You are on page 1of 9

NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA CỦA ĐẤT NƯỚC

Trầ n Mai Ướ c1


Nguyễn Chí Tân 2

Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, với thời đại mà khoa học đã thực sự trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa
học và công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao
trong mỗi sản phẩm làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình trong
tiến trình phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại.
Một trong những vấn đề nổi lên hàng đầu thế kỷ XXI được thế giới quan
tâm đó chính là nguồn nhân lực. Trong bối cảnh quốc tế hiện thời, công nghiệp
hóa - hiện đại hóa (CNH, HĐH) đang được coi là xu hướng phát triển chung của
các nước đang phát triển. Đối với nước ta, ngay từ năm 1960 tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng cộng sản Việt
Nam) đã đề ra đường lối công nghiệp hóa và coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ
trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó đến
nay, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đã không ngừng phát triển, nâng cao nhận thức
và cụ thể hóa đường lối này. Cụ thể tại Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) đã đề ra
mục tiêu: đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất
của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ V (1981) đã có một số bước tiến trong nội
dung chiến lược công nghiệp hóa: coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số
ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý.
1
Thạc sỹ, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
2
Nghiên cứu sinh, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Bình Dương

1
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) – Đại hội được đánh dấu là một bước ngoặt
lịch sử trong việc đổi mới tư duy và đường lối phát triển đất nước. Có thể nói rằng,
trong toàn bộ sự đổi mới này, đổi mới tư duy kinh tế là nội dung trọng yếu, có vài
trò đặc biệt quan trọng. Với sự thay đổi nhận thức về cơ chế và phương thức vận
hành nền kinh tế như vậy, nhận thức về công nghiệp hóa cũng có sự thay đổi mạnh
mẽ, đặc biệt trong chính sách công nghiệp- công cụ chủ yếu để Chính phủ can
thiệp vào tiến trình công nghiệp hóa. Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), với việc
đưa ra Cương lĩnh Phát triển đất nước (Hội nghị Đại biểu Toàn quốc giữa nhiệm
kỳ của Đảng), nhận thức về công nghiệp hóa có một bước tiến quan trọng: tư
tưởng công nghiệp hóa, hiện đại hóa được nêu ra thay cho cách đặt vấn đề CNH
trước đây (không có mệnh đề HĐH). Hiện đại hóa được coi là nội hàm quan trọng
của chiến lược CNH. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7/1994) đã bước
đầu cụ thể hóa ý tưởng CNH, HĐH để đi tới chỗ hình thành đường lối CNH,
HĐH; xác định quan điểm, mục tiêu, các chủ trương và các chính sách, biện pháp
thực hiện CNH, HĐH.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) đã khẳng định những yếu tố cơ bản
của đường lối CNH, HĐH của Việt Nam dựa trên chủ trương phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội
Đảng lần thứ IX (2001) đã bổ sung nhiều nhận thức mới quan trọng về CNH,
HĐH thể hiện ở hai luận điểm quan trọng. Một là ”từng bước phát triển kinh tế tri
thức”, một nội dung mới của quá trình CNH, HĐH. Hai là tiến hành ”CNH rút
ngắn theo hướng hiện đại”. Tuy chỉ mới dừng lại ở cấp độ định hướng-định tính,
nhưng có thể nói rằng những bổ sung đường lối này thực sự là những đóng góp
quan trọng vào việc nhận thức thực chất của CNH ở nước ta trong điều kiện hiện
đại, khi thế giới đang đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa và chuyển sang kinh tế tri
thức. Tiếp đó, tại Đại hội X (2006) cũng có những bổ sung mới vào nhận thức về
CNH trong thời hiện đại.
Điểm qua các kỳ Đại hội Đảng như vậy, dễ dàng nhận thấy quá trình không
ngừng đổi mới, hoàn thiện quan điểm của Đảng về CNH, HĐH. Tiến trình đó bám

2
ngày càng sát với sự thay đổi của bối cảnh quốc tế. Điều này phản ánh một thực tế
là quá trình CNH, HĐH ở nước ta được thực hiện trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường rộng mở, chịu tác động ngày càng mạnh mẽ của các yếu tố bên ngoài.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nhiều nhân tố quan trọng
như: vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, song yếu tố quan trọng và
quyết định nhất là con người. Nếu so sánh các nguồn lực với nhau thì nguồn nhân
lực có ưu thế hơn cả. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực, đặc
biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao luôn chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò
quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xu thế đổi mới phát triển và hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Cho đến nay, khái niệm nguồn nhân lực đang được hiểu theo nhiều quan
điểm khác nhau. Theo đánh giá của Liên Hợp Quốc thì nguồn nhân lực bao gồm
những người đang làm việc và những người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động. Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc cùng các nhà khoa học tham gia
chương trình KX – 07 thì:“Nguồn nhân lực cần được hiểu là số dân và chất lượng
con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm
chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế
và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của
một quốc gia hay một địa phương nào đó…”3. Theo quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam: “Nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc
biệt đối với nước ta khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp”, đó
là “người lao động có trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được
đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền
khoa học hiện đại”4.

3
Phạm Minh Hạc:Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào Công nghiệp
hoá, Hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 323
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị Lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương
Khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.11

3
Ngoài ra, một số tác giả khác khi nghiên cứu các đề tài về nguồn nhân lực
và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam cũng đã đưa ra những quan điểm khác
nhau về nguồn nhân lực. Như vậy, có thể hiểu khái niệm nguồn nhân lực một cách
ngắn gọn là nguồn lực con người. Điều đó, cũng có nghĩa là khái niệm nguồn nhân
lực tập trung phản ánh ba vấn đề sau đây:
Thứ nhất, xem xét nguồn nhân lực dưới góc độ nguồn lực con người-yếu tố
quyết định sự phát triển của xã hội; Thứ hai, nguồn nhân lực bao gồm số lượng và
chất lượng, trong đó mặt chất lượng thể hiện ở trí lực, nhân cách, phẩm chất đạo
đức, lối sống và sự kết hợp giữa các yếu tố đó; Thứ ba, nghiên cứu về nguồn nhân
lực và phát triển nguồn nhân lực nhất thiết phải gắn liền với thời gian và không
gian mà nó tồn tại.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phản ánh một cách tổng quát
khái niệm nguồn nhân lực trên cả ba phương diện: trí lực, thể lực, nhân cách, cùng
với cơ sở khoa học cho sự phát triển các yếu tố đó là nền giáo dục tiên tiến gắn
liền nền khoa học hiện đại.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm nguồn nhân lực theo
nghĩa rộng là bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên thực tế đang làm việc (gồm
những người trong độ tuổi lao động và những người trên độ tuổi lao động), những
người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng chưa có việc làm (do
thất nghiệp hoặc đang làm nội trợ trong gia đình), cộng với nguồn lao động dự trữ
(những người đang được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và
dạy nghề…).
Điều đó có nghĩa là, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực được nghiên
cứu trên các khía cạnh quy mô, tốc độ tăng nguồn nhân lực, sự phân bố theo vùng,
khu vực và lãnh thổ; trong đó, trí lực thể hiện ở trình độ dân trí, trình độ chuyên
môn, là yếu tố trí tuệ, tinh thần, là cái nói lên tiềm lực sáng tạo ra các giá trị vật
chất, văn hóa, tinh thần của con người, vì thế nó đóng vai trò quyết định trong sự
phát triển nguồn nhân lực.

4
Sau trí lực là thể lực hay thể chất, bao gồm không chỉ sức khỏe cơ bắp mà
còn là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, bắp thịt, là sức mạnh của niềm tin và ý
trí, là khả năng vận động của trí lực. Thể lực là điều kiện tiên quyết để duy trì và
phát triển trí tuệ, là phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực
tiễn, để biến tri thức vào sức mạnh vật chất. Do đó, sức mạnh trí tuệ chỉ có thể
phát huy được lợi thế khi thể lực con người được phát triển.
Ngoài ra, nói đến nguồn nhân lực cần xét đến các yếu tố nhân cách, thẩm
mỹ, quan điểm sống. Đó là, sự thể hiện nét văn hóa của người lao động, được kết
tinh từ một loạt các giá trị: Đạo đức, tác phong, tính tự chủ và năng động, kỷ luật
và tinh thần trách nhiệm trong công việc khả năng hợp tác, làm việc theo nhóm,
khả năng hội nhập với môi trường đa văn hóa, đa sắc tộc và các tri thức khác về
giá trị của cuộc sống.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một
người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với
một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật
nhất định (Đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề); có kỹ
năng lao động giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh
chóng của công nghệ sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận
dụng sáng tạo những tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao
động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Để có nguồn
nhân lực chất lượng cao, đủ sức đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của kinh tế
tri thức, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế và thực hiện sự nghiệp CNH,
HĐH của Việt Nam, nguồn nhân lực phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau: trước
hết, người lao động phải được nâng cao về trình độ dân trí; hai là, người lao động
phải có khả năng sáng tạo cao; ba là, người lao động phải có khả năng thích ứng
và có tính linh hoạt cao. Bên cạnh đó, nền sản xuất công nghiệp còn đòi hỏi ở
người lao động phải có các năng lực cần thiết như: có kỷ luật tự giác, biết tiết kiệm
nguyên vật liệu và thời gian, có tinh thần trách nhiệm, có tinh thần hợp tác và tác
phong lao động công nghiệp, lương tâm nghề nghiệp. Mọi người lao động, dù lao

5
động cơ bắp hay lao động trí óc đều cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát
triển trí tuệ, để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn.
Giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động luôn luôn
đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát
triển kinh tế. Vai trò quyết định đó được thể hiện rõ trước hết là, nguồn nhân lực
chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai
thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Giữa nguồn lực con người,
vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ… có mối
quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực
nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các
nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế
nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp
lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát
huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy,
con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân
của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao là một
trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH; là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ
sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một
quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Khi Việt Nam đang bước vào giai đoạn đẩy nhanh và mạnh quá trình phát
triển kinh tế và thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH thì yêu cầu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự
nghiệp CNH, HĐH, góp phấn làm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt

6
hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
nhằm phát triển bền vững. Thứ tư là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế,
nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang
đứng trước nhiều thách thức lớn.
Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã thu được nhưng
thành tựu rất đáng tự hào trên tất cả các mặt từ: kinh tế, giáo dục - đào tạo, khoa
học công nghệ, phát triển văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại….Thành
tựu của hơn 24 năm đổi mới đã tạo ra thế và lực mới cho Việt Nam bước vào một
giai đoạn phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Thích ứng với
những xu hướng vận động tất yếu của nền kinh tế khu vực và thế giới, phát
triển kinh tế tri thức, đáp ứng yêu cầu trong quá trình CNH, HĐH trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần thực hiện tốt các giải
pháp sau:
Thứ nhất, trên cơ sở phát triển và ứng dụng tiến bộ của khoa học – công
nghệ, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Có thể nói
rằng, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH là tiền đề cơ bản của
tăng trưởng kinh tế cùng với việc phát triển khoa học – công nghệ là nhân tố quyết
định thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Thứ hai, cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế tri thức và hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới hiện nay. Bên cạnh đó cần tiếp tục hoàn
thiện và thực hiện có hiệu quả một số cơ chế, chính sách ưu đãi, ưu tiên trong công
tác đào tạo và thu hút nhân tài bằng chế độ tiền lương, tiền thưởng, nhà công vụ,
điều kiện làm việc nhằm tránh tình trạng chảy máu chất xám như hiện nay.
Thứ ba, đổi mới căn bản và toàn diện lĩnh vực giáo dục đào tạo nhằm từng
bước tạo được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.Giáo dục đào tạo là
một khái niệm rộng phải làm sao cho nguồn nhân lực Việt Nam riêng kế thừa, phát
huy và nâng cao những truyền thống tốt đẹp tiêu biểu cho sức sống, bản lĩnh, bản

7
sắc dân tộc. Cải tạo, biến đổi hay xóa bỏ những truyền thống tiêu cực, hạn chế,
phản ánh tính lỗi thời, bảo thủ, trì trệ. Hình thành và phát triển những giá trị truyền
thống theo yêu cầu cầu đổi mới, CNH, HĐH, quốc tế hóa, toàn cầu hóa, tiếp cận
và dung hòa những thành tựu văn hóa, khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới.
Ngoài ra, cần kết hợp việc tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục và đào tạo, mở rộng
qui mô, tăng nhanh tốc độ đào tạo, cải cách nội dung và phương pháp giáo dục,
tăng cường sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước đối với giáo dục, đào tạo với việc
xã hội hóa giáo dục, cho phép các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia
vào quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế.
Thứ tư, muốn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH của đất nước, nhất thiết
phải qui hoạch và quản lý tốt sự phát triển đô thị. Đẩy mạnh phát triển công
nghiệp nông thôn, phát triển các làng nghề truyền thống, các ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động dịch vụ.
Thứ năm, tiếp tục chú trọng và làm tốt hơn nữa công tác quy hoạch,
xây dựng, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực giỏi,
phẩm chất đạo đức tốt. Có thể nói đây là một trong những nhiệm vụ vừa
mang tính cấp bách, vừa có tầm chiến lược nhằm tạo ra lực lượng có ý
nghĩa đầu tàu quan trọng trong đội ngũ những người lao động, góp phần tạo
ra nguồn nhân lực cao cho đất nước, nhất là trong quá trình hội nhập như
hiện nay.

8
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, 1997. Văn kiện Hội nghị Lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương Khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Phạm Minh Hạc, 2001. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, NXb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Trần Mai Ước, 2010. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
công cuộc CNH-HĐH của Thủ đô, Hội thảo khoa học “Đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Thủ đô”, Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân Hà Nội.
5. Trần Mai Ước, 2010. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Hội thảo khoa học “Phát triển kinh tế - xã hội trong cương
lĩnh đổi mới”, Trường Đại học Kinh Tế Tp. HCM, Tạp Chí Cộng Sản.
6. Trần Mai Ước, 2010. Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh với xu thế hội
nhập, Hội thảo khoa học “Xây dựng nhà trường tiên tiến, chất lượng cao
thời kỳ hội nhập”, Sở giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh.
7. www.cee.hcmuns.edu.vn

You might also like