You are on page 1of 45

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TỀ HUẾ

KHOA KỂ TOÁN – TÀI CHÍNH

THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG


ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: Mai Lê Thanh Trúc


Thực hiện: - Bùi Thị Anh
- Nguyễn Công Duật
- Nguyễn Thị Khánh Huyền
- Phan Thị Quỳnh Nhi
- Trần Thị Thanh Thủy
- Nguyễn Sơn Trà

Huế, 2011
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

MỤC LỤC

MỤC LỤC.....................................................................................................................1

1 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

I. Mở đầu
Thông tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân gây nên thất bại thị trường, trạng
thái mà ở đó thị trường không đạt được sự phân phối các nguồn lực tối ưu.

Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) lần đầu tiên xuất hiện vào những
năm 1970 và đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế học hiện đại bằng sự kiện
năm 2001, các nhà khoa học nghiên cứu lý thuyết này là George Akerlof, Michael Spence và
Joseph Stiglitz cùng vinh dự nhận giải Nobel kinh tế.

George Akerlof đã lần đầu tiên nêu lên khái niệm “thông tin bất cân xứng” trong nghiên cứu
của mình về thị trường mua bán ô tô cũ tại Mỹ, nơi mà ông gọi là “Lemon Market”. Từ việc
phát triển lý thuyết mà Akerlof nêu ra, các nhà kinh tế học Michael Spence và Joseph Stiglitz
đã phân tích biểu hiện cũng như biện pháp khắc phục vấn đề thông tin bất cân xứng trong thị
trường lao động.

Và ngày nay, vấn đề thông tin bất cân xứng gần như xuất hiện ở hầu khắp các thị trường và
đòi hỏi mỗi thị trường cần có các cơ chế đặc thù riêng trong việc xử lý thông tin bất cân xứng
nhằm hạn chế tác động của nó đến hoạt động của các bên tham gia cũng như hoạt động của
toàn bộ nền kinh tế.

Trong nội dung nghiên cứu này, nhóm chúng tôi sẽ trình bày về thông tin bất cân xứng cũng
như ảnh hưởng của nó đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

Nội dung mục II trình bày khái quát về vấn đề thông tin bất cân xứng với hai hệ quả là lựa
chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại. Sang phần III, biểu hiện của hai hệ quả này sẽ được trình bày cụ
thể hơn trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Và mục IV là tác động của
thông tin bất cân xứng đối với hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam
cũng như những giải pháp mà các ngân hàng đang thực hiện.

II. Khái quát về thông tin bất cân xứng


1. Khái niệm về thông tin bất cân xứng

Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thông tin bất cân xứng:

- Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có nhiều thông tin hơn một bên
khác. Điển hình là người bán biết nhiều về sản phẩm hơn đối với người mua hoặc ngược
lại.

2 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

- Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên đối tác nắm giữ thông tin còn bên khác thì
không biết đích thực mức độ thông tin ở mức nào đó

- Thông tin bất cân xứng là khái niệm mô tả các tình huống trong đó những người tham
gia tương tác trên thị trường nắm được thông tin khác nhau về giá trị hoặc chất lượng
của một tài sản đang được giao dịch (trao đổi) trên thị trường đó. Nói một cách khác,
nếu như không tồn tại tình trạng bất cân xứng đối với việc tiếp cận các thông tin về tài
sản, thì các bên tham gia thị trường được hiểu là "cân xứng" về thông tin.

Tóm lại, thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có ít thông tin hơn bên đối tác
hoặc có thông tin nhưng thông tin không chính xác. Điều này khiến cho bên có ít thông tin
hơn có những quyết định không chính xác khi thực hiện giao dịch đồng thời bên có nhiều
thông tin hơn cũng sẽ có những hành vi gây bất lợi cho bên kia khi thực hiện nghĩa vụ giao
dịch.

Hai hành vi phổ biến nhất do thông tin bất cân xứng gây ra là lựa chọn bất lợi (adverse
selection) và tâm lý ỷ lại (moral hazard). Lựa chọn bất lợi là hành động xảy ra trước khi ký
kết hợp đồng của bên có nhiều thông tin có thể gây tổ hại cho bên ít thông tin hơn. Tâm lý ỷ
lại là hành động của bên có nhiều thông tin hơn thực hiện sau khi ký kết hợp đồng có thể gây
tổn hại cho bên có ít thông tin hơn.

2. Hai hệ quả của thông tin bất cân xứng

3 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

2.1 Lựa chọn bất lợi

2.1.1 Khái niệm lựa chọn bất lợi

Lựa chọn bất lợi (hay còn gọi là lựa chọn ngược, lựa chọn trái ý, lựa chọn đối nghịch) là kết
quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện giao dịch hay nói cách khác trước
khi ký hợp đồng

Lựa chọn bất lợi là hành động xảy ra trước khi thực hiện giao dịch mà bên có nhiều thông tin
có thể gây ra tổn hại cho bên có ít thông tin hơn.

Lựa chọn bất lợi là trục trặc của yếu tố cơ hội chủ nghĩa trước hợp đồng; nó nảy sinh vì thông
tin riêng mà người thực hiện "giao dịch" có trước khi họ ký hợp đồng, trong lúc đang tính
toán xem việc thực hiện "giao dịch" thì có lợi hay không.

Lựa chọn bất lợi là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện giao dịch
hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng.
4 Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Lựa chọn bất lợi là một tình trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình trạng thông tin bất
cân xứng, người lựa chọn thứ tốt lại chọn phải thứ không tốt.

Trong điều kiện thông tin đối xứng, các bên trong giao dịch nắm thông tin ngang nhau và đầy
đủ về thứ được giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm được thứ tốt hoặc thứ tương xứng với
cái giá mà họ phải bỏ ra. Nhưng trong điều kiện thông tin phi đối xứng, nghĩa là một bên
trong giao dịch có nhiều thông tin về đối tượng giao dịch hơn bên kia, người có ưu thế về
thông tin có thể cung cấp những thông tin không trung thực về đối tượng được giao dịch cho
bên kém ưu thế thông tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành giao
dịch và nhận được thứ không như mình mong muốn.

2.1.2 Biểu hiện của lựa chọn bất lợi

5 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Lựa chọn bất lợi xảy ra ở hầu khắp các thị trường mà biểu hiện của nó có thể được nhận thấy
ở các thị trường tiêu biểu như thị trường mua bán đồ cũ, thị trường lao động, thị trường bảo
hiểm, thị trường chứng khoán…

a) Lựa chọn bất lợi trong thị trường mua bán đồ cũ

Thị trường mua bán đồ cũ (hay những sản phẩm


chất lượng kém) được nhà kinh tế học người Mỹ Trong quá trình nghiên cứu tình huống
George Akerlof nghiên cứu và công bố trong bài mua bán xe Ô tô trên thị trường, Akerlof
giả định rằng: xác suất để mua xe tốt là q
"The Market for 'Lemons': Quality Uncertainty
thì xác suất mua xe xấu là (1-q) (thị
and the Market Mechanism" trên tạp chí trường được phân loại xe tốt và xấu). Khi
Quarterly Journal of Economics. Trong bài viết đó mức giá trung bình(P) được giả định
của mình, Akerlof đã gọi thị trường mua bán đồ mua xe là:
cũ là “Lemon Market”. P = P1q + P2(1-q)
Trong đó: P là giá xe tốt; P là giá xe
1 2
Trên thị trường lemon, người bán là phía có đủ
xấu.
thông tin về chất lượng hàng hóa trong khi người Ông lại cho rằng người mua xe tiềm năng
mua là phía không có đủ thông tin. Người bán xem mức giá của các loại xe tốt hay xấu
biết đến sự tồn tại của vấn đề thông tin bất cân là ngang nhau, vì họ không thể phân biệt
xứng này và nó kích thích anh ta mạo hiểm bán đặc tính của xe nên họ chỉ có thể mua xe
(bất kể tốt hay xấu) tại mức giá trung
hàng hóa cũ mất chất lượng với giá như hàng bình trên thị trường. Thực tế, đối với xe
hóa chất lượng còn tốt. Người mua cũng biết đến tốt thì giá cao hơn mức giá trung bình. Vì
sự tồn tại của vấn đề thông tin phi đối xứng nên thế tại mức giá trung bình đó chỉ có
cố gắng để khỏi bị hớ bằng cách chọn mua các những xe xấu được giao dịch. Khi đó xác
suất để mua xe tốt bây giờ là q’ < q. Như
hàng hóa cũ giá trung bình với lập luận rằng vậy người mua thường là mua được
trong trường hợp bị mắc lừa thì cũng không đến những chiếc xe xấu, việc lựa chọn xe để
nỗi thiệt hại lắm. Hậu quả là, cả hàng hóa cũ chất mua trong trường hợp này gọi là sự lựa
chọn bất lợi vì họ có thể trả giá cao hơn
lượng tốt và giá cao với hàng hóa mất chất lượng
đối với xe xấu và người bán lại không thể
được bán với giá cao như của hàng còn tốt đều bán được do giá bán thấp hơn chất lượng
khó bán được. Xét trên bình diện toàn xã hội, cả xe tốt.
người bán lẫn người mua đều không được lợi;
phúc lợi xã hội bị giảm. Đây là một minh chứng của việc cơ chế thị trường không phải lúc
nào cũng tối đa hóa phúc lợi. Nói cách khác, đây là một thất bại thị trường.

b) Lựa chọn bất lợi trong thị trường lao động

Trong thị trường lao động, việc thuê lao động là một quyết định đầu tư không chắc chắn. Tính
không chắc chắn ở đây là việc thuê lao động mà người tuyển dụng không biết được khả năng
đóng góp, khả năng tạo ra năng suất của người lao động là bao nhiêu. Vì thế việc thuê lao
động có thể thuê được lao động có chất lượng hoặc không. Kết quả là cả người lao động có
trình độ thấp và trình độ cao đều được thuê với mức lương trung bình. Với mức lương đó,
người lao động có trình độ cao trở nên khó tìm việc hơn do tính cạnh tranh cũng như mức
6 Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

lương không tương xứng trong khi người lao động có trình độ thấp lại dễ dàng được nhà
tuyển dụng chấp nhận do không đòi hỏi quá nhiều.

Như vậy, nhà tuyển dụng rơi vào tình trạng lựa chọn bất lợi do không có đầy đủ thông tin và
đưa ra những quyết định sai lầm khi tuyển dụng lao động có trình độ thấp với mức lương cao
hơn mức lương mà họ đáng được nhận.

c) Lựa chọn bất lợi trong thị trường bảo hiểm

Trong thị trường bảo hiểm, bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm chấp nhận mức trả bảo hiểm cao
cho khách hàng ít nguy cơ. Song họ lại có ít thông tin về thứ họ được đề nghị bảo hiểm hơn
so với người mua bảo hiểm. Nếu người mua bảo hiểm cung cấp những thông tin không trung
thực, thì công ty bảo hiểm có thể sẽ ký hợp đồng trả tiền cao cho đối tượng bảo hiểm nhiều
nguy cơ. Ví dụ, người mua bảo hiểm nhân thọ có thể dấu thông tin về tình trạng sức khỏe tồi
(ung thư) của mình, cam đoan với công ty bảo hiểm rằng mình có sức khỏe tốt, dẫn tới công
ty bảo hiểm có thể đi ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho một người sắp chết.

Một kết quả tương tự cũng có thể xảy ra theo chiều hướng ngược lại. Nhà bảo hiểm vì một lẽ
gì đó không cung cấp đầy đủ thông tin cho người được bảo hiểm (có thể do ý nghĩ người
được bảo hiểm đã hiểu rõ về loại sản phẩm bảo hiểm đó rồi hay cũng có thể do cố tình che
dấu những hạn chế của hợp đồng bảo hiểm đó)...trong khi người được bảo hiểm lại hiểu theo
một nghĩa khác về ngôn từ, điều khoản bảo hiểm do tính khó hiểu của bảo hiểm, vì thế xuất
hiện mâu thuẫn về thông tin. Kết quả là người mua bảo hiểm có thể lựa chọn những nhà cung
cấp bảo hiểm không thực sự uy tín do những công ty này cung cấp thông tin không đầy đủ
(vô ý hoặc cố ý) cho người mua.

Dù xảy ra theo chiều hướng nào thì bên có ít thông tin đều vấp phải sự lựa chọn đối nghịch do
vấn đề thông tin bất cân xứng gây ra.

d) Lựa chọn bất lợi trong thị trường chứng khoán

Điều mà bất kỳ nhà đầu tư nào cũng mong muốn là lợi nhuận, đối với thị trường chứng khoán
lợi nhuận được thể hiện thông qua việc mua cổ phiếu giá thấp bán với giá cao (lợi vốn) hoặc
đạt được giá trị cổ tức (lợi tức) kỳ vọng mà nhà đầu tư dự kiến. Nếu kết quả đầu tư của nhà
đầu tư không hiệu quả tức nhà đầu tư vi phạm những điều đã nói trên, thì ít nhiều đã tồn tại
thông tin bất cân xứng trong hoạt động đó và hệ quả của nó là chi phí lựa chọn bất lợi mà nhà
đầu tư phải gánh chịu.

7 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Thông thường trong hoạt động mua bán,


người bán là người nắm rõ thông tin về sản Định giá cổ phiếu bằng giá trị tài sản: Giá cổ
phiếu bằng giá trị tài sản ròng chia cho
phẩm của mình và dĩ nhiên khi đó chi phí lựa
tổng số cổ phiếu phát hành
chọn bất lợi sẽ do người mua gánh chịu. Trên
Định giá cổ phiếu theo cổ tức: Giá cổ phiếu
thị trường chứng khoán cũng vậy công ty bằng D1/r hoặc D1/(r-g). Trong đó D1 là
niêm yết luôn nắm thế chủ động hơn so với
cổ tức năm 1, r là suất chiết khấu, g tốc
nhà đầu tư. Cụ thể, căn cứ vào các hoạt động
độ tăng trưởng đều của cổ tức.
sản xuất kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh và
các hợp đồng kinh doanh, các công ty niêm yết sẽ biết rõ khả năng đạt được lợi nhuận kỳ
vọng của mình là bao nhiêu nên các công ty này sẽ biết chắc chắn giá bán trên mỗi cổ phiếu
đó bao nhiêu là hợp lý. Vì ngoài phương pháp xác định giá cổ phiếu bằng giá trị tài sản, còn
có phương pháp xác định giá cổ phiếu theo cổ tức. Thế nên, nếu nhà đầu tư không xác định
chính xác cổ tức kỳ vọng của công ty niêm yết thì sẽ định giá cổ phiếu không chính xác và
nếu định giá cao hơn giá trị thực của cổ phiếu thì sự bất lợi hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư.

2.2 Tâm lý ỷ lại

2.2.1 Khái niệm

Tâm lý ỷ lại (hay còn gọi là rủi ro đạo đức) là kết quả của hành vi bị che đậy và xuất hiện sau
khi ký hợp đồng.

Tâm lý ỷ lại là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ một loại rủi ro phát
sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái. Tâm lý ỷ lại là một kiểu thất bại thị trường
nảy sinh trong môi trường thông tin bất cân xứng.

Tâm lý ỷ lại là hình thức cơ hội chủ nghĩa sau hợp đồng, phát sinh do các hành động có tác
động đến hiệu quả nhưng lại không dễ dàng quan sát được và vì thế những người thực hiện
các hành động này có thể chọn theo đuổi những lợi ích cá nhân của mình trên cơ sở gây tổn
hại cho người khác.

Tâm lý ỷ lại nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin phi đối xứng
giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng làm lợi cho bản
thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin. Hành vi tha hóa theo
hướng như thế của bên có ưu thế thông tin được bên kém ưu thế thông tin cho là không đứng
đắn, là một thứ nguy hiểm, rủi ro cho mình.

Để có sự tồn tại của tâm lý ỷ lại, ba điều kiện phải được thỏa mãn:

- Thứ nhất, phải có sự khác biệt về quyền lợi giữa các bên;

8 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

- Thứ hai, phải có một cơ sở nào đó để tạo ra trao đổi có lợi hay một hình thức hợp tác
khác nhau giữa các cá nhân (tức là có lý do để đồng ý giao dịch) từ đó làm lộ ra mâu
thuẫn về quyền lợi;

- Thứ ba là phải tồn tại những khó khăn trong việc xác định xem các điều kiện thỏa thuận
có đúng là được tuân thủ và thực hiện hay không.

2.2.2 Biểu hiện của tâm lý ỷ lại

Với ba điều kiện cho sự tồn tại của tâm lý ỷ lại, biểu hiện của nó có thể được nhận thấy trong
các thị trường mà tại đó các điều kiện thỏa thuận trong giao dịch cần có thời gian để thực
hiện, tức là những thị trường có độ trễ về thời gian giữa việc ký kết hợp đồng và việc thực
hiện hợp đồng.

a) Tâm lý ỷ lại trong thị trường lao động

Ở thị trường lao động, khi tuyển dụng lao động, ta nhận được những bản đăng kí rất hấp dẫn
từ phía những người đi xin việc. Xét duyệt những bản đăng kí đó ta chọn ra những người có
kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao và hứng thú với công việc của công ty rồi thực hiện kí
hợp đồng với họ. Tuy nhiên, những người đó sau khi đã được nhận vào làm đã phát sinh tâm
lý ỷ lại, họ không đặt lợi ích công ty gắn với lợi ích cá nhân, không thật sự nhiệt tình với công
việc như trong các bản đăng kí. Họ sẵn sàng làm những công việc mang lại lợi ích riêng cho
mình dù có tổn hại đến lợi ích chung của công ty và công ty chính là phía gánh chịu những
thiệt hại phát sinh từ tâm lý ỷ lại đó của những lao động mà công ty đã tuyển dụng.

b) Tâm lý ỷ lại trong thị trường bảo hiểm

Với các hợp đồng mua bảo hiểm thì tâm lý ỷ lại phát sinh từ phía người đi mua bảo hiểm. Cụ
thể là những người mua bảo hiểm có thể sẽ chủ quan hơn, bất cẩn hơn đối với các khoản đã
được bảo hiểm. Chính vì thế mà phía công ty bảo hiểm sẽ bị thiệt vì phải bồi thường cho
những rủi ro không đáng có được sinh ra từ tâm lý ỷ lại của khách hàng.

Chẳng hạn, Công ty A mua 1 chiêc tàu biển để phục vụ mục đích kinh doanh và công ty cũng
đã đóng bảo hiểm thân tàu cho chiếc tàu này, tức là những rủi ro gặp phải liên quan đến thân
tàu sẽ được bồi thường thiệt hại. Điều đó làm nảy sinh tâm lý ỷ lại từ phía người sở hữu chiếc
tàu. Họ có thể chủ quan hơn và không ý thức cao trong việc bảo vệ, giữ gìn chiếc tàu so với
trường hợp không đóng bảo hiểm cho chiếc tàu đó.

c) Tâm lý ỷ lại trong thị trường chứng khoán

Ở thị trường chứng khoán, tâm lý ỷ lại phát sinh nếu những người đại diện điều hành công ty
không sử dụng nguồn vốn hiệu quả và đúng mục đích. Do tính chất của đầu tư trên thị trường
là đầu tư gián tiếp nên việc quản lý, giám sát vốn đầu tư của các nhà đầu tư phải thông qua
một số người đại diện để điều hành công ty. Tâm lý ỷ lại của những người đại diện đó sẽ gia
9 Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

tăng nếu như tỷ lệ cổ phần mà họ sở hữu thấp bởi vì nếu hoạt động sản xuất kinh doanh
không hiệu quả thì trách nhiệm của họ không cao và sự thiệt hại trên vốn góp là thấp. Và
trong trường hợp những người đại diện vì theo đuổi mục đích nào đó để làm lợi riêng cho bản
thân mà gây tổn hại đến lợi ích của các nhà đầu tư thì các nhà đầu tư-bên kém ưu thế về thông
tin sẽ là người gánh chịu những rủi ro phát sinh từ tâm lý ỷ lại của những người đại diện đó.

3. Giải pháp lý thuyết hạn chế thông tin bất cân xứng

Trong nhiều lĩnh vực xuất hiện thông tin bất cân xứng thì các giải pháp thường được áp dụng
chung để hạn chế mức độ thông tin bất cân xứng là cơ chế phát tín hiệu, cơ chế sàng lọc và cơ
chế giám sát.

III.1 Cơ chế phát tín hiệu

Michael Spence là người đầu tiên nêu lên cơ chế phát tín hiệu trong việc xử lý tác động của
thông tin bất cân xứng.

Cơ chế phát tín hiệu là việc bên có nhiều thông tin có thể phát tín hiệu đến những bên ít thông
tin một cách trung thực và tin cậy. Với việc phát tín hiệu này, người bán những sản phẩm chất
lượng cao phải sử dụng những biện pháp được coi là quá tốn kém với người bán hàng hóa
chất lượng thấp.

Spence lấy ví dụ bằng thị trường lao động. Người bán là những ứng cử viên đi xin việc và
người mua là nhà tuyển dụng. Nhà tuyển dụng không thể trực tiếp quan sát các khả năng của
ứng cử viên mà chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua bằng cấp của họ. Nếu những người
kém năng lực phải mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn những người có năng lực để đạt được
cùng trình độ học vấn thì những người có năng lực có thể phát tín hiệu bằng cách đạt được
những bằng cấp mà người kém năng lực không thể đạt được.

Đối với thị trường tài chính, để giao dịch được hiệu quả thì người đi vay có thể vay được vốn
với chi phí thấp, người cho vay chắc chắn khả năng thu hồi được nợ hay người cho vay và đi
vay phải nắm rõ quyền lợi và trách nhiệm của riêng mình. Thông thường người đi vay là
người nắm rõ thông tin về mình nhất thế nên họ sẽ được lợi nhiều hơn trong giao dịch. Tuy
nhiên, ngân hàng sẽ không dễ dàng cho vay nếu như họ không biết rõ về khách hàng của
mình. Thế nên, người đi vay phải phát tín hiệu rằng mình là người có khả năng trả được nợ
tốt. Vấn đề phát tín hiệu trong trường hợp này là: Uy tín của công ty, qui mô và danh tiếng
10 Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

công ty, năng lực tài chính, tài sản đảm bảo vv, ngược lại ngân hàng cũng phải phát tín hiệu
để người đi vay thực hiện trách nhiệm của mình trong hợp đồng vay như cơ chế xử lý tài sản,
lãi suất cho vay…

Cũng giống như thị trường tài chính, nhà đầu tư khi mua cổ phiếu của một công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán, ít nhiều họ cũng cần biết công ty đó hoạt động ra sao, sản xuất
cái gì, v.v… Vì thế công ty muốn nâng cao vị thế, bán cổ phiếu với giá cao và hợp lý, nó phải
cho nhà đầu tư thấy được danh tiếng, hiệu quả hoạt động và tiềm năng phát triển của nó.

Hay một ví dụ khác, việc triển khai các chương trình quảng cáo đắt tiền, việc duy trì chế độ
bảo hành cho sản phẩm, việc chia cổ tức cho cổ đông... đó đều là những cách phát tín hiệu
trên thương trường.

III.2 Cơ chế sàng lọc

Trên cơ sở lý thuyết của Michael Spence về vấn đề thông tin bất cân xứng trong thị trường
lao động, J. Stiglitz đã phát triển lý thuyết của mình và nêu lên biện pháp khắc phục những
hạn chế do thông tin bất cân xứng gây ra.

Theo Stiglitz, bất cứ hàng hóa nào cũng đều có những đặc tính khác nhau như chất lượng
khác nhau, mẫu mã khác nhau nên cần phải phân loại chúng. Đối với lao động cũng có lao
động có khả năng, tay nghề cao và lao động có khả năng, tay nghề thấp. Vì vậy không thể trả
lương theo một mức lương cân bằng. Để khuyến khích người có khả năng cao, tạo ra năng
suất lao động cao thì cần phải trả lương cao để khuyến khích họ. Đối với người có khả năng
thấp, việc cố gắng đạt được một mức năng suất sản xuất để nhận được lương cao sẽ tốn chi
phí rất lớn so với người có khả năng cao. Vì vậy việc phân nhóm lao động để trả lương là việc
làm cần thiết để khuyến khích những người có khả năng nâng cao trình độ và mang lại hiệu
quả cao cho xã hội.

Cơ chế sàng lọc mà Stiglitz nêu lên không chỉ được ứng dụng trong thị trường lao động mà
còn được ứng dụng rộng rãi trong nhiều thị trường khác nhau.

Để hạn chế sự lựa chọn bất lợi của mình, các ngân hàng thường áp dụng hạn mức tín dụng
khác nhau đối với mỗi đối tượng vay, dự án vay và thời hạn vay. Đối với tổ chức bảo hiểm,
cơ chế sàng lọc được thể hiện qua việc chỉ bảo hiểm một phần, điều này cho thấy ngay cả đối
với nhóm bất cẩn cũng phải có trách nhiệm một phần của mình trong sự cố bồi thường có thể
xảy ra. Ở thị trường chứng khoán, ngoại trừ một số nhà đầu cơ, đa phần nhà đầu tư mong
muốn mình sẽ đầu tư vào những công ty có khả năng mang lại hiệu quả cao và bền vững. Vì
vậy cơ chế sàng lọc đối với nhà đầu tư là đầu tư vào các công ty có thông tin minh bạch, uy
tín, làm ăn hiệu quả và có tiềm năng phát triển cao.

III.3 Cơ chế giám sát

11 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại.

Trong thị trường tài chính, người cho vay thường thực hiện việc kiểm tra sử dụng vốn vay sau
khi giải ngân, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay theo định kỳ.
Trong các hợp đồng tín dụng, luôn có điều khoản yêu cầu khách hàng vay cung cấp đầy đủ và
kịp thời các thông tín liên quan đến tình hình hoạt động, những thay đổi tác động nhiều đến
bên vay…

Ngoài ra, bên cho vay còn sử dụng các hệ thống giám sát khác như hệ thống thông tin tín
dụng, thông tin trên thị trường chứng khoán, thông tin từ các đối thủ cạnh tranh, các cơ quan
quản lý....

Trong hệ thống giám sát nêu trên, đối với các tổ chức tín dụng, quan trọng nhất là hệ thống
thông tin tín dụng (hệ thống này thường do ngân hàng trung ương hoặc cơ quan giám sát hoạt
động ngân hàng làm thiết lập và tổ chức hoạt động). Hệ thống thông tin tín dụng làm nhiệm
vụ thu thập tất cả các thông tín liên quan đến hoạt động của tất cả cá đối tượng được cấp tín
dụng và sẽ cung cấp cho các thành viên trong hệ thống thông tin này hoặc cung cấp (bán) cho
những đối khác có nhu cầu. Ngoài ra, ở các thị trường tài chính phát triển, còn có một hệ
thống giám sát khác rất hiệu quả đó là các tổ chức đánh giá, xếp loại độc lập như S&P,
Moody ... Vì kết quả xếp loại của các tổ chức độc lập này có ảnh hưởng rất lớn đến ví trị của
một doanh nghiệp trên thị trường.

Trong thị trường chứng khoán, cơ chế giám sát bao gồm: giám sát trực tiếp và giám sát gián
tiếp:

- Giám sát trực tiếp: nhà đầu tư sẽ bỏ ra nguồn lực để đạt được kiểm soát thông tin, cơ chế
giám sát này tốn nhiều chi phí và sức lực, khả năng giám sát của nhà đầu tư muốn giám
sát công ty niêm yết sẽ bị hạn chế.

- Giám sát gián tiếp: thông qua các qui định của các nhà tổ chức thị trường (UBCK, Sở
GDCK), mặc nhiên các công ty niêm yết phải có trách nhiệm thông báo trực tiếp hoặc
gián tiếp đến nhà đầu tư và nhà đầu tư cũng thông qua các quyền lợi đã được qui định
mà có thể tiếp cận giám sát gián tiếp công ty niêm yết. Ngoài ra còn có giám sát thị
trường: căn cứ đánh giá của thị trường để biết nhiều thông tin hơn về các công ty niêm
yết sau khi thực hiện giao dịch.

Cơ chế giám sát được thực hiện rất chặt chẽ trên thị trường chứng khoán. Vì nhà đầu tư
không thể bỏ ra một số tiền mà không biết số tiền đó được sử dụng như thế nào.

Ngoài 3 cơ chế nêu trên, tâm lý ỷ lại còn được giảm thiểu bằng cơ chế khuyến khích. Đây là
một cơ chế rất hữu hiệu trên cơ sở chính sách cây gậy và củ cà rốt. Các tổ chức tín dụng sẽ
cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, phí, hạn mức tín dụng, tài sản đảm
bảo....cho những khách hàng có uy tín trong quan hệ, vay trả sòng phẳng. Ngược lại, đối với
12 Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

các khách hàng không có uy tín trong quan hệ sẽ bị hạn chế hạn mức tín dụng (thậm chí chấm
dứt quan hệ tín dụng), phải chịu lãi suất cao và những điều kiện khắt khe hơn về đảm bảo tiền
vay...

III. Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương
mại
1. Hoạt động tín dụng

1.1 Khái niệm

13 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các
định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó
bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo
thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay
khi đến hạn thanh toán.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình
ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng
chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Định chế tài chính hay Tổ chức tài chính là các tổ chức thương mại và công cộng hoạt động
trong lĩnh vực tài chính, tham gia vào việc trao đổi, cho vay, đi mượn và đầu tư tiền tệ. Thuật
ngữ này thường được sử dụng để thay thế cho thuật ngữ các trung gian tài chính. Theo quy
ước, các định chế tài chính gồm có các Tổ chức tín dụng, Công ty bảo hiểm, Công ty Quản lý
quỹ, Quỹ đầu tư và những người môi giới đầu tư

Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa: “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để
khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.

Trong thực tế tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng ở bất cứ dạng nào cũng thể
hiện hai mặt cơ bản:

- Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác trong một thời
gian nhất định.

- Đến thời hạn do hai bên thỏa thuận, người sử dụng hoàn lại cho người sở hữu một giá trị
lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo ngôn ngữ kinh tế là lãi suất

Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng
với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã
hội, cơ quan nhà nước.

1.2 Bản chất

Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có
các đặc trưng sau:

- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay
(bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).

14 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho
người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu
tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.

- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là
người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.

- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi vay cam kết hoàn
trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.

1.3 Phân loại

Phân loại tín dụng hay phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm
dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để
thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Phân
loại cho vay dựa vào các căn cứ sau đây:

- Dựa vào mục đích của cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:

+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.

+ Cho vay tiêu dùng cá nhân.

+ Cho vay mua bán bất động sản.

+ Cho vay sản xuất nông nghiệp.

+ Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…

- Dựa vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:

+ Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm. Mục đích của loại cho vay
này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.

+ Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 đến 5 năm. Mục đích của loại
cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.

+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho vay
này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.

- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành
các loại sau:

+ Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để
quyết định cho vay.
15 Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như
thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.

- Dựa vào phương thức cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:

+ Cho vay theo món vay: là loại cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và tổchức
tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.

+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại cho vay mà tổ chức tín dụng và khách hàng
xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian
nhất định.

+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa thuận
bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh
toán của khách hàng.

- Dựa vào xuất xứ tín dụng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:

+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời
người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng.

+ Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế
ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán như là: Chiết
khấu thương mại; bao thanh toán.

1.4 Rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện
trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân
hàng.

“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không
có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết” (Khoản 01 Điều 02 của Quy định về
phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của tổ chức tín dụng)

Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó
ngân hàng là chủ nợ, mà khách hàng nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực
hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ
chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng.

Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến
chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.

16 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

 Nguyên nhân:

- Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng

+ Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích và
đánh giá khách hàng

+ Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay

+ Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo chắc
chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay

+ Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) mà sao lãng việc coi trọng chất lượng
khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh
của khách hàng

+ Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức
tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm địa phương
khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng thời kỳ

+ Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đủ tầm
và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng

+ Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn
sử dụng

+ Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy
mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng
khoản vay

- Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng

+ Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay

+ Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng quản lý

+ Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều thực
thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được dòng tiền dẫn
đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền

+ Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch

+ Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước nếu
doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng thua lỗ thì nhà
nước chịu

17 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

+ Doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng

- Nguyên nhân khách quan.

+ Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây tổn thất
cho khách hàng vay vốn kinh doanh

+ Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới

+ Sự tấn công của hàng nhập lậu

+ Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ quan pháp
luật cấp địa phương trong việc triển khai

+ Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước

+ Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập

+ Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật liệu
đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài
chính dẫn đến không có khả năng trả nợ

Một trong các thông số dùng để đánh giá mức độ an toàn của hoạt động tín dụng là tỷ lệ nợ
xấu. Theo kinh nghiệm của nhiều nước và từ nhiều nghiên cứu, trừ những cú sốc bất ngờ như
khủng hoảng kinh tế, thiên tai…nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu nhiều nhất là do các
ngân hàng không có đầy đủ thông tin từ phía khách hàng của mình mặc dù đã có rất nhiều nỗ
lực trong công tác thẩm định . Nói một cách đơn giản, là do cơ chế sàng lọc chưa đủ hiệu lực
nên các ngân hàng đã để "lọt" những khách hàng có khả năng che đậy hành vi và thông tin
của họ trong giao dịch vay vốn để thực hiện những dự án có rủi ro cao.

Như vậy, thông tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến rủi
ro trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Việc nghiên cứu tác động của
thông tin bất cân xứng sẽ được làm rõ thông qua nghiên cứu về hai biểu hiện của nó là lựa
chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại.

2. Lựa chọn bất lợi và hoạt động tín dụng

Lựa chọn bất lợi xảy ra trước cho vay, khi ngân hàng bị khách hàng che giấu một số thông tin
dẫn tới việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín dụng không hiệu quả. Khách hàng có
độ rủi ro cao thường là nhữngkhách hàng tích cực nhất trong việc xin vay. Hậu quả của sự lựa
chon đối nghịch có thể dẫn đến việc cấp tín dụng cho khách hàng có rủi ro cao nên trong
trường hợp này các ngân hàng có thể sẽ cắt giảm cho vay hoặc không tiếp tục cho vay mặc dù
trên thị trường vẫn có nhiều khách hàng tốt.
18 Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Chẳng hạn bạn có 2 bà cô mà bạn có thể cho họ vay một món tiền – Cô Sheila và cô Louis.
Cô Louis là loại người thận trọng, chỉ vay tiền khi cô ta có một cuộc đầu tư mà cô tin chắc sẽ
có kết quả. Cô Sheila thì khác, là một người vốn liều lĩnh, cô vừa trù tính một kế hoạch làm
giàu thật nhanh để biến mình thành triệu phú nếu cô có thể vay được 1000 đôla để đầu tư vào
kế hoạch đó. Không may là kế hoạch làm giàu thật nhanh, có một xác suất cao là sẽ thất bại
và cô Sheila sẽ mất 1000 đôla.

Ai trong số 2 bà cô của bạn có nỗ lực nhất trong việc tìm bạn để hỏi vay? Tất nhiên là cô
Sheila bởi vì cô này sẽ thu được rất nhiều tiền nếu cuộc đầu tư đó thành công. Tuy vậy, có lẽ
bạn sẽ không muốn cho cô Sheila vay bởi vì cuộc đầu tư của Sheila có xác suất tồi tệ cao và
Sheila sẽ không có khả năng trả lại tiền cho bạn.

Nếu bạn biết rõ cả 2 bà cô này, tức là thông tin không phải không cân xứng thì bạn sẽ không
có khó khăn gì, bởi vì khi ấy bạn biết rằng cô Sheila không có khả năng trả nợ và do đó bạn
không cho cô này vay. Tuy vậy, giả sử rằng bạn không biết rõ 2 bà cô của bạn, bạn rất có thể
cho Sheila vay hơn là cho Louis bởi vì chính Sheila sẽ săn tìm bạn để vay tiền, tuy rằng có
những lần cô Louis, vốn là một người vay luôn có khả năng trả nợ, có thể cần một món vay
cho một cuộc đầu tư giá trị.

Ví dụ trên có thể được giải thích và mô hình hóa một cách khoa học như sau:

Đối với hoạt động tài chính ngân hàng, lựa chọn bất lợi sẽ xuất hiện khi nguồn vốn khan
hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao. Theo nguyên tắc "rủi ro cao - lợi nhuận cao” và nguyên
tắc loại trừ, khi nguồn cung tín dụng dồi dào, mức lãi suất cho vay thấp thì các dự án có suất
sinh lợi thấp - rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ một cách chắc chắn và các dự án có suất
sinh lợi cao - rủi ro cao với khả năng trả nợ ít chắc chắn hơn đều được cấp tín dụng để thực
hiện. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh khi nguồn vốn khan hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao.
Khi đó các dự án an toàn không được cấp tín dụng mà chỉ có những dự án có mức độ rủi ro
cao, với suất sinh lợi cao được vay vốn để thực hiện. Đây chính là vấn đề lựa chọn bất lợi
r
trong hoạt động tài chính ngân hàng
D đã xảy ra. Khi mà chỉ các dự án có độ rủi ro cao được
S S0
thực hiện thì nguy cơ vỡ nợ của các tổ chức tài chính 1là rất cao.

Hình vẽ dưới đây được dùng để mô tả vấn đề:

Giả sử lúc ban đầu cung cầu vốn cắt


E1
r1 nhau ở điểm E0 với lãi suất cho vay là
E0 r0 và lượng vốn cho vay là Q0. Các dự
r0 án có rủi ro thấp (Q1Q0 ) và các dự án
có rủi ro cao (OQ1) đều được thực
Q1 Q0 hiện (để đơn giản cho việc mô tả mô
O Dự án rro cao Dự án hình, giả sử
Q rằng đối với các dự án rủi
Lnhuận cao ro thấp coi như tổn thất bằng 0). Lúc
rro thấp
Lnhuận
thấp
19 Tài chính tiền tệ
D: Đường cầu vốn
S0 ,S1 : Đường cung vốn
Trục hoành OQ: Lượng vốn
Trục tung Or: Lãi suất
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

này, một trong hai trường hợp sẽ xảy


ra:
Thứ nhất, nếu thu nhập từ việc cấp tín
dụng cho các dự án đủ để bù đắp các
chi phí hoạt động, các rủi ro xảy ra do
các dự án không thành công mang lại
và đảm bảo lợi nhuận biên theo yêu
cầu, thì các tổ chức tín dụng vẫn duy
trì ở mức lãi suất cho vay r0. Giả sử
lúc này "tương quan" giữa các dự án
rủi ro thấp và rủi ro cao là cân bằng
nhau. Ở điểm cần bằng này, dù lợi
nhuận các dự án mang lại có cao bao
nhiêu thì thu nhập tối đa của bên cho
vay chỉ là OQ0E0r0
Thứ hai, nếu thu nhập từ việc cấp tín dụng cho các dự án không đủ để bù đắp các chi phí hoạt
động, các rủi ro xảy ra do các dự án không thành công mang lại và không đảm bảo lợi nhuận
biên thì các tổ chức tín dụng sẽ tăng lãi suất cho vay. Lúc này các dự án rủi ro thấp bị giảm đi
và các dự án rủi ro cao vẫn không thay đổi, "tương quan" sẽ nghiêng về phía các dự án rủi ro
cao. Nếu cứ tiếp tục như vậy, đường cung bị đẩy dần lên đi đến điểm E 1. Kết quả là, không
còn dự án ít rủi ro mà toàn bộ là các dự án có mức độ rủi ro cao được thực hiện. Ở điểm cần
bằng này, dù lợi nhuận các dự án mang lại có cao bao nhiêu thì thu nhập tối đa của bên cho
vay chỉ là OQ1E1r1 , trong khi các dự án không thành công nhiều gây ra tổn thất rất lớn dẫn
đến nguy cơ vỡ nợ. Đây chính là kết quả của lựa chọn bất lợi.

3. Tâm lý ỷ lại và hoạt động tín dụng

Như đã trình bày ở trên, để có sự tồn tại của tâm lý ỷ lại, ba điều kiện phải được thỏa mãn.
Trong đó, điều kiện thứ ba là phải tồn tại những khó khăn trong việc xác định xem các điều
kiện thỏa thuận có đúng là được tuân thủ và thực hiện hay không.

Trong hoạt động tín dụng, việc giám sát việc sử dụng các khoản tín dụng của ngân hàng
thường vấp phải nhiều khó khăn đến từ cả phía ngân hàng cũng như người đi vay.

Bản thân các ngân hàng có thể gặp phải những rủi ro do tâm lý ỷ lại ở người đi vay khi ngân
hàng khi không giám sát được đầy đủ người đi vay, kích thích người này dùng khoản vay một
cách mạo hiểm quá mức.

Tâm lý ỷ lại xảy ra sau cho vay, khi khách hàng có động cơ đầu tư vào những dự án có độ rủi
ro cao. Nếu dự án đó thành công thì khách hàng sẽ thu được lợi rất lớn, ngược lại nếu dự án
thất bại thì ngân hàng sẽ phải gánh chịu hậu quả do khách hàng thua lỗ. Tâm lý ỷ lại cũng có
thể xảy ra khi khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, đầu tư vào dự án kém hiệu
quả, lừa đảo ngân hàng... Xung đột về lợi ích giữa người vay và ngân hàng từ vấn đề tâm lý ỷ
lại dẫn đến tình trạng một số ngân hàng quyết định giảm cho vay, ảnh hưởng đến cả nền kinh
tế.
20 Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Ngoài ra, còn có tâm lý ỷ lại của các tổ chức tín dụng sau khi cho vay. Thiếu sót trong quá
trình kiểm tra sử dụng vốn vay có đúng mục đích.

Để hiểu rõ hơn về tâm lý ỷ lại trong hoạt động tín dụng, chúng ta sẽ nghiên cứu ví dụ sau:

Giả sử bạn có một người bà con, ông bác Melvin, vay một món 1000 đôla, ông này cần số
tiền này để mua một máy chuyên dùng cho doanh nghiệp. Khi bạn đã cho vay, ông Melvin có
thể tới thẳng trường đua để chơi cá ngựa. Nếu thắng, ông ta đủ khả năng trả lại bạn món 1000
đôla và nhận thêm 19000 đôla nữa. Nhưng nếu ông ta thua, như thường xảy ra, thì bạn không
đòi được tiền và tất cả những gì ông ta mất chỉ là danh tiếng một ông bác thẳng thắn và đáng
tin cậy. Do đó, ông bác Melvin có ý muốn tới trường đua bởi vì cái được của ông ta nếu ông
ta thắng cược có thể lớn hơn nhiều so với giá mà ông ta phải trả nếu ông ta thua cược. Nếu
lúc ấy bạn biết ý định của ông bác Melvin thì bạn sẽ ngăn ông ta tới trường đua và ông ta sẽ
không thể làm chuyện rủi ro. Tuy nhiên, bạn khó có được thông tin về ông ta – tức là xảy ra
thông tin không cân xứng – nên có một cơ hội tốt để ông bác Melvin có thể tới trường đua và
bạn có thể không đòi được tiền.

Tâm lý ỷ lại trong các hoạt động giao dịch vay nợ là khá phổ biến. Nó đặt ra câu hỏi “kiểm
soát” đối với các Tổ chức tài chính trong việc giám sát việc sử dụng “đồng vốn” của khách
hàng

4. Xử lý thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng

21 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Giải pháp lý thuyết về xử lý vấn đề thông tin bất cân xứng được trình bày ở mục II đã cung
cấp ba cơ chế cơ bản là cơ chế phát tín hiệu, cơ chế sàng lọc và cơ chế giám sát. Sang phần
này, chúng ta sẽ cùng nghiên cứu việc vận dụng cụ thể ba cơ chế này cũng như cơ chế khuyến
khích – một cơ chế được xem là đặc thù trong việc hạn chế thông tin bất cân xứng đối với
hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại.

4.1 Sử dụng hệ thống thông tin tín dụng

Hầu như không một ngân hàng nào có đủ khả năng tự mình xử lý được vấn đề thông tin bất
cân xứng mà cần phải có hệ thống thông tin phục vụ đánh giá xếp loại khách hàng và hệ
thống thông tin phục vụ cho việc thẩm định dự án.

Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như lịch sử hình thành và quá trình phát triển,
năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành,… là cơ sở hết sức quan trọng giúp
cho việc thẩm định, xếp loại, lựa chọn khách hàng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Nếu hệ thống này không đầy đủ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng đánh giá, thẩm định khách
hàng của các ngân hàng.

Hệ thống thông tin tín dụng đóng vai trò như là người trung gian trong quá trình đánh giá
mức độ “an toàn” của khách hàng, là cơ sở cho các quyết định cấp tín dụng của các ngân
hàng.

Ngoài hệ thống thông tin tín dụng chung cho các ngân hàng thương mại, các ngân hàng
thường tự xây dựng cho mình cơ chế riêng trong việc đánh giá, thẩm định khách hàng của
mình.

22 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Hệ thống thông tin tín dụng cùng với hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cung cấp những
thông tin cần thiết về người đi vay cho các ngân hàng thương mại. Trên cơ sở nắm đầy đủ
thông tin về các khách hàng của mình, các ngân hàng có thể hạn chế hữu hiệu rủi ro do lựa
chọn bất lợi nảy sinh từ vấn đề thông tin bất cân xứng.

Các hệ thống thông tin tín dụng thông qua cơ chế xếp hạn tín dụng cung cấp cho các ngân
hàng những thông tin cần thiết trong việc đánh giá, thẩm định khách hàng.
Xếp hạng tín dụng hay xếp hạng tín nhiệm là những ý kiến đánh giá về rủi ro tín dụng và
chất lượng tín dụng, thể hiện khả năng và thiện ý trả nợ (gốc, lãi hoặc cả hai) của đối
tượng đi vay để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính một cách đầy đủ và đúng hạn thông qua
hệ thống xếp hạng theo ký hiệu. Hiện nay, trên thế giới có hai phương pháp xếp hạng tín
dụng chính là mô hình toán học và phương pháp chuyên gia.
Phương pháp xếp hạng mô hình toán học:
Chỉ số Z của Edward I. Altman: Chỉ số Z là công cụ được cả hai giới học thuật và thực
hành, công nhận và sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Mặc dù chỉ số Z được phát
minh tại Mỹ, nhưng hầu hết các nuớc vẫn có thể sử dụng với độ tin cậy khá cao như
Mexico, Indian... Chỉ số này dựa trên phương pháp thống kê với công cụ phân tích
biệt số đa yếu tố (MDA).
Chỉ số Zeta: Zeta là một chỉ số được Altman cải tiến từ chỉ số Z, Zeta làm việc tốt với
dữ liệu tài chính của các công ty sản xuất và cả bán lẻ với độ chính xác hơn 90%
trước khi phá sản 1 năm và chính xác trên 70% từ năm thứ 5 trở đi trước khi phá sản.
Phương pháp chuyên gia:
Phương pháp xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp của Fitch: Fitch xếp hạng doanh nghiệp
dựa trên phân tích định tính và phân tích định lượng. Phân tích định tính gồm có
phân tích rủi ro ngành, môi trường kinh doanh, vị thế của doanh nghiệp trong ngành,
năng lực của ban quản trị, phân tích kế toán. Trong phân tích định lượng, Fitch nhấn
mạnh đến thước đo dòng tiền của thu nhập, các khoản đảm bảo (coverage) và đòn
bẩy.
Phương pháp xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp của S&P: Cũng như Fitch, phương pháp
xếp hạng của S&P bao gồm cả phân tích định tính và định lượng. S&P cũng tập
trung nhiều vào phân tích dòng tiền và khả năng thanh toán trong quá khứ. Trong
quy trình xếp hạng, S&P không phân loại theo tính chất của dữ liệu mà phân loại
theo rủi ro là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
Phương pháp xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp của Moody's: Moody's thiết lập 11 tỷ số
chung nhất để sử dụng trong phân tích so sánh, các tỷ số này được Moody's ứng
dụng rộng rãi ở những quốc gia khác nhau, những ngành khác nhau và cả ở các báo
cáo xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quy trình cụ thể, Moody's có
thể xem xét bớt hoặc thêm vào các chỉ tiêu cho phù hợp với từng ngành riêng biệt.

4.2 Sử dụng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ công tác thẩm định, kiểm tra sử dụng vốn vay

23 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Ngoài hệ thống thông tin dùng để đánh giá khách hàng, khi thẩm định dự án, phương án kinh
doanh, các tổ chức tín dụng cần phải có hệ thống thông tin nhằm xác định, kiểm tra các thông
số đầu vào và đầu ra của dự án, nhất là các thông số về thị trường các nguyên liệu đầu vào và
thị trường đàu ra của sản phẩm…

Khi thẩm định dự án, phương án kinh doanh, các ngân hàng thường xử dụng các tiêu chuẩn
thẩm đinh dự án đầu tư kết hợp với các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án.

Trong quá trình thẩm định một sự án, có rất


nhiều tiêu chuẩn để đánh giá dự án, nhưng
hai tiêu chuẩn thông dụng nhất là dựa vào Giá trị hiện tại ròng (NPV) là tổng giá trị
giá trị hiện tại ròng (NPV) và suất thu hồi hiện tại của dòng thu nhập ròng mà dự án
vốn nội bộ (IRR). Một dự án có NPV cảng mang lại trong cả vòng
đời của nó.
dương hay suất thu hồi vốn nội bộ lớn hơn
một ngưỡng yêu cầu là có thể quyết định
Trong đó:
đầu tư hoặc cấp tín dụng cho dự án đó. Vấn n: Số năm hoạt động của dự án
đề khó khăn đầu tiên đối với các tổ chức tín t: Năm bắt đầu thực hiện dự án được coi là
dụng khi tính NPV hoặc đánh giá theo tiêu năm gốc
chuẩn IRR thì suất chiết khấu nào được sử CIt: Giá trị luồng tiền mặt thu tại năm t
dụng ở đây. Có thể sử dụng mô hình định COt: Giá trị luồng tiền mặt chi tại năm t (gồm
giá tài sản vốn (CAPM) hoặc các mô hình chi phí đầu tư và chi phí vận hành hàng
khác để xác định giá trị này. Điều này là năm của dự án)
bất khả thi vì các hệ số gần như không thể Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) là mức lãi suất
mà dự án có thể đạt được đảm bảo cho tổng
xác định được hoặc nếu có xác định được các khoản thu của dự án cân bằng với các
thì chúng không có ý nghĩa xác thực để lấy khoản chi ở thời gian mặt bằng hiện tại.
đó làm căn cứ.
Trong đó:
Thực tế tại các tổ chức đang làm là lấy lãi IRR: Hệ số hoàn vốn nội bộ cần nội suy (%)
suất cho vay trung dài hạn của chính tổ r1 : Tỷ suất chiết khấu thấp hơn tại đó NPV1
chức tín dụng đó cộng (+) thêm một tỷ lệ lớn hơn 0 và gần sát 0 nhất
nữa để có được suất chiết khấu. Với r2: Tỷ suất chiết khấu cao hơn tại đó NPV2
phương thức này có thể tạm chấp nhận nhỏ hơn 0 và gần sát 0 nhất
được vì dù sao cũng có cơ sở. Nhưng cở sở
này là rất cảm tính.

24 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Kỹ thuật đánh giá, thẩm


định dự án nói riêng, dự
báo nói chung hiện nay
Miền xác suất được sử dụng phổ biến
% (%) nhất là dựa vào phân tích
mô phỏng (phân tích động)
để tính xác suất có khả
năng xảy ra các trường hợp
tốt và các trường hợp bất
Dự án A lợi cho dự án. Việc nhìn
vào biểu đồ phân bố xác
Dự án B xuất của dự án có thể biết
O NPV được xác suất để NPV
dương là bao nhiêu, âm là
bao nhiêu.

4.3 Hệ thống đăng ký tài sản

Nhà kinh tế học người Peru Hernando de Soto khi bàn về


"vốn xã hội" trong phân tích các yếu tố ngoại kinh tế đã
giải thích lý do gốc của tình trạng chậm tiến của các nước
kém phát triển là sự thiếu vắng một khung luật pháp để
đăng ký các tài sản, để chứng nhận quyền sở hữu (gọi tắt
là "sở hữu hoá") của người đang "có" chúng. Chừng nào
còn chưa được sở hữu hóa thì giá trị của những tài sản ấy
sẽ là rất thấp vì chúng không thể được bán hoặc chuyển
nhượng, và do đó người đang sử dụng không thể dùng các
tài sản ấy vào những kinh doanh khác.
Ði vào chi tiết hơn, De Soto nhắc lại một hiện tương kinh
tế căn bản, đó là trong đa số các thị trường chủ yếu (đất
đai, các món hàng giá cao cần trả góp, cần bảo đảm...), người mua hoặc người bán (hoặc cả
hai) cần biết tông tích của đối tác -- chính xác hơn, họ cần biết khả năng thực thi cam kết (như
trả góp, hoặc giao hàng sau) của đối tác. Trong kinh tế học, những thị trường này được gọi là
"không nặc danh" (non-anonymous). Trái lại, các thị trường kiểu "tiền trao cháo múc", không
ai cần biết ai khi mua bán, là những thị trường nặc danh (anonymous).
Theo De Soto, hệ thống đăng ký tài sản cho phép những người tham dự thị trường (không nặc
danh) có những thông tin cần thiết về đối tác để đánh giá khả năng thực thi cam kết của đối
tác ấy. Tôi chẳng hề biết anh, nhưng nếu nhà nước có hệ thống đăng ký thì tôi có thể kiểm
định xem anh có bất động sản, có ô tô, hoặc những tài sản nào khác chăng. Tôi cũng có thể
tìm biết anh đã có dùng những tài sản đó làm thế chấp trong những vụ buôn bán nào khác của
anh hay không. Hơn nữa, trong chừng mực luật định, nhà nước có thể tước quyền sở hữu của

25 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

anh nếu anh không thi hành cam kết của anh với tôi. Và, nhờ tất cả những điều đó, tôi sẳn
sàng buôn bán làm ăn lâu dài với anh.
Một hệ thống đăng ký quyền sở hữu tài sản rõ ràng là vô cùng quan trọng cho phát nền kinh tế
nói chung, hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Nếu tất cả các tài sản được đăng ký và xác
nhận quyền sở hữu, thì người chủ sở hữu tài sản đó có thể đem tài sản này thế chấp, cầm cố
vay vốn ngân hàng. Hay nói cách khác, nếu tất cả các tài sản (nhất là các bất động sản) được
đăng ký quyền sở hữu (hay quyền sử dụng) khi đó mới thực sự là tài sản, nếu không chỉ là
một công cụ của người có nó vì việc chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố sẽ gặp nhiều khó khăn
hơn.
Hệ thống đăng ký tài sản giúp ngân hàng xác định được khả năng thực thi cam kết của khách
hàng khi cấp tín dụng, từ đó hạn chế rủi ro do lựa chọn bất lợi gây ra.
4.4 Hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo

Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào sổ Đăng ký
giao dịch bảo đảm là việc bên bảo đảm dùng tài sản thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự đối với bên nhận bảo đảm.

Ví dụ: Ông A vay tiền của Ngân hàng B và thế chấp tài sản của mình là một căn nhà cho ngân
hàng. Việc thế chấp này chính là một hình thức “bảo đảm giao dịch”, hay còn gọi là biện
pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp ông A không trả nợ đúng hạn, ngân
hàng có quyền "xử lý" căn nhà này để thu hồi nợ.

Thông thường trong đời sống xã hội, việc các cá nhân, tổ chức thực hiện các giao dịch có
dùng biện pháp bảo đảm dân sự là bình thường và phổ biến. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp và đối với một số loại tài sản - chủ yếu là bất động sản và các loại tài sản có giá trị lớn,
việc thế chấp tài sản bắt buộc phải được đăng ký qua cơ quan quản lý Nhà nước.

Hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo cung cấp cơ sở cho việc tuân thủ và thực hiện đúng cam
kết của người đi vay đối với khoản vay cũng như nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Nhờ có hệ
thống đăng ký giao dịch đảm bảo, những rủi ro do tâm lý ỷ lại gây ra sẽ được hạn chế.

IV. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối với hoạt động tín dụng của
các ngân hàng thương mại Việt Nam
Trong hai phần trước, chúng ta đã tìm hiểu về thông tin bất cân xứng cũng như các biện pháp
hạn chế ảnh hưởng của nó trong các lĩnh vực, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Trong nội dung
mục IV, chúng tôi sẽ trình bày về tác động của thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín
dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng như những những biện pháp và những
mặt còn tồn tại trong việc hạn chế ảnh hưởng của nó.

1. Thực trạng tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

26 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

1.1 Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng và tín dụng ở Việt Nam

Nhìn lại lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như cơ chế điều chỉnh lãi suất ở Việt
Nam, chúng ta có thể nhận thấy các giai đoạn cơ bản sau:

- Giai đoạn trước năm 1988: Trong giai đoạn này, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ
bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh
doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền
kinh tế theo phương thức quản lý kế hoạch hóa tập trung. Lãi suất danh nghĩa luôn thấp
hơn tỷ lệ lạm phát. Hệ quả là lãi suất không thực hiện được chức năng vốn có của nó, lãi
suất không còn là đòn bẩy kích thích nhu cầu tiền gửi của công chúng, phát huy tính
hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.

- Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1992: cơ chế thực thi lãi suất cố định được thực hiện.
Đặc biệt tháng 5 năm 1990, Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố 2 Pháp lệnh về
ngân hàng ( Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác
xã tín dụng và công ty tài chính). Sự ra đời của 2 Pháp lệnh Ngân hàng đã chính thức
chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp,
trong đó Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh
doanh tiền tệ, ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng trung ương; các ngân
hàng thương mại và tổ chức tín dụng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối
và dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ pháp luật.

- Giai đoạn từ tháng 6 năm 1992 đến năm 1996, cơ chế điều hành khung lãi suất được
thực hiện. NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo khung, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi
và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các NHTM, TCTD căn cứ khung lãi suất
của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình.

- Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000: trần lãi suất được điều hành linh hoạt trong thời
kỳ từ năm 1996 đến tháng 7-2000. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã bước đầu
thực hiện tự do hóa lãi suất huy động. Thay thế cho khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi
và tối đa về tiền vay, NHNN chỉ quy định các mức lãi suất "trần" theo thời hạn cho vay
và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy động vốn bình quân ở
mức 0,35%/tháng (tương đương 4,2%/năm). Quy định này nhằm khắc phục tình trạng
hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi doanh nghiệp
đang gặp nhiều khó khăn do biến động kinh tế khu vực và thế giới. Tới cuối tháng 1-
1998, quy định chênh lệch lãi suất được xóa bỏ, chỉ giữ lại quy định trần lãi suất cho
vay. Trong một thời gian dài, từ cuối những năm 80 cho tới năm 2000, cơ chế lãi suất
của Việt Nam luôn cố gắng duy trì mức lãi suất thực dương – như một giải pháp cho vấn
đề lạm phát. Mục tiêu kiểm soát lạm phát đã đạt được.

27 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

- Giai đoạn từ tháng 8 năm 2000 đến tháng 5 năm 2002: Cơ chế điều hành lãi suất với một
mức cơ bản kèm biên độ dao động được NHNN áp dụng thay cho cơ chế lãi suất trần.
Hai chỉ tiêu này được công bố chính thức định kỳ hàng tháng và điều chỉnh kịp thời
trong trường hợp cần thiết. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản, các ngân
hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất
thị trường quốc tế và cung – cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Đây là nền tảng
cho việc xác định điểm cân bằng tỷ giá theo cách tính sức mua tương đương (PPP), từ
đó, hình thành một cơ chế tự điều chỉnh.

- Giai đoạn từ tháng 5 năm 2002 đến nay: tháng 5-2001, NHNN từng bước chuyển sang
áp dụng hình thức cho vay bằng ngoại tệ. Và kể từ sau tháng 5-2002, cơ chế lãi suất thỏa
thuận được áp dụng trong hoạt động tín dụng. NHNN điều chỉnh cơ chế điều hành lãi
suất: lãi suất tái cấp vốn-lãi suất trần, lãi suất tái chiết khấu-lãi suất trên thị trường tiền tệ
liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở -công cụ điều hành thường xuyên của NHNN.

Song song với sự hoàn thiện của hệ thống ngân hàng và cơ chế điều hành lãi suất, hoạt động
tín dụng đã đạt được nhiều bước đột phá và khẳng định được tầm quan trọng của mình trong
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại nói riêng và trong hoạt động kinh tế của
đất nước nói chung.

Tăng trưởng tín dụng 10 năm trở lại đây (đơn vị: %)

28 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế là tối đa hóa lợi nhuận. Một tổ chức kinh doanh tiền tệ cũng không nằm ngoài mục đích đó.
Ngân hàng thu được lợi nhuận thông qua các hoạt động dịch vụ cung cấp cho khách hàng như
thanh toán, tư vấn và quan trọng nhất là hoạt động cho vay (hoạt động tín dụng). Sự chênh
lệch giữa tiền lãi kiếm được thông qua hoạt động và tiền lãi phải trả thông qua các huy động
tạo nên lợi nhuận của ngân hàng. Đây chưa phải là toàn bộ lợi nhuận của ngân hàng, tuy
nhiên nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng và nó chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng số lợi nhuận của ngân hàng.

Kết quả kinh doanh của Ngân hàng Eximbank năm 2010 (Đơn vị: tỷ đồng)

Tín dụng ngân hàng còn đóng vai trò rất quan trọng sự nghiệp phát triển kinh tê – xã hội.
Chúng ta đều biết rằng muốn phát triển kinh tế thì trước hết là phải có vốn (vốn bằng tiền).
Để có vốn bằng tiền thì phải có tổ chức có đủ thẩm quyền, có chức năng huy động và tập
trung trước khi đem ra sử dụng.

29 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Ở bất kỳ quốc gia nào thì cũng có hai tổ chức thực hiện công việc này là tổ chức tài chính
(quỹ tài chính) và tổ chức tín dụng, song chủ yếu là tổ chức tín dụng. C.Mác đã có câu viết:
“Một mặt ngân hàng (tài chính tín dụng) là sự tập trung tự bán tiền tệ của những người có tiền
cho vay, mặt khác đó là sự tập trung những người đi vay”. Tín dụng ngân hàng đã đóng vai
trò quan trọng từ buổi sơ khai đến mô hình ngân hàng hiện đại ngày nay. Với khái niệm ấy
đối với riêng trong lĩnh vực tín dụng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong sự phát triển
kinh tế, xã hội. Thực tiễn cho thấy hiệu quả sử dụng vốn là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc
đẩy, mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế, tác động tích cực đến nhịp độ phát triển và thúc đẩy
sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.

Từ 2/8/2000 NHNN chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản, các ngân hàng chủ động linh
hoạt quy định lãi suất cho vay theo quan hệ với khách hàng, lãi suất cho vay của ngân hàng
đối với nền kinh tế ngoài quốc doanh giảm xuống ngang hàng với DNNN, lãi suất cho vay
linh hoạt theo diễn biến cung cấp vốn, theo yêu cầu của thị trường và khách hàng, làm cho tín
dụng được mở rộng, và đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp.

30 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Tăng trưởng GDP, cung tiền M2 và tín dụng

Thực hiện theo đúng đường lối chính sách đổi mới của Đảng về nội dung cơ bản của CNH,
HĐH trong những năm còn lại của thập niên 90 là: “Đặc biệt coi trọng hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế
biến nông, lâm, thủy sản”, hệ thống ngân hàng nhất là NHNN & PTNT đã tăng cường đầu tư
cho nông nghiệp nông thôn. NHNN & PTNT cho vay 32300 tỷ đồng, NH Công thương 3000
tỷ đồng, NH Ngoại thương 1900 tỷ đồng… So với tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của cả
nước thì khu vực nông nghiệp và nông thôn có tốc độ tăng trưởng khá hơn.

Tuy là nghiệp vụ kinh doanh chính đem lại hơn 80% doanh thu, nhưng hoạt động tín dụng
của các ngân hàng thương mại Việt Nam dường như có trục trặc mà nó được thể hiện qua
khối lượng nợ xấu tương đối cao.

1.2 Tình hình nợ xấu ở các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

1.2.1 Nợ xấu và các vấn đề về nợ xấu

a) Khái niệm về nợ xấu

Nợ xấu - là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị xóa
sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Đối với các ngân hàng, nợ xấu tức là các
khoản tiền cho khách hàng vay, thường là các doanh nghiệp, mà không thể thu hồi lại được
do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản,...

31 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Nợ xấu được coi là chi phí khác của doanh nghiệp cho vay, chính vậy nên làm giảm thu nhập
dòng. Nhìn chung, một doanh nghiệp luôn phải ước tính trước những khoản nợ xấu trong chu
kỳ kinh doanh hiện tại dựa vào những số liệu nợ xấu ở kì trước. Đa số các công ty đều cho
phép một tỉ lệ nợ xấu nhất định trên tổng nợ vì chắc chắn một điều là không thể thu hồi được
mọi khoản nợ một cách đầy đủ nhất.

 Điều 6 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN quy định Tổ chức tín dụng thực hiện phân
loại nợ như sau:

Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:

- Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả
gốc và lãi đúng thời hạn;

- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2, Điều này.

Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại;

- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều
này.

Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại;

- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều
này.

Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại;

- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều
này.

Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:

32 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;

- Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.

- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ
cấu lại;

- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều
này.

Nợ xấu bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn.

b) Nguyên nhân

Nợ xấu là hệ quả của rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại. về nguyên nhân tồn tại, nợ
xấu được hình thành từ hai nhóm nguyên nhân cơ bản là nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan.

Nguyên nhân khách quan xuất phát từ sự thay đổi của môi
trường tự nhiên (thiên tai, dịch bệnh,…), sự biến động quá Ràng buộc tài chính
nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới, sự tấn “mềm”: tình trạng một
doanh nghiệp không quan
công của hàng nhập lậu, rủi ro do môi trường pháp lý chưa
tâm nghiêm túc đến việc
thuận lợi và sự kém hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà
thua lỗ tài chính và luôn
nước, hệ thống thông tin quản lý còn bất cập… luôn kỳ vọng rằng chính
phủ hay một bên thứ ba sẽ
Nguyên nhân chủ quan xuất phát từ sự quản lý yếu kém của
đứng ra cứu giúp khi phải
ngân hàng cũng như từ phía khách hàng. Các ngân hàng
đối mặt với phá sản. Chính
thương mại quốc doanh chỉ bị ràng buộc tài chính “mềm” ,
sách bao cấp của chính phủ
dẫn đến việc các ngân hàng không quan tâm đến việc đánh đối với doanh nghiệp, đặc
giá sát sao năng lực tài chính của người vay, gây ra và tích biệt là doanh nghiệp Nhà
đọng nợ xấu. nước là cơ sở cho tình trạng
này.
Lãi suất huy động vốn quá cao dẫn đến lãi suất cho các doanh
nghiệp vay tăng lên, các doanh nghiệp mạnh sẽ không chấp nhận mức lãi suất quá cao, họ có
khả năng tìm đến những nguồn vốn khác. Nghi vấn đặt ra đối với những doanh nghiệp dám
chấp thuận mức lãi suất cao. Phần lớn sự chấp thuận đó xuất phát từ sự thiếu vốn trầm trọng,
năng lực tài chính hạn chế, độ tín nhiệm thấp nên không tiếp cận được những nguồn vốn
khác. Và tất nhiên, nguy cơ nợ xấu ngân hàng tăng lên từ nhóm đối tượng này.

Nguyên nhân chủ quan còn là hệ quả của việc thiếu thông tin về người đi vay của các ngân
hàng thương mại cũng như thiếu cơ chế giám sát quá trình thực hiện dự án sau khi vay. Đây
đều là hệ quả của vấn đề thông tin bất cân xứng gây nên.

33 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

c) Hậu quả

Nợ xấu ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của cả chủ nợ và doanh nghiệp. Chủ
nợ mất nhiều thời gian, công sức thu hồi nợ. Trong khi đó, doanh nghiệp gần như mất khả
năng trả nợ, chủ nợ có nguy cơ mất trắng.

Tuy nhiên, việc loại trừ nợ xấu gần như là điều không thể. Việc phản ánh tình trạng nợ xấu
trong báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại càng đầy đủ và chi tiết càng phản ánh
tình trạng tín dụng càng đảm bảo thông qua việc trích lập các khoản dự phòng chính xác và
mang tính thực tế.

1.2.2 Nợ xấu ở các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tình trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam nhìn chung vẫn cao hơn nhiều
nước trong khu vực.
Tỷ lệ nợ xấu của một số nước Châu Á năm 2008 (Đơn vị: %)

Tỷ lệ nợ xấu tính trên %


Quốc gia
tổng dư nợ

Trung Quốc 2,4

Hồng Kông 0,9

Hàn Quốc 1,1

Ấn Độ 2,3

Malaysia 1,9

Indonesia 3,2

Singapore 1,4

Việt Nam 2,2

Tuy vậy, sang năm 2009, tỷ lệ nợ xấu, trong đó nợ xấu ở các nhóm nợ có rủi ro tín dụng cao
(nhóm 3-5) lại có xu hướng tăng mạnh. Điều này là kết quả của sự gia tăng tín dụng quá mức
của các NHTM, đặc biệt là các NHTM khối nhà nước. Theo Trung tâm Thông tin Tín dụng
(CIC), tỷ trọng dư nợ nhóm 3, 4 và 5 của khối ngân hàng quốc doanh trên tổng dư nợ toàn
ngành ngân hàng tính đến tháng 5/2009 lần lượt là 57,58%, 35,95% và 59,69%.
Tính đến hết tháng 10/2009, vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống các TCTD tăng 31,09%, tổng
tài sản tăng 26,49%, chênh lệch thu-chi tăng 53,09% so với cuối năm 2008; dư nợ xấu của
toàn hệ thống chiếm 2,2% tổng dư nợ cho vay, cao hơn so với năm ngoái (nợ xấu năm 2008 ở
mức 2,17%).
34 Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại

Tại phiên giải trình về lãi suất sáng nay (25/12) do Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức,
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho biết tính đến cuối năm 2010 nợ xấu
của hệ thống ngân hàng VN vào khoảng 2,5%.

Con số nợ xấu 2,5% này chưa tính số nợ của Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thuỷ VN
(Vinashin). Theo thống đốc, toàn bộ dư nợ của hệ thống ngân hàng đối với Tập đoàn Công
nghiệp và Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) chỉ dưới 26 nghìn tỷ đồng và hiện đang cơ cấu lại
16 nghìn tỷ đồng. Số này chưa đưa vào nợ xấu, và nếu tính vào thì nợ xấu toàn hệ thống ngân
hàng VN cũng chỉ tăng 0,7%.

Cũng trong năm 2010, tín dụng tăng 27,65% (đã loại trừ hư số tăng của tỷ giá vàng), tín dụng
bằng VND tăng 25,34%, bằng ngoại tệ tăng 37,76%.

35 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

STT Ngân hàng 2004 2005 2006 2007 2008

1 Agribank 1,74 2,3 1,9 2,5 2,75

2 BIDV 14,56 11,64 11,9 4,8 2,7

3 Vietinbank 1,96 2,4 1,38 1,02 1,81

4 VCB - 3,64 2,65 2,66 4,61

5 MHB - - - 0,4 -

6 Techcombank - - 3,1 1,4 -

7 ACB 0,43 0,3 0,2 0,08 0,9

8 Sacombank 1,07 0,55 0,72 0,24 0,62

9 DongAbank - - 0,8 0,4 -

10 Eximbank - 1 0,8 0,88 4,71

Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của một số NHTM (ĐVT: %)

2. Các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện phải làm gì để giải quyết vấn đề thông tin
bất cân xứng?

2.1 Điều gì đang xảy ra ở thị trường tín dụng Việt Nam?

Hiện nay, vấn đề xử lý thông tin bất cân xứng đang được các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam chú trọng nhằm giải hạn chế rủi ro trong tín dụng, khắc phục tình trạng nợ xấu. vấn đề
cơ bản trong việc giải quyết thông tin bất cân xứng chính là sự cân bằng thông tin. Để giúp
các ngân hàng tìm được "đúng" khách hàng, "đúng" dự án và khách hàng thực hiện "đúng"
36 Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

những hành động như đã cam kết thì một nền kinh tế cần phải có các cơ sở hạ tầng và điều
kiện cần thiết:

- Các quy định pháp lý rõ ràng và chặt chẽ

- Hệ thống kế toán và báo cáo tài chính minh bạch, đủ độ tin cậy phản ánh đúng năng lực
tài chính của khách hàng

- Hệ thống thông tin đầy đủ, có độ tin cậy và tính chính xác cao

- Các tiêu chuẩn đánh giá xếp loại rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng

- Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng độc lập

- Hệ thống đăng ký tài sản

2.1.1 Các quy định về pháp lý

Ở Việt Nam, hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng được quy định bởi
văn bản cao nhất là Luật các tổ chức tín dụng. Ngoài ra còn có các văn bản hướng dẫn của
Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các văn bản liên quan đến hoạt động tín
dụng. Các quy định về hoạt động tín dụng tại Việt Nam được đánh giá là tương đối đầy đủ và
theo thông lệ chung với các hướng dẫn rõ ràng, quyền tự chủ dành cho bên cấp tín dụng trên
cơ sở bảo đảm những quy định về an toàn.

2.1.2 Hệ thống thông tin tín dụng

Hiện nay, Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (CIC) là tổ chức duy
nhất thực hiện công tác thu thập thông tin của các khách hàng có quan hệ tín dụng với tất cả
các tổ chức tín dụng. Cơ chế thu thâp thông tin của CIC theo quy chế hoạt động thông tin tín
dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành. Trong đó quy định các tổ chức tín dụng theo định kỳ
có trách nhiệm báo cáo các thông tin liên quan đến khách hàng cho CIC và các tổ chức tín
dụng được quyền khai thác thông tin của CIC.

37 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Tăng trưởng kho dữ liệu CIC cung cấp thông tin của CIC

Trên thực tế, các thông tin hiện có của


CIC có độ cập nhật không cao và các Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) - Ngân hàng
chỉ tiêu còn chung chung. Những Nhà nước Việt Nam được thành lập theo Quyết
thông tin cần thiết để xác định lịch sử, định số 68/1999/QĐ-NHNN9 ngày 27/02/1999 của
độ tin cậy của ban điều hành doanh Thống đốc NHNN, có chức năng thu nhận, xử lý,
nghiệp hầu như không có. Mặt khác, lưu trữ, phân tích và dự báo thông tin phục vụ cho
do chưa thực sự ý thức về tầm quan yêu cầu quản lý nhà nước, thực hiện các dịch vụ
trọng của tính cập nhật và chính xác thông tin ngân hàng.
về thông tin nên các tổ chức tín dụng CIC là tổ chức duy nhất của Việt Nam thực hiện
chức năng cơ quan đăng ký thông tin tín dụng
chưa có sự quan tâm đúng mức đến
công, hoạt động vì mục tiêu an toàn hệ thống ngân
hàng và hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp.
38 Tài chính tiền tệ Kho dữ liệu thông tin tín dụng quốc gia do CIC
đang quản lý đến thời điểm hiện tại có trên 18 triệu
hồ sơ khách hàng, trong đó có hơn 200 nghìn hồ sơ
khách hàng doanh nghiệp, được cập nhật liên tục.
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

các thông tin, dữ liệu khi báo cáo cho CIC. Khi thẩm định doanh nghiệp, rất ít ngân hàng lấy
thông tin từ CIC.

Hiện nay, bản thân trong một tổ chức tín dụng, hệ thống lưu trữ, xử lý thông tin cũng chưa
hiệu quả và tính hệ thống gần như không có. Thậm chí việc kiểm soát tổng dự nợ của một
khách hàng (kể cả các đơn vị trực thuộc hạch toán báo sổ) là một vấn đề rất khó khăn đối với
các tổ chức tín dụng.

2.1.3 Sử dụng hệ thống thông tin phục vụ công tác thẩm định, kiểm tra sử dụng vốn vay

Đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng: Yếu tố cơ bản của tiêu chí này là mối quan hệ
dài hạn, uy tín, thương hiệu của khách hàng trên thị trường, năng lực và trình độ quản lý, sự
am hiểu trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh... Những yếu tố rất khó đánh giá vì Việt nam
mới chuyển sang kinh tế thị trường gần 20 năm. Ý thức của đại bộ phận doanh nghiệp về việc
xây dựng thương hiệu, uy tín trên thương trường với chiến lược kinh doanh dài hạn mới chỉ
được đề cập trong một vài năm gần đây. Rất ít doanh nghiệp khẳng định được thương hiệu
của mình. Mặt khác, hoạt động tín dụng ngân hàng mới thực sự phát triển trong vòng 5 năm
trở lại đây (sau khi cơ chế đảm bảo tiền vay được nới lỏng, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
được khuyến khích, tín dụng theo chỉ định và theo kế hoạch được tách khỏi tín dụng thương
mại...). Mối quan hệ giữa khách hàng và các tổ chức tín dụng gần như mới được xác lập, chưa
đủ độ dài thời gian để tạo ra sự tin cậy. Do đó việc đánh giá mức độ tín nhiệm để làm tiêu chí
quyết định cấp tín dụng đã được đặt ra nhưng còn rất mờ nhạt.

Việc đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng được thực hiện trên cơ sở đánh giá tình hình
tài chính và kết quả kinh doanh. Ở Việt Nam, Luật kế toán năm 2003 quy định đơn vị kế toán
phải thu thập, phản ánh khách quan, đầy đủ, đúng thực tế và đúng kỳ kế toán mà nghiệp vụ
kinh tế, tài chính phát sinh. Đơn vị kế toán có trách nhiệm công khai các báo cáo tài chính.
Mặt khác, các chuẩn mực kế toán theo thông lệ chung đã dần được áp dụng tại Việt Nam. Tuy
nhiên hiện tại, hệ thống tiêu chuẩn kế toán Việt Nam (VAS) vẫn còn những khác biệt so với
với hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IAS).

Theo Nghị định về kiểm toán độc lập, trừ một số loại hình doanh nghiệp phải thực hiện kiểm
toán như bảo hiểm, ngân hàng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà
nước, số còn lại (chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp), nhà nước
chỉ khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện kiểm toán các báo báo tài chính. Mặt khác, tại
hầu hết các tổ chức tín dụng chưa yêu cầu khách hàng đến xin cấp tín dụng phải có báo cáo
tài chính được kiểm toán.

Việc sử dụng các báo cáo tài chính để làm căn cứ thẩm định dự án của các tổ chức tín dụng
chưa có đủ độ tin cậy như phát biểu của Phó tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam - ông Lê Đào Nguyên ''Các DN vừa và nhỏ thường xây dựng báo cáo tài chính

39 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

mang tính chất đối phó với cơ quan thuế; báo cáo chính thức (báo cáo được pháp luật công
nhận) thường thấp hơn tình trạng thực tế, không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân hàng''.4

Những vấn đề nêu trên đã tạo ra kẽ hở để một doanh nghiệp có nhiều hệ thống sổ sách báo
cáo kế toán (thường là 3). Một dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh doanh thấp hơn thực tế).
Một dùng để vay vốn ngân hàng (kết quả báo cáo thường hơn thực tế). Một dùng cho nội bộ
(số liệu thực). Với tình trạng như vậy, khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì ngân hàng rất khó
nhận biết tình trạng thực của doanh nghiệp là như thế nào.

Thẩm định và đánh giá dự án: Hiện nay ở Việt Nam, các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính,
thẩm định dự án tiên tiến chưa được áp dụng và phổ biến rộng rãi tại Việt nam do điều kiện
về công nghệ và những người am hiểu về nó còn rất hạn chế. Vì vậy việc áp dụng đại trà gặp
rất nhiều khó khăn.

Từ thực tế, một người am hiểu một chút về kỹ thuật thẩm định dự án là có thể biến một dự án
có xác xuất NPV dương hay IRR lớn hơn ngưỡng cần thiết đạt 100%. Khi muốn bác một dự
án hoặc đánh giá một doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả là vấn đề hết sức khó khăn đối
với cán bộ tín dụng. Nhất là đối với những dự án của những doanh nghiệp có "mối quan hệ"
tốt.

2.1.4 Hệ thống đăng ký tài sản

Do hệ thống đăng ký tài sản hoạt động không hiệu quả nên hoạt động tín dụng ở Việt Nam đã
gặp nhiều khó khăn. Liệu ngân hàng có thể tin được khách hàng sẽ đảm bảo có đủ nguồn vốn
"tự có" tham gia vào dự án như cam kết. Dù khách hàng có đưa ra các bằng chứng như sau thì
độ tin cậy vẫn rất hạn chế:

- Xác nhận có tiền gửi ngân hàng: Liệu có ngân hàng có tin chắc rằng bên vay vốn không
"vay nóng" ở đâu đó rồi gửi vào ngân hàng để nhờ xác nhận. Thậm chí, bên vay có bằng
chứng khoản tiền gửi đó là 5 năm hay 20 năm thì ngân hàng cũng rất khó có thể tin được
đó là tiền của bên vay vì bất cứ loại tiền gửi nào khách hàng đều có quyền rút trước hạn.
Do đó hôm nay mua một chứng chỉ tiền gửi 5 năm ngày mai rút lại là điều hoàn toàn có
thể.

- Chứng minh có lợi nhuận giữ lại: Đây cũng là vấn đề rất khó khăn đối với ngân hàng vì
lợi nhuận của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các khoản phải thu, các loại chi phí
chờ phân bổ … Với hệ thống sổ sách kế toán không đủ độ minh bạch, không có kiểm
toán thì rất khó có thể xác định được doanh nghiệp lãi thật hay lãi giả.

Nói chung, khi thẩm định khả năng góp vốn tự có của khách hàng trong việc thực hiện dự án
ngân hàng chủ yếu tin vào sự trung thực của khách hàng. Rất khó khẳng định là khách hàng
có thực sự bỏ vốn vào thực hiện dự án hay toàn bộ là vốn vay.

40 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Một phương thức mà các doanh nghiệp có thể "qua mặt" các tổ chức tín dụng là sử dụng biện
pháp nâng giá trong các hợp đồng. Giả sử dự án đầu tư chỉ cần 7 tỷ đồng là có thể hoàn thành
nhưng bên vay lập dự án tăng lên thành 10 tỷ đồng. Bằng một vài biện pháp chuyển tiền vòng
vèo qua lại theo một vài hợp đồng là bên vay có thể chứng minh với ngân hàng là mình đã bỏ
ra trước 3 tỷ đồng để đầu tư dự án mà thực tế họ chẳng bỏ ra đồng nào cả. Với sự không minh
bạch và khó xác định tính xác thực, hợp lý, hợp lệ cũng như giá trị của các loại tài sản đã gây
rất nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cấp tín dụng của mình.

2.1.5 Hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo

Để tránh tình trạng khách hàng sử dụng một tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn nhiều ngân
hàng hoặc tạo điều kiện cho khách hàng có một tài sản có giá trị lớn có thể vay vốn nhiều tổ
chức tín dụng, hiện nay có các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bao gồm: Cơ quan đăng
ký quốc gia giao dịch bảo đảm và chi nhánh; Cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu
vực; Cục Hàng không dân dụng Việt Nam; Sở Tài nguyên môi trường; Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn. Mỗi cơ quan nêu trên thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo mỗi loại tài sản
theo quy định.

2.2 Những giải pháp mà các ngân hàng cần thực hiện

Từ thực tiễn môi trường thông tin cũng như điều kiện tồn tại trong bản thân các ngân hàng
thương mại, nhóm chúng tôi đề xuất một số giải pháp trong việc hạn chế ảnh hưởng của
thông tin bất cân xứng sau:

 Về phía Nhà nước:

- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng phát
triển và ổn định

- Ban hành Các Luật về Ngân hàng; Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của NHNN; Chỉ thị,
Nghị quyết của Bộ Chính trị; Chỉ thị, Nghị định, Quyết định, Nghị quyết của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của các Bộ, ngành về Ngân hàng.

- Xây dựng, hoàn thiện và phát triển Trung tâm Thông tin Tín dụng CIC nhằm cung cấp
đầy đủ thông tin cho các tổ chức tín dụng trong việc đưa ra các quyết định cấp tín dụng

- Cho phép và tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân tham gia xây dựng các trung tâm thông
tin tín dụng, từ đó tạo được nhiều kênh thông tin cho các ngân hàng thương mại.

- Hỗ trợ các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bảo thực hiện đúng vai trò của mình

 Về phía các ngân hàng:

41 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

- Xây dựng và không ngừng nâng cao chất lượng hệ thống trang thiết bị, công nghệ để thu
thập, lưu trữ, phân tích, xử lý thông tin KH

+ Hoàn thiện bộ máy giám sát rủi ro hoạt động của NH trên cơ sơ hình thành một bộ phận
độc lập không tham gia vào quá trình tạo ra rủi ro, có chức năng quản lý, giám sát rủi ro
cho các NH; nhận diện và phát hiện rủi ro; phân tích và đánh giá các mức độ rủi ro trên cơ
sơ các chỉ tiêu, tiêu thức được xây dựng đồng thời đề ra các biện pháp phòng ngừa, ngăn
chặn giảm thiểu rủi ro.

+ Xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản chế độ quy chế quy trình nghiệp
vụ, cụ thể: Ban hành đầy đủ các quy chế quy trình nghiệp vụ trên nguyên tắc tuân thủ các
quy định của Nhà nước, của NHNN Việt Nam; Kịp thời hướng dẫn các văn bản chế độ có
liên quan để áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống NH. Đồng thời, hệ thống văn bản chế
độ, quy chế, quy trình... phải được tổ chức nghiên cứu, tập huấn và quán triệt để đảm bảo
mọi cán bộ phải nắm vững và thực thi đầy đủ, chính xác.

+ Cần phải có có các giải pháp để đối phó với các yếu tố từ bên ngoài như sự thay đổi về cơ
chế, chính sách của Nhà nước, sức ép từ việc thực hiện các cam kết theo thông lệ, các
diễn biến phức tạp của xu thế thị trường, tác động tiêu cực của các thông tin truyền thống
bất cân xứng...

+ Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại, ổn định. Thường xuyên kiểm
tra bảo trì, bảo dưỡng kịp thời thay bổ sung khi cần thiết để đảm bảo hoạt động ổn định
trong mọi trường hợp.

+ Tuân thủ các điều kiện bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Nhà nước và NH.

+ Thường xuỵên cập nhật thông tin liên quan từ bên ngoài, kiểm soát được và hiệu chỉnh
kịp thời các văn bản nội bộ khi phát sinh các thay đổi hoặc chủ động xây dựng các lộ trình
để thực hiện các cam kết theo thông lệ.

+ Hướng tới hình thành bộ phận chuyên gia hàng đầu về các lĩnh vực kinh tế. Nhiệm vụ của
nhóm chuyên gia này là định kỳ đưa ra các báo cáo phân tích, đánh giá tổng quan về nền
kinh tế thế giới và trong nước, xu hướng phát triển và nhưng tác động của nó đến hoạt
động NH. Từ đó có những tham mưu kịp thời trong xây dựng, điều chỉnh chính sách và
định hướng chiến lược phù hợp.

- Xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế tuyển dụng, đào tạo:

+ Thi tuyển nhân viên

+ Đào tạo, nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ tín dụng

+ Nâng cao công tác tổ chức


42 Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

+ Khuyến khích đãi ngộ

+ Biện pháp hành chính

+ Kiểm tra nội bộ

 Về phía khách hàng

- Phát tín hiệu

- Phát triển thương hiệu

- Tham gia hoạt động bình chọn (Hàng Việt Nam chất lượng cao, Sao Vàng đất Việt)

- Sử dụng kiểm toán kiểm tra báo cáo tài chính hàng năm

V. Kết luận
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động đem lại phần lớn lợi nhuận cho các ngân
hàng thương mại. Với tư cách là một thực thể kinh doanh, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận là
mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng. Và trong quá trình theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận của mình, thông qua hoạt động tín dụng, các ngân hàng chuyển nguồn vốn nhàn rỗi
đến tay các cá nhân, doanh nghiệp để sản xuất, kinh doanh. Hoạt động tín dụng giờ đây
không còn đơn thuần là hoạt động tạo lợi nhuận của ngân hàng mà đã trở thành hoạt động
cung cấp và phân bổ nguồn lực khan hiếm trong nền kinh tế, từ đó tạo ra của cải vật chất cho
xã hội.
Tuy nhiên, việc cấp vốn cho ai, giám sát sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả đang gặp
phải khó khăn do vấn đề thông tin bất cân xứng còn tồn tại. chỉ khi nào giải quyết được hai hệ
quả của thông tin bất cân xứng là lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại thì nguồn vốn mới “tìm”
được đúng đối tượng và mới được sử dụng một cách có hiệu quả.
Giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương
mại Việt Nam đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả phía ngân hàng và người đi vay trong môi
trường thông tin mà Nhà nước quản lý. Chỉ khi đó, thông tin bất cân xứng mới được giải
quyết triệt để, hiệu quả đầu tư mới được cải thiện.

43 Tài chính tiền tệ


Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại

Tài liệu tham khảo


1. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright – Huỳnh Thế Du
2.Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán TP.HCM - Lê An
Khang
3. Vốn xã hội và kinh tế - Trần Hữu Dũng
4. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam - Đặng Hữu Mẫn
5. Đánh giá khả năng ứng dụng của hai chỉ tiêu tài chính – kinh tế: Tỷ số hoàn vốn nội bộ IRR và chỉ
tiêu giá trị hiện tại ròng NPV trong việc phân tích hiệu quả đầu tư của dự án cảng - KS. Nguyễn Ngọc Hưng

44 Tài chính tiền tệ

You might also like