Professional Documents
Culture Documents
Lý thuyết bộ ba bất khả thi khẳng định rằng: trong điều kiện ngày nay, một quốc gia
phải lựa chọn việc hy sinh một trong 3 mục tiêu chính sách vĩ mô trên nghĩa là phải lựa
chọn giữa việc giảm thiểu sự thay đổi tỷ giá hoặc điều hành một chính sách tiền tệ độc lập
ổn định. Nó không thể có đồng thời cả hai.
2. 2 Quá trình kiểm soát các dòng vốn FDI, FII, ODA:
Thu hút FDI của Việt Nam đứng thứ 6 trên thế giới; riêng ở châu Á, Việt Nam chỉ
đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ. Dòng chảy của nguồn vốn này vào Việt Nam không ổn định,
năm nhiều năm ít, lúc trồi lúc sụt do nhiều yếu tố, trong đó lệ thuộc vào sự quyết tâm đổi
mới và hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam là quyết định. Suốt thời gian dài từ đó đến
nay đã có khoảng 11.000 dự án được cấp giấy phép, tổng mức vốn đăng ký trên 163 tỷ USD
nhưng tổng vốn thực hiện đạt chỉ khoảng 35%, chưa kể số dự án bị rút giấy phép hoặc đề
nghị rút giấy phép.
Tỷ trọng vốn FDI trong tổng vốn ĐTXH qua các năm
Tỷlệ
100%
90%
80% Vốn ngoài NN
70% Vốn NN
60% Vốn FDI
50%
40%
30%
20%
10%
0%
5
Năm
9
0
9
0
19
20
20
20
1
Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu vốn cần thiết cho sự phát triển kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời nhận thấy được cơ hội và
tầm quan trọng của nguồn vốn FII.
- Vốn đầu tư gián tiếp khi đổ vào Việt Nam sẽ tạo động lực hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư trong nước. Thực tế cho thấy, khi các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng qua các phiên
giao dịch trên TTCK sẽ tạo ra lực hút đối với nhà đầu tư trong nước, đó là họ sẽ đổ vốn
nhiều hơn vào TTCK và kết quả là tổng số vốn đầu tư trên thị trường sẽ tăng lên
- Việc tham gia của các nhà đầu tư gián tiếp sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường
tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị
thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động
“phi thị trường” và góp phần giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công
nghệ, quản lý…). Đồng thời khi FII gia tăng sẽ làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam
trở nên sôi dộng hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng. Bên cạnh đó sự
gia tăng dòng FII sẽ góp phần phát triển các định chế và dịch vụ tài chính – chứng khoán,
các dịch vụ tư vấn, bảo hiểm, kế tóan, kiểm tóan
- Vốn FII thường rót vào các DN do người VN nắm quyền chi phối về quản lý, giúp
DN trong nước tăng trưởng nhanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, tiến tới việc hình thành
các tập đoàn đa quốc gia mang thương hiệu VN. Thực tế, đã có nhiều điển hình thành công
theo mô hình này, qua con đường phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên TTCK
như: Vinamilk, Bảo Minh, Kinh Đô, ACB, Sacombank...
- Tăng cường cơ hội và đa dạng hóa phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn
nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Thông qua quá trình tham gia của nhà đầu tư
gián tiếp, các nhà đầu tư trong nước và người dân sẽ được dịp “cọ xát”, rèn luyện và bồi
dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói
riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói chung phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh thị
trường hiện đại.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý doanh nghiệp và Nhà nước theo các nguyên
tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Cụ thể việc quản lý và quản trị doanh
nghiệp phát hành chứng khóan sẽ được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn về báo cáo tài
chính và minh bạch hóa thông tin, hệ thống luật pháp liên quan đến đầu tư gián tiếp sẽ phải
được hòan thiện, kiện toàn. Đồng thời nhà nước sẽ đa dạng hóa các công cụ và thực hiện
hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp.
Để thấy rõ hơn hiệu quả của việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp tại Việt Nam, là giá trị
vốn FII vào Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Nếu như năm 2006 dòng vốn FII vào Việt Nam chỉ khoảng trên 1 tỷ USD thì đến cuối năm
[
Nhờ thành công của đường lối đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng
hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước, nước ta đã vận động, thu hút được một lượng
đáng kể vốn ODA phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Từ năm 1993 đến nay, cam
[
Công tác quản lý nhà nước về ODA được tăng cường và từng bước đi vào nề nếp, tuy
nhiên vẫn còn một số hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Vì vậy, vấn
đề kiểm soát nguồn vốn ODA được xem là vấn đề quan trọng trong việc nâng cao uy tín của
Việt Nam trước thế giới, đồng thời gia tăng hiệu quả sử dụng vốn ODA. Để kiểm soát vốn
ODA, trước hết phải xác định được đối tượng sử dụng một cách hợp lý ở đầu vào, đồng thời
nâng cao tính minh bạch thông tin, hiệu quả sử dụng ở đầu ra.
- Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và
vùng lãnh thổ để ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ
Việt Nam đã đưa ra định hướng chiến lược, chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng
vốn ODA cho từng thời kỳ. Trong đó 5 lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời
kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm:
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số)
+ Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển
giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai
- Cụ thể, nguồn vốn ODA sẽ tập trung vào đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng qui mô
lớn ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, các tuyến giao thông nối các vùng Bắc
Nam, hai hành lang một vành đai kinh tế, trục giao thông Đông – Tây, giao thông vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Đây là cơ sở cho quá trình tăng trưởng nhanh và xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam
- Đồng thời Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát và bào đảm đủ vốn đối
ứng cho các chương trình dự án ODA, sửa đổi cách giao chỉ tiêu kế hoạch vốn đối ứng để áp
dụng trong kế hoạch nhằm bảo đảm để các Bộ, cơ quan và tỉnh, thành phố linh hoạt phân bổ
vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA theo đúng tiến độ thực hiện đã thỏa thuận với
nhà tài trợ.
- Bên cạnh đó, nhà nước áp dụng chính sách thuế ưu đãi đối với dự án ODA cụ thể:
+ Đối với những dự án ODA viện trợ không hoàn lại được miễn hoàn toàn các
khoản thuế gián thu (gồm thuế nhập khẩu, thuế GTGT, thuế TTĐB), và được hoàn lại số
[
+ Đối với thuế trực thu thì việc miễn thuế được thực hiện trên cơ sở qui định
tại hiệp định về viện trợ không hoàn lại căn cứ theo điều kiện, tính chất, đặc điểm của từng
dự án ODA viện trợ không hoàn lại mà Chính phủ Việt Nam sẽ cam kết với nhà tài trợ việc
miễn thuế trực thu tại hiệp định
+ Chuyên gia nước ngoài làm việc cho các dự án ODA nếu được Bộ kế hoạch
và đầu tư cấp giấy xác nhận là chuyên gia nước ngoài thực hiện các chương trình, dự án
ODA thì sẽ được hưởng ưu đãi về thuế, phí như: miễn thuế NK, thuế TTĐB, thuế GTGT, lệ
phí trước bạ và thuế thu nhập cá nhân theo qui định tại phần I Thông tư số 52/2000/TT-BTC
ngày 05/06/2000 của Bộ tài chính.
Từ chủ trương, định hướng kiểm soát nguồn vốn ODA một cách đúng đắn cùng với
kế hoạch phát triển kinh tế được đánh giá là đáng tin cậy và bền vững về mặt tài chính, đồng
thời được đảm bảo bằng những biện pháp thực hiện thiết thực. Vì thế, Việt Nam càng tạo
niềm tin cho các nhà tài trợ cụ thể là nguồn vốn ODA được cam kết, ký kết và giải ngân
tăng dần qua các năm:
6000
5000
Nguồn:
4000 Tổng
Triệu USD
Camkết cục
3000 Ký kết thống
Giải ngân
kê
2000
1000
Cùng
0 với
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2005
2006
2007
2008
1993
2004
việc
Năm
kiểm
soát
nguồn
vốn
ODA ở đầu vào là việc nâng cao tính minh bạch thông tin và hiệu quả sử dụng vốn ODA ở
đầu ra.
2.2.3.2 Công tác chống tham nhũng trong việc sử dụng nguồn vốn ODA:
- Đồng thời nhằm phát huy vai trò của báo chí trong phòng chống tham nhũng, Thủ
tướng chính phủ đã ký ban hành quy chế về phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí,
trong đó yêu cầu các cơ quan, đơn vị phải tạo điều kiện để các cơ quan ngôn luận tiếp cận
đầy đủ chính xác nguồn thông tin chính thống về hoạt động của các cơ quan nhà nước.
- Bên cạnh việc phát huy nội lực, Việt Nam cũng đã tăng cường mở rộng hợp tác với
các nước như Inđônêxia, Lào trong công tác phòng chống tham nhũng, ký thỏa thuận đa
phương về phòng chống tham nhũng gồm 8 nước ASEAN, qua đó khẳng định quyết tâm của
Việt Nam đối với công tác này.
Để khẳng định quyết tâm phòng chống tham nhũng. Lần đầu tiên, Thủ tướng Việt
Nam xuất hiện và đối thoại trực tiếp với các nhà tài trợ với một cam kết rõ ràng, Việt Nam
sẽ đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, đảm bảo các nguồn vốn đầu tư
nói chung trong đó vốn ODA được quản lý và sử dụng hiệu quả. Thông điệp này được thể
hiện bằng hành động thực tế khi Việt Nam gửi đến Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ bản báo
cáo chi tiết về vụ việc PMU 18 và những kết quả xử lý của vụ án gây nhiều quan ngại cho
các nhà tài trợ trong thời gian qua và gần đây nhất là vụ PCI.
Qua vụ việc PCI đã được hai nước (Việt Nam và Nhật Bàn) áp dụng các biện pháp
như thiết lập đường dây nóng, công khai thông tin đấu thầu, mời bên thứ ba cùng đánh giá
thầu và tăng cường giám sát kiểm tra đối với quá trình đấu thầu. Bên thứ ba phải là đơn vị
có chuyên môn cao trong các cơ chế, chế độ đấu thầu thực hiện các hợp đồng đấu thầu quốc
tế.
Việc kiểm soát dòng vốn ODA được minh chứng cụ thể đối dự án được ký kết giữa
Tổng công ty đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (Bộ giao thông vận tải) với nhà thầu
Nippon Koei (Nhật Bản) và Công ty cổ phần tư vấn giao thông vận tải phía Nam về dịch vụ
tư vấn, giám sát xây dựng đường cao tốc TP.HCM-Long Thành-Dầu Giây với tổng giá trị
trung thầu khoản 18 triệu USD.
Các bước tiến hành gói thầu này sẽ tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp cần thiết theo
quy định của Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam – Nhật Bản về phòng chống tham nhũng liên quan
đến ODA Nhật Bản đưa ra nhằm phòng chống tham nhũng trong các dự án sử dụng vốn
ODA từ Nhật, trong đó Việt Nam sẽ tăng cường tính minh bạch trong quá trình chọn thầu và
phía Nhật cam kết đẩy mạnh hoạt động giám sát. Cụ thể:
+ Việt Nam sẽ nâng cao năng lực cho cơ quan thực hiện dự án về công tác đấu
thầu và quản lý hợp đồng trong dự án ODA, cùng với đẩy nhanh việc áp dụng hệ thống đấu
thầu điện tử từ năm 2009 đến 2015.
Quá trình kiểm soát vốn đã đạt được những mục tiêu nhất định nhưng bên cạnh đó là
cái giá phải trả cho việc kiểm soát vốn không phải ít.
2.3 Mục tiêu đạt được và cái giá phải trả cho việc kiểm soát vốn:
Từ những quan điểm, chính sách của Chính phủ Việt Nam về việc thu hút nguồn vốn
đầu tư đã đạt được một số kết quả sau:
- Tổng vốn đầu tư của toàn xã hội tăng dần qua các năm, trong đó có sự đóng góp
đáng kể từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Giá trị vốn đầu tư tại Việt Nam qua các năm
Chia ra
Khu vực có vốn
Tổng số Kinh tế Kinh tế ngoài
Nhà nước nhà nước đầu tư nước
ngoài
- Tạo không khí sôi động cho thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam vốn còn non
trẻ. Đó là giúp các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện thu hút được nhiều nguồn vốn đầu
tư để mở rộng sản xuất kinh doanh, đồng thời kích thích sự “hưng phấn” từ các nhà đầu tư
trong nước;
- Bên cạnh việc hấp thụ vốn là việc tiếp thu kinh nghiệm, kỹ thuật từ các chuyên gia
nước ngòai để từng bước hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật nhà nước về các chính
sách đầu tư, đồng thời tạo điều kiện để thị trường tài chính Việt Nam phát triển theo hướng
đa dạng và chuyên sâu hơn và bảo vệ sự ổn định về tài chính và tiền tệ.
- Đối với nguồn vốn ODA, với chính sách phân cấp thời gian qua đã mở rộng được
đối tượng tham gia quản lý, giảm các rào cản trong việc ra quyết định hoạt động kinh tế - xã
hội quan trọng ở địa phương. Địa phương cũng dễ dàng tiếp cận các dịch vụ do bộ, ngành
cung cấp hơn, đồng thời điều phối hiệu quả hơn các chương trình quốc gia, tình, huyện, tạo
cơ hội tốt hơn cho người dân tham gia quyết định, từ đó góp phần cải thiện được phúc lợi
kinh tế, xã hội.
2.3.2. Chi phí phải trả cho việc kiểm soát vốn:
[
- Kiểm soát vốn làm chi phí giao dịch vốn tăng cao (tính trên tổng qui mô dự án).
Theo nhiều khảo sát, chi phí giao dịch tại Trung Quốc là 1,2%, Việt Nam là 2%, Hong Kong
chỉ 0,013%.
- Việc thu hút ồ ạt nguồn vốn đầu tư gián tiếp, trong khi khả năng hấp thụ nguồn vốn
này còn hạn chế, từ đó gây khó khăn trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Cụ thể trong thời
gian qua NHNN phải đưa đồng nội tệ ra để thu hút ngọai tệ vào để bình ổn tỷ giá, kết quả là
gia tăng tỷ lệ lạm phát và làm giảm tỷ lệ dự trữ ngọai hối của quốc gia.
- Với chính sách kêu gọi, ưu đãi đầu tư đã dẫn đến tình trạng khai thác triệt để nguồn
tài nguyên quốc gia, gây mất cân bằng trong ngành nghề, lĩnh vực … (nhiều sân Golf được
hình thành, trong khi tỷ lệ đất sản xuất nông nghiệp ngày bị thu hẹp) từ đó gây ra những hệ
quả như: thất nghiệp, và đặc biệt là tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng
(điển hình là bột ngọt Vedan).
- Việc không hạn chế nguồn vốn ODA đã làm cho tỷ lệ nợ nước ngòai của Việt Nam
ngày càng tăng và cùng với tình trạng thất thóat lãng phí nguồn vốn này đã làm giảm uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế (đặc biệt là Nhật Bản).
2.4 Các biện pháp kiểm soát quá trình đảo ngược dòng vốn quốc tế:
Như chúng ta đã biết, dòng vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng. Trong khi đầu tư trực tiếp
nước ngoài đóng vai trò trực tiếp thúc đầy sản xuất thì đầu tư gián tiếp lại có tác dụng kích
thích sự phát triển của thị trường tài chính, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp
cận với các nguồn vốn. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực sự hiện diện của các
nhà đầu tư nước ngoài cũng khiến các nhà quản lý lo ngại không ít, đặc biệt là dòng vốn đầu
tư gián tiếp (FII) vì những lý do sau:
- Sự di chuyển quá mức dòng vốn FII vào một quốc gia sẽ đưa nền kinh tế vào tình
trạng phát triển nóng và khủng hoảng xảy ra khi nền kinh tế gặp phải những cú số từ bên
trong cũng như bên ngoài
- Sự di chuyển quá mức của dòng vốn FII vào một quốc gia cũng khiến cho hệ thống
tài chính trong nước dễ bị tổn thương.
- Tính dễ đảo ngược của dòng vốn FII gây tác động xấu đến nền kinh tế
Chính vì những vấn đề trên, việc kiểm soát sự đảo ngược dòng vốn quốc tế (cụ thể là
dòng vốn FII) là vấn đề Chính phủ Việt Nam rất quan tâm, đặc biệt trong giai đoạn khủng
hoảng tài chính. Sau đây là một số biện pháp cần thiết trong giai đoạn hiện nay
2.4.1 Xây dựng hệ thống thống kê và cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về lượng chứng
các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ, tỷ lệ nắm giữ trong tổng số chứng khoán phát
[
2.4.2 Thực hiện chế độ báo cáo tình hình hoạt động mua, bán chứng khoán của các nhà đầu
tư nước ngoài. Theo đó tổ chức cá nhân nước ngoài khi mua, bán chứng khoán phải đăng ký
mã số giao dịch với Trung tâm giao dịch chứng khoán. Việc chuyển ngoại tệ vào và ra khỏi
Việt Nam phải tuân thủ quy định về quản lý ngoạI hối của pháp luật Việt Nam
2.4.3 Xây dựng chiến lược thu hút vốn FII nằm trong tổng thể chiến lược thu hút và sử dụng
vốn của quốc gia, cần dự tính được nhu cầu vốn FII của nền kinh tế và tỷ lệ hợp lý của
nguồn vốn này trong tổng thể vốn đầu tư, sao cho vốn FII phát huy tác dụng tích cực nhất
đến sự phát triển kinh tế - xã hội;
2.4.4 Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngân hàng – tài chính – chứng khoán
trong việc quản lý dòng vốn FII. Nâng cao sức cạnh tranh của các định chế tài chính trong
nước, đảm bảo khả năng chống chọi với những rủi ro, bất ổn do vốn FII gây ra;
2.4.5 Đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế của TTCK Việt Nam như: Tổ chức quốc tế các
Ủy ban chứng khoán nhà nước, Hiệp hội quốc tế các Sở giao dịch chứng khoán … Việc
tham gia này giúp Việt Nam có thể hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra trên nguyên tắc
hợp tác hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực quản lý và phát triển các định chế tài chính trung
gian, đồng thời tiếp thu được công nghệ hiện đại, các chuẩn mực quốc tế để áp dụng cho thị
trường trong nước;
2.4.6 Sử dụng các biện pháp kiểm soát, điều tiết mạnh khi dòng vốn FII có những biểu hiện
bất thường.
2.4.7 Quản lý tốt quỹ dự trữ ngoại hối, bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư cho nguồn
quỹ này, vì dự trữ ngoại hối đóng vai trò giảm sốc, giúp nền kinh tế chống đỡ được những
cú sốc trong thương mại quốc tế, hay những biến động về cầu trên thị trường quốc tế;
2.4.8 Từng bước giảm phụ thuộc vào nợ nước ngoài và vốn ngắn hạn, tự do hóa các giao
dịch tài sản tài chính giữa cá nhân và tổ chức trong nước với nước ngoài;
Từ những phân tích về chính sách kiểm soát các nguồn vốn FDI, FII, ODA cho ta
thấy một điều là chính sách kiểm soát vốn của Việt Nam trong thời gian qua khá chặt chẽ, vì
vậy khả năng đảo ngược dòng vốn quốc tế rất khó xảy ra đối với Việt Nam.
Vì vậy, trong tình hiện hiện nay để có thể thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhằm
kích thích nền kinh tế phát triển Chính phủ nên thực hiện nới lỏng việc kiểm soát vốn trên
cơ sở khả năng và điều kiện thực tế ở Việt Nam.
CHƯƠNG 3:
CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT VỐN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Dòng vốn nước ngoài như con dao hai lưỡi đối với nền kinh tế, nhất là đối với các
nền kinh tế đang phát triển, nơi cơ chế quản lí các dòng vốn còn hạn chế. Khi chúng đổ vào
[
3.1. Những bài học kinh nghiệm ở một số nước mới nổi
Biện pháp này được công bố chỉ hai tuần sau khi Tổng cục ngoại hối quốc gia
(SAFE) đẩy mạnh nỗ lực kiểm soát luồng tiền nóng bằng việc yêu cầu các nhà xuất khẩu
đưa khoản ngoại tệ thu được vào trong những tài khoản đặc biệt để được xác nhận rằng
nguồn ngoại tệ hợp pháp.
Việc kiểm soát chặt chẽ hơn của Uỷ ban cải cách và phát triển quốc gia (NDRC) -cơ
quan hoạch định kinh tế hàng đầu của Trung Quốc đối với thủ tục phê chuẩn FDI là nhằm
xử lý các lỗ hổng trong tài khoản vốn, nhằm giảm luồng vốn FDI chạy theo các hướng ngoài
hợp đồng đầu tư. Thông qua các biện pháp sau:
- Đầu tư nước ngoài, bao gồm tất cả các hình thức sở hữu doanh nghiệp, M&A qua
biên giới và tái đầu tư, đều cần phải có sự phê duyệt của NDRC hay cơ sở ở địa phương của
NDRC.
- Xem xét chặt chẽ hơn tính thực chất của các dự án đầu tư nước ngoài và việc ngăn
chặn dòng chảy của nguồn vốn không dựa trên đầu tư thực sự. Khi cần thiết, NDRC hay cơ
sở ở địa phương sẽ thuê các cơ sở tham vấn để đánh giá về dự án đầu tư nhằm đảm bảo rằng
việc đầu tư này là không có nghi vấn.
- Bất cứ dự án nào có tổng đầu tư vượt 100 triệu USD và nằm trong danh mục ưu tiên
hoặc được phép đầu tư cần thiết phải có sự phê chuẩn của NDRC. Những dự án đầu tư vượt
50 triệu USD và nằm trong danh mục hạn chế đầu tư cũng cần phải có sự thông qua của
NDRC. Các Ủy ban Cải cách và Phát triển cấp tỉnh có quyền thông qua những dự án đầu tư
nằm trong danh mục khuyến khích và được phép đầu tư với tổng đầu tư nằm dưới 100 triệu
USD và đầu tư dưới 50 triệu USD đối với các hạng mục hạn chế đầu tư.
[
- Các dự án đang diễn ra có thể bị huỷ nếu dòng vốn luân chuyển có dấu hiệu được
sử dụng cho dự án khác. Đồng thời, việc thoái thuế đối với các thiết bị nhập khẩu và các
chính sách ưu đãi khác sẽ bị huỷ. NDRC sẽ không ủng hộ những dự án này trong việc lên
sàn hoặc phát hành trái phiếu trong tương lai.
Những hành động này là một nỗ lực nhằm khống chế việc luân chuyển những nguồn
vốn bị nghi vấn. Dòng chảy vốn nước ngoài đạt mức kỷ lục 6 triệu USD/phút trong 5 tháng
đầu năm 2008, và được hấp dẫn bởi hơn 2% lãi suất khác biệt giữa lãi suất ở Trung Quốc và
Mỹ. Việc tăng nguồn tiền nóng ngắn hạn không chỉ thổi bùng lạm phát, mà còn tạo ra khó
khăn cho Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc trong việc ngăn chặn dòng chảy này. Vì vậy,
việc kiểm soát chặt chẽ hơn đối với luồng FDI, cộng với nỗ lực gần đây của SAFE trong
việc kiểm soát luồng tiền nóng, sẽ có thể giúp khống chế sự tăng trưởng tiền tệ, và tiếp theo
là vấn đề lạm phát trong thời gian sắp tới, và giảm rủi ro của sự bất ổn định về tài chính
trong thời gian trung hạn.
- Việc áp đặt một khoản dự trữ bắt buộc đối với luồng vốn (bị chốt trong một thời
gian mà không có lãi suất) nhằm nâng chi phí của luồng vốn nghi vấn do trị giá đồng NDT
tăng. Mặc dù kinh nghiệm gần đây của các nước khác cho thấy ảnh hưởng của biện pháp
như vậy dường như không thể duy trì được, nhưng biện pháp này cũng hạn chế dòng chảy
của nguồn tiền nóng ít nhất trong một thời gian ngắn. Rủi ro tiềm tàng của việc thực hiện
các biện pháp này là việc làm chậm lại tiến trình mở cửa của thị trường tài chính Trung
Quốc và việc mở rộng khung thời gian cần thiết nhằm làm đồng NDT trở thành đồng tiền
chuyển đổi hoàn toàn. Tuy nhiên, những biện pháp này có thể không tồi vì có thể tạo thêm
thời gian cho Trung Quốc trong việc củng cố khung cơ chế nội địa cho thị trường tài chính
3.1.2 Thái Lan duy trì quy định kiểm soát tiền tệ
Thái Lan sẽ tiếp tục duy trì các biện pháp kiểm soát tiền tệ nhằm ngăn chặn việc
đồng baht tăng giá mạnh so với đồng USD. Theo quy định kiểm soát vốn, các tổ chức tài
[
Nhìn ra các nước, đơn cử như Chilê và Colombia hồi những năm 1990, Nga và
Croatia năm 2004 đã áp dụng biện pháp có tên URR (dự trữ bắt buộc). Nhà ĐTNN khi đầu
tư vào những nước này phải trích một tỷ lệ dự trữ nào đó từ vốn đầu tư. Liều lượng của mỗi
nước khác nhau và thường biện pháp này chỉ được áp dụng trong một số thời điểm nhất
định, ngay sau đó được dỡ bỏ. URR được nhấn mạnh ở những khía cạnh, liệu pháp này
được áp dụng ở những nước muốn nắm bắt được dòng vốn nước ngoài, chứ không phải
kiểm soát, đây cũng không phải can thiệp hành chính và áp dụng như vậy cũng được coi
như một giải pháp đánh thuế nhưng không gây sốc với NĐT.
Tác động tiêu cực của URR có thể xảy ra như giảm vốn đầu tư gián tiếp trong ngắn
hạn, không hiệu quả nếu áp dụng lâu dài, tác động đến lãi suất trong nước và ảnh hưởng tới
nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vốn dựa chủ yếu vào vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, ngay
cả ở Chilê, nước áp dụng khá thành công, thì tác dụng của nó cũng gây nhiều tranh cãi.
Trung Quốc, Ấn Độ lại có ứng xử khác, đó là nhắm đến các nhóm NĐT khác nhau,
tạo ra thị trường riêng cho NĐT nội và NĐT ngoại. Phương thức này cho phép họ dễ dàng
nắm bắt được những ai đang đầu tư, hơn là dòng vốn luân chuyển ra sao.
Sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, nhà kinh tế Joseph Stiglitz bắt đầu
nhận định chính sách thị trường tự do của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) là sai lầm và cần thiết
phải kiểm soát thị trường vốn.
Tại Thái Lan thị trường chứng khoán hiện đang tăng trưởng nhanh chóng, kéo theo
làn sóng các nhà đầu tư nước ngoài, đã đẩy giá tiền tệ và mức lạm phát lên, Trước tình hình
đó, Thái Lan cũng ban hành một quy định yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài phải có 30%
vốn bảo đảm trong một năm không tính thuế, rút vốn sớm sẽ bị đánh thuế.
Chính phủ một số nước thậm chí đã cân nhắc những biện pháp “kiểm soát vốn” đối
với các nhà đầu tư nước ngoài, nhằm hạn chế tốc độ tiền chảy vào hoặc đi ra khỏi thị trường
tài chính..
3.2 Một số biện pháp kiểm soát vốn trong giai đoạn hiện nay:
Qua những bài học về các biện pháp kiểm soát vốn của Trung Quốc, Thái Lan
Malaysia, Ấn Độ, …đã đưa ra một số biện pháp đó là:
Biện pháp kiểm soát vốn phổ biến nhất là tăng thuế đánh vào các khoản đầu tư ngắn
hạn, khiến dân chúng giảm bớt tiền đầu tư vào hay rút ra một cách vội vã. Từ tháng 5/2007
cho đến nay, khi dòng vốn vào tăng đột biến, gây sức ép lạm phát cao, NHNN đã thực hiện
hàng loạt biện pháp thắt chặt tiền tệ như tăng dự trữ bắt buộc, bán tín phiếu bắt buộc, tăng
lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, kiểm soát tăng trưởng tín dụng...
Mặc dù, thắt chặt tiền tệ có thể làm giảm lượng tiền cung ứng và giảm lạm phát,
nhưng đây là một lựa chọn chính sách hạn chế - bởi vì, lãi suất tăng cao có thể càng khuyến
khích dòng vốn vào, càng tạo áp lực tăng vốn khả dụng và lên giá nội tệ; tỉ lệ dự trữ bắt
buộc tăng cao có thể có những ảnh hưởng bất lợi đến khu vực ngân hàng.
Thực tế cho thấy, các nước không áp dụng biện pháp kiểm soát luồng vốn như Thái
Lan phải chịu suy thoái lâu hơn và nặng hơn so với các nước có thực hiện điều này, như
Malaysia. Vì vậy đối với Việt Nam cần thực hiện những biện pháp sau đây:
Một là, tăng tính linh hoạt của tỉ giá. Linh hoạt tỉ giá cho phép NHNN tự chủ hơn
trong việc quản lí những biến động của các đại lượng tiền tệ do ảnh hưởng của luân chuyển
vốn. Tác động của dòng vốn vào phụ thuộc vào cơ chế tỉ giá linh hoạt hay cố định. Áp lực
giảm tỉ giá thực (nội tệ lên giá thực) vẫn có thể xẩy ra ở hai trường hợp, nhưng quá trình
điều chỉnh sẽ diễn ra nhanh hơn và tốn chi phí ít hơn trong cơ chế tỉ giá linh hoạt. Với cơ
chế tỉ giá cố định, khi dòng vốn vào sẽ thúc đẩy hoạt động kinh tế trong nước, lạm phát sẽ
tăng cao. Dưới cơ chế tỉ giá linh hoạt, khi dòng vốn vào nhiều, nội tệ sẽ lên giá danh nghĩa.
Vì vậy có tác dụng giảm dòng vốn vào do thu nhập trên tài sản được định giá bằng ngoại tệ
giảm xuống. Tăng mức độ linh hoạt của tỉ giá cho phép NHNN có thể đối phó tốt hơn với
dòng vốn vào lớn và giảm những ảnh hưởng bất lợi. Trước cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á, hầu hết các đồng tiền của Đông Á được neo với đồng USD. Từ đó đến nay, các nền kinh
[
Để tăng tính linh hoạt của tỉ giá, có thể mở rộng dần biên độ từ +/- 1% lên +/- 2%; +/-
3%...Tỉ giá biến động theo hai chiều, có lên, có xuống, do đó, giảm sự tăng cầu quá mức, giảm
bong bóng đầu cơ. Rủi ro hối đoái kết hợp với cơ chế tỉ giá linh hoạt có thể làm giảm luồng vốn
vào ngắn hạn. Hơn nữa, tỉ giá biến động ở mức lớn hơn sẽ khuyến khích các doanh nghiệp chủ
động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối (nhờ các công cụ phái sinh như quyền
chọn, hợp đồng kì hạn, swap...) thay vì đối phó thụ động như hiện nay.
Hai là, thắt chặt chính sách tiền tệ để cân bằng giữa các mục tiêu bên trong (tăng
trưởng, việc làm, lạm phát) và bên ngoài (thăng bằng cán cân thanh toán).
Ba là, thực hiện chính sách tài chính thận trọng trong trường hợp dòng vốn vào gia
tăng. Chính phủ có thể sử dụng chính sách tài chính thắt chặt để giảm áp lực tăng lạm phát
và làm giảm áp lực lên giá VND và giảm áp lực lên lãi suất, đồng thời giảm khuyến khích
dòng vốn vào. Việc điều hành chính sách tài chính thận trọng hiệu quả đặc biệt quan trọng
khi dòng vốn vào tăng lên (theo hướng thắt chặt) hoặc giảm xuống khi dòng vốn đảo chiều
(nới lỏng). Phản ứng của chính sách tài chính có thể rất hữu ích trong việc giải quyết những
vấn đề của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản do tác động của dòng vốn vào,
đặc biệt là chính sách thuế. Vì vậy, đánh thuế luỹ tiến trong kinh doanh bất động sản, đánh
thuế kinh doanh cổ phiếu là một chủ trương nên làm.
Bốn là, tự do hoá dòng vốn ra theo hướng khuyến khích đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp ra nước ngoài. Tuy vậy, vẫn cần thận trọng trong việc dỡ bỏ những hạn chế đối với
dòng vốn ra, bởi có thể làm trầm trọng thêm ảnh hưởng tiêu cực của việc dòng vốn đảo
chiều. Quyết định số 09/2008/QĐ-NHNN ngày 10 tháng 4 năm 2008 của Thống đốc NHNN
về cho vay bằng ngoại tệ của TCTD đối với khách hàng vay là người cư trú, trong đó, lần
đầu tiên có đề cập đến việc đáp ứng nhu cầu vay để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ góp
phần khuyến khích đầu tư ra nước ngoài.
Năm là, tăng cường quản lí và giám sát thị trường tài chính nhằm nâng cao hiệu quả
và tăng cường tính ổn định của khu vực tài chính – ngân hàng, nhờ vậy, có thể giảm hiện
tượng bong bóng đầu cơ.
[