bỏ cách kiểm soát này để
chuyển sang kiểm soát tổng khối lượng tiền cung ứng. Sử dụng công cụ hạn mức tín
dụng có một số bất lợi:
+ Hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung về vốn bị giới
hạn không thỏa mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
+ Hạn mức tín dụng có xu hướng làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM, bởi vì
một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì ngân hàng đó không còn muốn huy động
vốn nữa, nếu huy động thêm sẽ gây đọng vốn và gây thiệt hại cho cho ngân hàng.
+ Hạn mức tín dụng có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các NHTM, ảnh hưởng
đến cơ cấu nền kinh tế.
+ Khi thị trường tiền tệ hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể
làm cho các khoản tín dụng được cấp ra nhỏ hơn so với tổng hạn mức tín dụng đã được
xác định từ trước. Lý do là những ngân hàng có khả năng huy động nhiều vốn thì việc
cho vay ra đã bị hạn chế trong khi các ngân hàng không có khả năng huy động vốn thì
sẽ cho vay ít hơn so với hạn mức đã được phân bổ. Điều này nguy hiểm hơn là sẽ phát
sinh các tổ chức tài chính mới thực hiện nghiệp vụ ngân hàng ngoài phạm vi kiểm soát
của ngân hàng trung ương. Kết quả cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên hạn
mức tín dụng mất đi hiệu lực của nó.
8
+ Hạn mức tín dụng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ, vì trước hết các
NHTM lựa chọn khách hàng lớn để cho vay.
Công cụ hạn mức tín dụng thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao
nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp
khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển,
hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lượng vốn khả dụng của
hệ thống NHTM, thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTW trong việc điều
tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, như nhược điểm đã nêu trên, hiệu quả điều tiết của
công cụ này không cao vì nó thiếu linh hoạt.
 Công cụ tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và ngoại tệ. Nó vừa phản
ánh sức mua của nội tệ, vừa là biểu hiện của quan hệ cung cầu ngoại tệ. Đến lượt mình,
tỷ giá hối đoái lại là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ
đến xuất nhập khẩu hàng hóa và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách
tỷ giá tác động một cách nhạy bén và hết sức mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu
hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự
trữ ngoại hối của quốc gia. Về thực chất, tỷ giá không phải là công cụ của chính sách
tiên tệ bởi lẽ tỷ giá không làm tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên có
quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, đang chuyển đổi, lại coi tỷ giá là công cụ bổ trợ
quan trọng cho điều hành chính sách tiền tệ.
1.2.2. Thanh tra ngân hàng
Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, Ngân hàng Trung ương không chỉ
cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuần tuý cho các khách hàng của nó, mà thông qua
các hoạt động kinh doanh đó Ngân hàng Trung ương thực hiện vai trò điều tiết, giám sát
thường xuyên hoạt động của các ngân hàng kinh doanh nhằm hai mục đích: đảm bảo sự
ổn định trong hoạt động ngân hàng và đảm bảo lợi ích của khách hàng, đặc biệt là người
gửi tiền trong quan hệ với ngân hàng.
Bảo đảm sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Khác với các tổ chức kinh doanh khác, kinh doanh lĩnh vực tài chính tiền tệ cần
thiết phải được kiểm soát và điều tiết chặt chẽ bởi vì:
+ Các ngân hàng đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trường vốn nói riêng và
trong toàn bô nền kinh tế nói chung; nó là kênh chuyển giao vốn từ tiết kiệm đến đầu
tư, là công cụ của Chính phủ trong việc tài trợ vốn cho mục tiêu chiến lược; hoạt động
của các trung gian tài chính, đặc biệt là các tổ chức nhận tiền gửi có ảnh hưởng quyết
định đến việc điều hành chính sách tiền tệ...
+ Hoạt động của các ngân hàng liên quan đến hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã
hội nên sự sụp đổ của một ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi
9
tiền đồng thời đến oàn hệ thống, Các ngân hàng có mối liên hệ và phụ thuộc với nhau
rất chặt chẽ thông qua các luồng vốn tín dụng luân chuyển và thông qua hoạt động của
hệ thống thanh toán. Chỉ một trục trặc nhỏ trong quá trình thanh toán của một ngân
hnàg
+ Hoạt động của các ngân hàng có liên quan đến hầu hết các hoạt động kinh tế -
xã hội, vì vậy sự hoạt động thiếu ổn định của mỗi ngân hàng cũng đều gây tác động tiêu
cực đến nền kinh tế. Do dựa trên nguyên tắc là đi vay để cho vay nên bản thân hoạt
động này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro; mức độ rủi ro sẽ tăng cao khi các ngân hàng có xu
hướng chạy theo lợi nhuận quá mức, đẩy các ngân hàng vào tình trạng mất khả năng
thanh toán. Điều này sẽ làm giảm lòng tin của công chúng, từ đó hoạt động của hệ
thống ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Do vậy, việc Ngân hàng Trung ương thực
hiện quản lý và kiểm soát hoạt động của các tổ chức tín dụng là rất cần thiết để bảo đảm
sự hoạt động của chúng luôn luôn được duy trì trong khuôn khổ luật pháp và góp phần
thực hiện hiệu quả chính sách tiền tệ đã được hoạch định.
Ngân hàng trung ương có thể thực hiện việc quản lý và giám sát các tổ chức tín
dụng thông qua các công cụ như:
+ Xây dựng mô hình và chiến lược phát triển của hệ thống các tổ chức tín dụng.
+ Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng.
+ Kiểm tra việc chấp hành các quy định về dự trữ bắt buộc, lãi suất các hệ số an
toàn hoạt động cũng như các mức độ nhạy cảm của tổ chức đối với sự biến động của thị
trường theo hệ thống chỉ tiêu CAMELS.
Bảo vệ khách hàng
Chức năng thanh tra, giám sát của Ngân hàng Trung ương còn nhằm đảm bảo sự
công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa ngân hàng và các khách hàng. Điều này
được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các ngân
hàng với tư cách là người đi vay. Chẳng hạn, quy định chuẩn mực về phạm vi và mức
độ chi tiết của các thông tin cần báo cáo cho ngân hàng khi vay vốn; chuẩn mực hóa các
thủ tục vay vốn và tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng; quy định cụ thể về xử lý và giải
quyết tranh chấp giữa ngân hàng với khách hàng. Thứ hai, nhằm thúc đẩy cạnh tranh và
hiệu quả thông qua quy định về chất lượng và sự cập nhật của thông tin mà ngân hàng
có nghĩa vụ cung cấp cho những người tham gia thị trường. Cụ thể, cần quy định rõ cơ
chế cung cấp thông tin, loại thông tin và phạm vi cung cấp. Điều này giúp cho công
chúng với tư cách người đầu tư và người sử dụng các dịch vụ tài chính có khả năng và
cơ hội lựa chọn các ngân hàng đáng tin cậy và các dịch vụ tài chính có chất lượng. Các
ngân hàng vì thế sẽ luôn quan tâm hơn tới tính minh bạch và chất lượng của bảng tổng
kết tài sản trong chiến lược cạnh tranh khách hàng.

10
Để đạt được mục đích này, Ngân hàng Trung ương và các thể chế điều tiết có liên
quan thường đưa ra các chuẩn mực, các hướng dẫn hoặc quy định về tính đầy đủ và
chính xác của thông tin được công bố.
Trong thập kỉ cuối của thế kỷ XX, chức năng thanh tra giám sát các ngân hàng
đang có xu hướng tách ra khỏi Ngân hàng Trung ương. ở một số nước như Anh,
Australia, Nhật Bản, chính phủ thành lập một thể chế siêu điều tiết (super regulation) có
khả năng điều tiết và giám sát các loại hình định chế tài chính. Thể chế điều tiết này độc
lập với ngân hàng trung ương, trực thuộc Văn phòng Chính phủ (Nhật) hoặc Bộ Tài
chính (Anh). Ngân hàng Trung ương chỉ còn chức năng quản lý vĩ mô duy nhất là xây
dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.

Phần II
Vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của NHNN Việt Nam
11
2.1. Giới thiệu chung về Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của chính phủ và là ngân hàng trung
ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các
tổ chức tín dụng, ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho chính phủ; nhằm ổn định giá trị
đồng tiền góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam được hình thành từ năm 1951.Từ đó cho tới nay,
đã trải qua những bước phát triển sau :
- Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập
với tư cách là ngân hàng phát hành trung ương, đồng thời kiêm nghiệm chức năng của
ngân hàng thương mại.
- Tháng 1 năm 1960, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành
Ngân hàng nhà nước Việt Nam cho phù hợp với hiến pháp mới của nước ta. Thực hiện
Nghị định 171/CP (26/10/1961), chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước được
mở rộng, hệ thống tổ chức được hình thành từ trung ương đến các tỉnh, thành phố và
quận huyện.
- Sau khi thống nhất đất nước và hoàn thành việc quốc hữu hoá hệ thống
ngân hàng dưới chế độ cũ ở miền Nam, trên cả nước hình thành hệ thống ngân hàng
thống nhất, bao gồm bộ máy tổ chức ngân hàng nhà nước Việt Nam và bộ máy tổ chức
các ngân hàng chuyên doanh. Đặc điểm tổ chức của hệ thống ngân hàng thời kỳ này vẫn
mang đầy đủ đặc điểm của hệ thồng ngân hàng một cấp
- Ngày 26 tháng 3 năm 1988, Hội đồng bộ trưởng ban hành nghị định 53/HĐBT
về tổ chức hệ thống ngân hàng nhà nước Việt Nam. Theo đó, mô hình tổ chức hệ thống
ngân hàng Việt Nam được phân thành hai cấp: ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước các hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; và các ngân hàng thương
mại thực hiện chức năng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.
- Ngày 26 tháng 12 năm 1997, Nhà nước ban hành Luật Ngân hàng nhà
nước Việt nam (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1998). Từ đây, mô hình tổ chức và
hoạt động của ngân hàng nhà nước Việt Nam được chi phối bởi Luật ngân hàng nhà
nước Việt Nam.
Hiện nay, ngân hàng nhà nước có những hoạt động chủ yếu sau:
- Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: chủ trì xây dựng dự án tiền tệ quốc gia,
kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung; Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, thực
hiện đưa tiền vào lưu thông và rút tiền theo tín hiệu của thị trường.
- Là cơ quan duy nhất phát hành tiền
12
- Hoạt động tín dụng: cho các tổ chức tín dụng vay và tạm ứng cho ngân
sách trung ương.
- Hoạt động thanh toán: mở các tài khoản và thực hiện các giao dịch cho
kho bạc nhà nước, các tổ chức tín dụng trong nước và các ngân hàng nước ngoài, các tổ
chức tài chính quốc tế; đồng thời là đại lý cho kho bạc nhà nước trong việc đấu thầu,
phát hành và thanh toán tín phiếu, trái phiếu.
- Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối.
- Thanh tra, kiểm soát của ngân hàng nhà nước: thực hiện thanh tra các tổ
chức tín dụng và ngân hàng, nhằm góp phần bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng, bảo
vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia.
- Hoạt động thông tin : tổ chức thu nhận, phân tích và dự báo thông tin
trong và ngoài nước về kinh tế, tài chính, tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm phục vụ
việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
2.2. Những thành tựu đạt được của NHNN Việt Nam
2.2.1. Hiệu qủa của chính sách tiền tệ
Giảm lạm phát và ổn định giá cả Bảng 2.1 : Tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh
Trong những năm đầu của thập kỷ 90, tế - chỉ tiêu và thực hiện 1996-2000
với việc chọn M2 là mục tiêu trung Tỷ lệ lạm phát Tốc độ tăng trưởng
gian, Chính sách tiền tệ thắt chặt đã hạn (%/ năm) kinh tế (%/năm)
chế được lạm phát, thúc đẩy tăng Năm Mục Thực Mục tiêu Thực
tiêu hiện hiện
trưởng kinh tế. Từ năm 1997, chính
sách tiền tệ nới lỏng đã góp phần thực
199 <14 4,5 9-10 9,5
hiện chương trình kích cầu của Chính 6
phủ thông qua hệ thống tín hiệu nhằm 199 <10 3,6 9-10 9,0
thông báo công khai chiều hướng duy 7
199 7-8 9,2 8,5-9 5,8
trì điều kiện tiền tệ thuận của Ngân
8
hàng nhà nước: Đó là giảm lãi suất tái 199 <10 0,1 5-6 4,8
cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, trần lãi 9
suất cho vay đến tháng 7/200 và lãi suất 200 6 -0,6 5,5-6 6,0
0
cơ bản từ tháng 8/2000.
Năm 2004, diễn biến thị trường biến động phức tạp, chỉ số giá tiêu dùng liên tục
tăng, chủ yếu do tác động từ phía cung (ảnh hưởng của xu hướng tăng giá nguyên,
nhiên vật liệu đầu vào), ngân hàng nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc hạn chế giá
cả leo thang. Tuy không đạt được thành công như mong muốn nhưng đã góp phần hoàn
thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà chính phủ đặt ra.
Ổn định tỷ giá đồng nội tệ:
13
Từ năm 1991 đến năm 2004, tỷ giá đồng Việt Nam so với Đôla Mỹ có những
biến động khá ổn định dưới sự điều hành của chính sách tiền tệ mới. Tuy trong hai năm
1997 và 1998, do chịu tác động chung của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực,
đồng Việt Nam mất giá mạnh hơn so với những năm trước (đồng Đôla tăng hơn 14% và
9,6% trong hai năm này). Nhưng trong những năm sau đó, đồng Việt Nam lại trở lại ổn
định, vẫn duy trì ở mức “yếu” để khuyến khích xuất khẩu.
2.2.2. Đổi mới các công cụ quản lý
Để thực hiện các mục tiêu vĩ mô trong điều hành thực thi chính sách tiền tệ, ngân
hàng nhà nước đã từng bước chuyển từ công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp.
 Đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động :
Qua 5 năm thực hiện, nghiệp vụ thị trường mở bước đầu đã phát huy vai trò điều
tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng. Khối lượng giao dịch nghiệp vụ thị trường
mở theo cả hai chiều mua và bán giấy tờ có giá tăng mạnh qua các năm. Trong 6 tháng
đầu năm, SBV đã tổ chức 68 phiên giao dịch (cùng kỳ năm 2004 là 56 phiên) với khối
lượng trúng thầu đạt 51.711 tỷ, tăng 171% so với cùng kỳ năm trước. Mỗi phiên giao
dịch thường có 5-7 thành viên đặt thầu, bao gồm cả ngân hàng thương mại nhà nước,
ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tổng doanh số giao
dịch năm 2004 gấp 3 lần năm 2003 và gấp 16 lần năm 2001; 6 tháng đầu năm 2005
doanh số giao dịch đã gần bằng 90% cả năm 2004. Khối lượng giao dịch trong từng
phiên cũng tăng bình quân từ 82 tỷ đồng/phiên (năm 2000) lên 725 tỷ đồng/phiên trong
6 tháng đầu năm 2005, cá biệt có phiên lên tới 3.500 tỷ đồng/phiên (thời điểm giáp Tết).
 Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo hướng mở rộng cung tiền:
Trong thời điểm lãi suất huy động USD tăng cao, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ
tiền gửi dự trữ bắt buộc (DTBB) ngoại tệ từ 5%-10% và cao nhất là 15%. Sau đó diễn
biến lãi suất USD theo chiều ngược lại thì tỷ lệ DTBB được điều chỉnh giảm xuống
12%. Từ tháng 4/2002, NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm xuống đến 8% và đến tháng
8/2003 còn 4%. Đồng thời NHNN cũng điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đồng Việ t Nam từ
5% xuống 3% và từ tháng 3/2003 các mức đó giảm thêm 1% đã có tác động lớn trong
điều hành tỷ giá và lãi suất, giúp cho sự biến động lãi suất nội tệ diễn ra theo xu hướng
có lợi hơn lãi suất USD, hạn chế được hiện tượng đô la hoá trong tài sản của hệ thống
ngân hàng. Ngoài ra, NHNN đưa bổ sung thêm tiền gửi trên 12 tháng đến 24 tháng vào
cơ cấu tiền gửi DTBB, đồng thời cho phép tính cả số dư tiền gửi của chi nhánh các tổ
chức tín dụng tại chi nhánh NHNN ở các tỉnh, thành phố vào DTBB.
 Đối với công cụ tái cấp vốn
Các quy trình thủ tục được từng bước đơn giản hoá, tạo thuận lợi cho các tổ chức
tín dụng. Đặc biệt trong năm 2003, NHNN đã sửa đổi, bổ sung các quy định về cho vay
cầm cố, chiết khấu, tái chiết khấu của ngân hàng thương mại. Theo đó, cùng với việc áp
14
dụng lãi suất thấp đối với chiết khấu, NHNN thực hiện phân bổ hạn mức chiết khấu đối
với các ngân hàng để các ngân hàng đều có thể tiếp cận với kênh cho vay tái cấp vốn
dưới hình thức cầm cố khi NHNN thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng.
 Điều chỉnh lãi suất
Lãi suất luôn là công cụ nhạy cảm và luôn nhận được sự quan tâm cả ở tầm vĩ mô
và vi mô. Kể từ tháng 6/2002, ngân hàng nhà nước thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận
VND. Tháng 3/2003, ngân hàng nhà nước tạo lập cơ chế điều hành lãi suất mới thông
qua xác định lãi suất “trần” là lãi suất tái cấp vốn và “sàn” là lãi suất chiết khấu, với
mức chênh lệch là 2% - 2,4%/năm, gắn với cơ chế phân bổ hạn mức chiết khấu cho các
ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhà nước tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để định
hướng lãi suất thị trường, công bố lãi suất cho vay qua đêm và thanh toán bù trừ tại các
chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố. Lãi suất thị trường được điều hành linh
hoạt theo mục tiêu chính sách lãi suất trong từng thời kỳ và dao động trong khoảng giữa
lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu.
 Đối với tỷ giá hối đoái
Ngân hàng nhà nước đã điều hành tỷ giá linh hoạt, thận trọng, bám sát sự biến
động của thị trường ngoại hối, đồng thời tăng cường việc tuyên truyền, giải thích trên
các phương tiện thông tin, đại chúng về chủ trương, định hướng của ngân hàng nhà
nước trong điều hành tỷ giá. Nhờ đó, tỷ giá giữa các loại ngoại tệ với VND được duy trì
tương đối ổn định trong bối cảnh một số ngoại tệ mạnh có giao dịch nhiều với Việt
Nam lại liên tục không ổn định.Việc điều hành tỷ giá linh hoạt cùng cơ chế quản lý
ngoại hối đã tạo bước đột phá trên thị trường ngoại hối. Các giao dịch hối đoái thông
thoáng hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Việc từng bước tự do hoá các giao dịch
vãng lai, xoá bỏ tỉ lệ kết hối đã tạo thế chủ động hơn về tài chính cho các doanh nghiệp,
mở rộng dịch vụ thanh toán quốc tế, giảm căng thẳng về cung cầu ngoại tệ, tăng dự trữ
ngoại tệ cho đất nước.
2.2.3. Hoạt động quản lý các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại đóng vai trò là những trung gian tài chính quan trọng.
Chúng đã đưa một lượng vốn lớn từ những người có nhu cầu cho vay tới những người
có nhu cầu vay, góp phần phân bổ hiệu quả các nguồn lực trong xã hội. Không những
vậy, các ngân hàng thương mại còn là một kênh tạo tiền quan trọng trong nền kinh tế.
Hoạt động của các ngân hàng này có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của chính sách tiền
tệ. Do đó, quản lý hệ thống ngân hàng thương mại là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của ngân hàng nhà nước.
Đến nay, NHNN đã phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư cấp bổ
sung 10921 tỷ đồng vốn điều lệ cho NHTMNN.

15
NHNN tiếp tục chỉ đạo các NHTMNN triển khai Đề án tái cơ cấu: Quản trị rủi
ro, kiểm toán nội bộ, quản lý tài sản nợ - tài sản có, quản lý tín dụng, quản lý vốn, xây
dựng hệ thống thông tin quốc tế, hiện đại hoá công nghệ... Đến nay, về cơ bản các
NHTMNN đã hoàn thành việc xây dựng chiến lược kinh doanh với sự trợ giúp của
Ngân hàng thế giới.
Ngoài ra, NHNN còn cho phép các ngân hàng thương mại được cổ phần hoá
nhằm tăng vốn chủ sở hữu đồng thời tạo ra động lực cạnh tranh cho thị trường tài chính.
Thực hiện chủ trương cổ phần hoá NHTMNN, NHNN đã xây dựng khẩn trương Đề án
cổ phần hoá Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam và Ngân Hàng Phát Triển Nhà Đồng
Bằng Sông Cửu Long. Hơn thế nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, NHNN còn
cho phép một số tổ chức tài chính ngân hàng và phi ngân hàng nước ngoài tham gia
hoạt động thị trường tài chính tín dụng trong nước nhưng vẫn đảm bảo cho các NHTM
trong nước hoạt động một cách có hiệu quả trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Sau
giai đoạn tập trung chấn chỉnh, củng cố, chất lượng hoạt động của các ngân hàng
thương mại cổ phần đã dần dược nâng cao, nợ quá hạn giảm. Hiện nay các ngân hàng
cổ phần đều đảm bảo đủ hoặc vượt mức vốn điều lệ theo quy định của pháp luật.
Để có lợi nhuận, các NHTM phải vượt qua các vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi
ro đạo đức, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự vỡ nợ có thể xảy ra đặc biệt là
trong nến kinh tế đầy tính cạnh tranh như hiện nay. Trong những năm gần đây, NHNN
Việt Nam đã không ngừng tăng cường hoạt động thanh tra giám sát một cách chặt chẽ
công tác củng cố, xử lý đối với các ngân hàng yếu kém. Đến nay, hầu hết các ngân hàng
yếu kém đã có chuyển biến tích cực trong hoạt động.
2.3. Một số mặt còn yếu trong hoạt động của NHNN Việt Nam
2.3.1. Hiệu quả của chính sách tiền tệ đôi khi còn hạn chế
Một là, trong những năm 1997–2000, ngân hàng nhà nước thực hiện chính sách
tiền tệ nới lỏng nhưng kết quả mang lại chưa đạt như mong muốn. Lượng tiền cung ứng
tăng lên với mức độ lớn, lãi suất VND và tỷ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi nội tệ đều
giảm, nhưng mức lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế đều thấp hơn dự kiến. Năm
1991-2000, cùng với chính sách tài chính, ngân hàng nhà nước Việt Nam thực thi chính
sách tiền tệ nới lỏng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngăn chặn đà giảm phát, nhưng
mức lạm phát và tăng trưởng kinh tế vẫn thấp hơn kế hoạch. Năm 2004, ngược lại, mức
lạm phát lại cao hơn dự tính (9,5%).
Hai là, ngân hàng nhà nước không hoàn toàn chủ động trong việc kiểm soát tiền
cơ sở (MB). Ngân hàng nhà nước chọn chỉ tiêu tăng trưởng MB làm mục tiêu hoạt
động, song can thiệp của ngân hàng nhà nước thời gian qua chủ yếu thụ động chứ chưa
chủ động theo đuổi mục tiêu hoạt động của mình.

16
Ba là, việc dự báo cung - cầu vốn khả dụng chưa đưa ra những tư vấn chính xác
về tình trạng cung - cầu vốn khả dụng làm căn cứ xác định liều lượng và chiều hướng
tác động của chính sách tiền tệ.
Bốn là, tác động của M2 đến các biến số kinh tế chưa rõ ràng.
Những hạn chế của nghiệp vụ thị trường mở

Hoạt động thị trường mở vẫn còn bất cập trong đặt thầu, xét thầu; các thủ tục về
đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá, thủ tục về lập hợp đồng... và đôi khi vẫn phải áp dụng lãi
suất chỉ đạo trong các phiên giao dịch. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa lãi suất nghiệp
vụ thị trường mở cũng như các lãi suất của SBV nói chung với lãi suất thị trường còn
chưa thực sự gắn kết.
Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở cũng vẫn còn bất cập trong đặt thầu, xét
thầu.Các thủ tục về đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá, thủ tục về lập hợp đồng mua bán
giấy tờ có giá, quy trình giao dịch qua mạng chưa thực sự đơn giản hoá...
Ngân hàng Nhà nước cũng cho rằng các hạn chế khác của nghiệp vụ thị trường mở còn
do cơ sở hạ tầng thông tin, đường truyền chưa đáp ứng được so với yêu cầu thực tế. Vì
thế thời gian giao dịch còn kéo dài, có lúc bị tắc nghẽn.
Lãi suất
Nhìn vào cơ chế điều hành lãi suất hiện tại chúng ta thấy còn một số vấn đề cần
quan tâm:
Thứ nhất, quan hệ giữa các lãi suất trên thị trường có nhiều điểm chưa hợp lý :
- Lãi suất cơ bản được điều chỉnh để phản ánh diễn biến lãi suất thị trường
nhưng mức độ điều chỉnh không lớn, biên độ giao động nhỏ hơn biến động lãi suất thị
trường.
- Lãi suất huy động ngắn hạn của tổ chức tín dụng nhỏ hơn lãi suất trúng
thầu tín phiếu kho bạc là điều chưa hợp lý, vì lãi suất huy động bình quân của tổ chức
tín dụng phải lớn hơn lãi suất trúng thầu tín phiếu kho bạc thì mới bảo đảm cho tổ chức
tín dụng bảo toàn vốn và khuyến khích tổ chức tín dụng đầu tư chứng khoán, tăng hàng
hoá cho nghiệp vụ thị trường mở.
- Mối liên hệ giữa các loại lãi suất thị trường và lãi suất của ngân hàng nhà
nước còn lỏng lẻo, nhiều khi tách rời nhau, biến động chưa phù hợp với cơ chế lãi suất
thị trường; vai trò điều tiết lãi suất thị trường của lãi suất nghiệp vụ thị trường mở còn
rất hạn chế. Có thể nói, cơ chế lãi suất hiện nay còn phức tạp và chưa đủ sức hướng dẫn
thị trường.
- Tuy ngân hàng nhà nước đã lựa chọn lãi suất thị trường mở làm lãi suất
định hướng và bước đầu xây dựng khung lãi suất nhưng chưa phát huy được vai trò
định hướng lãi suất thị trường. Việc sử dụng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu là
17
“trần” và “sàn” để khống chế lãi suất thị trường là không có khả năng thực hiện được,
vì lãi suất liên ngân hàng trong nhiều trường hợp biến động vượt quá khỏi biên độ này.
Thứ hai, lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước tuy có những ưu thế so với cơ chế lãi
suất trần trước đây, song nó vẫn thể hiện sự can thiệp hành chính của ngân hàng nhà
nước, các tổ chức tín dụng không thể phản ứng kịp thời để phòng tránh rủi ro và thanh
khoản. Dường như lãi suất cơ bản thoát ly lãi suất cho vay bình quân của các tổ chức tín
dụng nên tính tham khảo không còn nữa.
Dự trữ bắt buộc
Trong thời gian gần đây, việc điều chỉnh lại tỷ lệ DTBB đối với đồng ngoại tệ và
đồng nội tệ mặc dù có hiệu quả đối với lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên tác động đến việc tăng cơ số tiền tệ nhất là đối với ngoại tệ thì không rõ.
Đồng thời việc điều chỉnh chậm so với thực tiễn và hiện nay tỷ lệ này vẫn cao.
2.3.2. Quản lý và thanh tra hoạt động của các ngân hàng thương mại
- Hoạt động thanh tra ngân hàng còn yếu kém, chỉ mang tính chất sự vụ khi các
sự cố ngân hàng đã xuất hiện, không có tính chất ngăn ngừa.
- Việc đầu tư phát triển ngân hàng thương mại quốc doanh tạo thế cạnh tranh
không cân xứng
- Nguồn nhân lực còn hạn chế về chuyên môn, đặc biệt là các cán bộ thanh tra
ngân hàng. Các phương pháp quản lý vẫn còn nhiều lạc hậu.
2.4. Một số biện pháp hoàn thiện vai trò điều tiết vĩ mô của NHNN Việt
Nam:
2.4.1. Hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ
Hoạt động quản lý thông qua các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà
nước là sự thể hiện cho việc thể hiện việc theo đuổi những chính sách được đề ra.
Chúng ta có một chính sách tiền tệ tốt, nhưng để chính sách đó thực sự phát huy tác
dụng thì cần phải có sự điều hành tốt của ngân hàng nhà nước thông qua các công cụ
của nó. Chính vì vậy, việc phát triển hơn nữa các công cụ chính sách tiền tệ của ngân
hàng nhà nước là một yêu cầu thiết yếu.
Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Trong thời gian tới, công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc được coi là một trong những
công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ. Cần phải hoàn thiện theo hướng:
- Mở rộng khả năng kiểm soát tiền tệ của ngân hàng nhà nước, khuyến khích các
tổ chức tín dụng sử dụng vốn linh hoạt, hiệu quả. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải được
điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường.
- Mở rộng đối tượng tổ chức tín dụng phải thực hiện dự trũ bắt buộc, đổi mới
phương pháp tính toán và quản lý dự trữ bắt buộc theo hướng chuyển giao nhiệm vụ

18
này cho các chi nhánh ngân hàng nhà nước khu vực, nhằm tăng cường kiểm tra, giám
sát các tổ chức tín dụng chấp hành quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
- Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải dựa trên cơ sở diễn biến thực tế tình
hình kinh tế từng thời kỳ. Nếu không có những biến động lớn thì không nên thay đổi tỷ
lệ dự trữ bắt buộc.
- Trong những trường hợp đặc biệt, khi cần có sự điều chỉnh khối lượng lớn tổng
phương tiện thanh toán thì ngân hàng nhà nước mới sử dụng công cụ này với mục đích
hỗ trợ cho các công cụ khác.
Xác định lãi suất tái chiết khấu có cơ sở khoa học và điều chỉnh cho phù hợp
với quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường
Nền kinh tế tự do hoá lãi suất thì lãi suất chiết khấu có vai trò quan trọng trong
việc điều hành lãi suất thị trường và điều tiết lượng tiền cung ứng. Do đó, định hướng
hoàn thiện công cụ này cần thực hiện các mặt:
- Xác định lãi suất tái chiết khấu cần dựa trên những cơ sở khoa học và đảm bảo
nguyên tắc xác định lãi suất trong nền kinh tế thị trường.
- Điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu linh hoạt, bám sát diễn biến thị trường và mục
tiêu chính sách tiền tệ.
- Xoá bỏ tái cấp vốn của ngân hàng nhà nước cho các ngân hàng thương mại, bởi
lẽ thực chất là cung cấp tín dụng theo chỉ định của chính phủ.
- Xoá bỏ tái cấp vốn dưới hình thức cho vay theo hồ sơ tín dụng, vì nó là một
hình thức tín dụng có bảo đảm thấp.
- Hoàn thiện quy chế tái chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn.
Mở rộng đối tượng cho vay chiết khấu, tái chiết khấu tới mọi tổ chức tài chính.
Phát triển nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở phải được hoàn thiện cả về khung pháp lý, kỹ thuật điều
hành, cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo cán bộ. Để hoàn thiện công cụ này cần:
- Tạo thêm hàng hoá cho thị trường mở, ngoài tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân
hàng cần tạo thêm các loại hàng hoá khác như chứng chỉ tiền gửi.
- Mở rộng các thành viên tham gia thị trường mở.
- Chú trọng đào tạo thêm cán bộ chuyên môn hoạt động thị trường mở cho ngân
hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng.
- Có thể tiến hành các phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở thường xuyên hơn
(một ngày một phiên) để đáp ứng nhu cầu vốn khả dụng cho các tổ chức tài chính.
Điều hành và quản lý tỷ giá hối đoái linh hoạt theo diễn biến thị trường
Tỷ giá hối đoái không phải lúc nào cũng là công cụ của Chính sách tiền tệ. Nó trở
thành công cụ khi ngân hàng trung ương can thiệp vào tỷ giá hối đoái để điều chỉnh nó

19
theo ý muốn. Khi sử dụng tỷ giá hối đoái là công cụ điều hành chính sách tiền tệ, cần
hoàn thiện nó theo hướng:
- Điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt và đổi mới thông qua mở rộng biên độ tỷ giá
được phép giao dịch theo cả hai chiều (tăng, giảm).
- Xây dựng cơ chế can thiệp của ngân hàng trung ương trên thị trường ngoại tệ để
thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá hối đoái.
- Chính sách tỷ giá hối đoái theo xu hướng giảm bớt sự can thiệp của ngân hàng
nhà nước để tiến tới hình thành tỷ giá hối đoái theo quy luật cung cầu.
- Thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nới lỏng và tiến dần đến tự do hoá các
giao dịch vãng lai, tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài.
Quản lý các loại lãi suất thị trường :
Lãi suất thị trường cần được định hướng theo mô hình sau:
- Ngân hàng nhà nước chỉ thông qua lãi suất kỳ vọng hoặc một hành lang lãi suất
hẹp. Lãi suất kỳ vọng có thể thay đổi trong từng thời kỳ để đạt được các mục tiêu chính
sách tiền tệ tốt nhất. Ngân hàng nhà nước sẽ can thiệp kịp thời để lãi suất thị trường dao
động xung quanh lãi suất kỳ vọng này.
- Ngân hàng nhà nước thay việc công bố lãi suất cơ bản như hiện nay bằng việc
công bố lãi suất mục tiêu của ngân hàng nhà nước. Như vậy, lãi suất cơ bản vẫn được
sử dụng như luật ngân hàng nhà nước đã quy định , song nó được thay đổi hoàn toàn
cách tính.
- Bỏ bớt các loại lãi suất ưu đãi, trừ lãi suất vay vốn đối với các đối tượng chính
sách trong xã hội và các trương trình kinh tế - xã hội của Chính phủ. Điều này có thể
thực hiện bằng cách tách hoàn toàn hoạt động cho vay chính sách ra khỏi hoạt động tín
dụng thương mại, xoá bỏ bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước dưói hình thức
những khoản cho vay chỉ định, bảo lãnh vay, khoanh nợ…
- Các hoạt động ngân hàng và phi ngân hàng của các tổ chức tài chính vi mô phải
được quản lý chặt chẽ theo Luật các tổ chức tín dụng và lãi suất chung. Đó là dựa vào
lãi suất ngắn hạn liên ngân hàng và cộng thêm các loại chi phí khác để tính ra lãi suất
cho vay đối với các hoạt động tín dụng trong cộng đồng.
2.4.2. Nâng cao khả năng hoạch định chính sách tiền tệ
Tính toán những yếu tố tiền tệ khi hoạch định chính sách tiền tệ hàng năm
Công tác dự báo chính sách tiền tệ phải đặc biệt coi trọng thống kê các tài khoản
kinh tế vĩ mô (Thống kê tiền tệ, thống kê cán cân thanh toán, thống kê hệ tài khoản
quốc gia, thống kê tài chính chính phủ), bởi vì có coi trọng số liệu thống kê vĩ mô mới
có thể nắm bắt được những diễn biến hiện tại của nền kinh tế cũng như hiệu quả và hạn
chế của chính sách tiền tệ đã thực hiện.

20
Do tiền tệ có nhiều biến động bất thường, nên các nhà hoạch định khi xây dựng
chỉ tiêu lạm phát và biện pháp để điều hành chính sách tiền tệ hàng năm phải tính toán
đến tất cả những yếu tố về tiền tệ. Chẳng hạn, trong chính sách tiền tệ năm 2004 phải
tính đến tăng trưởng tín dụng, cung ứng tiền, lãi suất, giá cả ... Trong điều kiện hội nhập
kinh tế thế giới, cần đặc biệt quan tâm tác động của của cán cân thanh toán, chu chuyển
của các luồng vốn vào và luồng vốn ra đến diễn biến tiền tệ. Đồng thời còn tính cả đến
độ trễ của những biện pháp nới lỏng tiền tệ của các năm trước cũng như những nhân tố
mới khác như: tăng lương, tăng phụ cấp cho người về hưu…
Xác định chính xác các nguyên nhân làm tăng tỷ lệ lạm phát
Khi chỉ số lạm phát tăng cao ngoài mức dự kiến và vượt qúa chỉ tiêu của Quốc
hội, ngân hàng nhà nước cần phải xác định rõ các nguyên nhân. Đó là do chính sách
tiền tệ hay là do những nhân tố bất thường nằm ngoài chính sách tiền tệ. Để làm cơ sở
cho việc xử lý bằng điều hành chính sách tiền tệ hay biện pháp điều hoà lưu thông phân
phối, cân đối xuất nhập khẩu, mở rộng chính sách tài chính …
Ngân hàng nhà nước tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ linh hoạt và thận
trọng
Sau khi xác định rõ và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nguyên nhân đến sự
tăng lên của lạm phát, đặc biệt nguyên nhân từ phía tiền tệ, ngân hàng nhà nước cần tiến
hành chính sách tiền tệ theo hướng kiểm soát được lạm phát. Ngân hàng nhà nước định
hướng hoạt động của các nghiệp vụ nhằm đạt được các mục tiêu đề ra trong chính sách
tiền tệ. Đối với công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, điều chỉnh tăng phù hợp với mức độ tăng
vốn vay trứơc đó. Với công cụ thị trường mở, khi tỷ lệ lạm phát tăng có thể điều hành
công cụ này bằng cách tăng số phiên giao dịch, doanh số mua bán và ngân hàng nhà
nước tăng số lượng phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước và chào bán giấy tờ có giá
ngắn hạn… Các công cụ lãi suất và tỷ giá được điều chỉnh sao cho hoạt động trên thị
trường xoay quanh mức mục tiêu của ngân hàng nhà nước đề ra.
2.4.3. Đổi mới hoạt động thanh tra ngân hàng
Đổi mới tổ chức của thanh tra ngân hàng
Mục tiêu đổi mới là tạo ra một tổ chức thanh tra chuyên ngành, độc lập và hiệu
lực. Tổ chức mới này phải khắc phục những nhược điểm hiện nay của mô hình tổ chức,
của cơ chế chỉ đạo điều hành trong hoạt động thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín
dụng. Trong những năm trước mắt (khoảng 5 năm tới - tức là đến 2010) vẫn nên giữ mô
hình Thanh tra ngân hàng như hiện nay. Sau 2010 cần nghiên cứu, cải tổ Thanh tra ngân
hàng theo hướng thanh tra thị trường tài chính để tạo ra sự đồng bộ và hiệu lực hơn
trong hoạt động giám sát và thanh tra.
Vận dụng các thông lệ quốc tế về hoạt động của thanh tra ngân hàng vào Việt
Nam
21
Một là, tiếp tục hoàn thiện phương thức giám sát từ xa:
- Nghiên cứu để hoàn thiện phương pháp và các nội dung giám sát phân tích, bao
gồm xây dựng chương trình phần mềm giám sát phù hợp, bảo đảm cập nhật thông tin.
Thiết lập một mạng lưới thông tin trực tuyến từ các tổ chức tín dụng một các cập nhật,
đầy đủ, kịp thời, có thể khai thác bất cứ lúc nào cho hoạt động giám sát của thanh tra
ngân hàng.
- Xúc tiến nghiên cứu những chuẩn mức và nội dung hoạt động giám sát từ xa
của công nghệ ngân hàng trên thế giới, vận dụng phù hợp với pháp luật, tập quán, nhận
thức và trình độ công nghệ cũng như yêu cầi quản lý nhà nước về ngân hàng của nước
ta.
- Nghiên cứu, xây dựng chương trình cảnh báo xa để đánh giá tình trạng của từng
tổ chức tín dụng và toàn hệ thống ngân hàng.
Hai là, hoàn thiện phương thức thanh tra tại chỗ theo yêu cầu mới gồm các nội
dung công việc sau:
- Cải tiến xây dựng kế hoạch thanh tra: thu thập thông tin qua các kênh giám sát
từ xa, qua theo dõi đánh giá xếp hạng ngân hàng, qua thanh tra ngân hàng, qua thanh tra
tại chỗ và các nguồn thông tin khác.
- Cần phải xây dựng chuẩn mực thanh tra, thiết lập quy trình thanh tra, kiểm tra
và tổ chức thực hiện nghiêm túc theo quy trình đã có.
- Tằng cường kiểm tra các tổ chức tín dụng trong việc tổ chức tiếp thu và sửa
chữa các sai phạm theo yêu cầu và kiến nghị.
- Kết hợp tốt công tác giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ và kiểm toán độc lập để
nâng cao hiệu quả thanh tra của ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng.
Ba là, vận dụng các chuẩn mực quốc tế về thanh tra ngân hàng vào Việt Nam:
nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn theo nội dung của 25 nguyên tắc của Uỷ ban Basel
với nội dung cơ bản là: Quy định về việc cấp giấy phép hoạt động cho tổ chức tín dụng;
các quy chế và yêu cầu giám sát; các phương pháp giám sát hoạt động ngân hàng; các
yêu cầu về thông tin đối với các tổ chức tín dụng; các quyền hạn chính thức của thanh
tra viên. Ngoài ra, cần áp dụng hệ thống chỉ tiêu đánh giá CAMEL nhằm đánh giá khả
năng rủi ro của các ngân hàng. Chỉ tiêu này là tổng hợp các thước đo về: vốn, tài sản,
khả năng quản lý, các nguồn thu nhập và khả năng thanh toán.
Những giải pháp tăng cường cho yếu tố con người của Thanh tra ngân hàng
Để nâng cao chất lượng của đội ngũ những người là công tác thanh tra, cần thực
hiện những việc sau:
- Tuyển chọn cán bộ giỏi tăng cường cho thanh tra ngân hàng.
- Tăng cường hơn nữa công tác đào tạo. Phải đặt công tác đào tạo trở thành
nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến năm 2010 để phù hợp với xu hướng hiện đại hoá công
22
nghệ ngân hàng và hội nhập với thế giới. Muốn vậy, cần phải đào tạo sâu đặc biệt là
nghiệp vụ thanh tra. Nội dung đào tạo cần chú trọng quy trình và nội dung cụ thể về
thanh tra giám sát theo thông lệ quốc tế.
- Quan tâm và có ưu đãi đặc thù về nghề nghiệp thanh tra trong ngành ngân hàng.

www.TCDN45C.net.tf
quangson107@doramail.com

23

You might also like