You are on page 1of 9

Sau khi được học tập và bồi dưỡng kiến thức về Đảng tại Trung tâm bồi

dưỡng Chính trị thuộc Đảng ủy khối cơ quan Trung Ương tôi đã có cơ hội hiểu
rõ hơn về ý nghĩa và tầm quan trọng của sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với công cuộc giải phóng và giành độc lập dân tộc. Hiểu biết và nắm
bắt được những kiến thức cơ bản trong cương lĩnh xây dựng đất nước qua các
thời kỳ đồng thời còn thấy được vai trò quan trọng của việc học tập và làm theo
tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Qua những buổi học này, tôi cũng
đã hiểu những nội dung cơ bản trong Điều lệ của Đảng cộng sản Việt Nam. Qua
đó, không ngừng phấn đấu, học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức,
năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng của mình, để cùng tham gia
công cuộc xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù.

Sau đây tôi xin trình bày một số vấn đề trong bản thu hoạch của mình để
trả lời các câu hỏi của lớp Bồi dưỡng kết nạp Đảng IV

Câu 1:
Đồng chí hãy trình bày 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam được nêu trong
cương lĩnh 1991. Phân tích bài học mà đồng chí thấy tâm đắc nhất. Ý nghĩa của
bài học này đối với công việc của đồng chí.

Trả lời
Năm bài học lớn của cách mạng Việt Nam được nêu trong cương lĩnh năm
1991

Từ những kinh nghiệm được đúc kết lại trong hơn 60 năm qua, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nêu ra năm bài học lớn của cách
mạng Việt Nam.

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta, độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với
nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra sức
mạnh to lớn của dân tộc trong đấu tranh cách mạng giành thắng lợi.

Hai là, Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và tòan bộ
hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của
nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân. Sức mạnh của Đảng
xuất phát từ sự gắn bó mật thiết với nhân dân

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn
kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử lớn, lâu dài của dân tộc
ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên
nguồn sức mạnh to lớn để giành thắng lợi.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước
với sức mạnh quốc tế.
Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ và quá trình toàn cầu hóa, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, các
yếu tố bên trong và bên ngoài có quan hệ và tác động lẫn nhau. Sức mạnh dân
tộc là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực, trong đó, đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy dân chủ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa
là mục tiêu vừa là động lực để phát triển đất nước. Sức mạnh thời đại, sức mạnh
quốc tế trước hết là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển của lịch sử nhân
loại, là sức mạnh của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, của các lực
lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Trong mọi giai đoạn, thời kỳ cách
mạng, sức mạnh và nguồn lực bên trong là yếu tố quyết định, đồng thời sẽ được
bổ sung và nhân lên khi kết hợp được với các sức mạnh và nguồn lực bên ngoài

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Lịch sử đã khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách amngj Việt
Nam. Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng phải xây dựng Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đủ sức giải quyết
các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Muốn vậy, cần phải nắm vững, vận dụng sáng
tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chưucs thực tiễn
của Đảng. Bên cạnh đó, xây dựng đường lối đúng đắn trên cơ sở thực tế, quy
luật khách quan, đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân.
Phân tích bài học mà đồng chí thấy tâm đắc nhất

Với quan điểm cá nhân, tôi thấy nội dung thứ 3 là không ngừng củng cố, tăng
cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn
kết quốc tế là nội dung có ý nghĩa quan trọng nhất trong thời điểm hiện nay.

Bởi lẽ, “Đại đoàn kết dân tộc” ngày càng được quần chúng nhân dân
nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa, vai trò, đây là nguồn sức mạnh và là nhân tố
có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng.
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết các dân tộc, các tôn
giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi thành
viên trong đại gia đình Việt Nam; lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương
đồng. Ngoài ra, Đảng luôn lắng nghe, tôn trọng những ý kiến khác nhau không
trái với lợi ích chung của dân tộc, không phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp,
thành phần; xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau hướng tới tương lai.
Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, Đảng luôn tạo điều kiện, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau hoặc không theo tôn giáo, tạo điều kiện cho mỗi người dân làm
tròn trách nhiệm công dân, sống “tốt đời đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt
đẹp về văn hoá, đạo đức của tôn giáo.
Bên cạnh đó, phải kể đến sức mạnh hơn 3 triệu đồng bào ta định cư ở
nước ngoài, đây luôn được Đảng và nhà nước coi là bộ phận không tách rời và
là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đảng và nhà nước đã có
nhiều giải pháp, đặc biệt là Nghị Quyết số 36 của Bộ Chính trị về Công tác
đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã khuyến khích và tạo điều kiện thuận
lợi để kiều bào ta ở nước ngoài ủng hộ và quay trở về Việt Nam xây dựng quê
hương đất nước, nâng cao lòng yêu nước, ý thức cộng đồng, tinh thần tự trọng,
tự hào dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc, tôn trọng pháp
luật nước sở tại, hướng về quê hương đất nước và góp phần tăng cường đoàn
kết hữu nghị với nhân dân các nước.
Đảng và Nhà nước luôn tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
quốc gia thành viên, thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực,
duy trì môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thúc đẩy hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư, tham khảo kinh
nghiệm phát triển, trình độ khoa học - kỹ thuật, kỹ năng điều hành quản lý, tạo
điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập, phát triển thuận lợi, nâng cao khả
năng cạnh tranh, góp phần hỗ trợ thúc đẩy quá trình cải cách và công cuộc đổi
mới.
Đặc biệt những năm qua Việt Nam đẩy mạnh hợp tác giữa Việt Nam và
các quốc gia thành viên ASEAN khác đóng góp vào việc củng cố hoà bình, ổn
định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Thông qua việc hợp tác ASEAN,
thúc đẩy thêm quan hệ song phương và đa phương của Việt Nam với các đối tác
trong và ngoài khu vực, góp phần cải thiện và nâng cao vị thế của Việt Nam
trong quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ với các nước lớn.
Qua những phân tích trên có thể thấy được Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã
rất sáng suốt trong việc vận dụng thành công điều này trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc, phát huy tinh thần Đoàn kết để tạo nên nguồn sức mạnh to
lớn trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Có thể nói, đây là một trong 5 bài học được đại hội Đảng VII nhìn nhận
và rút ra cho nên với quan điểm cá nhân, mỗi bài học đều có nhiều ý nghĩa
sâu sắc. Tuy nhiên, với bản thân là một phóng viên, biên tập viên hiện
đang tham gia hoạt động tuyên truyền, đưa nghị quyết của Đảng đến với
người dân cũng như phản ánh tâm tư tình cảm của mọi tầng lớp nhân dân
đến Đảng, Nhà nước. Tôi nhận thấy bài học thứ ba là có giá trị nhất.
Trước hết, xác định rõ công việc của mình là cầu nối giữa Đảng và mọi
tầng lớp nhân dân, tôi phải luôn cố gắng phấn đấu học tập, lao động và
quan tâm đến mọi người xung quanh, để hiểu và phản ánh trung thực tất cả
tâm tư tình cảm của người dân đến với Đảng, Nhà nước. Từ bài học này,
tôi cũng vận dụng được vào công việc hàng ngày của mình. Cụ thể, với
đặc thù công việc là phát thanh - truyền hình, tôi đã xây dựng cho mình
một ê-kíp làm việc hiểu nhau, đoàn kết với nhau, luôn tìm tòi học hỏi và
trao đổi kinh nghiệm với nhau trong quá trình đi sản xuất. Bên cạnh đó,
cá nhân tôi cũng ý thức được rằng ngoài việc quan tâm, phân công công
việc hợp lý trong quá trình đi sản xuất cho từng cá nhân trong ê-kíp, thì
còn phải quan tâm đến những đồng nghiệp khác, qua đó có sự hỗ trợ, giúp
đỡ lẫn nhau để củng cố, tăng cường tính đoàn kết qua đó tạo sức mạnh lớn
để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Ngoài ra, với vai trò Ủy viên trong ban chấp hành đoàn, tôi luôn có đề xuất
sáng kiến với đoàn thanh niên, lãnh đạo đơn vị cũng như tổ chức phong trào
hoạt động để tập hợp, kêu gọi mỗi cá nhân trong đơn vị tham gia các hoạt động
của cơ quan, xã hội, qua đó tuyên truyền và gắn kết từng cá nhân thành một
khối thống nhất. Để phát huy tinh thân “ Đâu cần thanh niên có, đâu khó có
thanh niên”./.
Câu 2

Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở những điểm chủ yếu nào
trong Điều lệ Đảng?

Trả lời

Bản chất giai cấp của Đảng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu trong công tác xây dựng Đảng được quán triệt trong toàn bộ Điều lệ
Đảng, chi phối toàn bộ nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Trước hết, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định bản
chất giai cấp công nhân của mình. Ví dụ như trong chương trình tóm tắt
của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định: “
Đảng là đội tiên phong lãnh đạo của đội quân vô sản gồm một số lớn các
giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ nănng lực lãnh đạo quần chúng”.
Sách lược vắn tắt viết: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được quần chúng".
Còn tại đại hội X đã thông qua sự diễn đạt về Đảng là: "Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân
tộc".

Như vậy, có thể thấy cách diễn đạt mới này phản ánh đầy đủ, sát thực bản
chất của Đảng Cộng sản Việt nam – một Đảng ra đời từ phong trào công
nhân, phong trào yêu nước của dân tộc, kiên trì đấu tranh bảo vệ quyền lợi
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc thể hiện ở 2
nội dung sau:
+ Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam và đồng thời là
đội tiền phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
+ Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
+ Xuất phát từ nhận thức khoa học về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của
CNXHKH. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một
trong những cống hiến vĩ đại nhất của Chủ nghĩa Mác - Lênin.

Xác định rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng, xuất phát từ nhận thức
khoa học về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đó là:
+ Giai cấp công nhân hình thành, phát triển cùng với nền sản xuất đại
công nghiệp, đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ, có tinh thần
cách mạng triệt để và tính tổ chức cao.
+ Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng khoa học và cách mạng hướng dẫn,
đó là chủ nghĩa Mác – Lênin.
+ Là giai cấp lao động, bị bóc lột nên giai cấp công nhân có điều kiện liên
minh với giai cấp nông dân và quần chúng lao động để xóa bỏ chủ nghĩa
tư bản, xây dựng xã hội mới, không có áp bức, bóc lột là chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản.

Ngày nay, trong nền sản xuất hiện đại, dưới tác động mạnh mẽ của
cuộc khóa học và công nghệ, chúng ta có thể thấy sự biến đổi to lớn của
giai cấp công nhân thế giới về quy mô, trình độ kiến thức, cơ cấu nghề
nghiệp, mức sống. Tuy nhiên, bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân vẫn không thay đổi.
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện quan hệ gắn bó giữa giai cấp
và dân tộc . Sự ra đời của Đảng từ ba nguồn gốc là phong trào yêu nước,
chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân.Vì vậy, mục tiêu, lợi ích
của Đảng, của giai cấp công nhân, nhân dân lao động là thống nhất. Do
vậy, sự thắng lợi của cách mạng VN qua các thời kỳ đều từ việc Đảng ta
đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ mật thiết giữa giai cấp và dân tộc.
Để giữ vững và tăng cường bản chất của giai cấp công nhân của Đảng
trong tình hình mới. Điều lệ Đảng và các văn kiện Đại hội của Đảng đã chỉ
rõ mục tiêu, nhiệm vụ của mỗi đảng viên của Đảng là:
+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử của nước ta đề ra đường
lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn; đồng thời bằng hành động cách
mạng biến đường lối, chủ trương đó thành hiện thực sinh động trên mọi mặt của
đời sống xã hội.
+ Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh,
giáo điều, bảo thủ; phê phán những luận điệu và thủ đoạn của các thế lực thù
địch phủ nhận, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Luôn luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn
hoá, tri thức của thời đại để làm giàu kiến thức, giải quyết thành công những
vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng nước ta, góp phần vào sự nghiệp phát
triển chung của thế giới.
+ Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn
sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
+ Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của
giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của
giai cấp công nhân.
+ Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
+ Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời
đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Câu 3:

You might also like