You are on page 1of 31

Lý thuyết hạch toán kế toán

Chương I: Bản chất hạch toán kế toán

1.1 Khái niệm về hạch toán kế toán

Để quản lý các hoạt động kinh tế cần có số liệu, để có được các số liệu phục
vụ cho hoạt động quản lý , giám sát đòi hỏi phải thực hiện việc quan sát, đo
lường tính toán và ghi chép các hoạt động đó.

Hạch toán là một hệ thống điều tra quan sát, tính toán đo lường và ghi chép
các quá trình kinh tế, nhằm quản lý các quá trình đó ngày càng chặt chẽ hơn.

Quan sát các quá trình và hiện tượng kinh tế là giai đoạn đầu tiên của việc
phản ánh và giám đốc các quá trình tái sản xuất xã hội. Đo lường mọi hao
phí trong sản xuất và kết quả của sản xuất và kết quả của sản xuất là biểu
hiện của những đối tượng đó bằng các đơn vị đo lường thích hợp( thước đo
hiện vật, thước đo lao động, thước đo bằng tiền)

Tính toán là quá trình sử dụng các phép tính, các phương pháp tổng hợp
phân tích để xác định các chỉ tiêu cần thiết, thông qua đó để biết được tiến
độ thực hiện các mục tiêu, dự án hiệu quả của các hoạt động kinh tế.

Ghi chép là quá trình thu thập, xử lý và ghi lại tình hình, kết quả các hoạt
động kinh tế trong từng thời kỳ, từng địa điểm phát sinh theo một trật tự nhất
định. Qua ghi chép có thể thực hiện được việc phản ánh và kiểm tra toàn
diện, có hệ thống các hoạt động sản xuất xã hội.

1.2Hạch toán kế toán trong hệ thống các loại hạch toán

1.2.1 Các thước đo sử dụng trong hạch toán

Trong hạch toán có sử dụng 3 loại thước đo: Hiện vật, lao động, giá trị.
Thước đo hiện vật: Dùng để xác định tài liệu về tình hình tài sản hiện có
hoặc đã tiêu hao, mà phương thức sử dụng là cân, đong, đo, đếm,…Đơn vị đo
hiện vật tùy thuộc vào tính tự nhiên của đối tượng tính toán. Tuy nhiên thước đo
hiện vật cũng có mặt hạn chế nó chỉ được sử dụng để xác đínhoos lượng các vật
phẩm có cùng chât lượng, nên nó không cung cấp đượcchir tiêu tổng hợp về số
lượng đối với các loại vật tư tài sản có chất lượng khác nhau.

Thước đo lao động: Được sử dụng để xác đinh số lượng thời gian lao
động hao phí trong một quá trình kinh doanh, một công tác nào đó. Dùng thước
đo để hạch toán giúp ta xác định được năng suất lao động của công nhân, có căn
cứ để tính lương cho công nhân hoặc phân phối thu nhập cho xã viên

Thước đo tiền tệ: Sử dụng tiền tệ làm đơn vị tính thống nhất để phản ánh
chỉ tiêu kinh tế, các loại vật tư tài sản, trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa thì
mọi loại vật tư tài sản, mọi hao phí vật chất và kết quả trong sản xuất đều có thể
dùng tiền để biểu hiện. Thước đo tiền tệ cho phép tính được các chỉ tiêu tổng
hợp về các loại vật tư, tài sản khác nhau: như chỉ tiêu tổng vốn kinh doanh…
Tổng hợp các chi phí khác nhau của cùng quá trình sản xuất: như chỉ tiêu tổng
số chi phí sản xuất, tổng giá thành sản phẩm,.. Có thể so sánh các chỉ tiêu kinh tế
tương ứng để xác địnhhieeuj quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn. Qua đó
có thể thực hiện giám đốc đồng tiền đối với tất cả các hoạt động kinh tế.

Cả 3 loại thước đo đều cần cho hạch toán và có tác dụng bổ sung cho
nhau để phản ánh và giám đốc toàn diện các chỉ tiêu số lượng và chất lượng
trong hoạt động kinh doanh.

1.2.2 Các loại hạch toán

Tiêu thức phân biệt Hạch toán nghiệp vụ Hạch toán thống kê Hạch toán kế toán

Khái niệm Là sự quan sát phản Là môn khoa học Là môn khoa học
ánh và giám đốc nghiên cứu mặt phản ánh và giám
trực tiếp từng lượng trong mối đốc các quá trình
nghiệp vụ kinh tế kỹ quan hệ với mặt hoạt động kinh tế tài
thuậtcuj thể nhằm chất của hiện tượng chính ở tất cả các
mục đích chỉ đạo kinh tế xã hội số lớn đơn vị, các tổ chức
kịp thời và thường trong điều kiện thời kinh tế xã hội
xuyên nghiệp vụ đó gian và địa điểm cụ
thể nhằm rút ra bản
chất và tính quy luật
trong sự phát triển
của các hiện tượng
đó

Đối tượng nghiên Các nghiệp vụ kinh Các hiện tượng kinh Các hoạt động kinh
cứu tế kỹ thuật cụ thể tế -xã hội số lớn tế, tài chính: sự biến
(Tiến độ thực hiện ( dân số ,..) được động về tài sản,
cung cấp sản xuất, nghiên cứu giám nguồn vốn, sự chu
tiêu thụ, tình hình đốc trong những chuyển của tiền, sự
biến động và sử điều kiện về thời tuần hoàn vốn kinh
dụng các yếu tố gian địa điểmcuj doanh,..)
trong quá trình tái thể( không liên tục
sản xuất…) và toàn diện)

Phương pháp nghiên - Sử dụng cả 3 loại - Sử dụng cả 3 loại -Sử dụng cả 3 loại
cứu thước đo, không thước đo, không thước đo nhưng chủ
chuyên sâu vào dùng chủ yếu loại yếu sử dụng là
thước đo nào. thước đo nào. thước đo giá trị

- Phương tiện thu - Các phương pháp -Các phương pháp


thập và truyền tin thu thập , phân tích kinh tế như phương
đơn giản: chứng từ tổng hợp thông tin pháp chứng từ,
ban đầu, điệ thoại, như: phương pháp đối
điện báo, truyền ứng tài khoản,
+ Điều tra thống kê
miệng,…) phương pháp tính
+ Phân tổ giá, phương pháp
tổng hợp và câ đối
+Số tương đối, số
kế toán
tuyệt đối, số bình
quân.

+ Phương pháp chỉ


số

Đặc điểm thông tin Là những thông tin - Biểu hiện băng số - Thông tin kế toán
dùng cho lãnh đạo liệu cụ thể là thông tin động về
nghiệp vụ kỹ thuật tuần hoàn của tài
- Thuộc nhiều lihx
nên được quan tâm sản, phản ánh một
vực khác nhau
trước hết ở yêu cầu cách toàn diện nhất
kịp thời hơn là yêu - Mang tính tổng tình hình biến động
cầu toàn diện, do hợp cao, đã qua của tài sản doanh
vậy hệ thống thông phân tích , xử lí nghiệp trong toàn bộ
tinnghieepj vụ quá trình hoạt động
thường không phản sản xuất kinh doanh
ánh được một cách từ khâu cung cấp,
toàn diệnvaf rõ nét sản xuất đến tiêu
về sự vật, hiện thụ.
tượng, các quá trình
=-Thông tin kế toán
kinh tế kỹ thuật.
luôn mang tính hai
- Tùy theo yêu cầu mặt: Tài sản- nguồn
cụ thể có thể thông hình thành, tăng-
tin một phần nhỏ giảm, chi phí- kết
của khách thể cần quả,…
thiết nhất cho lãnh
- Thông tin kế toán
đạo hoặc hoạt động
là kết quả quá trình
nghiệp vụ
cớ tính hai mặt:
Thông tin và kiểm
tra

1.3 Hạch toán kế toán trong hệ thống quản lý

1.3.1 Vai trò vị trí của thông tin kế toán trong hoạt động quản lý
Bởi vì nghiên cứu bản chất của hạch toán kế toán ta thấy chức năng chính
của hạch toán kế toán là phản ánh và giám đốc các mặt hoạt động kinh té tài
chính ở tất cả các doanh nghiệp, tổ chức cơ quan sự nghiệp. Hơn thế nữa hạch
toán kế toán còn thực hiện chức năng phản ánh và giám đốc một cách liên tục,
toàn diện và có hệ thống tất cả các loại vật tư, tiền vốn về mọi hoạt động kinh tế

- Thông tin hạch toán kế toán là những thông tin động về tuần hoàn của
những tài sản. Trong doanh nghiệp, toàn bộ bức tranh về hoạt động sản xuất
kinh doanh từ khâu đầu tiên, là cung cấp vật tư cho sản xuất, qua khâu sản xuất
đến khâu cuối cùng là khâu tiêu thụ đều được phản ánh thật đầy đủ và sinh động
qua thông tin kế toán.

- Thông tin hạch toán kế toán luôn là những thông tin về hai mặt của hiện
tượng, mỗi quá trình: vốn và nguồn, tăng và giảm, chi phsi và kết quả,…Những
thông tin đó có ý nghĩa rất lớn đối với việc ứng dụng hạch toán kinh doanh với
nội dung cơ bản là độc lập về tài chính, lấy thu bù chi, kích thích vật chất và
trách nhiệm vật chất…

- Mỗi thông tin thu được là kết quả quá trình có tính hai mặt; thông tin và
kiểm tra.

Đối tượng sử dụng thông tin kế toánthwowngf được phân loại theo quan
hệ với đơn vị(về lợi ích, về khả năng ảnh hưởng tới các hoạt động của đơn vị, ..)
theo đó đối tượng kế toán bao gồm:

Các nhà quản lý: Là những người trực tiếp tham gia quản trị kinh doanh,
chỉ đạo tác nghiệp trực tiếp tại đơn vị, gồm có: Hội đồng quản trị, chủ doanh
nghiệp, ban giám đốc.

Những người có lợi ích liên quan:

+ Lợi ích trực tiếp: Gồm có các nhà đầu tư, chủ nợ … của dơn vị.
+ Lợi ích gián tiếp: Cơ quan thuế, cơ quan thống kê, các cơ quan quản lí
nhà nước, cơ quan tài chính,công nhân viên, các nhà phân tích tài chính,…

Do có sự khác biệt về mục đích sử dụng, cách thức sử dụng và trình độ kế


toán, quan hệ lợi ích,… nên mỗi đối tượng trên có yêu cầukhacs nhau đối với
thông tin kế toán và tiếp cận hệ thống kế toán với những góc độ khác nhau.

1.3.2 Yêu cầu của thông tin kế toán và nhiệm vụ của công tác kế toán

Là phân hệ thông tin trong hệ thống quản lý, hạch toán kế toán thu thập và
cung cấp thông tin về tài chính, về kết quả kinh doanh làm cơ sở cho việc ra
những quyết định quản lý. Trong hệ thống quản lý này, hạch toán kế toán có
chức năng thông tin và kiểm tra về tài sản các đơn vị hạch toán. Với chức năng
và đối tượng đó, có thể xác định được những nhiệm vụ cơ bản của công tác kế
toán như sau:

1. Cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác các tài liệu về tình hình cung
ứng dự trữ, sử dụng tài từng laoij trong quan hệ với nguồn hình thành tài sản và
sử dụng hợp lý tài sản của đơn vị hạch toán, khai thác tiềm năng của tài sản.

2. Giám sát tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp, công ty.. tình hình
sử dụng nguồn kinh phí của các đơn vị sự nghiệp góp phần nâng cao hiệu pháp
quả kinh doanh, hiệu quả nguồn vốn cấp pháp… Trên cơ sở thực hiệnluaatj pháp
và các chế độ thể lệ hiện hành.

3. Theo dõi tình hình huy động và sử dụng các nguồn tài sản do liên kết
kinh tế, giám sát tình hình thực hiện các hợp đồng kinh tế nghĩa vụ với nhà
nước, với cấp trên, với các đơn vị bạn.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ và chức năng của mình kế toán phải làm tốt
những công việc sau đây:

- Ghi nhận, lượng hóa và phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong
một tổ chức, đơn vị kinh tế.
- Phân loại, hệ thống hóa và tập hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

- Tổng hợp và tính toán các chỉ tiêu thông tintheo yêu cầu quản lý trong
và ngoài doanh nghiệp.

- Cung cấp các số liệu làm quyết định cho quản lý.

1.4 Các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận

Những nguyên tắc kế toán không phải bắt nguồn từ các định luật tự nhiên
giống như các bộ môn khoa học tự nhiên. Nói đúng hơn, những nguyên tắc kế
toán được phát triển liên quan đến những mục tiêu quan trọng nhất của việc báo
cáo tài chính.

Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận rộng rãi là hệ thống bao gồm các
giả định về môi trường kế toán, các khái niệm cơ bản về kế toán và các nguyên
tắc kế toán chủ yếu được những người hành nghề kế toán chấp nhận rộng rãi
nhằm tạo sự thống nhất trong việc sử dụng và trình bày các thông tin kế toán.
Do các nguyên tắc kế toán tiến triển trong một môi trường kinh doanh không
ngừng thay đổi cho nên không thể có một danh mục đầy đủ những nguyên tắc kế
toán được chấp nhận chung. Chúng ta sẽ xét ngắn gọn những nguyên tắc chính
đang chi phối các quá trình kế toán:

1 Nguyên tắc thực thể kinh doanh là bất kỳ một đơn vị kinh tế nào tiến
hành một hoạt động kinh doanh cần ghi chép tổng hợp và báo cáo. Cần có sự
độc lập về mặt kế toán, tài chính giữa một đơn vị kế toán với chủ sở hữu của nó
và với các đơn vị kế toán khác. Do vậy các số liệu ghi chép và báo cáo của một
doanh nghiệp không được bao gồm bất cứ quá trình kinh doanh hoặc tài sản cá
nhân và quá trình kinh doanh của chủ sở hữu doanh nghiệp đó vì nếu chúng bao
gồm một yếu tố nào, cũng sẽ làm sai lệch báo cáo về tình trạng tài chính và quá
trình sinh lợi của doanh nghiệp.
2 Nguyên tắc hoạt động liên tục là giả thiết doanh nghiệp hoạt động vô
thời hạn hoặc không bị giải thể trong tương lai gần là điều kiện cơ bản để có thể
áp dụng các nguyên tắc, chính sách kế toán. Khi một đơn vị kế toán tồn tai dấu
hiệu hoạt động liên tục thì giá trị tài sản được ghi theo giá gốc. Điều này xảy ra
vì nguyên tắc kinh doanh liên tục, trừ phi có chứng cứ mạnh mẽ ngược lại, bảng
cân đối kế toán được lập theo giả thiết doanh nghiệp vẫn tiếp tục hoạt động.Là
doanh nghiệp hoạt động liên tục nên tài sản sử dụng để sản xuất kinh doanh
không phải để bán, nên giá trị thị trường của chúng thực sự không thích hợp và
không cần thiết phải phản ánh.

Tuy nhiên khi không còn dấu hiệu hoạt động liên tục thì giá trị thị trường
là căn cứ quan trọng để xác định giá trị tải sản của đơn vị kế toán.

3 Nguyên tắc thước đo tiền tệ là đơn vị thống nhất trong việc tính toán và
ghi chép các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh, kế toán chỉ phản ánh những
gì có thể biểu hiện bằng tiền. Theo nguyên tắc này, tiền tệ được sử dụng như một
thước đo cơ bản và thống nhất trong tất cả các báo cáo tài chính.

Các nghiệp vụ kinh tế cầng được phản ánh và ghi chép một đơn vị tiền tệ
thống nhất( đồng tiền kế toán) trường hợp các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến
đồng tiền khác, cần quy đổi về đơn vị tiền tệ thống nhất để ghi sổ theo phương
pháp thích hợp.

4. Nguyên tắc kỳ kế toán. Trước hết chúng ta phải hiểu kỳ kế toán là


khoảng thời gian nhất định mà trong đó các báo cáo tài chính được lập, Theo
nguyên tắc số một chúng ta thừa nhận một thời gian không xác định cho hầu hết
các thực thể kinh doanh. Nhưng kế toán phải đánh giá quá trình hoạt động và
những thay đổi tình hình kinh tế của doanh nghiệp trong những thời gian tương
đối ngắn. Nguyên tắc này xuất phát từ đòi hỏi của người ra những quyết định
quản lý và những người sử dụng báo cáo tài chính là cần có sự đánh giá thường
kỳ về tình hình hoạt động của đơn vị.
Kỳ kế toán năm gọi là niên độ kế toán. Ngày bắt đầu và kết thúc niên độ
kế toán là do chế độ kế toán từng quốc gia quy định.

5. Nguyên tắc khách quan: Số liệu do kế toán cung cấp phải mang tính
khách quan và có thể kiểm tra được, thông tin kế toán cần không bị ảnh hưởng
bởi ý kiến chủ quan nào. Tính khách quan trong kế toán xuất phát từ yêu cầu
phải đạt được độ tin cậy cao. Nhân viên kế toán muốn các tính toán của mình
đáng tin cậy và đồng thời thích hợp nhất cho những người ra quyết định.

6. Nguyên tắc chi phí: Đây còn được gọi là giá phí lịch sử. Việc tính toán
giá trị tài sản, công nợ, vốn doanh thu, chi phí phải dựa trên giá trị thực tế mà
không quan tâm đến giá trị thị trường. Đây là nguyên tắc dựa trên sự hoạt động
liên tục của doanh nghiệp.

Trong việc vận dụng nguyên tắc chi phí, chi phí được đánh giá trên căn cứ
tiền mặt hoặc tuơng đương tiền mặt. Nếu vật đền bù cho một tài sản hoặc dịch
vụ là tiền mặt thì chi phí được đánh giá hoàn toàn theo số tiền mặt chi ra để
được tài sản hoặc dịch vụ đó. Nếu vật đền bù là loại gì khác với tiền mặt thì chi
phí được đánh giá theo giá trị tiền mặt tương đương số tiền cho sẵn hoặc giá trị
tiền mặt tương đương của vật nhận được.

7. Nguyên tắc doanh thu thực hiện: Doanh thu phải được xác định bằng số
tiền thực tế thu được và được ghi nhận khi quyền sở hữu hàng hóa bán ra được
chuyển giao và khi các dịch vụ đó được thực hiện.

8. Nguyên tắc phù hợp:Tất cả các chi phí phát sinh để tạo ra doanh thu ở
kỳ nào cũng phải phù hợp với doanh thu ghi nhận của kỳ đó và ngược lại. Sự
phù hợp được xét trên hai khía cạnh thời gian và quy mô.

9. Nguyên tắc nhất quán:


Trong quá trình kế toán, các chính sách kế toán, khái niệm nguyên tắc,
chuẩn mực và các phương pháp tính toánphair được thực hiện trên cơ sở nhất
quán từ kỳ này sang kỳ khác.

Nguyên tắc nhất quán bao hàm ý nghĩa là một phương pháp kế toán, một
khi đã được chấp nhận, thì không nên thay đổi theo từng thời kỳ. Điều này rất
quan trọng, vì nó giúp cho những người dùng báo cáo tài chính hiểu được những
sự thay đổi về tình hình tài chính.

10. Nguyên tắc công khai: Nguyên tắc này đảm bảo tất cả các tư liệu và
sự việc có liên quan đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị kế
toán phải thông báo đầy đủ cho người sử dụng.Sự công khai như vấyex làm cho
các báo cáo tài chính có ích hơn và giảm bớt các vấn đề hiểu sai.

11. Nguyên tắc thận trọng Thông tin kế toán cung cấp cho người sử dụng
cần đảm bảo sự thận trọng thích đáng để người sử dụng không hiểu sai hoặc
đánh giá quá lạc quan về tình hình tài chính của đơn vị. Do đó kế toán:

- Chỉ ghi tăng nguồn vốn sở hữu khi có chứng cứ chắc chắn

- Ghi giảm nguồn vốn sở hữu khi có chứng cứ có thể.

Cần lập dự phòng cho một số trường hợp nhất định nhưng không được
quá cao.

12 Nguyên tắc trọng yếu:

Thông tin kế toán mang tính trọng yếu là những thông tin có ảnh hưởng
đáng kể tới bản chất của nghiệp vụ hoặc ảnh hưởng tới những đánh giá của đối
tượng sử dụng về tình hình tài chính của đơn vị, hoặc ảnh hưởng tới đối tượng
sử dụng trong việc ra quyết định.
Chỉ chú trọng những vấn đề mang tính trọng yếu quyết định bản chất và
nội dung của sự vật không quan tâm tới những yếu tố ít tác dụng trong báo cáo
tài chính.
CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA HẠCH TOÁN KẾ
TOÁN

I ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA HẠCH TOÁN KẾ TOÁN

Trước hết ta phải hiểu nghiên cứu đối tượng kế toán là xác định những nội
dung mà kế toán phải phản ánh và giám đốc. Khác với môn khoa học kinh tế
khác, hạch toán kế toán nghiên cứu quá trình sản xuất thông qua sự hình thành
và vận động của vốn trong một đơn vị cụ thể, nhằm quản lý và sử dụng có hiệu
quả vốn trên phạm vi sử dụng nhất định.

- Một là hạch toán kế toán nghiên cứu các yếu tố quá trình tái sản xuất trên
góc độ tài sản( tài sản ngắn hạn, tài sản dài hạn) Nguồn hình thành tài sản này là
nguồn vốn(nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay nợ)

- Hai là hạch toán kế toán không chỉ nghiên cứu trạng thái tĩnh của các tài
sản mà hạch toán kế toán còn nghiên cứu trạng thái động của tài sản trong quá
trình kinh doanh.

Ta có giai đoạn cụ thể của quá trình sản xuất T – H…SX…H’ – T’.

Lưu chuyển hàng hóa ( T-H-T’) hoặc huy động vốn cho vay (T-T’)

Nghiên cứu sự vận động liên tục của tài sản trong quá trình kinh doanh của
các đơn vị cụ thể cũng là đặc trưng riêng của hạch toán kế toán.
- Ba là trong quá trình kinh doanh của đơn vị, có rất nhiều mối quan hệ với
bên ngoài đơn vị về mặt kinh tế pháp lý như tài sản cố định thuê ngoài,vật tư
hàng hóa nhận giữ hộ, gia công… Những mối quan hệ này đặt ra yêu cầu cấp
bách giải quyết thông qua hệ thống hạch toán kế toán.

- Bốn là: Phạm vi nghiên cứu đối tượng hạch toán kế toán là các đơn vị kinh
tế cơ sở. Ngoài các đơn vị kinh tế, các đơn vị sự nghiệp tuy không phải là những
đơn vị kinh doanh nhưng cũng tham gia vào từng khâu của quá trình tái sản xuất
xã hội( trực tiếp hoặc gián tiếp); cũng được giao một số vốn nhất định và cần sử
dụng đúng mục đích có hiệu quả. Vì vậy đây cũng thuộc phạm vi nghiên cứu
của đối tượng hạch toán kế toán.

Trước hết chúng ta tìm hiểu nghiên cứu vốn, trước hết là tài sản và nguồn
hình thành tài sản và sau nữa là quá trình hình thành của vốn.

Bất kỳ một doanh nghiệp, một tổ chức hay một cá nhân nào muốn tiến hành
kinh doanh cũng đòi hỏi lượng vốn nhất định. Lượng vốn đó biểu hiện dưới
dạng vật chất hay phi vật chất và được đo băng tiền gọi là tài sản. Mặt khác vốn
của doanh nghiệp được hình thành tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau gọi là nguồn
vốn. Như vậy vốn của doanh nghiệp sẽ được phân loại theo hình thái biểu hiện
là tài sản và nguồn hình thành tài sản(nguồn vốn) cùng quá trình vận động của
vốn trong kinh doanh.

II Tài sản trong doanh nghiệp

1 Khái niệm về tài sản

Là toàn bộ những tiềm lực kinh tế của đơn vị biểu thị cho những lợi ích mà
đơn vị thu được trong tương lai hoặc có tiềm năng phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của đơn vị.
Tài sản là tất cả những thứ hữu hình hoặc vô hình gắn với lợi ích trong
tương lai của đơn vị thỏa mãn các điều kiện sau:

- Thuộc quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát lâu dài của đơn vị.

- Có giá phí thực sự xác định đối với đơn vị.

- Có rất nhiều cách phân loại tài sản trong các doanh nghiệp.

2. Phân loại tài sản của doanh nghiệp

Căn cứ vào giá trị và tính chất luân chuyển tài sản là cách phân loại quan
trọng nhất.

Loại thứ nhất: Tài sản ngắn hạn


Loại thứ hai: Tài sản dài hạn
Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp là những tài sản thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển thu hồi trong một năm
hoặc một chu kỳ kinh doanh.

Trước đây loại này được gọi là tài sản lưu động và đầu tư tài chính ngắn
hạn.

Có rất nhiều cách phân loại tài sản ngắn hạn

- Tài sản ngắn hạn phân theo mức độ khả thanh

+ Tiền bao gồm tiền mặt( Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý), tiền
gửi ngân hàng, kho bạc và tiền đang chuyển.

+ Đầu tư tài chính ngắn hạn: Là những khoản đầu tư về vốn nhằm mục
đích sinh lời có thời gian thu hồi gốc và lãi trong vòng một năm như: góp vốn
liên doanh ngắn hạn, cho vay ngắn hạn, đầu tư chứng khoán ngắn hạn…
+ Các khoản phải thu ngắn hạn: Là lợi ích của đơn vị đang bị đối tượng
khác tạm thời chiếm dụng như phải thu của khách hàng ngắn hạn, phải thu nội
bộ, trả trước ngắn hạn cho người bán, phải thu về thuế GTGT đầu vào được
khấu trừ.

+ Hàng tồn kho: Là các loại tài sản được dự trữ trong sản xuất hoặc cho
kinh doanh thương mại, bao gồm: hàng mua đang đi trên đường, nguyên vật
liêu, công cụ, dụng cụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa gửi đi bán.

+ Tài sản ngắn hạn khác: Bao gồm tạm ứng, chi phí trả trước ngắn hạn thế
chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn.

- Tài sản ngắn hạn còn phân theo lĩnh vực luân chuyển, từ đó tài sản ngắn
hạn phân chia thành 3 loại: Tài sản ngắn hạn trong sản xuất, tài sản ngắn hạn
trong lưu thông và tài sản ngắn hạn tài chính.

+ Tài sản ngắn hạn trong sản xuất phân thành tài sản tài dự trữ cho sản
xuất và tài sản ngắn hạn trong sản xuất. Tài sản ngắn hạndwj trữ trong sản xuất
bao gồm các loại nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ đang dự trữ trong kho chuẩn
bị trong quá trình sản xuất còn tài sản ngắn hạn trong sản xuất là giấ trị các tài
sản còn đang nằm trong quá trình sản xuất, gồm nửa thành phẩm, sản phẩm dở
dang.

+ Tài sản ngắn hạn trong lưu thông cũng phân thành tài dự trữ cho quá
trình lưu thông, tài sản trong quá trình lưu thông.

+ Tài sản ngắn hạn tham gia vào đầu tư tài chính ngắn hạn: Bao gồm các
loại tài sản đầu tư liên doanh ngắn hạn, đầu tư chứng khoán ngắn hạn,…

- Cách phân chia nữa có thể dùng là phân chia thành tài sản ngắn hạn
trong kinh doanh và tài sản ngắn hạn ngoài kinh doanh.

Loại thứ hai: Tài sản dài hạn


Là những tài sản có giá trị lớn và thời gian luân chuyển dài(thường trên
một năm hay một chu kỳ kinh doanh). Tài sản dài hạn bao gồm:

+ Tài sản cố định: Là những tư liệu lao động có thời gian sử dụng lâu dài.
Theo quy định mới tài sản cố định phải thỏa mãn ít nhất hai điều kiện là có thời
gian sử dụng từ một năm trở lên và có giá trị từ 10 triệu trở lên. Theo hình thái
biểu hiện, tài sản cố định được chia thành tài sản cố định hữu hình và tài sản cố
định vô hình.

Tài sản cố định hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ
thể, bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc; máy móc thiết bị,….

Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ
thể, thể hiện một số tiền mà đơn vị đã đầu tư, chi phí nhằm thu được các lợi ích
kinh tế trong tương lai như: quyền sử dụng đất, bản quyền, bằng phát minh sáng
chế, nhãn hiệu hàng hóa,..

+ Các khoản phải thu dài hạn: Là lợi ích của đơn vị hiện đang bị đối
tượng khác tạm thời chiếm dụng. có thời hạn thu hồi trên một năm như phải thu
khách hàng dài hạn, trả trước dài hạn cho người bán,..

+ Đầu tư tài chính dài hạn: là những khoản đầu tư về vốn nhằm mục đích
sinh lời có thời gian thu hồi gốc và lãi trên một năm như: đầu tư vào công ty
con, đầu tư vào công ty liên kết, góp vốn liên doanh, cho vay dài hạn.

+ Bất động sản đầu tư: Bất động sản đầu tư cho doanh nghiệp bao gồm
quyền sử dụng đất, nhà hoặc một phần của nhà hoặc cả nhà và đất, cơ sở hạ tầng
do người chr sỡ hữu hoặc người đi thuê tài chính nắm giữ nhằm mục đích thu lợi
từ việc cho thuê hoặc chờ tăng giá mà không phải để sử dụngcho mục đích quản
lý hoặc để bán trong kỳ hoạt động kinh doanh thông thường. Bất động sản đầu
tư tài chính khác với bất động sản chủ sở hữu sử dụng và hàng hóa bất động sản.
Ngoài ra còn tài sản dài hạn khác bao gồm chi phí trả trước dài hạn, chi
phí đầu tư xây dựng cơ bản dở dang và ký cược ký quỹ ngắn hạn.

III Nguồn hình thành tài sản

1 Khái niệm nguồn vốn

Nguồn vốn là những quan hệ tài chính mà thông qua đó đơn vị có thể khai
thác hay huy động một số tiền nhất định để đầu tư tài sản. Nguồn vốn cho biết
tài sản của đơn vị do đâu mà có và đơn vị phải có những trách nhiệm kinh tế,
pháp lý đối với tài sản của mình.

2. Phân loại nguồn vốn của doanh nghiệp

- Nguồn vốn chủ sở hữu: Là số tiền do các nhà đầu tư, các sáng lập viên
đống góp hoặc được hình thành từ kết quả hoạt động. Do đó doanh nghiệp
không phải cam kết thanh toán và không phải là một khoản nợ.

Trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần nước ta hiện nay tùy loại hình
doanh nghiệp khác nhau mà có thể có một chủ hoặc nhiều vốn chủ sở hữu. Đối
với loại hình doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn nhà nước cấp nhà nước là chủ
sở hữu. Doanh nghiệp liên doanh thì chủ sở hữu là các thành viên tham gia góp
vốn, hùn vốn. Đối với các công ty cổ phần chủ sở hữu vốn là các cổ đông. Đối
với doanh nghiệp tư nhân chủ sở hữu vốn là cá nhân hoặc hộ gia đình.

Nguồn vốn chủ sỡ hữu bao gồm:

+ Vốn góp: Là số tiền do các chủ sở hữu đóng góp ban đầu khi thành lập
đơn vị kinh doanh, hoặc bổ sung trong quá trình hoạt động nhằm sản xuất kinh
doanh. Cần phân biệt vốn góp, vốn pháp định và vốn điều lệ.

+ Lợi nhuận chưa phân phối( Lãi lưu giữ) Đó là kết quả toàn bộ hoạt động
sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận chưa phân phối được sử dụng cho kinh doanh
coi như một nguồn vố chủ sở hữu.
+ Vốn chủ sở hữu khác: Bao gồm nguồn vốn và quỹ chuyên dùng của đơn
vị kế toán hình thành chủ yếu qua phân phối lợi nhuận như: quỹ đầu tư phát
triển, quỹ dự phòng tài chính,…hoặc một số loại vốn khác như xây dựng cơ bản,
chênh lệch đánh giá lại tài sản,…

- Nợ phải trả: Là số tiền doanh nghiệp đi vay, đi chiếm dụng của các đơn
vị, tổ chức, cá nhân do vậy doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả. Nợ của doanh
nghiệp được chia thành hai loại

+ Nợ ngắn hạn: Là khoản tiền doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả trong
vòng một chu kỳ hoạt động kinh doanh bình thường hoặc trong vòng một năm.
Nợ ngắn hạn bao gồm: Vay ngắn hạn, thương phiếu phải trả, khoản nợ dài
hạnddax đến hạn trả, tiền phải trả cho người bán, người nhận thầu, thuế và các
khoản phải nộp ngân sách, lương và phụ cấp phải trả cho công nhân viên, các
khoản ký cược ký quỹ ngắn hạn và các khoản phải trả ngắn hạn khác.

+ Nợ dài hạn: Là các khoản nợ mà thời gian trả nợ trên một năm: bao
gồm: Vay dài hạn cho đầu tư phát triển, nợ thế chấp phải trả, thương phiếu dài
hạn, trái phiếu phải trả, các khoản nhận ký cược, ký quỹ dài hạn, các khoản phải
trả dài hạn khác.

IV Mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vôn, phương trình kế toán

Một chủ thể muốn kinh doanh cần có một lượng vốn nhất định. Một mặt
lượng vốn được biểu hiện dưới dạng vật chất hoặc phi vật chất, được đo lường
bằng thước đo tiền tệ gọi là tài sản. Mặt khác lượng vốn đó hình thành từ một
hoặc nhiều nguồn khác nhau gọi là nguồn vốn. Một tài sản có thể do một hay
nhiều nguồn vốn hình thành và ngược lại một nguồn vốn có thể tham gia hình
thành nên một hay nhiều loại tài sản khác nhau. Do đó về mặt lượng, tại bất cứ
thời điểm nào, tổng giá trị tài sản và tổng giá trị nguồn vốn luôn bằng nhau. Sự
cân bằng giữa tổng tài sản và tổng nguồn vốn thể hiện qua phương trình sau:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn

Hay Nguồn vốn chủ sở hữu = Tổng tài sản – Nợ phải trả.

V. Kết luận chung về đối tượng hạch toán kế toán

Những đặc điểm cơ bản ta có thể khái quát là:

- Luôn có tính hai mặt, độc lập với nhau nhưng cân bằng với nhau về
lượng.

- Luôn vận động qua các giai đoạn khác nhau nhưng theo một trật tự xác
định và khép kín sau một chu kỳ nhất định.

- Luôn có tính đa dạng trên mỗi nội dung cụ thể

- Mỗi loại đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán đều gắn liền trực tiếp
đến lợi ích kinh tế, đến quyền lợi và trách nhiệm nhiều phía khác nhau.

VI. Hệ thống phương pháp của hạch toán kế toán

Từ những đặc điểm cơ bản của đối tượng hạch toán kế toán đã hình thành
hệ thống phương pháp hạch toán kế toán bao gồm bốn yếu tố. Từng yếu tố gắn
với hình thức tương ứng khác nhau.

Chứng từ: là một phương pháp thông tin và kiểm tra sự hình thành các
nghiệp vụ kinh tế. Phương pháp chứng từ có hình thức biểu hiện tương ứng là hệ
thỗng các bản chứng từ và chương trình luân chuyển chứng từ.

Đối ứng tài khoản: Là phương pháp thông tin và kiểm tra quá trình vận
động của vốn kinh doanh theo từng loại hoặc theo từng bộ phận của vốn.
Phương pháp đối ứng tài khoản có hệ thống tài khoản(tổng hợp và phân tích các
quan hệ đối ứng chủ yếu, hệ thốn sổ tài khoản)

Tính giá: Là phương pháp thông tin và kiểm tra về chi phí trực tiếp và
gián tiếp cho từng loại hoạt động, từng loại hàng hóa(kể cả vật liệu, tài sản, sản
phẩm, lao vụ). Phương pháp tính giá có các sổ hạch toán chi tiết chi phí, bảng kê
chi tiết chi phí, bảng phân bổ chi phí, thẻ(bảng) tính giá thành,…

Tổng hợp cân đối kế toán: Là phương pháp khái quát tình hình vốn kinh
doanh và kết quả kinh doanh của đơn vị hạch toán trong từng thời kỳ nhất định.
Phương pháp này bao gồm các bảng: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả
kinh doanh,…

Mỗi phương pháp có vị trí và chức năng nhất định, song giữa chúng có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một hệ thống phương pháp hạch toán kế
toán. Do đó trong công tác kế toán, các phương pháp này được sử dụng một
cách tổng hợp, đồng bộ.

Ta sẽ lần lượt nghiên cứu từng phương pháp và hình thức tương ứng của
từng phương pháp đó.

CHƯƠNG 3: Phương pháp chứng từ

I Khái quát chung về phương pháp chứng từ

1 Khái niệm phương pháp chứng từ

Trong quá trình hoạt động của đơn vị, tài sản và nguồn vốn luôn luôn vận
động thay đổi. Phù hợp với đặc điểm đó trong vận động vốn , trong hạch toán và
trong quản lý thường dùng khái niệm “ Nghiệp vụ kinh tế” vừa để thống nhất
vừa để phân định sự khác biệt của các biến động cụ thể của vốn.
Nghiệp vụ kinh tế - đó là sự vận động của một loại vốn cụ thể( về vật
chất, về giá trị, về nguồn hình thành,…) gắn liền với một hành vi kinh tế hoặc
thay đổi một ý niệm trong quản lý cần phải phân định, tính toán, kiểm tra.

Một trong những cách thức phổ biến được sử dụng để thu thập truyền đạt
và lưu trữ các thông tin về nghiệp vụ kinh tế phát sinh là chứng từ.

Vậy chứng từ là phương pháp thông tin và kiểm tra về trạng thái và sự
biến động của đối tượng hạch toán kế toán cụ thể nhằm phục vụ kịp thời cho
lãnh đạo nghiệp vụ và làm căn cứ phân loại ghi sổ và tổng hợp kế toán.

Phương pháp chứng từ được cấu thành từ hai yếu tố cơ bản:

Một là: Hệ thống bản chứng từ dùng để chứng minh tính hợp pháp của
việc hình thành các nghiệp vụ kinh tế thuộc đối tượng hạch toán kế toán và là
căn cứ ghi sổ kế toán.

Hai là: Kế hoạch luân chuyển chứng từ nhằm thông tin kịp thời về các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh phản ánh trạng thái và sự biến động của các đối
tượng hạch toán kế toán.

Phương pháp chứng từ với hai yếu tố cấu thành cơ bản nêu trên nhằm có
thể:

- Sao chụp được vốn và các quan hệ phát sinh thuộc đối tượng hạch toán
kế toán phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng và sự vận động của nó.

- Thông tin và kiểm tra kịp thời tình trạng của từng đối tượng và sự vận
động của nó theo yêu cầu quản lý nghiệp vụ của mỗi cấp chủ thể quản lý.

2 Vai trò tác dụng của chứng từ kế toán

- Phương pháp chứng từ thích ứng với tính đa dạng và biến động liên tục
của đối tượng hạch toán kế toán, có khả năng theo sát từng nghiệp vụ, sao chụp
nguyên hình các nghiệp vụ đó trên các bản chứng từ làm cơ sở cho công tác
hạch toán kế toán, xử lý thông tin các nghiệp vụ đó.

- Hệ thống bản chứng từ hợp pháp là căn cứ pháp lý cho việc bảo vệ tài
sản, xác minh tính hợp pháp trong giải quyết các mối quan hệ kinh tế- pháp lý
thuộc đối tượng của hạch toán kế toán, căn cứ cho việc kiểm tra, thanh tra các
hoạt động sản xuất kinh doanh, là cơ sở pháp lý cho mọi thông tin kế toán.

- Phương pháp chứng từ: là phương tiện thông tin hỏa tốc phục vụ công
tác lãnh đạo nghiệp vụ ở đơn vị hạch toán và phân tích kinh tế.

- Theo sát các nghiệp vụ kinh tế phát sinh( về quy mô, thời gian, địa điểm,
trách nhiệm vật chất của các đối tượng liên quan), góp phần thực hiện tốt hạch
toán kinh doanh nội bộ.

- Chứng từ là cơ sở để phân loại, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
theo từng đối tượng hạch toán cụ thể.

Phương pháp chứng từ có vị trí rất quan trọng nên được áp dụng trong tất
cả các đơn vị hạch toán, tuy nhiên nó không thể thay thế các phương pháp khác
được mà phải thích ứng và tạo ra mối liên hệ về nội dung và hình thức hạch
toán.

II Hệ thống bản chứng từ

1 Bản chứng từ

Bản chứng từ vừa là phương tiện chứng minh tính hợp pháp của nghiệp
vụ kinh tế phát sinh, vừa là phương tiện thông tin về kết quả nghiệp vụ kinh tế
đó.

Các tiêu thức phản ánh đặc trưng riêng cho mỗi loại nghiệp vụ kinh tế
được nêu ra trong mỗi bản chứng từ được gọi là các yếu tố của bản chứng từ.Có
thể chia các yếu tố của bản chứng từ thành hai nhóm: Các yếu tố cơ bản và các
yếu tố bổ sung.

Các yếu tố cơ bản: Là các yếu tố bắt buộc phải có trong tất cả các loại
chứng từ, là căn cứ chủ yếu đảm bảo sự chứng minh về tính hợp pháp, hợp lệ
của chứng từ, là cơ sở để chứng từ thực hiện chức năng thông tin về kết quả của
nghiệp vụ. Sự vắng mặt của bất kỳ các yếu tố nào làm cho bản chứng từ trở lên
không đầy đủ và do đó không đáng tin cậy.

Các yếu tố cơ bản trong chứng từ bao gồm:

a) Tên chứng từ: Khái quát nghiệp vụ chứng từ phản ánh. Chẳng hạn hóa
đơn GTGT, phiếu thu, phiếu chi,…

b) Tên và địa chỉ đơn vị, cá nhân có liên quan đến nghiệp vụ. Đây là yếu
tố quan trọng xác định trách nhiệm vật chất với nghiệp vụ kinh tế, để chi tiết hóa
hay phân loại nghiệp vụ theo dõi đối tượng có liên quan đến nghiệp vụ. Đồng
thời là cơ sở để xác định đối chiếu kiểm traveef các nghiệp vụ kinh tế.

c) Ngày tháng và số thứ tự của chứng từ: là cơ sở để kiểm tra, đối chiếu
và phân loại các nghiệp vụ kinh tế theo thời gian. Một số loại chứng từ có số
hiệu được ghi sẵn. Thời gian lập chứng từ thông thường là thời gian xảy ra
nghiệp vụ. Trương hợp thời gian xảy ra chứng từ và thời gian xảy ra nghiệp vụ
khác nhau thì chứng từ phải có thêm chỉ tiêu này.

d) Nội dung kinh tế cụ thể của nghiệp vụ. Nội dung kinh tế cụ thể của
nghiệp vụ phải đảm bảo đầy đủ ngắn gọn nhưng phải đảm bảo tính thông dụng
và dễ hiểu.

e) Quy mô của nghiệp vụ về số lượng, giá trị(Chỉ tiêu giá trị được ghi
bằng cả số và chữ)

f) Tên, chữ ký của những người chịu trách nhiệm thi hành và phê duyệt
nghiệp vụ. Trên chứng từ tối thiểu phải có hai chữ ký, những đối tượng thực
hiện nghiệp vụ phải ký trực tiếp, không được ký qua giấy than. Trong trương f
hợp liên quan đến tư cách pháp nhân của đơn vị kế toán thì phải có chữ ký của
người đại diện theo pháp luật đơn vị và đóng dấu đơn vị.

Ngoài các yếu tố cơ bản của chứng từ đã nêu ở trên còn có các yếu tố bổ
sung. Các yếu tố bổ sung là các yếu tố có vai trò thông tin thêm nhằm làm rõ đặc
điểm cá biệt của từng loại nghiệp vụ hay góp phần giảm nhẹ hoặ đơn giản hóa
công tác kế toán.

a) Quan hệ của các nghiệp vụ phản ánh trên chứng từ đến cắc loại tài
sản(loại sổ, loại tài khoản) phải phản ánh. Trường hợp kế toán kép thì có thể
định khoản ở phần cuối hay phần đầu của chứng từ.

b) Các yếu tố bổ sung khác như: Quy mô kế hoạch(định mức) của nghiệp
vụ, phương thức mua bán hàng, phương thức thanh toán…

Để đpaps ứng yêu cầu về nội dung và hình thức của bản chứng từ thường
phải tiến hành hai quá trình đồng thời là tiêu chuẩn hóa và quy cách hóa bản
chứng từ và cuối cùng thể chế hóa thành chế độ ghi chép ban đầu.

Vừa qua bộ tài chính đã chính thức ban hành Hệ thống chế độ kế toán
doanh nghiệp theo quyết định số 15/2006/QĐ – BTC ngày 20/03/2006 áp dụng
cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vưc, mọi thành phần kinh tế trong cả
nước: trong đó có chế độ chứng từ kế toán doanh nghiệp. Theo quyết định này
chế độ kế toán gồm hai hệ thống:

1 Hệ thống chứng từ kế toán không bắt buộc.

2 Hệ thống chứng từ kế toán hướng dẫn.

Hệ thống chứng từ kế toán thống nhất bắt buộc là hệ thống chứng từ phản
ánh các quan hệ kinh tế giữa các pháp nhân hoặc có yêu cầu quản lý chặt chẽ
mang tính chất phổ biến rộng rãi, Đối với loại chứng từ này, phương pháp lập và
áp dụng thống nhất cho tất cả các lĩnh vực các thành phần kinh tế.
Hệ thống chứng từ kế toán hướng dẫn chủ yếu là những chứng từ sử dụng
trong nội bộ đơn vị. Nhà nước hướng dẫn các chỉ tiêu đặc trưng ddeer các
nghành, các thành phần kinh tế trên cơ sở đó vận dụng vào từng trường hợp cụ
thể thích hợp.

2) Phân loại chứng từ kế toán

Chứng từ kế toán có thể dược phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau
tùy theo yêu cầu thông tin quản lý và hạch toán kế toán

a) Theo công dụng: Có thể phân thành 4 loại:

-Chứng từ mệnh lệnh: Chứng từ mang tính quyết định của chủ thể quản lý
như lệnh chi, lệnh xuất kho,.. Loại chứng từ này chưa đủ làm căn cứ ghi sổ kế
toán.

- Chứng từ thực hiện là chứng từ phản ánh các nghiệp vụ đã hoàn thành.
Một số chứng từ loại này như: Phiếu chi, phiếu xuất kho, hóa đơn,…

- Chứng từ thủ tục kế toán: Là những chứng từ tổng hợp, quy loại các
nghiệp vụ kinh tế có liên quan đến những đối tượng hạch toán kế toán cụ thể
nhất định để tiện lợi cho việc ghi sổ và đối chiếu các loại tài liệu. Chứng từ này
là chứng từ trung gian nên phải kèm theo chứng từ ban đầu mới đầy đủ cơ sở
pháp lý. Chứng từ ghi sổ, bảng kê chứng từ,…

- Chứng từ liên hợp: Lệnh kiêm phiếu xuất, Hóa đơn kiêm phiếu xuất kho,
Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ,…

b) Theo địa điểm lập chứng từ: Hệ thống bản chứng từ bao gồm chứng từ
bên trong( nội bộ) và chứng từ bên ngoài.

Chứng từ bên trong là chứng từ được lập trong phạm vi đơn vị hạch toán
không phụ thuộc vào đặc tính của nghiệp vụ kinh tế.Chứng từ bên trong có thể
chỉ liên quan đến giải quyết quan hệ trong nội bộ đơn vị như phiếu xuất vật tư
cho sản xuất, bảng kê thanh toán lương,.. Nhưng chứng từ bên trong liên quan
đến nghiệp vụ xảy ra trong đơn vị nhưng để giải quyết các mối quan hệ kinh tế
với bên ngoài như: Hóa dơn bán hàng, biên bản bàn goiao tài sản cố định cho
đơn vị khác,…

Chứng từ bên ngoài là chứng từ về các nghiệp vụ có liên quan đến đơn vị
hạch toán nhưng lập từ các đơn vị khác như hóa đơn mua hàng, phiếu vận
chuyển thuê ngoài,…

c) Theo trình độ khái quát: Chia thành chứng từ ban đầu và chứng từ tổng
hợp.

Chứng từ ban đầu còn gọi là chứng từ trực tiếp phản ánh trực tiếp đối
tượng hạch toán, chứng từ ban đầu có đầy đủ giá trị và hiệu lực cho việc hạch
toán và cho quản lý. Chứng từ ban đầu gồm tất cả các loại hóa đơn, phiếu xuất,
nhập vật tư, lệnh thu, chi tiền mặt,…

Chứng từ tổng hợp hay chứng từ khái quát là phương tiện tổng hợp tài
liệu về các nghiệp vụ kinh tế cùng loại, là công cụ kỹ thuật giảm nhẹ công tác kế
toán và đơn giản trong ghi sổ.Tuy vậy chứng từ tổng hợp không có tính độc lập.

d) Theo số lần ghi các nghiệp vụ kinh tế trên chứng từcos thể phân hệ
thống chứng từ thành chứng từ một lần và chứng từ nhiều lần.

Chứng từ một lần là chứng từ trong đó việc ghi chép chỉ tiến hành một lần
và chuyển vào ghi số kế toán. Chứng từ một lần được sử dụng rất phổ biến và
được lập, thực hiện trong phạm vi một ngày.Chứng từ một lần như: Hóa đơn,
lệnh thu chi tiền mặt,…

Chứng từ nhiều lần là chứng từ ghi một laotj nghiệp vụ kinh tế tiếp diễn
nhiều lần. Sau mỗi lần con số thường được cộng dồn, tới một giới hạn chứng từ
không được sử dụng nữa chuyển vào ghi sổ kế toán lưu trữ.
e) Theo nội dung các nghiệp vụ kinh tế: Nhằm phân loại chứng từ để lưu
trữ và xác định thời hạn lưu trữ chứng từ hệ thống chứng từ gồm nhiều loại:
Chứng từ về tiền mặt, về vật tư, về tiêu thụ hàng hóa, thanh toán với ngân hàng,
thanh toán với công nhân viên,..

h) Theo tính cấp bách của thông tin trong chứng từ: Hệ thống chứng từ
chia thành hai loại chứng từ bình thường và chứng từ báo động.

III) Luân chuyển chứng từ

1) Luân chuyển chứng từ

You might also like