You are on page 1of 12

3.

2 Giải pháp kiểm soát lạm phát

3.2.1. Giải pháp tình thế

Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời “cơn sốt
lạm phát” trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài .
Các biện pháp tình thế này thường được chính phủ các nước áp dụng khi
nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát.
Thứ nhất : Giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành
tiền vào lưu thông .Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ .
Tỷ lệ lạm phát tăng cao ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dừng các
biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng thực hiện các
nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng , dừng
việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ ,không phát
hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước áp dụng các biện pháp làm
giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế như: ngân hàng trung ương bán
ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ , bán ngoại tệ và vàng ,
phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp
cho bội chi ngân sách nhà nước , tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là tăng lãi
suất tiền gửi tiết kiệm . Các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong một thời
gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi
trong dân cư do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị
trường .
Thứ hai :thi hành chính sách tài chính thắt chặt như tạm hoãn những khoản
chi chưa cần thiết trong nền kinh tế , cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi
tiêu đến mức có thể được .
Thứ ba : tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong
lưuthông bằng cách khuyến khichs tự do mậu dịch , giảm nhẹ thuế quan và
các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào.
Thứ tư : đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài .
Thứ năm : cải cách tiền tệ , đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp
trên chưa đem lại hiệu quả mong muốn .

3.2.2. Giải pháp chiến lược:


Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân . Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài
cho đất nước.
Thứ nhất : thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông
hàng hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát , duy
trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân . Sản xuất trong nước càng
phát triển thì càng tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ . Chú trọng
thu hút ngoại tệ qua việc xuất khẩu hàng hoá , phát triển ngành du lịch …

Thứ hai : kiện toàn bộ máy hành chính , cắt giảm biên chế quản lý hành
chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu
thường xuyên của ngân sách do đó giảm bội chi ngân sách nhà nước .

Thứ ba : tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ
sở tăng các khoản thu cho ngân sách một các hợp lý , chống thất thu , đặc
biệt là thất thu về thuế , nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà
nước .

Các biện pháp kiềm chế lạm phát năm


2010-2011
1. CÁC BIỆN PHÁP NĂM 2010:

Theo Nghị quyết số 23/NQ-CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ về những giải pháp bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế
khoảng 6,5% trong năm 2010 với 6 giải pháp :

Thứ nhất, tập trung kiềm chế lạm phát. Chính phủ giao NHNN tiếp tục điều hành chính
sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng; bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng khoảng
25% và tổng phương tiện thanh toán khoảng 20%. Điều hành linh hoạt các công cụ chính
sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm phù hợp với mục tiêu phát triển và điều
kiện thực tế của thị trường tài chính, tiền tệ và nền kinh tế. Sử dụng linh hoạt các công cụ
lãi suất theo hướng giảm dần để tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất thị trường.

Thứ hai, thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán. NHNN
được giao điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt trong mối quan hệ với lãi
suất giữa tiền VN và ngoại tệ, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các kênh đầu
tư khác theo hướng ổn định, góp phần khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, huy
động được các nguồn ngoại tệ hiện chưa thu hút được từ DN và các tầng lớp dân cư, kiều
hối, tiền gửi từ bên ngoài vào VN, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tạo điều kiện để
tăng dự trữ ngoại hối. Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu theo đúng chỉ đạo của
Thủ tướng để bảo đảm tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 6% và tỷ lệ nhập siêu
khoảng 20% trong năm 2010.
Thứ ba, bảo đảm nguồn lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Bộ Tài chính
được giao tăng cường quản lý, bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả chi ngân sách nhà nước. Sử
dụng linh hoạt các nguồn vốn để bảo đảm yêu cầu chi của ngân sách nhà nước. Rà soát,
tổng hợp nhu cầu ứng vốn năm 2011 của các dự án, công trình quan trọng, cấp bách cần
đẩy nhanh tiến độ để đưa vào sử dụng trong năm 2010 mà ngân sách năm 2011 nhất thiết
phải bố trí vốn để thực hiện có nguồn hoàn trả vốn đã ứng.

Thứ tư, bảo đảm ổn định, an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng. Chính phủ giao
NHNN kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng; tăng cường
công tác thanh kiểm tra, giám sát để đánh giá được thực trạng hoạt động của từng ngân
hàng thương mại tổ chức tín dụng và của toàn bộ hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín
dụng để có phương án xử lý kịp thời khi cần thiết.

Thứ năm, tiếp tục thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh. Thúc đẩy phát triển sản xuất,
xuất khẩu hàng nông sản, chú ý những mặt hàng VN có thế mạnh như gạo, cà phê, thủy
sản...

Thứ sáu, đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận cao trong
xã hội.

2. CÁC BIỆN PHÁP NĂM 2011:

Theo Nghị quyết 11/NQ-CP/2011 - Về những giải pháp chủ yếu tập trung
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội, với 6 giải
pháp
Chỉ số giá cả tháng 01/2011 tăng 1,74%, tháng 02/2011 tăng 2,05%, đưa tổng chỉ số giá
cả hai tháng đầu năm 2011 là 3,79%, tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là tín hiệu
không tốt cho sự phát triển của nền kinh tế và chúng ta cần tập trung mọi nguồn lực kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội... với 6 giải pháp trong đó 3
giải pháp đầu là về mục tiêu kiềm chế lạm pháp, ổn định kinh tế

Thứ nhất: được đề cập là phải thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng. Trong số
thống kê về tỷ lệ lạm phát 11,75% do Tổng cục Thống kê đưa ra thì yếu tố tiền tệ đóng
góp tới 4,65%. Vì vậy, phải có biện pháp thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ
là điều cần thiết. Phải kiểm soát được tăng trưởng tín dụng ở mức dưới 20% (năm 2010 là
31%), Cung ứng tiền ra lưu thông chỉ khoảng 15% (năm 2010 là 26%) đồng thời dành tín
dụng ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ và đầu tư cho các lĩnh vực
thiết yếu khác trên nguyên tắc điều hành minh bạch. Cùng với việc kiềm chế lạm phát,
phải giảm dần lãi suất theo hướng hợp lý, coi lãi suất là một trong những công cụ kiềm
chế lạm phát.Điều hành tỷ giá ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường,
Chính phủ thông qua Ngân hàng Nhà nước sẽ huy động và sử dụng các nguồn lực để
kiểm soát bằng được tỷ giá theo quy định, không để thả nổi tỷ giá; không để cho thị
trường chợ đen chi phối. Các doanh nghiệp phải bán ngoại tệ cho ngân hàng và ngân
hàng sẵn sàng đáp ứng đầy đủ về ngoại tệ cho các doanh nghiệp để nhập khẩu các loại
hàng hóa thiết yếu mà trong nước không sản xuất được.
Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng
miếng trên thị trường tự do, buôn lậu vàng qua biên giới.

Thứ hai : là phải thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt. Thực hiện được mục tiêu tăng
thu từ 7-8% so với dự toán quốc hội đã thông qua, tiết kiệm chi tiêu thêm 10% của 9
tháng còn lại; dứt khoát phải giảm bội chi xuống dưới 5% GDP; coi giảm bội chi là giảm
cầu, làm giảm lạm phát. Bên cạnh đó, không ứng vốn ngân sách nhà nước kể cả nguồn
trái phiếu Chính phủ cho các dự án kéo dài, không cấp bách, ưu tiên các dự án hoàn thành
trong năm 2011.

Thứ ba : được đưa ra là thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế
nhập siêu và sử dụng tiết kiệm năng lượng. Với mức giá nông sản tăng cao, đây là thời
điểm tốt để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, góp phần cải thiện đời sống nhân
dân. Hạn chế tối đa các mặt hàng nhập khẩu trong nước có thể sản xuất được, phấn đấu
bảo đảm nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Thứ tư : về điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo. Trong tình hình giá
xăng dầu đã bị kìm nén quá lâu trong khi giá xăng dầu thế giới đang ngày một tăng cao,
ngành điện đã lỗ tới 28.000 tỷ đồng vào cuối năm 2010 và con số này sẽ còn tăng vào
năm 2011, việc điều chỉnh tăng đối với giá điện và giá xăng dầu là điều cần thiết. Theo
đó, giá điện tăng lên 165 đồng mỗi kWh và giá xăng tăng 2.900 đồng một lít. Việc điều
chỉnh này mới chỉ là điều chỉnh từng bước, điều chỉnh một phần dựa trên nguyên tắc Nhà
nước vẫn lùi khấu hao tới 90%, cơ cấu vào giá chỉ 10% để tránh gây sốc cho nền kinh tế
và tác động tiêu cực tới đời sống nhân dân. Tuy nhiên, theo đánh giá của các nhà kinh tế
và các chuyên gia thì với việc điều chỉnh một bước đối với giá xăng dầu và giá điện, chỉ
số CPI năm 2011 của nước ta sẽ tăng 2%, tuy nhiên nếu các doanh nghiệp và cá nhân thắt
chặt chi tiêu thì sẽ không ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội.

Đối với những hộ nghèo, Nhà nước có chính sách hỗ trợ sau khi điều chỉnh giá điện với
mức 30.000 đồng/hộ/tháng. Các hộ thuộc diện thu nhập thấp có mức sử dụng điện thường
xuyên không quá 50kWh/tháng được ưu tiên mua điện theo giá của bậc thang đầu tiên.
Hiện cả nước có khoảng 3,1 triệu hộ (kể cả những hộ hiện chưa sử dụng điện) nằm trong
diện được hỗ trợ này, đây là chính sách rất tốt mà Chính phủ đưa ra nhằm giảm khó khăn
cho những hộ nghèo khi thực hiện lộ trình đưa giá điện sát giá thị trường của Chính phủ.

Thứ năm : là tăng cường bảo đảm an sinh xã hội với nhiệm vụ trọng tâm là hỗ trợ giảm
nghèo tại các địa phương, đặc biệt là tại các xã, thôn, bản khó khăn. Đảm bảo thực hiện
đúng và đầy đủ các quyền lợi đối với các đối tượng chính sách, người có công với cách
mạng …

Thứ sáu : được đề cập là việc đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền. Các phương
tiện thông tin đại chúng đẩy mạnh tuyên truyền về Nghị quyết, tuyên truyền về những
thuận lợi cũng như những khó khăn để nhân dân hiểu, tạo sự đồng thuận trong triển khai
thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Nghị quyết đề ra.
Nghị quyết 11/NQ-CP/2011 - Về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô

1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:

a) Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền
tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ
tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%;
tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông
thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng
vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán.

b) Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các loại
lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát.

c) Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường.
Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân
trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi
có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn
tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối.

d) Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm 2011 trình Chính phủ
ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối
nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn
chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới.

đ) Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các
quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Ban hành quy định và chế tài xử lý vi
phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, thu tài sản; quy định khen, thưởng đối
với việc phát hiện các hành vi vi phạm hoạt động thu đổi, mua bán ngoại tệ, vàng. Xử lý
nghiêm theo pháp luật đối với hành vi cố tình vi phạm.

2. Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân
sách nhà nước

a) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Chỉ đạo phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước 7-8% so với dự toán ngân sách năm
2011 đã được Quốc hội thông qua. Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế,
chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp
cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới.

- Các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm
10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao gồm chi
tiền lương và các khoản có tính chất lương, chi chế độ chính sách cho con người và tiết
kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế hoạch đầu năm).
Các Bộ, cơ quan, địa phương tự xác định cụ thể số tiết kiệm, gửi Bộ Tài chính để tổng
hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 3 năm 2011. Số tiết kiệm thêm 10% này
các Bộ, cơ quan, địa phương tự quản lý; từ quý III năm 2011 sẽ xem xét, bố trí cho các
nhiệm vụ cấp bách phát sinh ngoài dự toán hoặc chuyển về ngân sách Trung ương theo
hướng dẫn của Bộ Tài chính. Tạm dừng trang bị mới xe ô-tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị
văn phòng; giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,...;
không bố trí kinh phí cho các việc chưa thật sự cấp bách. Người đứng đầu các cơ quan,
đơn vị, địa phương, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước chịu trách nhiệm tiết giảm tối đa
chi phí hội nghị, hội thảo, tổng kết, sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước... Không bổ
sung ngân sách ngoài dự toán, trừ các trường hợp thực hiện theo chính sách, chế độ,
phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Xử lý nghiêm, kịp thời, công khai những sai phạm.

- Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP. Giám sát chặt chẽ
việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. Thực hiện rà
soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi
bảo lãnh của Chính phủ. Bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong
giới hạn an toàn và an toàn tài chính quốc gia.

b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:

- Không ứng trước vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2012 cho các dự
án, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách.

- Không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái
phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi về ngân sách Trung ương các khoản này để
bổ sung vốn cho các công trình, dự án hoàn thành trong năm 2011.

- Thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án đầu tư từ nguồn vốn
ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đã được bố trí vốn năm 2011, xác định cụ
thể các công trình, dự án cần ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện trong năm 2011;
thu hồi hoặc điều chuyển các khoản đã bố trí nhưng chưa cấp bách, không đúng mục tiêu,
báo cáo và đề xuất với Thủ tướng Chính phủ biện pháp xử lý trong tháng 3 năm 2011.

- Kiểm tra, rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh
nghiệp Nhà nước, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các biện pháp xử lý, loại bỏ các dự án
đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài.
c) Ngân hàng Phát triển Việt Nam giảm tối thiểu 10% kế hoạch tín dụng đầu tư từ nguồn
vốn tín dụng nhà nước.

d) Các Bộ, cơ quan, địa phương:

- Chưa khởi công các công trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước và trái
phiếu Chính phủ, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách và
các dự án trọng điểm quốc gia và các dự án được đầu tư từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA). Rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại để điều chuyển vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2011 trong phạm vi quản lý để tập trung vốn đẩy
nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng, cấp bách, hoàn thành trong năm 2011.

- Báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 4 năm 2011 danh mục các dự án cắt giảm
đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, danh mục các dự án cắt
giảm đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước trong phạm vi quản lý, đồng gửi Bộ Kế
hoạch và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo Chính phủ trong phiên họp thường kỳ tháng 5 năm
2011.

đ) Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại các dự án
đầu tư, tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính, báo cáo Thủ tướng Chính phủ
trong tháng 4 năm 2011 danh mục các dự án cắt giảm đầu tư, đồng gửi Bộ Kế hoạch và
Đầu tư để tổng hợp, báo cáo Chính phủ trong phiên họp thường kỳ tháng 5 năm 2011.

3. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử
dụng tiết kiệm năng lượng

a) Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:

- Trong quý II năm 2011, ban hành và thực hiện quy định về điều tiết cân đối cung - cầu
đối với từng mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý, gắn sản xuất trong nước với
điều hành xuất nhập khẩu; tiếp tục chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc
trong sản xuất, kinh doanh để đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ; chỉ đạo
điều hành xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả, ổn định giá lương thực trong nước, phối hợp
với Bộ Tài chính trong việc điều hành dự trữ quốc gia để bảo đảm an ninh lương thực;
thường xuyên theo dõi sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để kịp thời có biện
pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu. Chủ động có biện pháp
chống đầu cơ, nâng giá.

- Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu, phấn đấu bảo đảm nhập siêu không quá
16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xây dựng quy trình, nguyên tắc kiểm soát nhập khẩu
hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn
trái phiếu Chính phủ, vốn do Chính phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà
nước; phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện nghiêm Chỉ thị
của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước,
nhất là các dự án sử dụng máy móc, thiết bị, vật liệu nhập khẩu; chủ động áp dụng các
biện pháp phù hợp kiểm soát nhập khẩu hàng tiêu dùng, hạn chế nhập siêu.
- Chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các công ty thành viên có kế hoạch huy động tối
đa công suất các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện trong mùa khô, ưu tiên
bảo đảm điện cho sản xuất; phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương chỉ đạo việc sử dụng điện tiết kiệm, phân bổ hợp lý để bảo đảm đáp ứng cho
các nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống.

b) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:

- Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi nhuận do
kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng… thu được từ việc được sử
dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường.

- Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập khẩu
phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu nguyên liệu
như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,…; tiếp tục thực hiện tạm hoàn
thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong năm 2011.

- Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc
biệt theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi về thuế tại
các khu phi thuế quan theo đúng quy định. Rà soát để giảm thuế đối với các mặt hàng là
nguyên liệu đầu vào của sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được; nghiên cứu tăng
thuế xuất khẩu lên mức phù hợp đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu, tài
nguyên, nguyên liệu thô.

c) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo đảm ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa thiết yếu mà
sản xuất trong nước chưa đáp ứng; hạn chế cho vay nhập khẩu hàng hóa thuộc diện
không khuyến khích nhập khẩu theo danh mục do Bộ Công Thương ban hành.

d) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa
phương tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất
nông nghiệp, nông thôn, tăng xuất khẩu, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, bảo
đảm an ninh lương thực.

đ) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhất là thành phố Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, căn cứ tình hình sản xuất, tiêu dùng tại địa phương, chỉ đạo sản
xuất, dự trữ, lưu thông, phân phối hàng hóa thông suốt, trước hết là các hàng hóa thiết
yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu,...; tăng cường quản lý giá, bình ổn giá trên địa
bàn.

e) Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục đẩy mạnh cổ phần
hoá, tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất, đổi mới quản trị doanh nghiệp để
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm giá sản phẩm hàng hoá, dịch vụ ở mức
hợp lý; tập trung vốn cho ngành nghề sản xuất kinh doanh chính.

g) Các Bộ, cơ quan, địa phương tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo triển khai quyết liệt, tăng
cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các quy định về tiết kiệm, chống lãng phí;
xây dựng và thực hiện chương trình tiết kiệm điện, phấn đấu tiết kiệm sử dụng điện 10%
theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ; đồng thời, áp dụng các biện pháp cần thiết
và phù hợp để khuyến khích, khuyến cáo các doanh nghiệp, nhân dân sử dụng tiết kiệm
năng lượng (điện, xăng dầu), sử dụng các công nghệ cao, công nghệ xanh, sạch, công
nghệ tiết kiệm điện.

Để thực hiện nghị quyết trên NHNN đã đưa ra chỉ thị

Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 1/3/2011

Ngày 1/3, Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN về việc thực hiện giải
pháp tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát.
Tại chỉ thị 01 này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) yêu cầu các đơn vị thuộc
Ngân hàng Nhà nước và tổ chức tín dụng thực hiện tốt nhiệm vụ và giải pháp tiền tệ và
hoạt động ngân hàng.

Mục tiêu trong năm 2011, thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ và thận trọng, kiểm soát
tốc độ tăng tín dụng dưới 20% và tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 15%-
16%; lãi suất và tỷ giá ở mức hợp lý.

Đối với các tổ chức tín dụng

Một là, xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh năm 2011 phù hợp với mục tiêu tốc
độ tăng tín dụng dưới 20%, các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và chính sách kinh
tế vĩ mô khác của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước; thực hiện đúng quy định của pháp
luật về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và hoạt động ngân hàng.

Trường hợp xây dựng kế hoạch tốc độ tăng trưởng tín dụng vượt 20%, tổ chức tín dụng
phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước để xem xét trên cơ sở việc đảm bảo tỷ lệ an toàn hoạt
động kinh doanh của tổ chức tín dụng và mức độ ảnh hưởng đến tốc độ tăng tín dụng của
hệ thống tổ chức tín dụng.

Hai là, kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng, đồng thời điều chỉnh mạnh cơ cấu và nâng
cao chất lượng tín dụng:
- Giao kế hoạch kinh doanh cho chi nhánh và các đơn vị trực thuộc phù hợp với tốc độ
tăng trưởng tín dụng theo Nghị quyết số 11/NQ-CP.

- Thực hiện cấp tín dụng theo đúng quy định của pháp luật về tín dụng; đảm bảo các tỷ lệ
an toàn hoạt động kinh doanh theo quy định của NHNN; không để thiếu hụt vốn khả
dụng thanh toán; vốn tín dụng tập trung ưu tiên cho sản xuất - kinh doanh, khu vực nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa.

- Thực hiện giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất so với năm 2010,
nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán; đến 30/6/2011, tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh
vực phi sản xuất so với tổng dư nợ tối đa là 22% và đến 31/12/2011, tỷ trọng này tối đa là
16%.

Trường hợp tổ chức tín dụng chưa thực hiện được tỷ trọng này theo lộ trình, Ngân hàng
Nhà nước áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc gấp hai (02) lần so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc
chung đối với tổ chức tín dụng và biện pháp hạn chế phạm vi hoạt động kinh doanh trong
06 tháng cuối năm 2011 và năm 2012. Đến 30/06/2011, nếu tốc độ tăng tín dụng có thể
vượt mục tiêu theo Nghị quyết số 11/NQ-CP, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng
các biện pháp cần thiết, phù hợp với quy định của pháp luật để kiểm soát tín dụng.

- Cho vay bằng ngoại tệ theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo khả năng thu hồi nợ
vay bằng ngoại tệ; hạn chế cho vay nhập khẩu hàng hóa thuộc Danh mục các mặt hàng
nhập khẩu không thiết yếu, hàng tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu do Bộ Công
thương ban hành.

- Thực hiện huy động và cho vay bằng vàng theo quy định tại Thông tư số 22/2010/TT-
NHNN ngày 29/10/2010; giảm mạnh huy động và cho vay bằng vàng, phù hợp với chủ
trương của NHNN tiếp tục hạn chế việc huy động và cho vay bằng vàng của tổ chức tín
dụng trong thời gian tới.

- Tiết kiệm chi phí kinh doanh, áp dụng lãi suất cho vay ở mức hợp lý; ấn định lãi suất
huy động vốn bằng đồng Việt Nam và đô la Mỹ theo quy định của NHNN; công bố công
khai lãi suất huy động và cho vay trên website và tại chi nhánh, phòng giao dịch của tổ
chức tín dụng.

- Ấn định tỷ giá mua, bán của đồng Việt Nam đối với đô la Mỹ theo đúng quy định tại
Quyết định số 230/QĐ-NHNN ngày 11/02/2011 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
trong hệ thống của tổ chức tín dụng; chủ động hoàn thiện quy định nội bộ và áp dụng các
biện pháp phòng ngừa rủi ro cần thiết trong kinh doanh ngoại tệ.

- Thực hiện cho vay và cơ cấu lại thời hạn trả nợ, phân loại tín dụng, trích dự phòng rủi
ro và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo đúng quy định của pháp luật. Không
được thực hiện các nghiệp vụ nhằm che giấu nợ xấu như cho vay để trả nợ cũ, không
chuyển nợ quá hạn mà kéo dài thời hạn vay đối với khoản vay không có khả năng thu hồi
nợ, chuyển cho vay ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn không đúng đối tượng,
chuyển đổi đồng tiền nợ vay không đảm bảo khả năng thu hồi nợ, mua - bán nợ không
đúng quy định của pháp luật, cho vay để thanh toán các khoản nợ vay không có hiệu quả
của các tổ chức tín dụng khác,...

- Thực hiện việc mua trái phiếu doanh nghiệp theo quy định của NHNN.

- Giám sát chặt chẽ nợ xấu phát sinh; tăng cường kiểm toán nội bộ về việc thực hiện quy
định của pháp luật và quy định nội bộ về tín dụng, phát hiện và có biện pháp xử lý kịp
thời nguy cơ rủi ro tín dụng.

Đối với các đơn vị tại trụ sở chính NHNN, theo chức năng và nhiệm vụ của mình,
tham mưu cho Thống đốc NHNN thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ năm 2011 và các biện
pháp:

Một là, điều hành chủ động, linh hoạt và hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ để điều
tiết lượng tiền cung ứng, kết hợp chặt chẽ với thanh tra, giám sát việc thực hiện quy định
của pháp luật đối với hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng; sửa đổi cơ chế cho vay
bằng ngoại tệ để giảm nhu cầu vay; áp dụng biện pháp giảm tốc độ và tỷ trọng cho vay
đối với lĩnh vực phi sản xuất, để kiểm soát quy mô và chất lượng tín dụng phù hợp với
Nghị quyết số 11/NQ-CP và đảm bảo an toàn hệ thống.

Hai là, điều hành linh hoạt lãi suất tái cấp vốn, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, hoàn
thiện cơ chế điều hành lãi suất phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam năm 2010; kết hợp với các công cụ chính sách tiền tệ khác để kiểm soát lãi suất thị
trường ở mức hợp lý, phù hợp mục tiêu kiềm chế lạm phát.

Ba là, sử dụng một phần tiền cung ứng theo kế hoạch năm 2011 để tái cấp vốn cho tổ
chức tín dụng có đề án cho vay theo cơ chế tín dụng thông thường đối với khu vực nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Bốn là, điều hành tỷ giá và quản lý thị trường ngoại hối:

- Điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường ngoại tệ, mục tiêu ổn định
kinh tế vĩ mô. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ
chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước bán ngoại tệ cho
ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý; bảo đảm thanh khoản
ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển kinh doanh và tăng dự trữ
ngoại hối.

- Thực hiện các giải pháp nhằm giảm tình trạng đô la hóa, chuyển dần quan hệ huy động -
cho vay bằng ngoại tệ trong nước của tổ chức tín dụng sang quan hệ mua - bán ngoại tệ.
Tiếp tục thực hiện các biện pháp về quản lý sử dụng ngoại tệ, hạn chế cho vay bằng ngoại
tệ, cho vay bằng đồng Việt Nam để mua ngoại tệ thanh toán nhập khẩu đối với các mặt
hàng thuộc Danh mục các mặt hàng nhập khẩu không thiết yếu, hàng tiêu dùng không
khuyến khích nhập khẩu do Bộ Công thương ban hành.
- Kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng; theo dõi và dự báo sát tình hình biến động giá vàng
quốc tế, cung - cầu trong nước, chọn một số doanh nghiệp làm đầu mối nhập khẩu vàng,
điều tiết và ổn định giá vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường
tự do; phối hợp với các bộ, ngành có liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra, xử
lý các trường hợp đầu cơ, găm giữ, kinh doanh trái pháp luật vàng, ngoại tệ làm rối loạn
thị trường; trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý và kinh doanh vàng.

- Rà soát, ban hành cơ chế quản lý hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng từ nước
ngoài; việc sử dụng thẻ thanh toán quốc tế ở nước ngoài đối với các chủ thẻ là người cư
trú.

Năm là, hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng; sửa đổi,
bổ sung hình thức xử phạt vi phạm kinh doanh vàng, ngoại tệ phù hợp tình hình thị
trường ngoại hối hiện nay; tăng cường thanh tra, giám sát việc cấp tín dụng và đảm bảo
các tỷ lệ an toàn kinh doanh của các tổ chức tín dụng:

- Ban hành theo thẩm quyền, trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật hướng dẫn các quy định của Luật Các tổ chức tín dụng 2010,
phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế.

- Ban hành quy định về mua trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng; số dư nợ
mua trái phiếu của doanh nghiệp được tính vào tỷ lệ tăng trưởng tín dụng và các tỷ lệ an
toàn hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.

- Sáu tháng đầu năm 2011, tập trung thanh tra về cho vay lĩnh vực phi sản xuất; Sáu
tháng cuối năm 2011, tập trung thanh tra chất lượng tín dụng và việc thực hiện các tỷ lệ
đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. Thanh tra hoạt động của
công ty mua - bán nợ trực thuộc tổ chức tín dụng; phối hợp với bộ, ngành liên quan thanh
tra hoạt động của công ty chứng khoán trực thuộc tổ chức tín dụng; xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm; công khai đưa lên trang tin điện tử của NHNN đối với những vi
phạm phải xử lý của các tổ chức tín dụng.

Sáu là, hoàn thiện cơ chế và nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền về điều
hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

You might also like