You are on page 1of 26

Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÓAT VỐN


1.1. Kiểm soát vốn
1.1.1. Khái niệm: là thực hiện các biện pháp can thiệp của chính phủ dưới nhiều hình thức
khác nhau để tác động (hạn chế) lên dòng vốn nước ngoài chảy vào và ra khỏi một quốc gia
để nhằm đạt “mục tiêu nhất định” của chính phủ.
1.1.2. Mục tiêu kiểm sóat vốn: Mục tiêu của kiểm soát vốn kìm chế dòng vốn nước ngòai
chảy hoặc chảy ra một các ào ạt gây thiệt hại cho hệ thống tài chính tiền tệ của một quốc gia
và là nguyên nhân gây nên những cuộc khủng hoảng tài chính tòan cầu. Mục tiêu kiểm sóat
vốn cần phải hướng đến một “chiến lược tổng thể” nhằm mục đích hướng đến một hệ thống
tài chính - tiền tệ phát triển lành mạnh và ổn định.
1.1.3 Lý thuyết bộ ba bất khả thi
* Khái niệm: Lý thuyết bộ ba bất khả thi (The Impossible Trinity (hay Inconsistent
Trinity hay Triangle of Impossibility)) là một chính sách kinh tế quốc tế. Lý thuyết phát
biểu rằng: một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc 3 mục tiêu chính sách
vĩ mô: + Ổn định tỷ giá
+ Tự do hóa dòng vốn
+ Chính sách tiền tệ độc lập
Đây là mô hình lý thuyết rất phổ biến, gọi là mô hình Mundell- Fleming được Robert
Mundell và Marcus Fleming phát triển trong những năm 1960. Vào những năm 1980 khi
vấn đề kiểm soát vốn bị thất bại ở nhiều quốc gia cùng với mâu thuẫn giữa việc neo giữ tỷ
giá và chính sách tiền tệ độc lập ngày càng rõ ràng thì Lý thuyết bộ ba bất khả thi đã trở
thành nền tảng cho kinh tế học vĩ mô của nền kinh tế mở.

Lý thuyết bộ ba bất khả thi khẳng định rằng: trong điều kiện ngày nay, một quốc gia
phải lựa chọn việc hy sinh một trong 3 mục tiêu chính sách vĩ mô trên nghĩa là phải lựa
chọn giữa việc giảm thiểu sự thay đổi tỷ giá hoặc điều hành một chính sách tiền tệ độc lập
ổn định. Nó không thể có đồng thời cả hai.

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 1


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
1.1.4. Các hình thức kiểm sóat vốn: Về phương diện lý thuyết, có hai hình thức kiểm soát
vốn là kiểm soát vốn trực tiếp (hay còn gọi là kiểm soát mang tính hành chính) và kiểm soát
vốn gián tiếp (dựa trên cơ sở thị trường.)
- Kiểm soát vốn trực tiếp là việc hạn chế những giao dịch vốn, những khoản thanh
toán liên quan đến giao dịch vốn và việc chuyển tiền bằng những qui định mang tính chất
hành chính (như đặt ra các thủ tục kê khai...). Việc Chính phủ dừng lại mở room cho các
nhà đầu tư nước ngoài chính là biện pháp kiểm soát vốn mang tính hành chính.
- Kiểm soát vốn gián tiếp hay còn gọi là kiểm sóat dựa trên cơ sở thị trường là việc
hạn chế những biến động của dòng vốn và những giao dịch khác thông qua các biện pháp thị
trường, chủ yếu là làm cho các giao dịch vốn phải tốn kém nhiều chi phí hơn, từ đó hạn chế
(không phải ngăn cấm) các giao dịch này.
Việc kiểm soát như thế có thể xảy ra dưới các hình thức khác nhau mà điển hình nhất
là đánh thuế cao trên các dòng vốn ngắn hạn, đi liền với việc miễn thuế đối với các dòng
vốn mang tính dài hạn.
Trong hai biện pháp trên, cần phải hạn chế đến mức thấp nhất biện pháp kiểm soát
mang tính hành chính. Ngoại trừ một số ngành nghề và lĩnh vực nhạy cảm, việc dừng lại
chủ trương mở room (kiểm soát trực tiếp) đồng loạt cho các lĩnh vực như trong thời gian
qua là điều mà Chính phủ cần phải xem xét lại bởi nó ảnh hưởng rất lớn đến chủ trương thu
hút vốn hiện nay.
1.1.5. Giá phải trả của kiểm soát vốn!
Có nhiều quan điểm lầm tưởng rằng nếu như áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn
gián tiếp thì sẽ không phải trả giá. Trên thực tế, đã gọi là kiểm soát vốn thì cho dù là áp
dụng các biện pháp kiểm soát vốn như thế nào cũng phải trả một giá nhất định. Cái giá
chung nhất chính là sẽ làm chậm lại các cơ hội thu hút vốn đầu tư khi mà các quốc gia ngày
càng cạnh tranh quyết liệt để thu hút dòng vốn toàn cầu.
Các dòng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam bao gồm các nguồn chủ yếu sau: vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư gián
tiếp (FII), kiều hối của người Việt Nam sinh sống và làm việc ở nước ngoài, và các
nguồn vốn khác.

1.2. Các nguồn vốn nước ngoài


1.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngòai (FDI - Foreign direct investment)
* Khái niệm:
- Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với những
quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được
lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư
trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế
khác đó.
- Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh
nghiệp về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 2


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp
FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI
gồm có ba bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
- Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại
nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà
nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối với
thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
- Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài
hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ
sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
theo quy định của luật này”.
- Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở
một nươc khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào quốc gia đó để có được
quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với
mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy
móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị
…), tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản
tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một
dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài.
* Đặc điểm của nguồn vốn FDI:
- Có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể
nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn.
- Quản lí đối tượng đầu tư.
* Các hình thức phổ biến FDI bao gồm: Doanh nghiệp liên doanh, Doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh, đầu tư theo hợp đồng BOT, Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và Công ty con
(Holding company), hình thức công ty cổ phần, hình thức chi nhánh công ty nước ngoài,
hình thức công ty hợp danh, Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập (M&A)
1.2.2. Hỗ trợ phát triển chính thức ODA (Vốn ODA)
Hỗ trợ phát triển chính thức 'Official Development Assistance' viết tắt là ODA bắt
đầu xuất hiện tại Việt Nam từ tháng 10/2003 sau khi Việt Nam chính thức bình thường
hóa quan hệ với hợp chủng quốc Hoa kỳ và các tổ chức tiền tệ Quốc tế như: Quỹ tiền
tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
…..Việc bình thường hóa quan hệ nói trên đã ngay lập tức giúp cho Việt nam khơi
thông nguồn vốn huy động nước ngoài thông qua hình thức ODA với cộng đồng các
nhà tài trợ đa phương và song phương nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo, tăng cường năng lực thể chế….
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 3


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
Khái niệm ODA đã được chính phủ Việt Nam sử dụng trong quy chế quản lý và
sử dụng nguồn vốn ODA ban hành theo nghị định số 17/2001/NĐ-CP ngày 4/5/2001
của Chính Phủ là : “Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là hoạt động hợp tác phát triển
giữa Nhà nước và Chính Phủ Việt Nam với nhà tài trợ bao gồm:Chính phủ nước
ngoài, các tổ chức liên Chính phủ hoặc liên quốc gia. Hình thức cung cấp ODA bao
gồm: ODA không hoàn lại, ODA vay ưu đãi có yếu tố không hoàn lại ít nhất 25%....”
Như vậy, ODA chính là khoản vay kết hợp giữa “một phần cho vay ưu đãi” cộng
với “một phần cho không” ít nhất phải là 25% trong tổng vốn vay.
1.2.3. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII)
* Khái niệm: Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII): là các khoản vốn huy động từ nước ngoài
được thực hiện bởi các định chế tài chính trung gian như quỹ đầu tư tham gia đầu tư vào các công
ty cổ phần đã hoặc chưa niêm yết hoặc các doanh nghiệp nhà nước đang cổ phần hóa.
* Lợi ích của việc thu hút nguồn vốn FII
Khác với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), những nhà đầu tư gián tiếp chỉ đóng góp
vốn vào các công ty cổ phần thông qua thị trường chứng khoán, mà không trực tiếp tham gia
quản lý điều hành các công ty đó. Các công ty được thuê để quản lý những quỹ đầu tư có thể
cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các công ty được đầu tư này về mặt quản trị doanh nghiệp và tái
cấu trúc công ty nói chung. Việc thu hút nguồn vốn FII mang lại những lợi ích như sau:
- Các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận với nguồn tiết kiệm nước ngoài, tận
dụng nguồn vốn này để đầu tư, giảm bớt áp lực vốn trong quá trình mở rộng SXKD.
- Giảm chi phí vay vốn và kết quả là đầu tư sẽ tiếp tục tăng, doanh nghiệp ngày càng
phát triển.
- Sự hỗ trợ tư vấn của các công ty quản lý quỹ trong việc điều hành doanh nghiệp,
giúp công ty củng cố mặt quản trị doanh nghiệp vốn vẫn còn rất non yếu ở Việt Nam.
- Khi một quốc gia mở cửa đối với nguồn vốn đầu tư gián tiếp này, thì đầu tư trong
nước không cần phải dựa hoàn toàn vào nguồn tiết kiệm trong nước. Thay vào đó, có thể
tăng thu nhập và tiêu dùng trong nước.
* Các hình thức đầu tư của vốn FII:
+ Đầu tư trực tiếp, do các nhà đầu tư cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài thành lập quỹ
đầu tư ở nước ngoài và dành một phần để đầu tư vào thị trường Việt Nam. Họ là những nhà
đầu tư và những người quản lý quỹ đầu tư đó, ví dụ như đầu tư của Công ty Temasek. Hiện
nay loại này chỉ chiếm khoảng trên 1% trong tổng lượng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam.
+ Đầu tư gián tiếp thông qua các quỹ đang hoạt động tại Việt Nam, chẳng hạn các quỹ
Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL), Vietnam Growth Fund (VGF), Vietnam Dragon
Fund (VDF), Vietnam Opportunities Fund (VOF)… Những nhà quản lý quỹ thường giới thiệu,
tiếp thị Việt Nam với các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức nước ngoài để thu hút đầu tư.
Những vốn đầu tư thông qua các tổ chức sau đây có thể được xem là vốn FII: các quỹ
đầu tư đại chúng (Mutual Funds), quỹ hưu trí (Pension Funds), quỹ đầu tư ủy thác
(Investment Trusts), công ty quản lý tài sản (Asset management company), quỹ đầu tư mạo
hiểm (Venture Fund hoặc Hedge Fund), các quỹ từ thiện, các quỹ tài trợ ở trường đại học…
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 4


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
Tại Việt Nam hiện nay mới có sự xuất hiện của các quỹ đầu tư đại chúng, quỹ đầu tư mạo
hiểm Venture Fund và quỹ từ thiện.

CHƯƠNG II: KIỂM SOÁT VỐN TẠI VIỆT NAM


2.1. Quan điểm kiểm soát vốn:
Kiểm soát vốn đầu tư đang là vấn đề gây nhiều tranh cải. Một số quan điểm cho rằng
kiểm soát vốn là đi ngược với tiến trình việc tự do hóa tài chính, một số lại ủng hộ quan
điểm cho rằng nên thực hiện kiểm soát vốn để hạn chế những tổn thất cho nền kinh tế. Tuy
nhiên, khi khủng hoảng tài chính vào năm 1997 tại Thái Lan xảy ra, nguyên nhân bắt nguồn
là việc rút vốn ồ ạt từ các nhà đầu tư nước ngoài và kết quả là Chính phủ Thái Lan phải thả
nổi tỷ giá, gây phản ứng dây chuyền khắp khu vực. Trước tình hình, vấn đề kiểm soát vốn
được đặt ra cho nhiều quốc gia, đặc biệt ở những thị trường nhỏ và đang phát triển. Vì vậy,
nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề nên Việt Nam đã đưa ra những chính sách về kiểm
soát vốn, cụ thể là kiểm soát đầu vào, ra của các nguồn đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián
tiếp (FII) và nguồn vốn ODA, để từ đó có thể giảm thiểu những tổn thất xảy ra cho nền kinh
tế, đặc biệt khi thị trường chứng khoán phát triển quá nóng.
Chính sách kiểm soát vốn được thể hiện rõ nét thông qua Nghị định 160/2006/NĐ-
CP ngày 28/12/2006 (Nghị định về quản lý ngoại hối).
- Theo nghị định này, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết hay quảng cáo khác đều
phải thực hiện bằng đơn vị tiền tệ duy nhất là đồng Việt Nam. Các cá nhân, tổ chức chỉ
được sử dụng ngoại hối trong các giao dịch với ngân hàng và các tổ chức được phép cung
ứng dịch vụ ngoại hối.
- Đối với đầu tư gián tiếp: Trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài muốn mua bán
chứng khoàn, các giấy tờ có giá khác và góp vốn, mua cổ phần tại Việt Nam, phải mở tài
khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng Việt Nam tại ngân hàng, mọi giao dịch liên quan đến
hoạt động đầu tư gián tiếp phải thực hiện thông qua tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng
đồng Việt Nam. Nếu có vốn ngoại tệ phải bán lấy đồng Việt Nam để đầu tư, khi muốn
chuyển vốn ra nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài được sử dụng đồng Việt Nam trên tài
khoản để mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép và chuyển ra nước ngoài.
- Đối với đầu tư trực tiếp: Để thực hiện đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài phải mở một tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ tại một
tổ chức tín dụng được phép, đồng thời phải đóng tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại
tệ đã mở ở tổ chức tín dụng trước đó và chuyển toàn bộ số dư trên tài khoản này sang tài
khoản mới.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được chuyển ra nước ngoài vốn
điều lệ, vốn đầu tư trực tiếp, vốn vay, lãi và chi phí vay nước ngoài các nguồn thu hợp pháp
có liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thông qua tài khoản
vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ, được sử dụng nguồn thu từ hoạt động đầu tư trực tiếp
bằng đồng Việt Nam mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép để chuyển ra nước ngoài

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 5


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày mua được ngoại tệ thông qua tài khoản vốn đầu tư trực
tiếp bằng ngoại tệ
- Đồng thời các tổ chức tín dụng có trách nhiệm hướng dẫn thủ tục mở, đóng tài
khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng Việt Nam, kiểm soát các chứng từ áp dụng cho các
giao dịch thu chi trên tài khoản đó, bán ngoại tệ cho nhà đầu tư nước ngoài thu đồng Việt
Nam và giám sát việc mua và chuyển tiền của họ. Trường hợp cần thiết, Ngân hàng nhà
nước sẽ yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
thực hiện báo cáo tình hình cụ thể.
- Đối với nguồn vốn ODA, Việt Nam xác định thu hút vốn ODA là mục tiêu quan
trọng để đảm bảo cho tăng trưởng và phát triển bềnh vững. Vì vậy, đã thiết lập các cơ chế
phối hợp giữa tổ công tác ODA của Chính phủ và các nhà tài trợ để đẩy mạnh tiến trình hài
hòa hóa thủ tục, cải cách hành chính, mạnh tay hơn trong công tác chống tham nhũng và
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quản lý vốn ODA.
Từ những quan điểm trên cho ta thấy chính sách kiểm soát vốn của Việt Nam hiện
nay khá thông thoáng, dòng vốn FDI, FII được khuyến khích tối đa, luồng vốn huy động của
Chính phủ theo hình thức ODA không hạn chế. Quan điểm này được thể hiện dưới các hình
thức kiểm soát cụ thể sau đây:

2. 2 Quá trình kiểm soát các dòng vốn FDI, FII, ODA:

2.2.1 Kiểm soát vốn đầu tư trực tiếp (FDI):

Thu hút FDI của Việt Nam đứng thứ 6 trên thế giới; riêng ở châu Á, Việt Nam chỉ
đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ. Dòng chảy của nguồn vốn này vào Việt Nam không ổn định,
năm nhiều năm ít, lúc trồi lúc sụt do nhiều yếu tố, trong đó lệ thuộc vào sự quyết tâm đổi
mới và hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam là quyết định. Suốt thời gian dài từ đó đến
nay đã có khoảng 11.000 dự án được cấp giấy phép, tổng mức vốn đăng ký trên 163 tỷ USD
nhưng tổng vốn thực hiện đạt chỉ khoảng 35%, chưa kể số dự án bị rút giấy phép hoặc đề
nghị rút giấy phép.
Tỷ trọng vốn FDI trong tổng vốn ĐTXH qua các năm
Tỷlệ

100%
90%
80% Vốn ngoài NN
70% Vốn NN
60% Vốn FDI

50%
40%
30%
20%
10%
0%
5

Năm
9

0
9

0
19

20

20

20
1

Nguồn: Tổng cục thống kê

Trong thập niên 80 và đầu thập niên 90:

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 6


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
Trước khi nước ta tiến hành đổi mới, nguồn vốn FDI không chảy vào Việt Nam. Chỉ
sau khi có Luật đầu tư nước ngoài ban hành ngày 09/01/1988, thì nguồn vốn FDI mới bắt
đầu tìm đến.
Giai đoạn này dòng FDI vào Việt Nam còn nhỏ và không giải ngân được.
Trong khoảng thời gian 1991-1996:
Đây là giai đoạn FDI đóng một vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho sự thiếu hụt
trong tài khoản vãng lai của Việt Nam và đã có những đóng góp cho cán cân thanh toán
quốc tế của Việt Nam. Tổng vốn FDI tăng đạt đỉnh điểm vào năm 1996 với tổng vốn đăng
ký lên đến 10.164,1 tỷ đô-la Mỹ. Sự tăng mạnh mẽ của FDI này là do nhiều nguyên nhân:
Các nhà đầu tư nước ngoài bị thu hút bởi tiềm năng của một nền kinh tế đang trong
thời kỳ chuyển đổi với một thị trường phần lớn còn chưa được khai thác.
Đặc biệt, vào tháng 7 năm 1995, nước ta đã có 3 sự kiện quan trọng cùng diễn ra. Đó
là: Việt Nam gia nhập ASEAN, ký hiệp đinh khung về hợp tác kinh tế với EU và bình
thường hóa quan hệ với Mỹ. Việc thúc đẩy mở rộng quan hệ ngoại giao đó của Việt Nam
đem đến kết quả FDI tăng vược bậc năm 1996.
Trong giai đoạn 1997-1999:
Việt Nam đã trải qua một giai đoạn tụt dốc của nguồn FDI đăng ký, cụ thể là 49% năm
1997, 16% năm 1998 và 59% năm 1999, một phần là do khủng hoảng tài chính châu Á. Từ
đó các nhà đầu tư nước ngoài nhận ra rằng các dự kiến về nhu cầu của thị trường đã bị thổi
phồng. Các bức rào cản cho việc kinh doanh cũng trở nên rõ ràng hơn.
Giai đoạn 2000-2002:
Trước tình hình FDI vào Việt Nam liên tục suy giảm, nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế,
chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và triển khai FDI. Chính phủ đã ban hành
một loạt các văn bản để thu hút đầu tư như: Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 quy định chi
tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996; Nghị định 10/CP/1998 ngày
23/11/1998 về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt động FDI tại Việt Nam kèm
theo danh mục các lĩnh vực, địa bàn khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư; Nghị
định 62/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998 về đầu tư theo hợp đồng BOT –BTO –BT áp dụng đới
với hoạt động FDI…
Kết quả là giá trị FDI đăng ký tăng trở lại vào năm 2000 với mức 25,8% và 2001 với
mức 22,6%, nhưng vẫn chưa được hai phần ba so với năm 1996.
Năm 2002, FDI đăng ký lại giảm xuống còn khoảng 1,4 tỷ đô-la Mỹ, đạt khoảng
54,5% của mức năm 2001. Có rất nhiều nguyên nhân làm FDI giảm xuống. Trong đó chủ
yếu là do sự xuống dốc của nền kinh tế toàn cầu theo sau sự tan vỡ của bong bóng công
nghệ cao tại Mỹ cùng với khủng hoảng kéo dài tại Nhật bản đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến
các nước châu Á.
Giai đoạn 2003 đến nay:
Sau khi ký hiệp định thương mại Việt Mỹ BTA cuối năm 2001 và gia nhập AFTA năm
2003, nguồn vốn FDI vào Việt Nam phục hồi và tăng trở lại, dù chậm nhưng đều; vốn thực
hiện cũng được tăng theo.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã ký kết Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định tự do,
xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt - Nhật. Các hiệp định này là những cam kết theo đúng thông
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 7


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
lệ quốc tế trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Mỗi hiệp định đề cao
đến một khía cạnh. Chẳng hạn, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt - Nhật chú ý
nhiều đến việc bảo hộ tài sản của các nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam. Ngay trong khái
niệm về đầu tư của Hiệp định, yếu tố bảo hộ tài sản cho nhà đầu tư Nhật Bản được thể hiện
rất rõ. Đây là một hiệp định có lợi rất nhiều cho các nhà đầu tư Nhật Bản khi các nhà đầu tư
Nhật Bản đầu tư ngày càng lớn lượng tài sản vào Việt Nam.
Ngày 12/12/2005 Chính phủ ban hành đồng thời Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp.
Hai luật này ra đời đã tạo ra nhiều cơ chế thoáng hơn cho nhà đầu tư nước ngoài. Luật Đầu
tư Việt Nam đã khẳng định Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền của nhà đầu tư nước ngoài và
có cơ chế khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn, tài sản và các khoản thu nhập
hợp pháp khác vào Việt Nam cơ sở tôn trọng chủ quyền, phù hợp với pháp luật, bình đẳng
và đôi bên cùng có lợi. Nhà đầu tư có quyền lựa chọn lớn về hình thức, địa bàn lĩnh vực quy
mô và thời hạn đầu tư (có thể lên tới 70 năm).
Theo Luật Đầu tư năm 2005, hình thức đầu tư được trên mở rộng thêm và đa dạng hơn,
một trong những hình thức đó là hình thức sáp nhập và mua lại (M&A). Ngòai ra, vấn đề
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho nhà đầu tư nước ngoài đã được đưa vào Luật Đầu tư năm
2005; đó là yếu tố tăng cường an ninh trên lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp thật
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, lợí ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài
sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại
thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng (Điều 6 Luật Đầu tư 2005)... Kết quả là năm
2006 nguồn vốn FDI tăng lên rất cao.
Và đặc biệt, sau một loạt sự kiện: Cuối năm 2006, Việt Nam tổ chức thành công hội
nghị APEC 14; Mỹ trao PNTR; và ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO.
Từ đó, các nhà đầu tư nước ngoài đã hướng đến Việt Nam nhiều hơn, thể hiện cụ thể qua
con số FDI tăng đột biến năm 2007 là 20,3 tỳ USD..
Đến năm 2008, tổng vốn FDI vào Việt Nam đã đạt 64 tỷ USD, vượt xa con số 20,3 tỉ
USD của cả năm 2007. Nguồn vốn FDI năm nay còn có sự chuyển biến tích cực về chất. Cụ
thể, quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án đã tăng mạnh và đạt mức cao nhất từ trước
tới nay với khoảng 68 triệu USD/dự án. Đặc biệt, dòng vốn này đã chảy vào những lĩnh vực
quan trọng của nền kinh tế như công nghiệp lọc dầu, luyện kim, bất động sản, cảng biển,
khu công nghệ cao...
Qua những phân tích trên, ta có thể nhận thấy, từ khi bắt đầu mở cửa Việt Nam luôn
tích cực mở rộng cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Song song với quá trình đó ta cũng luôn đẩy
mạnh kêu gọi thu hút FDI, thể hiện qua việc Chính phủ ban hành các văn bản pháp luật ngày
cành thông thoáng. Tuy nhiên đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn này như thế nào, nhóm
đi vào phân tích tỷ lệ vốn thực hiện so với mức vốn cam kết.

* Tỷ lệ vốn FDI giải ngân so với mức vốn đăng ký:

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 8


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
Tổng số vốn Tổng số vốn thực Tỷ lệ
Năm Số DA
đăng ký hiện (triệu USD) giải ngân (%)
2006 987 12,004.0 4,100.1 34
2007 1,544 21,347.8 8,030.0 38
2008 1,171 64,000.0 11,500.0 18
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy tổng số vốn đăng ký tăng mạnh qua các năm. Nếu như
năm 2006 số vốn đăng ký là 12 tỷ USD, thì đến năm 2008 đã tăng lên 64 tỷ USD (gấp 5
lần). Tuy nhiên mức độ giải ngân nguồn vốn này còn rất thấp so với vốn đăng ký. Cụ thể tỷ
lệ giải ngân năm 2006 chỉ đạt 34%, đến năm 2008 chỉ còn 18%. Việc giải ngân vốn FDI còn
thấp có thể kể đến những nguyên nhân sau:
- Môi trường kinh tế vĩ mô Việt Nam đang có nhiều vấn đề như lạm phát cao, hơn nữa
họ nhìn thấy Việt Nam chưa khắc phục được những hạn chế cố hữu về thể chế, luật lệ, tính
dự báo của luật lệ...
- Sự yếu kém về quy hoạch, hạ tầng, đường đi thì thiếu, điện yếu, thiếu nhân lực chất
lượng cao và sự chậm chễ trong sự giải quyết công việc... Điển hình như khu vực Cái Mép -
Thị Vải có ba cảng đang thi công, nhưng không có đường vào. Đường vào không có thì dự
án không thể thực hiện việc thi công điện, nước và những công trình thành phần khác…
- Công tác quy hoạch lại có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về
bảo hộ sản xuất trong nước… Chỉ đến khi nào khắc phục được những hạn chế này thì lượng
FDI giải ngân mới tốt hơn được.
Bên cạnh đó, mặc dù nhận được ưu đãi lớn song các doanh nghiệp FDI thường tìm
cách "lờ" đi các điều khoản cam kết với địa phương về kinh tế, xã hội và môi trường.
Nghiên cứu của CIEM chỉ rõ, đóng góp của chủ doanh nghiệp FDI cho bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế và công đoàn không hề vượt trội hơn so với các doanh nghiệp trong nước, thậm
chí có năm còn thấp hơn. Chỉ có 10% số doanh nghiệp này dành sự đầu tư thích đáng cho
phát triển bền vững nguồn nhân lực. Đáng lo ngại nhất là vấn đề môi trường, có tới 80%
doanh nghiệp FDI không đầu tư trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, 60 - 81% doanh
nghiệp không chịu chi cho hoạt động bảo vệ môi trường hàng năm.
Đến nay, mới chỉ có 28 KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung; khoảng 20 KCN
khác đang xây dựng hoặc chuẩn bị đầu tư. Số đông còn lại chưa xây dựng do nhiều nguyên
nhân như năng lực tài chính hạn chế, ý thức tuân thủ luật bảo vệ môi trường không cao… Ô
nhiễm sông Thị Vải như là một điển hình của sự phát triển KCN.
* Khả năng hấp thụ vốn FDI của nền kinh tế:
- Thực tế cho thấy vốn FDI tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất, kinh doanh bất
động sản và các ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, du lịch … đây là những ngành yêu
cầu cao về trình độ, trong khi đó nguồn cung lao động có thể đáp ứng được còn rất hạn chế.
Thực trạng này khiến nhiều dự án qui mô lớn bị chậm tiến độ thực hiện. Vì vậy, nếu không
có chính sách kinh tế hợp lý trong việc khuyến khích dịch chuyển lao động có tay nghề thì
vị thế của Việt Nam dưới con mắt nhà đầu tư nước ngoài rất dễ bị ảnh hưởng.
- Bên cạnh đó khối doanh nghiệp FDI cũng chính là khối có kim ngạch nhập khẩu rất
lớn và là một trong những nhóm doanh nghiệp đóng góp “tích cực” vào con số nhập siêu
tăng rất cao trong năm nay. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2008 đạt
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 9


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
24,465 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, nhưng khối doanh
nghiệp này cũng nhập khẩu tới 28,458 tỷ USD. Tổng nhập siêu xấp xỉ 4 tỷ USD của khối
này đã chiếm gần 1/4 thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 2008.
- Về vấn đề chuyển giao công nghệ, trong 20 năm thu hút đầu tư nước ngoài, theo Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, số hợp đồng chuyển giao công nghệ nước ngoài tại Việt Nam chỉ mới
được ký kết khoảng 10 hợp đồng trong số khoảng 9.000 dự án đầu tư vào Việt Nam. Nhiều
bí quyết công nghệ bên Việt Nam vẫn chưa làm chủ được. Điều này có nghĩa là Việt Nam
vẫn còn phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài, năng lực nội sinh của công nghệ chưa được
kiến tạo và phát huy.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dẫn đầu danh sách các nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam là các doanh nghiệp châu Á như: Malaysia với 14,8 tỷ USD (26%), Đài
Loan với 8,6 tỷ USD (18,6%), Nhật Bản: 7,3 tỷ USD (15,7%), sau đó là Brunei,
Singapore… trong khi các doanh nghiệp Mỹ chỉ chiếm 1,4 tỷ USD (3%). Điều đó phản ánh
một thực tế là chúng ta mới chỉ tiếp cận được với các công nghệ trung bình hoặc trên trung
bình của các nước trong khu vực.
- Thị trường vốn Việt Nam còn ở giai đoạn phát triển sơ khai, cải cách doanh nghiệp
nhà nước chậm chạp là nguyên nhân dẫn tới những rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng. Bên
cạnh đó, sự yếu kém về cơ sở hạ tầng của thị trường tài chính (hệ thống thông tin, thanh
toán, tính minh bạch, khuôn khổ pháp lý...) cũng là những trở ngại không nhỏ trong việc thu
hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường này. "Việt Nam cần một hệ thống ngân hàng có
khả năng chống chọi trước các dòng vốn lớn đổ vào"-ông Alain Cany, Giám đốc điều hành
Ngân hàng HSBC Việt Nam bình luận.
Một vấn đề lớn và mang tính hệ thống đặt ra đối với thị trường tài chính Việt Nam là
khả năng tự vệ của thị trường trước xu hướng các dòng vốn đang trở nên ngày càng linh
hoạt hơn. "Công nghệ hiện đại đang cho phép hàng tỷ USD được chuyển vào hoặc ra khỏi
thị trường chỉ với một cú nhắp chuột"-ông Michael Smith, Tổng giám đốc HSBC khu vực
Châu Á- Thái Bình Dương cảnh báo. Và theo ông này, thì đây là thách thức "không chỉ
riêng đối với Việt Nam mà còn đối với hầu hết các nền kinh tế châu Á". Đó chính là thách
thức về việc xây dựng một hệ thống tài chính lành mạnh có thể chịu đựng được những giao
động không thể tránh khỏi của các dòng vốn.
- Trong thời gian gần đây, một loạt các vụ đình công trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài do chế độ trả công thiếu thoả đáng khi tình hình giá cả sinh hoạt tăng lên
nhanh chóng làm giảm thu nhập thực tế của công nhân, làm tăng tính chất “bần cùng” của
người lao động. Điều này, cho thấy tính chất phức tạp của an ninh về việc làm cho người lao
động Việt Nam nếu giới chủ không đáp ứng thoả đáng quyền lợi chính đáng của họ. Đây là
yếu tố vừa ngấm ngầm, vừa công khai phản ánh mâu thuẫn giữa tư bản và lao động trong
điều kiện hiện đại. Sự yếu kém của tổ chức công đoàn, sự kém hiểu biết của người lao động
và cơ chế quản lý hiệu quả không cao gần như đang tiếp sức thêm cho quyền lực và tính độc
quyền của nhà đầu tư nước ngoài trước yêu cầu cao về việc làm và thu nhập của người lao
động Việt Nam.

2.2.2 Kiểm soát vốn đầu tư gián tiếp (FII):

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 10


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
Khi thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển quá nóng, Ngân hành nhà nước Việt
Nam đã đưa ra những đề xuất về các giải pháp cấp bách để kiểm soát đầu tư gián tiếp nuốc
ngoài. Tuy nhiên, theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ: Chúng ta vẫn đang ở giai
đọan đầu tư thu hút vốn, do đó không thể đặt vấn đề khống chế lên hàng đầu mà phải quản
lý theo hướng tạo môi trường thuận lợi cho nguồn vốn này chảy vào đúng mạch, đúng chỗ,
đúng nơi. Đó là công việc rất quan trọng và cấp bách hiện nay.

Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu vốn cần thiết cho sự phát triển kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời nhận thấy được cơ hội và
tầm quan trọng của nguồn vốn FII.

2.2.2.1. Vai trò của vốn FII:

- Vốn đầu tư gián tiếp khi đổ vào Việt Nam sẽ tạo động lực hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư trong nước. Thực tế cho thấy, khi các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng qua các phiên
giao dịch trên TTCK sẽ tạo ra lực hút đối với nhà đầu tư trong nước, đó là họ sẽ đổ vốn
nhiều hơn vào TTCK và kết quả là tổng số vốn đầu tư trên thị trường sẽ tăng lên
- Việc tham gia của các nhà đầu tư gián tiếp sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường
tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị
thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động
“phi thị trường” và góp phần giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công
nghệ, quản lý…). Đồng thời khi FII gia tăng sẽ làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam
trở nên sôi dộng hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng. Bên cạnh đó sự
gia tăng dòng FII sẽ góp phần phát triển các định chế và dịch vụ tài chính – chứng khoán,
các dịch vụ tư vấn, bảo hiểm, kế tóan, kiểm tóan
- Vốn FII thường rót vào các DN do người VN nắm quyền chi phối về quản lý, giúp
DN trong nước tăng trưởng nhanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, tiến tới việc hình thành
các tập đoàn đa quốc gia mang thương hiệu VN. Thực tế, đã có nhiều điển hình thành công
theo mô hình này, qua con đường phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên TTCK
như: Vinamilk, Bảo Minh, Kinh Đô, ACB, Sacombank...
- Tăng cường cơ hội và đa dạng hóa phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn
nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Thông qua quá trình tham gia của nhà đầu tư
gián tiếp, các nhà đầu tư trong nước và người dân sẽ được dịp “cọ xát”, rèn luyện và bồi
dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói
riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói chung phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh thị
trường hiện đại.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý doanh nghiệp và Nhà nước theo các nguyên
tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Cụ thể việc quản lý và quản trị doanh
nghiệp phát hành chứng khóan sẽ được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn về báo cáo tài
chính và minh bạch hóa thông tin, hệ thống luật pháp liên quan đến đầu tư gián tiếp sẽ phải
được hòan thiện, kiện toàn. Đồng thời nhà nước sẽ đa dạng hóa các công cụ và thực hiện
hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp.
Để thấy rõ hơn hiệu quả của việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp tại Việt Nam, là giá trị
vốn FII vào Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Nếu như năm 2006 dòng vốn FII vào Việt Nam chỉ khoảng trên 1 tỷ USD thì đến cuối năm
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 11


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
2007 dòng vốn này đã tăng đáng kể khoảng 5-7 tỷ USD, điều này thể hiện rõ nét qua diễn
biến trên thị trường chứng khóan, đây là giai đọan TTCK Việt Nam rất sôi động với số
lượng các nhà đầu tư nước ngòai tham gia rất đông. Tuy nhiên đến năm 2008 dưới tác động
của khủng hỏan thế giới, vốn FII vào Việt Nam sụt giảm đáng kể khoảng 4 tỷ USD. Theo dự
báo của các chuyên gia năm 2009 thu hút vốn FII càng trở nên khó khăn, thậm chí vốn FII
sẽ ngừng chãy vào Việt Nam.
Bên cạnh những chính sách khuyến khích trong việc thu hút vốn FII, nguồn vốn này
cũng gặp một số hạn chế
2.2.2.2 Những hạn chế:
-Hạn chế về danh mục đầu tư: Theo quyết định số 260/2002 của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư ban hành ngày 10/05/2002 ghi rõ các doanh nghiệp thuộc những lĩnh vực như kinh doanh
dịch vụ khách sạn, nhà hàng, vận tải đường bộ, đường ống, sản xuất thiết bị viễn thông, sản
xuất các dịch vụ tư vấn phần mềm máy tính … (35 ngành nghề) mới được bán cổ phần cho
nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, có nhiều ngành nghề đòi hỏi công nghệ cao, vốn của
nước ngoài để có điều kiện thành lập và phát triển doanh nghiệp nhưng chưa được phép gọi
vốn từ bên ngoài, chẳng hạn như ngành quản lý nợ, tài sản, bất động sản, dịch vụ định giá
doanh nghiệp, định mức tín nhiệm, tư vấn kiến trúc đô thị, phát triển cơ sở hạ tầng …
- Hạn chế về mức thuế: Theo qui định về luật thuế, thì mức thuế suất đối với đối với
họat động mua bán, chuyển nhượng chứng khoán là 0,1%/doanh thu chịu thuế, điều này còn
một số hạn chế đó dù nhà đầu tư nước ngoài lãi hay lỗ vần phải nộp thuế trên mức chuyển
nhượng, trong khi đó giá trị đầu tư nước ngoài rất cao, vì vậy tổng số thuế phài nộp tương
đối nhiều. Đồng thời trong cấu trúc thuế có sự phân biệt giữa người Việt Nam và người
nước ngoài, cụ thể:
+ Mức thuế 1% đối với người Việt Nam có thu nhập từ 5 tr.đ/tháng trở lên và
người nước ngòai là 8 tr.đ/tháng trở lên;
+ Mức thu nhập áp dụng thuế suất 40% đối với người Việt Nam có thu nhập
trên 40 tr.đ/tháng, người nước ngòai thu nhập trên 80 tr.đ/tháng. Quy định này không
phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo ra sự bất bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế cũng như môi
trường kinh doanh trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
- Bên cạnh đó việc qui định về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần đối với nhà đầu tư nước
ngòai vẫn còn nhiều hạn chế, trước khi Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg có hiệu lực thì tỷ lệ
sở hữu cổ phần tối đa của nhà đầu tư nước ngoài là 30%. Trong khi đó, khi TTCK Việt Nam
phát triển mạnh mẽ (giai đọan 2006-2007), nhà đầu tư nước ngòai rất mong đợi vào việc mở
room của Chính phủ để họ gia tăng tỷ lệ sở hữu đối với những doanh nghiệp mà họ muốn
đầu tư. Đến 15/04/2009 khi Quyết định số 55/2009 được ban hành cho phép nhà đầu tư
nước ngòai được nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ của công ty cổ phần đại chúng (trừ một số
ngành như ngân hàng, năng lượng … thì tỷ lệ vẫn là 30%). Tuy nhiên đây là khỏan thời gian
TTCK Việt Nam đang đi xuống, việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngòai không còn mạnh
mẽ như trước, đây là một trong những hạn chế về chính sách thu hút vốn của nước ta.

2.2.3 Kiểm soát vốn ODA:

Nhờ thành công của đường lối đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng
hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước, nước ta đã vận động, thu hút được một lượng
đáng kể vốn ODA phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Từ năm 1993 đến nay, cam
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 12


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
kết ODA năm sau cao hơn năm trước, nguồn vốn ODA đã được sử dụng để xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, phát triển
y tế, giáo dục và khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, cải cách hành chính, luật pháp.

Công tác quản lý nhà nước về ODA được tăng cường và từng bước đi vào nề nếp, tuy
nhiên vẫn còn một số hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Vì vậy, vấn
đề kiểm soát nguồn vốn ODA được xem là vấn đề quan trọng trong việc nâng cao uy tín của
Việt Nam trước thế giới, đồng thời gia tăng hiệu quả sử dụng vốn ODA. Để kiểm soát vốn
ODA, trước hết phải xác định được đối tượng sử dụng một cách hợp lý ở đầu vào, đồng thời
nâng cao tính minh bạch thông tin, hiệu quả sử dụng ở đầu ra.

2.2.3.1 Đối tượng sử dụng vốn ODA:

- Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và
vùng lãnh thổ để ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ
Việt Nam đã đưa ra định hướng chiến lược, chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng
vốn ODA cho từng thời kỳ. Trong đó 5 lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời
kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm:

+ Phát triển nông nghiệp và nông thôn

+ Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại

+ Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số)

+ Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên

+ Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển
giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai

- Cụ thể, nguồn vốn ODA sẽ tập trung vào đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng qui mô
lớn ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, các tuyến giao thông nối các vùng Bắc
Nam, hai hành lang một vành đai kinh tế, trục giao thông Đông – Tây, giao thông vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Đây là cơ sở cho quá trình tăng trưởng nhanh và xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam

- Đồng thời Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát và bào đảm đủ vốn đối
ứng cho các chương trình dự án ODA, sửa đổi cách giao chỉ tiêu kế hoạch vốn đối ứng để áp
dụng trong kế hoạch nhằm bảo đảm để các Bộ, cơ quan và tỉnh, thành phố linh hoạt phân bổ
vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA theo đúng tiến độ thực hiện đã thỏa thuận với
nhà tài trợ.

- Bên cạnh đó, nhà nước áp dụng chính sách thuế ưu đãi đối với dự án ODA cụ thể:

+ Đối với những dự án ODA viện trợ không hoàn lại được miễn hoàn toàn các
khoản thuế gián thu (gồm thuế nhập khẩu, thuế GTGT, thuế TTĐB), và được hoàn lại số
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 13


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
thuế GTGT đã trả khi trực tiếp mua hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT tại VN để thực hiện
dự án …

+ Đối với thuế trực thu thì việc miễn thuế được thực hiện trên cơ sở qui định
tại hiệp định về viện trợ không hoàn lại căn cứ theo điều kiện, tính chất, đặc điểm của từng
dự án ODA viện trợ không hoàn lại mà Chính phủ Việt Nam sẽ cam kết với nhà tài trợ việc
miễn thuế trực thu tại hiệp định

+ Chuyên gia nước ngoài làm việc cho các dự án ODA nếu được Bộ kế hoạch
và đầu tư cấp giấy xác nhận là chuyên gia nước ngoài thực hiện các chương trình, dự án
ODA thì sẽ được hưởng ưu đãi về thuế, phí như: miễn thuế NK, thuế TTĐB, thuế GTGT, lệ
phí trước bạ và thuế thu nhập cá nhân theo qui định tại phần I Thông tư số 52/2000/TT-BTC
ngày 05/06/2000 của Bộ tài chính.

Từ chủ trương, định hướng kiểm soát nguồn vốn ODA một cách đúng đắn cùng với
kế hoạch phát triển kinh tế được đánh giá là đáng tin cậy và bền vững về mặt tài chính, đồng
thời được đảm bảo bằng những biện pháp thực hiện thiết thực. Vì thế, Việt Nam càng tạo
niềm tin cho các nhà tài trợ cụ thể là nguồn vốn ODA được cam kết, ký kết và giải ngân
tăng dần qua các năm:

BIỂU ĐỒ CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN TỪ 1993 - 2008

6000

5000
Nguồn:
4000 Tổng
Triệu USD

Camkết cục
3000 Ký kết thống
Giải ngân

2000

1000
Cùng
0 với
1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2005

2006

2007

2008
1993

2004

việc
Năm
kiểm
soát
nguồn
vốn
ODA ở đầu vào là việc nâng cao tính minh bạch thông tin và hiệu quả sử dụng vốn ODA ở
đầu ra.

2.2.3.2 Công tác chống tham nhũng trong việc sử dụng nguồn vốn ODA:

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 14


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
- Chính phủ chỉ đạo Bộ tài chính đưa ra các văn bản cần thiết để tinh giản hóa các
quy trình, thủ tục kiểm soát chi, thanh toán khối lượng hoàn thành, thủ tục giải ngân vốn
ODA, rà soát các định mức chi tiêu của các Ban Quản lý dự án

- Đồng thời nhằm phát huy vai trò của báo chí trong phòng chống tham nhũng, Thủ
tướng chính phủ đã ký ban hành quy chế về phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí,
trong đó yêu cầu các cơ quan, đơn vị phải tạo điều kiện để các cơ quan ngôn luận tiếp cận
đầy đủ chính xác nguồn thông tin chính thống về hoạt động của các cơ quan nhà nước.

- Bên cạnh việc phát huy nội lực, Việt Nam cũng đã tăng cường mở rộng hợp tác với
các nước như Inđônêxia, Lào trong công tác phòng chống tham nhũng, ký thỏa thuận đa
phương về phòng chống tham nhũng gồm 8 nước ASEAN, qua đó khẳng định quyết tâm của
Việt Nam đối với công tác này.

Để khẳng định quyết tâm phòng chống tham nhũng. Lần đầu tiên, Thủ tướng Việt
Nam xuất hiện và đối thoại trực tiếp với các nhà tài trợ với một cam kết rõ ràng, Việt Nam
sẽ đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, đảm bảo các nguồn vốn đầu tư
nói chung trong đó vốn ODA được quản lý và sử dụng hiệu quả. Thông điệp này được thể
hiện bằng hành động thực tế khi Việt Nam gửi đến Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ bản báo
cáo chi tiết về vụ việc PMU 18 và những kết quả xử lý của vụ án gây nhiều quan ngại cho
các nhà tài trợ trong thời gian qua và gần đây nhất là vụ PCI.

Qua vụ việc PCI đã được hai nước (Việt Nam và Nhật Bàn) áp dụng các biện pháp
như thiết lập đường dây nóng, công khai thông tin đấu thầu, mời bên thứ ba cùng đánh giá
thầu và tăng cường giám sát kiểm tra đối với quá trình đấu thầu. Bên thứ ba phải là đơn vị
có chuyên môn cao trong các cơ chế, chế độ đấu thầu thực hiện các hợp đồng đấu thầu quốc
tế.

Việc kiểm soát dòng vốn ODA được minh chứng cụ thể đối dự án được ký kết giữa
Tổng công ty đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (Bộ giao thông vận tải) với nhà thầu
Nippon Koei (Nhật Bản) và Công ty cổ phần tư vấn giao thông vận tải phía Nam về dịch vụ
tư vấn, giám sát xây dựng đường cao tốc TP.HCM-Long Thành-Dầu Giây với tổng giá trị
trung thầu khoản 18 triệu USD.

Các bước tiến hành gói thầu này sẽ tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp cần thiết theo
quy định của Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam – Nhật Bản về phòng chống tham nhũng liên quan
đến ODA Nhật Bản đưa ra nhằm phòng chống tham nhũng trong các dự án sử dụng vốn
ODA từ Nhật, trong đó Việt Nam sẽ tăng cường tính minh bạch trong quá trình chọn thầu và
phía Nhật cam kết đẩy mạnh hoạt động giám sát. Cụ thể:

+ Việt Nam sẽ nâng cao năng lực cho cơ quan thực hiện dự án về công tác đấu
thầu và quản lý hợp đồng trong dự án ODA, cùng với đẩy nhanh việc áp dụng hệ thống đấu
thầu điện tử từ năm 2009 đến 2015.

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 15


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
+ Việt Nam sẽ công bố thông tin liên quan đến mua sắm công, thông tin cần
được công bố gồm tên, quốc tịch và giá chào thầu của các đơn vị, doanh nghiệp trúng thầu,
các nhà thầu giành được hợp đồng và giá trị hợp đồng.

Quá trình kiểm soát vốn đã đạt được những mục tiêu nhất định nhưng bên cạnh đó là
cái giá phải trả cho việc kiểm soát vốn không phải ít.

2.3 Mục tiêu đạt được và cái giá phải trả cho việc kiểm soát vốn:

2.3.1 Mục tiêu đạt được:

Từ những quan điểm, chính sách của Chính phủ Việt Nam về việc thu hút nguồn vốn
đầu tư đã đạt được một số kết quả sau:
- Tổng vốn đầu tư của toàn xã hội tăng dần qua các năm, trong đó có sự đóng góp
đáng kể từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

Giá trị vốn đầu tư tại Việt Nam qua các năm

Chia ra
Khu vực có vốn
Tổng số Kinh tế Kinh tế ngoài
Nhà nước nhà nước đầu tư nước
ngoài

Giá thực tế Tỷ đồng


2006 404712 185102 154006 65604
2007 461900 200000 187800 74100
2008 637300 184400 263000 189900

Nguồn: Tổng cục thống kê

- Tạo không khí sôi động cho thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam vốn còn non
trẻ. Đó là giúp các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện thu hút được nhiều nguồn vốn đầu
tư để mở rộng sản xuất kinh doanh, đồng thời kích thích sự “hưng phấn” từ các nhà đầu tư
trong nước;

- Bên cạnh việc hấp thụ vốn là việc tiếp thu kinh nghiệm, kỹ thuật từ các chuyên gia
nước ngòai để từng bước hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật nhà nước về các chính
sách đầu tư, đồng thời tạo điều kiện để thị trường tài chính Việt Nam phát triển theo hướng
đa dạng và chuyên sâu hơn và bảo vệ sự ổn định về tài chính và tiền tệ.

- Đối với nguồn vốn ODA, với chính sách phân cấp thời gian qua đã mở rộng được
đối tượng tham gia quản lý, giảm các rào cản trong việc ra quyết định hoạt động kinh tế - xã
hội quan trọng ở địa phương. Địa phương cũng dễ dàng tiếp cận các dịch vụ do bộ, ngành
cung cấp hơn, đồng thời điều phối hiệu quả hơn các chương trình quốc gia, tình, huyện, tạo
cơ hội tốt hơn cho người dân tham gia quyết định, từ đó góp phần cải thiện được phúc lợi
kinh tế, xã hội.

2.3.2. Chi phí phải trả cho việc kiểm soát vốn:
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 16


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
- Cái giá chung nhất cho việc kiểm soát vốn chính là sẽ làm chậm lại các cơ hội thu
hút vốn đầu tư khi mà các quốc gia ngày càng cạnh tranh quyết liệt để thu hút dòng vốn toàn
cầu đồng thời ảnh hưởng đến tâm lý và chiến lược của các nhà đầu tư nước ngoài

- Kiểm soát vốn làm chi phí giao dịch vốn tăng cao (tính trên tổng qui mô dự án).
Theo nhiều khảo sát, chi phí giao dịch tại Trung Quốc là 1,2%, Việt Nam là 2%, Hong Kong
chỉ 0,013%.

- Việc thu hút ồ ạt nguồn vốn đầu tư gián tiếp, trong khi khả năng hấp thụ nguồn vốn
này còn hạn chế, từ đó gây khó khăn trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Cụ thể trong thời
gian qua NHNN phải đưa đồng nội tệ ra để thu hút ngọai tệ vào để bình ổn tỷ giá, kết quả là
gia tăng tỷ lệ lạm phát và làm giảm tỷ lệ dự trữ ngọai hối của quốc gia.

- Với chính sách kêu gọi, ưu đãi đầu tư đã dẫn đến tình trạng khai thác triệt để nguồn
tài nguyên quốc gia, gây mất cân bằng trong ngành nghề, lĩnh vực … (nhiều sân Golf được
hình thành, trong khi tỷ lệ đất sản xuất nông nghiệp ngày bị thu hẹp) từ đó gây ra những hệ
quả như: thất nghiệp, và đặc biệt là tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng
(điển hình là bột ngọt Vedan).

- Việc không hạn chế nguồn vốn ODA đã làm cho tỷ lệ nợ nước ngòai của Việt Nam
ngày càng tăng và cùng với tình trạng thất thóat lãng phí nguồn vốn này đã làm giảm uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế (đặc biệt là Nhật Bản).

2.4 Các biện pháp kiểm soát quá trình đảo ngược dòng vốn quốc tế:

Như chúng ta đã biết, dòng vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng. Trong khi đầu tư trực tiếp
nước ngoài đóng vai trò trực tiếp thúc đầy sản xuất thì đầu tư gián tiếp lại có tác dụng kích
thích sự phát triển của thị trường tài chính, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp
cận với các nguồn vốn. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực sự hiện diện của các
nhà đầu tư nước ngoài cũng khiến các nhà quản lý lo ngại không ít, đặc biệt là dòng vốn đầu
tư gián tiếp (FII) vì những lý do sau:

- Sự di chuyển quá mức dòng vốn FII vào một quốc gia sẽ đưa nền kinh tế vào tình
trạng phát triển nóng và khủng hoảng xảy ra khi nền kinh tế gặp phải những cú số từ bên
trong cũng như bên ngoài

- Sự di chuyển quá mức của dòng vốn FII vào một quốc gia cũng khiến cho hệ thống
tài chính trong nước dễ bị tổn thương.

- Tính dễ đảo ngược của dòng vốn FII gây tác động xấu đến nền kinh tế

Chính vì những vấn đề trên, việc kiểm soát sự đảo ngược dòng vốn quốc tế (cụ thể là
dòng vốn FII) là vấn đề Chính phủ Việt Nam rất quan tâm, đặc biệt trong giai đoạn khủng
hoảng tài chính. Sau đây là một số biện pháp cần thiết trong giai đoạn hiện nay

2.4.1 Xây dựng hệ thống thống kê và cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về lượng chứng
các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ, tỷ lệ nắm giữ trong tổng số chứng khoán phát
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 17


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
hành, từ đó phân tích, dự báo xu hướng biến động và những ảnh hưởng có thể tạo ra từ động
thái mua, bán chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài;

2.4.2 Thực hiện chế độ báo cáo tình hình hoạt động mua, bán chứng khoán của các nhà đầu
tư nước ngoài. Theo đó tổ chức cá nhân nước ngoài khi mua, bán chứng khoán phải đăng ký
mã số giao dịch với Trung tâm giao dịch chứng khoán. Việc chuyển ngoại tệ vào và ra khỏi
Việt Nam phải tuân thủ quy định về quản lý ngoạI hối của pháp luật Việt Nam

2.4.3 Xây dựng chiến lược thu hút vốn FII nằm trong tổng thể chiến lược thu hút và sử dụng
vốn của quốc gia, cần dự tính được nhu cầu vốn FII của nền kinh tế và tỷ lệ hợp lý của
nguồn vốn này trong tổng thể vốn đầu tư, sao cho vốn FII phát huy tác dụng tích cực nhất
đến sự phát triển kinh tế - xã hội;

2.4.4 Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngân hàng – tài chính – chứng khoán
trong việc quản lý dòng vốn FII. Nâng cao sức cạnh tranh của các định chế tài chính trong
nước, đảm bảo khả năng chống chọi với những rủi ro, bất ổn do vốn FII gây ra;

2.4.5 Đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế của TTCK Việt Nam như: Tổ chức quốc tế các
Ủy ban chứng khoán nhà nước, Hiệp hội quốc tế các Sở giao dịch chứng khoán … Việc
tham gia này giúp Việt Nam có thể hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra trên nguyên tắc
hợp tác hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực quản lý và phát triển các định chế tài chính trung
gian, đồng thời tiếp thu được công nghệ hiện đại, các chuẩn mực quốc tế để áp dụng cho thị
trường trong nước;

2.4.6 Sử dụng các biện pháp kiểm soát, điều tiết mạnh khi dòng vốn FII có những biểu hiện
bất thường.

2.4.7 Quản lý tốt quỹ dự trữ ngoại hối, bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư cho nguồn
quỹ này, vì dự trữ ngoại hối đóng vai trò giảm sốc, giúp nền kinh tế chống đỡ được những
cú sốc trong thương mại quốc tế, hay những biến động về cầu trên thị trường quốc tế;

2.4.8 Từng bước giảm phụ thuộc vào nợ nước ngoài và vốn ngắn hạn, tự do hóa các giao
dịch tài sản tài chính giữa cá nhân và tổ chức trong nước với nước ngoài;

Từ những phân tích về chính sách kiểm soát các nguồn vốn FDI, FII, ODA cho ta
thấy một điều là chính sách kiểm soát vốn của Việt Nam trong thời gian qua khá chặt chẽ, vì
vậy khả năng đảo ngược dòng vốn quốc tế rất khó xảy ra đối với Việt Nam.

Vì vậy, trong tình hiện hiện nay để có thể thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhằm
kích thích nền kinh tế phát triển Chính phủ nên thực hiện nới lỏng việc kiểm soát vốn trên
cơ sở khả năng và điều kiện thực tế ở Việt Nam.

2.5 BỘ BA BẤT KHẢ THI


Lý thuyết bộ ba bất khả thi (The Impossible Trinity (hay Inconsistent Trinity hay
Triangle of Impossibility) phát biểu rằng: một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng
một lúc 3 mục tiêu chính sách vĩ mô:
• Ổn định tỷ giá
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 18


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
• Tự do hóa dòng vốn
• Chính sách tiền tệ độc lập
“Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn tối đa 2 trong 3. Nó
có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải hi sinh tự do hóa dòng vốn tức là tiếp
tục kiếm soát vốn (giống như Trung Quốc ngày nay), nó có thể chọn một chính sách tự do
hóa dòng vốn nhưng vẫn tự chủ về tiền tệ, song phải để tỷ giá thả nổi (giống như Anh hoặc
Canada), hoặc nó có thể chọn kiểm soát vốn và ổn định chính sách tiền tệ , nhưng phải thả
nổi lãi suất để chống lạm phát hoặc suy thoái (giống như Achentina hoặc hầu hết Châu
Âu)"-- trích lời đề tặng Robert Mundell - Paul Krugman, 1999.
Việt Nam là đang trong tình trạng “bộ ba bất khả thi”. Lý thuyết về bộ ba bất khả thi
cho thấy chúng ta không thể duy trì một chính sách tiền tệ độc lập trong khi cố định tỷ giá
hối đoái của mình và duy trì tự do hóa dòng chảy tài khoản vốn. Một trong những nguyên
nhân đối với thách thức này đó là Việt Nam đang cố gắng neo giá đồng tiền của mình theo
USD. Điều đó có nghĩa là khi một lượng vốn nước ngoài chảy vào thì NHNN phải bơm ra
rất nhiều tiền để mua lại ngoại tệ này để ổn định được tỉ giá hối đoái. Nhưng khi NHNN
“bơm tiền” ra để ổn định tỉ giá hối đoái thì có nghĩa lượng cung tiền quá lớn. Rõ ràng đây là
nguyên nhân lạm phát tiền tệ. Tốc độ tăng cung tiền của Việt Nam rất ấn tượng trong năm
2007. Điều này làm cho công cụ chính sách tiền tệ trở nên kém hiệu quả theo quy tắc “bộ
ba bất khả thi” trong lý thuyết tiền tệ, đặc biệt trong trường hợp dòng vốn nước ngoài không
ổn định .
Cụ thể do sự gia tăng mạnh mẽ của cả dòng vốn đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và
luồng tiền kiều hối, trong năm 2007, tạo nên thặng dư lớn trong cán cân thanh toán quốc tế
tổng thể, NHNH đã mua một lượng ngoại tệ ngoại tệ cho dự trữ ngoại hối để vừa đảm bảo
khả năng can thiệp trong tương lai, vừa để duy trì khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu,
tránh sự lên giá của đồng Việt Nam. Tuy nhiên, việc mua ngoại tệ cho dự trữ buộc NHNN
phải bơm ra một số tiền đồng vào lưu thông gây áp lực cho lạm phát. Để kiểm soát lạm phát,
NHNN đã phải thông qua hoạt động của thị trường mở để hút bớt số tiền đồng đã bơm ra
dưới hình thức bán tín phiếu của NHNN. Tuy nhiên kết quả lại tạo nên sự thiếu thanh khoản
tiền đồng của một số NHTM, đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cao lên mức chưa
từng có, thị trường chứng khoán có nhiều biến động nóng lạnh thất thường và hiện đang ở
mức sụt giảm nghiêm trọng. NHNN phải xác lập trần huy động lãi suất tiền đồng và ngoại tệ
cũng như trần qui mô tín dụng cho các NHTM. Nhu cầu mua, bán ngoại tệ của các NHTM
cũng biến động khôn lường tạo nên khó khăn cho điều hành, can thiệp của NHNN trên thị
trường ngoại hối.
Nguyên nhân của sự biến động đa chiều trên thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối
thời gian qua là sự đối mặt với ảnh hưởng của “bộ ba bất khả thi” của một nước mở của nền
kinh tế khá mạnh mẽ, một nước mở cửa cán cân vốn không thể vừa đạt được mục tiêu ổn
định giá cả vừa đạt được mục tiêu ổn định tỷ giá. Việc tăng lãi suất nhằm hạn chế tiền cung
ứng trong lưu thông để kiểm soát lạm phát sẽ càng làm tăng sức hút dòng vốn nước ngoài đổ
vào, càng làm tăng sức ép lên giá của đồng nội tệ, sẽ khó cho phép nước này ổn định tỷ giá.
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 19


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
Điều này gây ảnh hưởng đến xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu và làm gia tăng mức thâm
hụt cán cân vãng lai. Nếu duy trì ổn định tỷ gía, NHTW phải mua ngoại tệ vào và phải bơm
tiền ra lưu thông thì lại gây nên áp lực lạm phát. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế
hàng đầu thế giới, ảnh hưởng của “bộ ba bất khả thi” này càng nghiêm trọng đối với các
nước mới nổi có thị trường tiền tệ và tài chính còn chưa thực sự phát triển. Một số nước như
Thái lan và Malaixia đã phải lựa chọn việc kiểm soát luồng vốn để có thể kiểm soát lạm
phát và ổn định tỷ giá khi luồng vốn nước ngoài đổ vào trong nước ở mức cao trong thời kỳ
khủng hoảng.
Đối với công cụ lãi suất, các nước không bị tình trạng đô la hoá và có mặt bằng lãi
suất thấp có thể sử dụng để kiếm soát lạm phát bằng cách tăng lãi suất và thả tỷ giá tương
đối tự do. Tuy nhiên, với Việt Nam, với mặt bằng lãi suất cao trong khu vực và trên thế giới
và với bối cảnh khá tự do hoá các giao dịch vốn thì biện pháp tăng lãi suất để thắt chặt tín
dụng sẽ khó phát huy tác dụng. Cụ thể, khi lãi suất lên cao, do chênh lệch lãi suất trong và
ngoài nước với bối cảnh lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hướng giảm, càng làm tăng
luồng vốn đổ vào Việt Nam. Tín dụng bằng USD tăng nhanh và có xu hướng nhà đầu tư
nước ngoài chuyển đổi USD để mua trái phiếu VND của các NHTM. Khi đó, áp lực lạm
phát không giảm mà còn tăng.
Do vậy, có thể cho rằng việc NHNN áp dụng riêng rẽ các biện pháp lãi suất hay tỷ giá
mà không có phối hợp của việc quản lý các luồng vốn của các bộ ngành, đặc biệt là luồng
vốn ngắn hạn thì mục tiêu kiểm soát lạm phát khó có thể đạt được. Kinh nghiệm mở cửa có
chọn lọc các luồng vốn có lợi cho phát triển bền vững và phù hợp với khả năng sử dụng các
công cụ lãi suất, thị trường mở và tỷ giá để kiểm soát lạm phát của Trung quốc là một kinh
nghiệm có giá trị.
Nguồn vốn dầu tư nước ngoài tích lũy lớn là một thuận lợi, nhưng khi bối cảnh lãi suất
trên thị trường thế giới đang xuống thấp thì lại càng tăng khả năng hút vốn từ bên ngoài vào,
kiểm soát lạm phát sẽ rất khó khăn như ông Noritaka Akamatsu, chuyên gia kinh tế tài chính
trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam lưu ý: "Nhiều vốn cũng nảy sinh nhiều
thách thức".

CHƯƠNG 3:

CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT VỐN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Dòng vốn nước ngoài như con dao hai lưỡi đối với nền kinh tế, nhất là đối với các
nền kinh tế đang phát triển, nơi cơ chế quản lí các dòng vốn còn hạn chế. Khi chúng đổ vào
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 20


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
nhiều như hiện nay, nền kinh tế “bội thực”; khi chúng tháo chạy mở đầu cho cuộc khủng
hoảng như ở Đông Á năm 1997-1998, nền kinh tế kiệt quệ. Làm thế nào để tối đa hiệu quả
của việc sử dụng dòng vốn vào để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời vẫn giảm thiểu
được rủi ro- đây là một thách thức lớn mà các nước có nền kinh tế mới nổi như Việt Nam
phải đương đầu. Vì vậy, để có thể đưa ra những biện pháp kiểm soát vốn trong giai đoạn
hiện nay, chúng ta cần tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới

3.1. Những bài học kinh nghiệm ở một số nước mới nổi

3.1.1. Trung Quốc kiểm soát luân chuyển vốn

Biện pháp này được công bố chỉ hai tuần sau khi Tổng cục ngoại hối quốc gia
(SAFE) đẩy mạnh nỗ lực kiểm soát luồng tiền nóng bằng việc yêu cầu các nhà xuất khẩu
đưa khoản ngoại tệ thu được vào trong những tài khoản đặc biệt để được xác nhận rằng
nguồn ngoại tệ hợp pháp.

Việc kiểm soát chặt chẽ hơn của Uỷ ban cải cách và phát triển quốc gia (NDRC) -cơ
quan hoạch định kinh tế hàng đầu của Trung Quốc đối với thủ tục phê chuẩn FDI là nhằm
xử lý các lỗ hổng trong tài khoản vốn, nhằm giảm luồng vốn FDI chạy theo các hướng ngoài
hợp đồng đầu tư. Thông qua các biện pháp sau:

- Đầu tư nước ngoài, bao gồm tất cả các hình thức sở hữu doanh nghiệp, M&A qua
biên giới và tái đầu tư, đều cần phải có sự phê duyệt của NDRC hay cơ sở ở địa phương của
NDRC.

- Xem xét chặt chẽ hơn tính thực chất của các dự án đầu tư nước ngoài và việc ngăn
chặn dòng chảy của nguồn vốn không dựa trên đầu tư thực sự. Khi cần thiết, NDRC hay cơ
sở ở địa phương sẽ thuê các cơ sở tham vấn để đánh giá về dự án đầu tư nhằm đảm bảo rằng
việc đầu tư này là không có nghi vấn.

- Bất cứ dự án nào có tổng đầu tư vượt 100 triệu USD và nằm trong danh mục ưu tiên
hoặc được phép đầu tư cần thiết phải có sự phê chuẩn của NDRC. Những dự án đầu tư vượt
50 triệu USD và nằm trong danh mục hạn chế đầu tư cũng cần phải có sự thông qua của
NDRC. Các Ủy ban Cải cách và Phát triển cấp tỉnh có quyền thông qua những dự án đầu tư
nằm trong danh mục khuyến khích và được phép đầu tư với tổng đầu tư nằm dưới 100 triệu
USD và đầu tư dưới 50 triệu USD đối với các hạng mục hạn chế đầu tư.
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 21


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
- Tiêu chuẩn hoá việc quản lý những dự án đầu tư mới. Đơn xin đầu tư phải bao gồm
những văn bản phê chuẩn liên quan. Ví dụ, đầu tư vào những dự án tiêu hao năng lượng cao,
ô nhiễm cao và tiêu thụ nhiều tài nguyên mà không có quyền sử dụng đất, đánh giá về môi
trường và vấn đề tiết kiệm năng lượng sẽ không được thông qua.

- Các dự án đang diễn ra có thể bị huỷ nếu dòng vốn luân chuyển có dấu hiệu được
sử dụng cho dự án khác. Đồng thời, việc thoái thuế đối với các thiết bị nhập khẩu và các
chính sách ưu đãi khác sẽ bị huỷ. NDRC sẽ không ủng hộ những dự án này trong việc lên
sàn hoặc phát hành trái phiếu trong tương lai.

Những hành động này là một nỗ lực nhằm khống chế việc luân chuyển những nguồn
vốn bị nghi vấn. Dòng chảy vốn nước ngoài đạt mức kỷ lục 6 triệu USD/phút trong 5 tháng
đầu năm 2008, và được hấp dẫn bởi hơn 2% lãi suất khác biệt giữa lãi suất ở Trung Quốc và
Mỹ. Việc tăng nguồn tiền nóng ngắn hạn không chỉ thổi bùng lạm phát, mà còn tạo ra khó
khăn cho Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc trong việc ngăn chặn dòng chảy này. Vì vậy,
việc kiểm soát chặt chẽ hơn đối với luồng FDI, cộng với nỗ lực gần đây của SAFE trong
việc kiểm soát luồng tiền nóng, sẽ có thể giúp khống chế sự tăng trưởng tiền tệ, và tiếp theo
là vấn đề lạm phát trong thời gian sắp tới, và giảm rủi ro của sự bất ổn định về tài chính
trong thời gian trung hạn.

- Việc áp đặt một khoản dự trữ bắt buộc đối với luồng vốn (bị chốt trong một thời
gian mà không có lãi suất) nhằm nâng chi phí của luồng vốn nghi vấn do trị giá đồng NDT
tăng. Mặc dù kinh nghiệm gần đây của các nước khác cho thấy ảnh hưởng của biện pháp
như vậy dường như không thể duy trì được, nhưng biện pháp này cũng hạn chế dòng chảy
của nguồn tiền nóng ít nhất trong một thời gian ngắn. Rủi ro tiềm tàng của việc thực hiện
các biện pháp này là việc làm chậm lại tiến trình mở cửa của thị trường tài chính Trung
Quốc và việc mở rộng khung thời gian cần thiết nhằm làm đồng NDT trở thành đồng tiền
chuyển đổi hoàn toàn. Tuy nhiên, những biện pháp này có thể không tồi vì có thể tạo thêm
thời gian cho Trung Quốc trong việc củng cố khung cơ chế nội địa cho thị trường tài chính

3.1.2 Thái Lan duy trì quy định kiểm soát tiền tệ

Thái Lan sẽ tiếp tục duy trì các biện pháp kiểm soát tiền tệ nhằm ngăn chặn việc
đồng baht tăng giá mạnh so với đồng USD. Theo quy định kiểm soát vốn, các tổ chức tài
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 22


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
chính phải giữ 30% tổng giá trị đầu tư chảy vào trong thời gian lên tới 1 năm. Tuy nhiên,
biện pháp này lại làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài…

Nhìn ra các nước, đơn cử như Chilê và Colombia hồi những năm 1990, Nga và
Croatia năm 2004 đã áp dụng biện pháp có tên URR (dự trữ bắt buộc). Nhà ĐTNN khi đầu
tư vào những nước này phải trích một tỷ lệ dự trữ nào đó từ vốn đầu tư. Liều lượng của mỗi
nước khác nhau và thường biện pháp này chỉ được áp dụng trong một số thời điểm nhất
định, ngay sau đó được dỡ bỏ. URR được nhấn mạnh ở những khía cạnh, liệu pháp này
được áp dụng ở những nước muốn nắm bắt được dòng vốn nước ngoài, chứ không phải
kiểm soát, đây cũng không phải can thiệp hành chính và áp dụng như vậy cũng được coi
như một giải pháp đánh thuế nhưng không gây sốc với NĐT.

Tác động tiêu cực của URR có thể xảy ra như giảm vốn đầu tư gián tiếp trong ngắn
hạn, không hiệu quả nếu áp dụng lâu dài, tác động đến lãi suất trong nước và ảnh hưởng tới
nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vốn dựa chủ yếu vào vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, ngay
cả ở Chilê, nước áp dụng khá thành công, thì tác dụng của nó cũng gây nhiều tranh cãi.

Trung Quốc, Ấn Độ lại có ứng xử khác, đó là nhắm đến các nhóm NĐT khác nhau,
tạo ra thị trường riêng cho NĐT nội và NĐT ngoại. Phương thức này cho phép họ dễ dàng
nắm bắt được những ai đang đầu tư, hơn là dòng vốn luân chuyển ra sao.

Sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, nhà kinh tế Joseph Stiglitz bắt đầu
nhận định chính sách thị trường tự do của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) là sai lầm và cần thiết
phải kiểm soát thị trường vốn.

Tại Thái Lan thị trường chứng khoán hiện đang tăng trưởng nhanh chóng, kéo theo
làn sóng các nhà đầu tư nước ngoài, đã đẩy giá tiền tệ và mức lạm phát lên, Trước tình hình
đó, Thái Lan cũng ban hành một quy định yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài phải có 30%
vốn bảo đảm trong một năm không tính thuế, rút vốn sớm sẽ bị đánh thuế.

Chính phủ một số nước thậm chí đã cân nhắc những biện pháp “kiểm soát vốn” đối
với các nhà đầu tư nước ngoài, nhằm hạn chế tốc độ tiền chảy vào hoặc đi ra khỏi thị trường
tài chính..

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 23


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
Năm 1997, IMF liên tục cảnh báo Malaysia đề phòng hậu quả của kiểm soát vốn,
thậm chí phải đối mặt với việc vốn bị rút ra nhanh chóng. Nhưng hiện nay IMF lại miễn
cưỡng hợp tác với Việt Nam trong việc tìm kiếm những hình thức kiểm soát vốn phù hợp.

3.2 Một số biện pháp kiểm soát vốn trong giai đoạn hiện nay:

Qua những bài học về các biện pháp kiểm soát vốn của Trung Quốc, Thái Lan
Malaysia, Ấn Độ, …đã đưa ra một số biện pháp đó là:

Biện pháp kiểm soát vốn phổ biến nhất là tăng thuế đánh vào các khoản đầu tư ngắn
hạn, khiến dân chúng giảm bớt tiền đầu tư vào hay rút ra một cách vội vã. Từ tháng 5/2007
cho đến nay, khi dòng vốn vào tăng đột biến, gây sức ép lạm phát cao, NHNN đã thực hiện
hàng loạt biện pháp thắt chặt tiền tệ như tăng dự trữ bắt buộc, bán tín phiếu bắt buộc, tăng
lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, kiểm soát tăng trưởng tín dụng...

Mặc dù, thắt chặt tiền tệ có thể làm giảm lượng tiền cung ứng và giảm lạm phát,
nhưng đây là một lựa chọn chính sách hạn chế - bởi vì, lãi suất tăng cao có thể càng khuyến
khích dòng vốn vào, càng tạo áp lực tăng vốn khả dụng và lên giá nội tệ; tỉ lệ dự trữ bắt
buộc tăng cao có thể có những ảnh hưởng bất lợi đến khu vực ngân hàng.

Thực tế cho thấy, các nước không áp dụng biện pháp kiểm soát luồng vốn như Thái
Lan phải chịu suy thoái lâu hơn và nặng hơn so với các nước có thực hiện điều này, như
Malaysia. Vì vậy đối với Việt Nam cần thực hiện những biện pháp sau đây:

Một là, tăng tính linh hoạt của tỉ giá. Linh hoạt tỉ giá cho phép NHNN tự chủ hơn
trong việc quản lí những biến động của các đại lượng tiền tệ do ảnh hưởng của luân chuyển
vốn. Tác động của dòng vốn vào phụ thuộc vào cơ chế tỉ giá linh hoạt hay cố định. Áp lực
giảm tỉ giá thực (nội tệ lên giá thực) vẫn có thể xẩy ra ở hai trường hợp, nhưng quá trình
điều chỉnh sẽ diễn ra nhanh hơn và tốn chi phí ít hơn trong cơ chế tỉ giá linh hoạt. Với cơ
chế tỉ giá cố định, khi dòng vốn vào sẽ thúc đẩy hoạt động kinh tế trong nước, lạm phát sẽ
tăng cao. Dưới cơ chế tỉ giá linh hoạt, khi dòng vốn vào nhiều, nội tệ sẽ lên giá danh nghĩa.
Vì vậy có tác dụng giảm dòng vốn vào do thu nhập trên tài sản được định giá bằng ngoại tệ
giảm xuống. Tăng mức độ linh hoạt của tỉ giá cho phép NHNN có thể đối phó tốt hơn với
dòng vốn vào lớn và giảm những ảnh hưởng bất lợi. Trước cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á, hầu hết các đồng tiền của Đông Á được neo với đồng USD. Từ đó đến nay, các nền kinh
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 24


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
tế mới nổi ở Đông Á đều chuyển sang cơ chế tỉ giá linh hoạt với các mức độ khác nhau –
như cơ chế linh hoạt có giới hạn ở Trung Quốc và Malaysia.

Để tăng tính linh hoạt của tỉ giá, có thể mở rộng dần biên độ từ +/- 1% lên +/- 2%; +/-
3%...Tỉ giá biến động theo hai chiều, có lên, có xuống, do đó, giảm sự tăng cầu quá mức, giảm
bong bóng đầu cơ. Rủi ro hối đoái kết hợp với cơ chế tỉ giá linh hoạt có thể làm giảm luồng vốn
vào ngắn hạn. Hơn nữa, tỉ giá biến động ở mức lớn hơn sẽ khuyến khích các doanh nghiệp chủ
động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối (nhờ các công cụ phái sinh như quyền
chọn, hợp đồng kì hạn, swap...) thay vì đối phó thụ động như hiện nay.

Hai là, thắt chặt chính sách tiền tệ để cân bằng giữa các mục tiêu bên trong (tăng
trưởng, việc làm, lạm phát) và bên ngoài (thăng bằng cán cân thanh toán).

Ba là, thực hiện chính sách tài chính thận trọng trong trường hợp dòng vốn vào gia
tăng. Chính phủ có thể sử dụng chính sách tài chính thắt chặt để giảm áp lực tăng lạm phát
và làm giảm áp lực lên giá VND và giảm áp lực lên lãi suất, đồng thời giảm khuyến khích
dòng vốn vào. Việc điều hành chính sách tài chính thận trọng hiệu quả đặc biệt quan trọng
khi dòng vốn vào tăng lên (theo hướng thắt chặt) hoặc giảm xuống khi dòng vốn đảo chiều
(nới lỏng). Phản ứng của chính sách tài chính có thể rất hữu ích trong việc giải quyết những
vấn đề của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản do tác động của dòng vốn vào,
đặc biệt là chính sách thuế. Vì vậy, đánh thuế luỹ tiến trong kinh doanh bất động sản, đánh
thuế kinh doanh cổ phiếu là một chủ trương nên làm.

Bốn là, tự do hoá dòng vốn ra theo hướng khuyến khích đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp ra nước ngoài. Tuy vậy, vẫn cần thận trọng trong việc dỡ bỏ những hạn chế đối với
dòng vốn ra, bởi có thể làm trầm trọng thêm ảnh hưởng tiêu cực của việc dòng vốn đảo
chiều. Quyết định số 09/2008/QĐ-NHNN ngày 10 tháng 4 năm 2008 của Thống đốc NHNN
về cho vay bằng ngoại tệ của TCTD đối với khách hàng vay là người cư trú, trong đó, lần
đầu tiên có đề cập đến việc đáp ứng nhu cầu vay để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ góp
phần khuyến khích đầu tư ra nước ngoài.

Năm là, tăng cường quản lí và giám sát thị trường tài chính nhằm nâng cao hiệu quả
và tăng cường tính ổn định của khu vực tài chính – ngân hàng, nhờ vậy, có thể giảm hiện
tượng bong bóng đầu cơ.
[

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 25


Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2
Sáu là, có cơ chế kiểm soát dòng vốn nước ngoài, đặc biệt là dòng vốn gián tiếp.
Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ năm 2007 đã tăng đột biến. Từ 865
triệu USD (1,6% GDP) năm 2005 tăng lên 1313 triệu USD (2,1% GDP) năm 2006 và 6,5 tỉ
USD (9,2% GDP). So với quy mô của nền kinh tế thì FII của Việt Nam trong năm 2007 là
khá cao. Vì vậy, cần có biện pháp kiểm soát dòng vốn gián tiếp.

GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 26

You might also like