Professional Documents
Culture Documents
I – Khái quát chung về cây cà phê và ngành sản xuất cà phê ở Việt Nam
1. Đặc điểm của cây cà phê
Cà phê là loại cây công nghiệp nhiệt đới có nguồn gốc từ châu Phi với những yêu cầu về sinh thái rất
khắt khe. Khí hậu và đất đai là 2 nhân tố sinh thái chính quyết định năng suất hiệu quả kinh tế của loài
cây này.
Hiện nay trên thế giới, có rất nhiều giống cây cà phê, song có 4 loại được trồng phổ biến đó là:
Cà phê chè (ARABICA): Đây là loại cà phê quan trọng nhất, được biết đến từ lâu đời và được phát
triển rộng rãi nhất trên thế giới. Đây là loại cà phê có chất lượng cao, thơm ngon và được thế giới ưa
dung
Cà phê vối (ROBUSTA): Loại cà phê này chỉ mới được phát hiện và đầu thế kỷ XX ở châu Phi. Song
cho tới nay đã chiếm 1/3 sản lượng tiêu thụ cà phê của thế giới.
Cà phê mít: Cà phê mít có phẩm chất lượng thấp nên hầu như không được chế biến làm hàng xuất
khẩu, mà chỉ dùng tiêu thụ nội địa.
Cà phê mít dâu da: Đây là loại cà phê có nguồn gốc từ Liberia,nhưng do năng suất thấp, chất lượng
kém nên hiện nay không được trồng phổ biến.
Cà phê chồn: Đây là loại cà phê cao cấp, hiện có rất ít trên thị trường.
2. Ngành sản xuất cà phê ở nước ta:
Ở nước ta hiện nay có hai loại cà phê được trồng phổ biến, đó là cà phê vối và cà phê chè. Với đặc điểm
ưa thời tiết mát, cường độ ánh sáng thấp, cà phê chè được trồng chủ yếu ở miền Bắc. Trái lại, cà phê vối
lại được trồng phổ biến ở các tỉnh miền Nam nơi mà thời tiết nóng, ẩm, ánh sáng dồi dào.
Cây cà phê đã được thâm nhập ở nước ta từ khá sớm song quy mô còn nhỏ, năng suất và sản lượng
thấp. Năm 1975 cả nước chỉ có hơn 18000 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm là 12000 ha, với năng
suất 4,7 tạ/ha và sản lượng 5600 tấn. Nhưng cho đến 35 năm sau ngày đất nước thống nhất, cây cà phê
đã nhanh chóng phát triển. Diện tích, năng suất, sản lượng và xuất khẩu đều tăng nhanh.Hiện nay, nước
ta có 530.900 ha cà phê, cho sản lượng khoảng trên dưới 1 triệu tấn/năm.
Tây Nguyên với 4 tỉnh Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai và Kon Tum là khu vực chủ lực của ngành cà phê
Việt Nam. Diện tích của vùng này lên tới hơn 470000 ha, chiếm trên 90% tổng diện tích trồng cà phê của
cả nước. Trong đó diện tích, sản lượng cà phê của Đắc Lắc là lớn nhất, chiếm hơn 40% của cả nước.
Đặc biệt, với điều kiện đất đỏ bazan màu mỡ, cộng thêm đó là khí hậu thuận lợi cho cây cà phê phát
triển, cho nên ưu thế của cà phê Tây Nguyên là rất lớn, năng suất sản lượng cao và chất lượng tốt.
Tuy nhiên, để có được năng suất cao như vậy, ngoài yếu tố "thiên thời ,địa lợi" còn phải kể đến công
sức đầu tưtrong khâu giống và chăm sóc của người nông dân. Đặc biệt, nhiều hộ gia đình bằng việc áp
dụng quy trình thâm canh cao đã cho năng suất 50-60 tạ cà phê nhân/ha.
Ngoài ra, diện tích và sản lượng cà phê ở các vùng khác trong cả nứớc cũng được chú trọng đầu tư phát
triển: ở Đông Nam Bộ, diện tích trồng cà phê đạt 36000 ha; Miền Trung Nam Bộ đạt hơn 3000 ha và từ
Quảng Trị trở ra Bắc là 11000 ha. Đặc biệt hiện nay ở nước ta, có khoảng 70% diện tích cà phê của cả
nước đã được trồng mới từ những năm 1989. Nhờ đó mà diện tích và năng suất đã tăng lên nhanh
chóng giúp cho sản lượng cà phê nước ta tăng nhanh trong những năm qua. Nó tạo ra mức sản lượng
cà phê cao .
II- Tình hình xuất khẩu cà phê trên thế giới
Đặc điểm của thị trường cà phê thế giới năm vừa qua là giá cả tăng mạnh vào cuối năm. Nguyên nhân
chủ yếu là thiếu nguồn cung cà phê do ảnh hưởng của thời tiết. Một số nước xuất khẩu lớn như
Colombia và các nước Trung Mỹ khác mưa lớn kéo dài, lũ lụt, sâu bệnh khiến cho việc thu hoạch cà phê
phải lùi lại. Nguồn cung cà phê ngày càng bị thắt chặt khi Ấn Độ cũng gặp phải một năm không mấy khả
quan về sản lượng, trong khi nhu cầu nội địa cũng ngày càng tăng cao. Mặc dù Brazil vẫn có vụ mùa bội
thu song những lo lắng về hạn hán trong vòng mấy năm trở lại đây cũng khiến cho thị trường cung cấp
và tiêu thụ không được ổn định.
Năm 2010 được coi là năm đầy biến động trong thị trường xuất khẩu cà phê thế giới. Tổ chức cà phê
Thế giới ICO đã phải điều chỉnh liên tục mức sản lượng các nước cho đến khi thu hoạch bởi tác động
của môi trường và khí hậu đã ảnh hưởng rất lớn đến mùa màng. Mặt khác, nhu cầu cà phê trên thị
trường thế giới không ngừng tăng trong năm qua bởi cà phê ngày càng trở thành đồ uống phổ biến ở
khắp các thị trường, đặc biệt là từ những nước sản xuất. Brazil có thể sẽ vượt Mỹ trở thành nước tiêu thụ
cà phê số 1 thế giới sau 2 năm nữa. Bên cạnh đó, giá đồng đôla Mỹ có xu hướng giảm cũng là nguyên
nhân hỗ trợ cho giá cà phê trên các sàn giao dịch ngày càng cao
III-Tình hình xuất khẩu cà phê ở Việt Nam
1.Trước năm 2010:
Kể từ khi Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cà phê ra thị trường thế giới đến nay, ngành hàng cà phê luôn đạt
được mức tăng trưởng ấn tượng, trở thành một trong năm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành nông
nghiệp.
*Các giai đoạn phát triển
Nếu như giai đoạn 1990-1995, sản lượng xuất khẩu cà phê bình quân của nước ta chỉ đạt 123.000
tấn/năm, với kim ngạch 198 triệu USD/năm, thì đến giai đoạn 1996-2000, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng
này đã lên mức 432 triệu USD/năm, tăng 2,1 lần so với giai đoạn trước đó.
Chưa dừng lại ở đây, giai đoạn 2006-2009, xuất khẩu cà phê của Việt Nam tiếp tục vươn lên khẳng định
vị trí là nước xuất khẩu lớn thứ 2 trên thế giới. Theo đó, năm 2008, xuất khẩu cà phê đã đạt mức kỷ lục
với kim ngạch 2,1 tỷ USD, gấp 23,3 lần so với năm 1990. Năm 2009, do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế
thế giới, xuất khẩu cà phê có sụt giảm song vẫn đạt mức 1,7 tỷ USD. [IMG]file:///C:/DOCUME
%7E1/ADMINI%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg[/IMG]
Hình1: Tình hình xuất khẩu cà phê của nước ta từ năm 1991 đến năm 2009
* Thị trường xuất khẩu truyền thống của cà phê Việt Nam
Như chúng ta đã biết, trước thập kỷ 90 các nước SNG, Đông Âu, Singapore, Hồng Kong, Pháp, Thuỵ sĩ
là những khách hàng thường xuyên của cà phê Việt Nam. Đặc biệt, Singapore là nước nhập khẩu cà phê
Việt Nam nhiều nhất (năm 1986 nhập 7074 tấn). Song do những biến động lớn của cuộc khủng hoảng
kinh tế và chính trị trong những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến
xuất khẩu cà phê Việt Nam làm cho sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này bị giảm
sút nhanh chóng. Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với thị trường Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. vì thế
đã bị gián đoạn trong một khoảng thời gian tương đối dài.
Trong thời gian qua chúng ta cũng đã mở rộng và thâm nhập vào các thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất
thế giới như: Đức, Anh, Pháp, Ý, Nhật và đặc biệt từ năm 1994 chúng ta đã bắt đầu khai thác có hiệu
quả hai thị trường mới song đầy tiềm năng về tiêu thụ cà phê là Mỹ và Hy Lạp.
Chỉ sau 10 tháng, kể từ khi Mỹ bỏ cấm vận đối với nước ta, tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của chúng
ta vào thị trường này đã đạt 23 triệu USD. Và cũng chỉ sau hai năm đầu khai thác thị trường này, kim
ngạch xuất khẩu cà phê sang Mỹ đã chiếm 12% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đặc biệt, trong
năm 1998 kim ngạch xuất khẩu cà phê sang Mỹ đã lên tới 20,02%.
tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam sang 10 thị trường nhập khẩu cà phê Việt Nam lớn nhất hiện
nay( xem bảng sau):
Biểu 1: Mười thị trường xuất khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam
Năm 2005-2006
[IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/ADMINI%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image003.jpg[/IMG]
Tháng 2
76.394
110
Tháng 3
123
165
1370
Tháng 4
117
160
1263
Tháng 5
95
133
1290.1
Tháng 6
94
140
Tháng 7
89.5
137.5
Tháng 8
77.8
123.4
1745
Tháng 9
102.438
93.06
1755
Tháng 10
57.308
97.37
1810
Tháng 11
60
100
1945
Tháng 12
164
292
STT
Nước
T12/2010
% so với T12/2009
1
Hoa Kỳ
35788494
45,75
2
Đức
24566247
-18,34
3
Italia
20648984
156,22
4
Bỉ
18284823
122,34
5
Hà Lan
11620386
409,19
6
Đức
8654002
-71,23
7
Anh
6429593
18,37
8
Mê hi cô
3189931
88,22
9
Malaixia
2796450
63,04
10
Ba Lan
2338504
66,96
11
Ấn Độ
1520253
-48,13
12
Canada
959573
34,66
13
Hy Lap
854211
57,19
14
BồĐào Nha
786752
-34,78
15
Ai Cập
361894
-79,58
16
Đan Mạch
242677
5,60
-Chế biến cà phê: Chế biến là khâu quyết định tới chất lượng cà phê. Sau khi thu hoạch, người nông dân
cần có có kỹ thuật sơ chế, rang sấy để đảm bảo cà phê không bị hỏng, mốc làm giảm chất lượng, có
chọn lọc, phân loại cà phê, loại bỏ các hạt kém chất lượng.
Các doanh nghiệp cần đầu tư công nghệ chế biến tiên tiến, loại bỏ các tạp chất, rang, say cà phê. Trong
khâu canh tác và chế biến, ngành cà phê sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp để đạt các chứng chỉ quốc tế
như cà phê UTZ, cà phê 4C nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu.
( UTZ CERTIFIED là chương trình chứng nhận cà phê toàn cầu, đảm bảo nguồn gốc, xuất xứ, trồng cà
phê mọtt cách có trách nhiệm, đảm bảo tính truy nguyên và tin tưởng
Bộ nguyên tắc cà phê 4C : các thành viên tham gia cùng hợp tác vì một ngành sản xuất, chế biến
và kinh doanh cà phê nhân bền vững dựa trên những cam kết liên tục cải tiến về mặt trách nhiệm môi
trường, xã hội và kinh tế)
Bên cạnh xuất khẩu cà phê dưới dạng thô (cà phê hạt) chúng ta hoàn toàn có thể phát triển cà phê đã
chế biến như cà phê hòa tan, cà phê fin với nguồn lợi đem lại gấp nhiều lần nhằm xây dựng thương hiệu
cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới.
- Ổn định thị trường: để có được thị trường ổn định không phải là điều có thế làm một sớm một chiều.
Cần và nên đưa ra những chính sách hỗ trợ việc mở rộng thị trường của ngành cà phê.
Mở thêm nhiều sàn giao dịch cà phê đạt tiêu chuẩn để có thể cạnh tranh một cách công bằng với cà phê
các nước. Hiện đầu năm 2011, chính phủ đã chính thức mở cửa 2 sàn giao dịch lớn ở Buôn Mê thuột và
Triệu Phong nhằm kết nối với thị trường thế giới với hi vọng giải được bài toán khó cho cà phê Việt Nam.
Phải đào tạo những cán bộ giỏi ngoại ngữ, chuyên môn, hiểu về thương mại điện tử ( bởi đây là thị
trường dẫn dắt giá cà phê, do đó phải có kỹ thuật mới có thể làm được).Hiện chúng ta rất cần có đội ngũ
nhân viên tìm hiểu và nghiên cứu thị trường để đạt hiệu quả cao trong khâu tìm kiếm thị trường mới, giao
dịch và mua bán quốc tế.
Các doanh nghiệp phải liên kết với nhau thành lập Quỹ cà phê, Ban điều hành việc phát triển cà phê Là
nước xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới song chúng ta lại chưa thể chi phối thị trường thế giới mà còn bị các
nhà đầu tư nước ngoài chi phối. Các doanh nghiệp Việt Nam thường hoạt động nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ và
nguồn vốn hạn chế, không cạnh tranh được các doanh nghiệp nước ngoài. Việc cà phê Viêt Nam chưa
thể điều khiển được thị trường có thể do nhiều nguyên nhân, song nếu các doanh nghiệp nội có tiềm
năng, đủ sức, dám tận dụng cơ hội cũng như dám liều, tiến hành liên kết tạo ra một “bó đũa” khổng lồ,
cùng nhau hợp tác, áp dụng chính sách hợp lý, quảng bá rộng rãi thì tương lai về sự phát triển thương
hiệu cà phê Viêt Nam là không xa.
Tìm hiểu mở rộng thị trường và những đối thủ cạnh tranh trực tiếp cũng như đối thủ tiềm tàng- những
nhân tố ảnh hưỏng trực tiếp và gián tiếp về lâu về dài của hoạt động xuất khẩu, kinh doanh cà phê của
Việt Nam.Để có chỗ đứng trên thị trường thế giới, tăng sản lượng xuất khẩu và lợi nhuận doanh nghiệp
Việt Nam cần nghiên cứu và tìm hiểu những thị trường cà phê truyền thống như EU, Mỹ và những thị
trường mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Nhật.
4. Dự báo tình hình xuất khẩu cà phê của Viêt Nam năm 2011
Trong tháng 12 năm 2010, Tổ chức Cà phê quốc tế (ICO) đã đưa ra dự báo, sản lượng cà phê của Việt
Nam niên vụ 2010-2011 có thể giảm 2,8%, từ 18 triệu bao xuống 17,5 triệu bao (bao 60 kg). Trước đó,
trong tháng 9.2010, ICO dự báo sản lượng cà phê VN tăng 4%, lên 18,73 triệu bao. Tuy nhiên, theo đánh
giá của Bộ NN-PTNT, sản lượng cà phê cả nước giảm 15% so với niên vụ trước.Theo nhận định của các
chuyên gia, giá xuất khẩu cà phê trung bình năm 2011 đạt khoảng 1.503 USD/tấn. Xuất khẩu cà phê năm
2010 của nước ta ước đạt khoảng 1,17 triệu tấn cà phê, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,73 tỷ USD tăng 1,9%
so với năm 2009. Trong năm 2011, theo nhận định của các chuyên gia nếu giá cà phê thế giới tiếp tục
giữ ở mức khoảng 2.000 USD/tấn thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này có thể đạt 2 tỷ USD.
Thời điểm
Khối lượng (tấn)
Kim nghạch (USD)
Quý 1
Quý 2
Quý 3
Quý 4
496474
318595
180387
286501
773322304
521596220
305392165
444643169
Cộng
1281957
2044953858
(Nguồn: Kết quả dự báo của Trung tâm tin học và thống kê)
.