You are on page 1of 53

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG


-----------------  ------------------

TIỂU LUẬN
GIÁO DỤC THỂ CHẤT VÀ SỨC KHỎE


Họ và tên: Trần Thị Hồng Nhung
MSV: A14001
Lớp: QA21a9
Năm học: 2009 - 2010

Hà Nội: 03/2010
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

LỜI NÓI ĐẦU


Con người trong quá trình tiến hoá, để sinh tồn trong sự đấu tranh với tự
nhiên đã hình thành và phát triển những kỹ năng như chạy, nhảy, bơi leo trèo... Trải
qua quá trình sống, con người đã nhận biết rằng sự thành thục các kỹ năng trên sẽ
giúp ích nhiều trong việc tìm kiếm thức ăn, để có thể hình thành những kỹ năng đó
chỉ có thông qua tập luyện thường xuyên, từ đó các bài tập thể chất ra đời. Có thể
nói thể dục thể thao (TDTT) hình thành cùng với sự tiến hoá của loài người thông
qua con đường lao động và đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên.

Thế kỷ XIX, ở chân Âu đã xuất hiện một thuật ngữ “Thể dục” (Physical
education - Giáo dục thể chất), hàm nghĩa của nó là một loại hình giáo dục nhằm
duy trì và phát triển cơ thể. Cùng với sự tiến bộ không ngừng của tiến bộ loài người
và thực tiễn TDTT ngày càng phong phú thì khái niệm TDTT với hàm nghĩa bên
trong và bên ngoài của nó cũng không ngừng thay đổi.

Ngày nay hàm nghĩa thể dục với nghĩa rộng lớn là một quá trình giáo dục đồng
thời cũng là một hoạt động văn hoá xã hội, lấy sự phát triển cơ thể, tăng cường thể
chất, nâng cao sức khoẻ làm đặc trưng cơ bản. Nó là hiện tượng xã hội đặc thù bao
hàm giáo dục thể chất, TDTT thành tích cao và rèn luyện thân thể. TDTT là những
hoạt động phục vụ cho một nền chính trị, xã hội, kinh tế nhất định, đồng thời cũng
chịu sự ảnh hưởng và hạn chế của nền kinh tế, chính trị, xã hội đó.

Giáo dục thể chất: Là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học
vận động (động tác) và phát triển có chủ đích các tố chất vận động của con người.
Ông bà ta thường nói: “Sức khỏe là vàng”, “có sức khỏe là có tất cả”. Thật vậy,
sức khỏe luôn luôn là món quà vô giá đối với chúng ta. Từ những suy nghĩ này mà
trong những ngày lễ lớn, trọng đại của đời người, câu mở đầu cho những lời chúc
tốt đẹp bao giờ cũng là lời chúc sức khoẻ. Và mong ước có một sức khoẻ tốt là ước
mơ chung của toàn nhân loại chúng ta.
Hiểu được điều đó, Trường Đại học Thăng Long đã đưa bộ môn Giáo dục thể
chất - sức khoẻ kết hợp song song cùng các môn học khác trong chương trình đào
tạo của nhà trường nhằm trang bị cho sinh viên toàn trường những kiến thức từ cơ
bản đến toàn diện về sức khoẻ. Thông qua môn học này, mỗi sinh viên tự nâng cao
sức khoẻ tâm thể, tạo cho mình một phong cách sống lành mạnh, một bản lĩnh tự
tin và tự xây dựng được cho mình một nếp sống văn hoá, có thể rèn luyện mọi kỹ
năng và ứng dụng lâu dài những kiến thức đã được học vào trong cuộc sống.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
3
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất - sức khỏe được viết trên cơ sở
tiếp thu kiến thức giảng dạy trên lớp, qua tra cứu tài liệu và qua thực tiễn cuộc
sống. Cấu trúc của bài tiểu luận gồm các phần:
Phần 1: Sức khỏe và tầm quan trọng của sức khỏe
Phần 2: Giáo dục thể chất
Phần 3: Phương pháp dưỡng sinh cổ truyền Việt Nam
Phần 4: Cân bằng cơ thể - Cân bằng âm dương
Phần 5: Phương pháp hít thở theo kinh nghiệm cố truyền (Khí công dưỡng sinh)
Phần 6: Kinh lạc huyệt đạo thực hành xoa bóp bấm huyệt phục hồi sức khỏe
Phần 7: Phương pháp thư giản thần kinh tập trung tư tưởng (Thiền dưỡng sinh)
Giáo dục thể chất không đơn thuần chỉ là thể dục cơ bắp thuần tuý và không
chỉ đánh giá lượng hoá bằng thành tích của các môn: chạy cự ly ngắn, dài, nhảy xa,
nhảy cao, đẩy tạ, xà đơn, xà kép... mà nó phải là giáo dục sức khoẻ toàn diện. Bởi
vì, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã góp phần chuyển đổi tính chất, cơ cấu của
lao động từ cơ bắp giản đơn sang lao động trí óc, điều khiển thiết bị máy móc tinh
vi, phát minh sáng chế, xử lý thông tin.... cho nên gíáo dục thể chất phải giúp sinh
viên hiểu rõ sức khoẻ thực sự không phải là sức nhanh, sức mạnh của cơ bắp mà
còn là khoẻ mạnh về tâm lý thần kinh, khả năng tự điều chỉnh thích nghi, cân bằng
hài hoà với môi trường sống, có nếp sống lành mạnh kết hợp với hoàn cảnh thực tế,
có khả năng ứng xử hợp lý với mọi tác động biến đổi của môi trường thiên nhiên và xã
hội, nâng cao ngưỡng rung động, cảm xúc cũng như khả năng chịu đựng, nâng cao
chất lượng sống và khả năng tự chủ, phục vụ tốt cho học tập, nghiên cứu và lao động,
đặc biệt là đối với lực lượng trí thức trẻ - những tài năng tương lai của đất nước.

Hà Nội, tháng 03 năm 2010


Sinh viên
Trần Thị Hồng Nhung

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
4
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU


Phần I
SỨC KHỎE VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỨC KHỎE Trang
I – Định nghĩa.…………………………………………….……………………………… 8
II – Tầm quan trọng của sức khỏe………………………………………….…… 9
Phần II
GIÁO DỤC THỂ CHẤT
I – Khái niệm
1. Giáo dục thể chất………………………………………….…………………... 12
2. TDTT trong trường học………………………………………….………….. 12
II – Chức năng, ý nghĩa của TDTT
1. Chức năng nâng cao sức khoẻ thế chất………………………………... 15
2. Chức năng giáo dục và rèn luyện sức khoẻ tinh thần……….......... 15
3. Chức năng quân sự………………………………………………………… 16
4. Chức năng kinh tế………………………………………………………….. 16
5. Ý nghĩa chính trị - ngoại giao…………………………………………... 16
III – Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với các hệ thống cơ quan
trong cơ thể
1. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ vận động……….. 17
2. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ hô hấp…………... 17
3. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ tuần hoàn………. 17
4. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ tiêu hoá………… 17
5. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ thần kinh………. 17
IV – Các nguyên tắc trong tập luyện TDTT
1. Hiểu rõ về bản thân thực sự cầu thị…………………………………… 18
2. Xây dựng niềm tin, ý chí tiến thủ……………………………………… 18
3. Tập luyện toàn diện, chú trọng hiệu quả thực tế…………………... 18
4. Kiên trì thường xuyên tập luyện……………………………………….. 18
5. Kế hoạch tập luyện hợp lý tuần tự, nâng dần………………………. 18
6. Tuân theo quy luật tự bảo vệ sức khoẻ………………………………. 19
V – Các chú ý trong tập luyện TDTT
1. Làm tốt công tác chuẩn bị về thân thể và tâm lý………………….. 19
2. Chú ý trang phục tập luyện……………………………………………… 19
3. Chuẩn bị dụng cụ tập luyện……………………………………………... 19
4. Làm quen với dụng cụ sân bãi…………………………………………. 19
5. Tình hình thời tiết khí hậu……………………………………………….. 20
6. Khởi động…………………………………………………………………….. 20
7. Các vấn đề trong vận động………………………………………………. 20
8. Thả lỏng……………………………………………………………………….. 21
9. Tắm sau vận động………………………………………………………….. 21
Phần III

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
5
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH CỔ TRUYỀN VIỆT NAM


I – Khái niệm………………………………………………………………………….. 21
II – Tác dụng của việc tập luyện......................................................................... 23
III – Phạm vi và đối tượng của phương pháp dưỡng sinh cổ truyền
1. Phạm vi ứng dụng………………………………………………………….. 23
2. Đối tượng chính đã thử nghiệm có kết quả…………………………. 23
Phần IV
CÂN BẰNG CƠ THỂ - CÂN BẰNG ÂM DƯƠNG
I – Khái niệm về cân bằng cớ thể……………………………………………… 24
II – Khái niệm về cân bằng âm dương………………………………………. 24
Phần V
PHƯƠNG PHÁP HÍT THỞ THEO
KINH NGHIỆM CỔ TRUYỀN (KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH)
I – Khái niệm
1 Khí công dưỡng sinh………………………………………………………. 25
2 Cân bằng cơ thể……………………………………………………………... 25
3 Cân bằng âm dương……………………………………………………….. 25
II - Phân tích tác dụng phương pháp hít thở theo kinh nghiệm cổ
truyền - khí công dưỡng sinh (thở bụng)
1. Quy trình tập luyện………………………………………………………… 26
2. Tư thế ngồi: Tĩnh tọa……………………………………………………… 26
3 Tư thế đứng: Hiệp khí âm dương……………………………………… 27
4 Tư thế nằm: ngọa công…………………………………………………… 27
5 Đạo dẫn khí công theo vòng châu thiên……………………………... 27
Phần VI
KINH LẠC HUYỆT ĐẠO THỰC HÀNH
XOA BÓP BẤM HUYỆT PHỤC HỒI SỨC KHỎE
I - Khái niệm………………………………………………………………………….. 28
II – Tác dụng của xoa bóp bấm huyệt……………………………………….. 28
III – Một số bệnh học đường sinh viên thường mắc phải
1. Bệnh đau đầu………………………………………………………………… 29
2. Người bị cận thị…………………………………………………………….. 29
3. Bệnh đau lưng……………………………………………………………….. 30
Phần VII
PHƯƠNG PHÁP THƯ GIẢN THẦN KINH,
TẬP TRUNG TƯ TƯỞNG (THIỀN DƯỠNG SINH)
I – Khái niệm về Thiền dưỡng sinh…………………………………………... 31
1. Thiền định.......................................................................................................... 33
2. Thiền minh sát………………………………………………………………. 33
II – Sự phát triển các phát triển
1. Thiền nguyên thủy…………………………………………………………. 37

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
6
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

2. Thiền đại thừa……………………………………………………………….. 38


3. Như lai Thiền………………………………………………………………... 39
4. Tổ sư Thiền…………………………………………………………………... 39
III – Tác dụng của Thiền…………………………………………………………. 41
IV – Một số tư thế ngồi Thiền và ngồi Thiền đúng phương pháp,
46
đúng cách……………………………………………………………………………….
V – Giới thiệu cách luyện tập tập trung tư tưởng với BaBa Nam
50
KeVaLam……………………………………………………………………………….
Kết luận

Phần I
SỨC KHỎE VÀ TẦM QUAN
TRỌNG CỦA SỨC KHỎE VỚI CUỘC SỐNG
I - ĐỊNH NGHĨA SỨC KHỎE
Theo định nghĩa về sức khoẻ của Tổ Chức Y tế Thế Giới (WHO- World
Health Organization):
“Sức khoẻ là một trạng thái hoàn toàn thoải mái cả về thể chất, tâm thần
và xã hội, chứ không phải là chỉ là không có bệnh tật hay tàn phế”
Hoàn toàn thoải mái về mặt thể chất là: Hoạt động thể lực, hình dáng, ăn,
ngủ, tình dục,… tất cả các hoạt động sống trên đều ở trạng thái tốt nhất phù hợp
với từng lứa tuổi.
Hoàn toàn thoải mái về mặt tâm thần là: Bình an trong tâm hồn. Biết
cách chấp nhận và đương đầu với các căng thẳng trong cuộc sống.
Hoàn toàn thoải mái về mặt xã hội là: Nghề nghiệp với thu nhập đủ sống.
An sinh xã hội được đảm bảo.
Không có bệnh tật hay tàn phế là: Không có bệnh về thể chất, bệnh tâm
thần, bệnh liên quan đến xã hội và sự an toàn về mặt xã hội.
Có một sức khỏe tốt nhất là một trong những quyền cơ bản con người dù thuộc
bất kỳ chủng tộc, tôn giáo, chính kiến chính trị hay điều kiện kinh tế - xã hội nào.

Theo định nghĩa trên, mỗi người chúng ta cần chủ động để có một sức khoẻ
tốt. Cần chủ động trang bị cho mình kiến thức về phòng bệnh và rèn luyện sức

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
7
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

khoẻ. Thực hành dinh dưỡng hợp lý, luyện tập TDTT phù hợp, an toàn lao động
và khám bệnh định kỳ để chủ động trong việc phòng và chữa bệnh.
Để có sức khoẻ tốt với sự nỗ lực của mỗi cá nhân là chưa đủ mà cần có sự
đóng góp của cả cộng đồng, của toàn xã hội trong các vấn đề an sinh, việc làm
và giáo dục hay cụ thể hơn như các vấn đề về môi trường và vệ sinh an toàn
thực phẩm…
Vai trò của sức khoẻ là rất quan trọng đối với đời sống của con người. Nó
đem lại cho chúng ta một lối sống lành mạnh, một cuộc sống vui tươi lạc quan
và những thành công như mong đợi trong cuộc sống. Người ta vẫn thường nói:
"Có sức khoẻ là có tất cả", ai cũng nhận thức được ý nghĩa của câu nói này
nhưng không phải ai cũng có những thói quen và phương pháp rèn luyện để
mang lại cho mình một sức khoẻ sung mãn. Trong thời buổi kinh tế thị trường
hiện nay, khi sức ép của công việc cùng bao điều lo toan trong cuộc sống đã tạo
ra cho mọi người một căn bệnh mà người ta thường gọi là bệnh "stres" thì biện
pháp tốt nhất để cân bằng chính mình là tập luyện TDTT hàng ngày.
Trong thời đại hiện nay, chúng ta đang hăng say học tập và lao động với
mong muốn rằng cuộc sống của mình và người thân sẽ trở nên tốt đẹp hơn
nhưng nhiều khi ta lại bất cần lãng quên đi sức khoẻ của chính bản thân mình,
đến khi nhận thấy tác hại của điều đó thì có khi chúng ta đã phải chịu một cái
giá quá đắt. Trong cuộc sống có rất nhiều điều có giá trị nhưng chúng đều sẽ trở
nên vô ích khi ta không có sức khoẻ.
Ngược lại, người có sức khoẻ dồi dào có thể sẽ được tận hưởng rất nhiều
niềm vui trong cuộc sống. Trước tiên, họ sẽ luôn cảm thấy mình có đủ khả năng
để hoàn thành nhiều công việc, họ sẽ cảm nhận được niềm hạnh phúc khi mình
là người có ích cho xã hội. Và với tâm lý thoải mái, niềm lạc quan yêu đời thì
bệnh tật cũng sẽ khó khuất phục họ.
II - TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỨC KHOẺ VỚI CUỘC SỐNG
Trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục ngày 27/3/1946 Bác Hồ có nói: "Mỗi
một người dân khoẻ mạnh là đất nước mạnh lên một phần, mỗi một người dân
yếu ớt là đất nước yếu đi một phần...". Thực tế, từ bản thân mỗi chúng ta khi ốm
đau bệnh tật, lực bất tòng tâm, không thể thực hiện được những dự định, không
thể làm được những công việc có hiệu quả như mong muốn, cuộc sống bị trì trệ
bi quan, chán nản, sa sút tinh thần....

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
8
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Trong gia đình chúng ta, nếu có người


ốm đau bệnh tật, cả nhà lo lắng, tốn
kém tiền của cho việc chạy chữa,
thuốc men, phải tiêu hao thời gian đi
lại, chăm sóc người bệnh... Có nhiều
gia đình đã bị kiệt quệ vì có người nhà
đau ốm lâu dài. Trong cơ quan, nếu có
người ốm công việc sẽ bị bỏ dở, đình
trệ, không giải quyết kịp thời... Trong
quân đội, nếu có người ốm thì sức
chiến đấu sẽ bị giảm sút , sự phối hợp
thiếu đồng bộ, chắp vá....
Như vậy, sức khoẻ của mỗi người sẽ
ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống gia đình
nói riêng và các hoạt động kinh tế - chính
trị của xã hội nói chung.
Có một câu hỏi lớn được đặt ra là mỗi
người chúng ta đã dành được bao nhiêu thời
gian cho việc tìm hiểu kiến thức về sức
khoẻ và cần phải làm gì cho sức khởe của
chính mình một cách chủ động? Hầu hết
mọi người khi phát hiện ra mình có bệnh
lúc đó mới tìm cách chữa trị thậm chí có
chữa đôi
khi cũng không triệt để. Chỉ một số rất ít người là biết chăm lo cho sức khoẻ của
cá nhân mình, phòng chống bệnh tật, chăm chỉ luyện tập TDTT hàng ngày một
cách khoa học, có bài bản và duy trì việc tập luyện đó trong thời gian dài. Chính
vì hiểu rõ được tầm quan trọng của sức khoẻ mà Bác Hồ đã ra lời kêu gọi toàn
dân tập thể dục và chính Bác cũng nêu tấm gương của bản thân mình "Tự tôi
ngày nào cũng tập thể dục..." để khuyến khích mọi người cùng tập theo.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
9
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, trong


những năm qua phong trào luyện tập
TDTT, nâng cao sức khoẻ của nhân dân ta
đã ngày càng lan rộng. Hãy để ý vào
những buổi sáng trong lành, tại những
công viên hay tại những vườn hoa thậm
chí là trên vỉa hè của các đường phố,
chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp những hình
ảnh rất đẹp được tạo ra từ những con
người hăng say luyện tập thể thao, không
phân biệt đó là các em nhỏ hay các cụ già,
là phụ nữ hay đàn ông vì thể thao không bao giờ phân biệt tuổi tác và giới tính.
Đây cũng chính là những con người đã thực sự hiểu rõ được sức khoẻ có tầm
quan trọng như thế nào.
Ngày nay, cùng với sự phát triển
không ngừng của đất nước, phong trào
luyện tập thể thao nâng cao sức khoẻ ngày
càng được chú trọng cả về bề rộng lẫn
chiều sâu. Không những Đảng và Nhà
nước ta quan tâm tới vấn đề này mà ngay
cả tại các cơ quan xí nghiệp, trường học
cho đến những người dân, tất cả đều ý
thức được việc luyện tập thể thao để có
được một sức khoẻ tốt nhằm góp phần tích
cực vào việc bảo vệ, xây dựng và phát
triển Đất nước.
Sau những giờ làm việc mệt nhọc, căng thẳng, việc luyện tập TDTT thư
giãn và giải trí là một nhu cầu thiết thực. các trò chơi vận động, các hình thức
biểu diễn TDTT luôn được coi là món ăn tinh thần giúp cho cuộc sống lành
mạnh và tươi vui.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
10
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Nói tóm lại, mỗi cá nhân đều nên đảm


bảo cho mình một trạng thái thật tốt về tinh
thần, trí tuệ, rèn luyện nâng cao thể trạng,
tầm vóc và cả sự tao nhã trong phong cách
ứng xử. Làm tốt được những điều này
chính là đem tới cho chúng ta một sức khoẻ
toàn diện.
Đối với các bạn thanh niên nói riêng thì
mong các bạn hãy nhớ rằng chúng ta chính
là tương lai của Đất nươc, và vì thế các bạn
cũng đừng quên câu nói: "Sức khoẻ là vốn
quý nhất của đời người".

Phần II
GIÁO DỤC THỂ CHẤT
(Thể dục thể thao trong trường Đại học)
I. KHÁI NIỆM
1. Giáo dục thể chất (GDTC) là một trong mục tiêu giáo dục toàn diện của
Đảng và Nhà nước ta, và nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân.

GDTC được hiểu là: “Quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ
trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc, và kéo
dài tuổi thọ của con người”.

GDTC cũng như các loại hình giáo dục khác, là quá trình sư phạm với đầy
đủ đặc điểm của nó, có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động của
nhà sư phạm phù hợp với học sinh với nguyên tắc sư phạm.

GDTC chia thành hai mặt tương đối độc lập: Dạy học động tác (giáo dưỡng
thể chất) và giáo dục tố chất thể lực. Trong hệ thống giáo dục nội dung đặc

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
11
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

trưng của GDTC được gắn liền với giáo dục, trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo
dục lao động.

GDTC là một lĩnh vực TDTT xã hội với nhiệm vụ là: “Phát triển toàn diện
các tố chất thể lực, và trên cơ sở đó phát triển các năng lực thể chất, bảo đảm
hoàn thiện thể hình, củng cố sức khoẻ, hình thành theo hệ thống và tiến hành
hoàn thiện đến mức cần thiết các kỹ năng và kỹ xảo quan trọng cho cuộc sống”.
Đồng thời chương trình GDTC trong trường học nhằm giải quyết các nhiệm vụ
giáo dục đó là: “Trang bị kiến thức, kỹ năng và rèn luyện thể lực cho học sinh
sinh viên”.

2. Thể dục thể thao trong trường Đại học


GDTC ở nước ta thường được gọi là TDTT trường học, nó là một bộ phận
quan trọng cấu thành nên TDTT và cũng là một bộ phận quan trọng để cấu thành
nên giáo dục ở trường học, đồng thời nó cũng là nền tảng của TDTT toàn dân.
TDTT trường học trở thành một giao điểm của sự kết hợp giữa giáo dục và
TDTT, là một trong những trọng điểm của sự phát triển TDTT.
Nội dung chương trình GDTC trong trường Đại học được tiến hành trong cả
quá trình học tập của sinh viên trong nhà trường: Trang bị những kiến thức hiểu
biết về sức khoẻ toàn diện; nắm được một số kỹ năng luyện tập, lựa chọn bài tập
phù hợp; Rèn luyện tinh thần tự chủ, sáng tạo, ứng xử tốt bằng các hình thức:
* Giờ học TDTT chính khoá:

Là hình thức cơ bản nhất của GDTC được tiến hành trong kế hoạch học tập
của nhà trường. Vì việc đào tạo cơ bản về thể chất, thể thao cho học sinh sinh
viên là nhiệm vụ cần thiết, nên trước hết phải có nội dung thích hợp để phát
triển các tố chất thể lực và phối hợp vận động cho học sinh sinh viên. Đồng thời,
giúp các em có trình độ nhất định để tiếp thu được các kỹ thuật động tác TDTT.

Với mục tiêu chính của việc đào tạo cơ bản về thể chất và thể thao trong
trường học là: “Xúc tiến quá trình đào tạo năng lực đạt thành tích trong thể
chất và thể thao của học sinh sinh viên, phát triển các tố chất thể lực, phát triển
năng lực tâm lý, tạo ý thức tập luyện TDTT thường xuyên, giáo dục được đức
tính cơ bản và lòng nhân đạo cho sinh viên”.

Bản thân giờ học TDTT có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt đối với việc quản lý
và giáo dục con người trong xã hội. Việc học tập các bài tập thể dục, các kỹ thuật

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
12
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

động tác là điều kiện cần thiết để con người phát triển cơ thể một cách hài hoà,
bảo vệ và củng cố sức khoẻ, hình thành năng lực chung và chuyên môn.

* Giờ học ngoại khoá - tự tập:

Là nhu cầu và ham thích trong khi nhàn rỗi của một bộ phận sinh viên với
mục đích và nhiệm vụ là góp phần phát triển năng lực, thể chất một cách toàn
diện, đồng thời góp phần nâng cao thành tích thể thao của sinh viên. Giờ học
ngoại khoá nhằm củng cố và hoàn thiện các bài học chính khoá và được tiến
hành vào giờ tự học của sinh viên, hay dưới sự hướng dẫn của giáo viên TDTT,
hướng dẫn viên.

Ngoài ra còn các hoạt động thể thao quần chúng ngoài giờ học bao gồm:
Luyện tập trong các câu lạc bộ, các giải thi đấu trong và ngoài trường được tổ
chức hàng năm, các bài tập thể dục vệ sinh chống mệt mỏi hàng ngày, cũng như
giờ tự luyện tập của học sinh sinh viên, phong trào tự tập luyện rèn luyện thân
thể. Hoạt động ngoại khoá với chức năng là động viên lôi kéo nhiều người tham
gia tập luyện các môn thể thao yêu thích, góp phần nâng cao sức khoẻ phục vụ
học tập và sinh hoạt.

Tác dụng của GDTC và các hình thức sử dụng TDTT có chủ đích áp dụng
trong các trường học là toàn diện, là phương tiện để hợp lý hoá chế độ hoạt
động, nghỉ ngơi tích cực, giữ gìn và nâng cao năng lực hoạt động, học tập của
học sinh sinh viên trong suốt thời kỳ học tập trong nhà trường, cũng như đảm
bảo chuẩn bị thể lực chung và chuẩn bị thể lực chuyên môn phù hợp với những
điều kiện của nghề nghiệp trong tương lai.

TDTT là một hoạt động văn hoá - xã hội, lấy sự phát triển cơ thể, tăng
cưởng thể chất, nâng cao sức khoẻ làm đặc trưng cơ bản. Nó phục vụ cho một
nền chính trị - kinh tế xã hội nhất định và đồng thời cũng chịu sự ảnh hưởng của
nền chính trị - kinh tế xã hội đó.
Người ta chia ra làm hai phạm trù: Thể dục và thể thao

a. Thể dục:

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
13
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Là những hình thức tập luyện để giữ


gìn và nâng cao sức khoẻ cho bản thân
người tập, không mang tính chất thi
đấu, xếp đẳng cấp, tranh huy chương.
Thể dục mang tính chất phong trào,
quần chúng, cho mọi đối tượng xã hội,
phát triển trên tinh thần tự chủ và ý thức
tự giác.
Nhìn chung, luyện tập thể dục có thể chia thành ba nhóm theo tác động nói
chung lên cơ thể con người:
- Tập luyện về cơ bắp: chẳng hạn như uốn dẻo nhằm chăm sóc chức năng
vận động của cơ và các khớp. Các bài tập Aerobic như đi bộ và chạy tập trung
vào việc tăng sức chịu đựng của hệ tuần hoàn. Bài tập Anaerobic chẳng hạn
nâng tạ hoặc chạy nước rút tăng sức mạnh của cơ trong thời gian ngắn.
- Tập luyện với khí huyết tinh thần: chẳng hạn như việc hô hấp, hít thở,
nhằm chăm sóc chức năng vận động khí huyết, thư giãn và tập trung tinh thần.
Các bài tập thái cực quyền, khí công, Yoga làm tăng sự lưu thông khí huyết và
hướng tinh thần vào các động tác tập luyện. Từ đây làm tăng khả năng tập trung,
rèn luyện trí nhớ.
- Tập luyện thế dục rất quan trọng trong việc giữ hìn sức khoẻ thế chất gồm
có trọng lượng, thế hình và xương, cơ, khớp, tăng cường hoạt động của hệ miễn
dịch. Tập luyện tinh thần làm vững chắc hệ thần kinh, làm hoạt hoá các hoạt
động về khí huyết.

b. Thể thao:
Là các nội dung tập luyện nâng cao kỹ thuật, chiến thuật, chuyên môn để thi
đấu, xếp hạng thắng thua, tranh huy chương vàng, bạc, đồng. Có thể coi thể thao
là các hoạt động khai thác thành tích, chuyên sâu của thể dục.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
14
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Thể thao thành tích cao dành cho những


người có tố chất thế lực tốt, có năng khiếu
và sự say mê, cống hiến toàn tâm toàn ý cho
sự nghiệp thể thao, phải tuân thủ kỷ luật và
các qui định nghiêm ngặt và chuyên môn.
Thể dục là nền tảng, là cở sở của thể thao.
Thể thao thành tích cao khuyến khích
động viên cho thể dục.
Chính vì hiểu rõ khái niệm này, để phát triển phong trào quần chúng luyện tập nâng
cao sức khoẻ với ý thức tự giác và rộng khắp, Bác Hồ đã ra lời kêu gọi toàn dân tập
thế dục chứ không ra lời kêu gọi toàn dân tập thể thao là ý nghĩa này.
II- CHỨC NĂNG VÀ Ý NGHĨA CỦA THỂ DỤC THỂ THAO
1. Chức năng nâng cao sức khoẻ thế chất:
Khoa học và thực tế chứng minh rằng tập luyện TDTT là phương pháp hiệu
quả, tích cực nhất trong việc nâng cao sức khoẻ, tăng cường thể chất. Thông qua
các hoạt động, vận động khoa học hợp lý, thông qua cơ chế y học, sinh học để
cải thiện và nâng cao hiệu quả của quá trình trao đổi chất, trao đổi khí, tổng hợp
năng lượng phân giải và điều phối các chất dinh dưỡng, năng lượng trong cơ
thể, nâng cao sức khoẻ và phát triển thể chất.
2. Chức năng giáo dục và rèn luyện sức khoẻ tinh thần:
Tuy chế độ xã hội, quan niệm chính trị,
các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng và nhận
thức của các quốc gia trên thế giới không
giống nhau, nhưng tất cả đều coi trọng tác
dụng của TDTT nhất là trong giáo dục.
Khêu gợi kích thích lòng yêu tổ quốc,
tinh thần tự hào đoàn kết dân tộc.
Giáo dục tinh thần tự chủ, bản lĩnh,
lòng tự tin, tính trung trực và cao thượng.

GDTC ở trường học, TDTT giúp cho học sinh sinh viên nâng cao thể chất, rèn
luyện tinh thần, ổn định tâm lý, nâng cao phẩm chất đạo đức và ứng xử xã hội.
3. Chức năng quân sự:

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
15
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Trong cuộc đấu tranh sinh tồn và bảo vệ quyền lợi của các bộ lạc, bộ tộc,
quốc gia…TDTT đã góp phần tích cực trong việc huấn luyện thể lực, kỹ năng
chiến đấu cho binh sỹ. Các môn tập bắt
buộc trong quân đội và ngành an ninh:
Chạy, nhẩy, bơi lội, võ thuật chiến đấu, tự
vệ ... luôn là nội dung huấn luyện quan
trọng trong chương trình đào tạo và có ý
nghĩa đặc biệt trong việc nâng cao sức chiến
đấu, ý chí kiên cường, tinh thần quyết chiến
quyết thắng của quân đội.
4. Chức năng kinh tế:
TDTT và kinh tế có mối quan hệ tương hỗ. Khi đánh giá giá trị sản xuất thì
tố chất của người lao động là tiêu chuẩn quan trọng nhất, trong đó sức khoẻ về
thể lực và tinh thần của người lao động là tiêu chí đầu tiên để lựa chọn, tuyển
dụng người lao động.
Mặt khắc luyện tập TDTT thường xuyên góp phần nâng cao sức khoẻ, phòng
và chống được bệnh tật, góp phần giảm chi phí chữa bệnh tốn kém cho đông đảo
người lao động và quần chúng. Ngoài ra sự phát triển của TDTT đặc biệt là
những môn thi đấu đỉnh cao nếu được tổ chức ở một địa điểm nào đó sẽ kéo
thêm hàng loạt các loại dịch vụ: du lịch, thương mại, thông tin, xây dựng … có
ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế ở vùng đó, đất nước đó.
5. Ý nghĩa chính trị - ngoại giao:
Cùng với văn hoá nghệ thuật TDTT đã đóng góp vai trò hết sức quan trọng
trong việc đặt nền móng cho các mối quan hệ chính trị, ngoại giao giữa các dân
tộc, quốc gia. Các hoạt động TDTT, thi đấu giao lưu góp phần làm chó các mối
quan hệ dễ gần gũi, tôn trọng, hiểu biết lần nhau, tạo tiền đề cho các hợp tác
kinh tế, chính trị, ngoại giao … Mặt khác trong các giải thi đấu quốc tế khi vận
động viên hoặc đoàn vận động viên nước nào đoạt giải vô địch thì lá cờ quốc gia
đó được kéo lên cao nhất, quốc ca nước đó được vang lên đem lại vinh quang và
niềm tự hào cho dân tộc, cho đất nước đó.
III- SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TẬP LUYỆN THẾ DỤC THỂ THAO ĐỐI
VỚI CÁC HỆ THỐNG CƠ QUAN TRONG CƠ THỂ
1. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ vận động:

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
16
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Thường xuyên tập luyện TDTT có thể tăng cường các chất của xương, sức
mạnh cơ bắp, tinh thần ổn định và biên độ hoạt động của các khớp từ đó mà năng
lực hoạt động của cơ thể đã được nâng lên, xương và khớp được cấu tạo thành.
Thường xuyên tập luyện TDTT xẽ đẩy mạnh sự phát triển chiều cao của các
em thiếu niên nhi đồng.
2. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ hô hấp:
Khi tập luyện TDTT cơ thể đòi hỏi nhiều hơn về oxy, chính vì vậy mà tần số
hô hấp tăng lên từ đó nâng cao được chức năng của các cơ quan trong hệ thống
hô hấp làm cải thiên cơ năng hệ hô hấp.Cơ hô hấp được phát triển dần có lực, có
sức bền, có thể chịu đựng lượng vận động lớn.
Dung tích sống tăng lên, tăng cường hấp thụ oxy và thải khí cacbonic.
3. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ tuần hoàn:
Tập luyện TDTT có thể nâng cao chức năng của tim, tăng nhanh tốc độ tuần
hoàn máu, nâng cao chức năng của hệ thống huyết quản.
" Tiết kiệm hoá" trong làm việc của tim. Tiến hành vận động nhẹ nhàng ở
một lượng vận động, tần số mạch đập và biên độ biến đổi huyết áp ở người
thường xuyên tập luyện TDTT nhỏ hơn người bình thường và không dễ bị mệt
mỏi, hồi phục nhanh, tăng tính dẫn truyền của huyết quản.
4. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ tiêu hoá:
Năng lực tiêu hoá của dạ dầy và ruột tốt sẽ có nhiều ảnh hưởng tốt đối với
sức khoẻ con người. Thường xuyên tập luyện TDTT sẽ nâng cao được công
năng tiêu hoá của dạ dầy và ruột, tăng cường sự khoẻ mạnh cho gan, đồng thời
có tác dụng trị liệu và phòng ngừa một số bệnh về hệ thống tiêu hoá.
5. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ thần kinh:
Hệ thống thần kinh khống chế các loại hành vi của con người, thường xuyên
tập luyện TDTT sẽ làm nâng cao năng lực làm việc của các tế bào thần kinh ở
đại não, nâng cao tính linh hoạt và sự hưng phấn của hệ thần kinh, phản ứng
nhanh, tăng thêm tốc độ linh hoạt và sự chuẩn xác nhịp nhàng của động tác.
Ngoài ra thường xuyên tập luyện TDTT còn có thể phòng ngừa được bệnh
suy nhược thần kinh.
IV- CÁC NGUYÊN TẮC TRONG TẬP LUYỆN TDTT
1. Hiểu rõ về bản thân thực sự cầu thị:

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
17
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Nguyên tắc này xuất phát từ thực tế là chỉ việc tập luyện TDTT, rèn luyện
thân thể làm việc. Căn cứ vào tình trạng thực tế của bản thân cá nhân và hoàn
cảnh bên ngoài để xác định mục đích tập luyện, lựa chọn môn thể thao thích
hợp, sắp xếp hợp lý thời gian vận động và lượng vận động.
2. Xây dựng niềm tin, ý chí tiến thủ:
Tập luyện TDTT là quá trình tự bản thân tập luyện, tự bản thân hoàn thiện.
Nếu như không tự giác thì người khác cũng bất lực. Tập luyện TDTT có thể
nâng cao sức khoẻ có hiệu quả. Tự giác trong tập luyện TDTT và trong quá trình
tập luyện có được sự vui vẻ sảng khoái.
3. Tập luyện toàn diện, chú trọng hiệu quả thực tế:
Nguyên tắc tập luyện toàn diện là chỉ thông
qua tập luyện TDTT làm cho hình thái cơ thể,
chức năng tố chất cơ thể và tố chất tâm lý đều
được phát triển toàn diện hài hoà.
Nội dung và biện pháp tập luyện nên phong
phú đa dạng, tránh tập luyện nhưng bài tập chỉ
phát triển một loại tố chất nào đó. Trong mỗi lần
tập luyện TDTT có thể dùng một môn nào đó làm
chính số còn lại là những nội dung tập luyện phụ.
4. Kiên trì thường xuyên tập luyện:
Muốn đạt được mục đích tập luyện bắt buộc phải thường xuyên tham gia tập
luyện TDTT. Chỉ có thường xuyên tham gia tập luyện TDTT, sắp xếp hợp lý
những môn vận động mà bản thân yêu thích và hứng thú, lập ra một kế hoạch
rèn luyện cơ thể một cách khoa học mới có thể không ngừng tăng cường thể chất có
hiệu quả. Rèn luyện thân thể mà bỏ giữa chừng thời gian càng dài thì sự mất đi càng
rõ rệt hơn, rèn luyện thân thể trong thời gian ngắn sẽ không có hiệu quả rõ rệt.
5. Kế hoạch tập luyện hợp lý tuần tự, nâng dần:
Nguyên tắc tuần tự tăng dần chủ yếu là chỉ khi sắp xếp nội dung, độ khó,
thời gian và lượng vận động tập luyện cần căn cứ vào quy luật phát triển của cơ
thể và nguyên lý của lượng vận động hợp mức, có kế hoạch, có tiến trình để
từng bước nâng cao yêu cầu làm cho cơ thể không ngừng thích nghi, thể chất
từng bước được nâng cao.
6. Tuân theo quy luật tự bảo vệ sức khoẻ:

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
18
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Muốn đạt được sức khoẻ tập luyện thật tốt bắt buộc phải tuân theo những
quy luật khoa học trong tập luyện, đồng thời tăng cường sự giám sát của bản
thân, bảo vệ sức khoẻ của bản thân. Tăng cường tự bảo vệ sức khoẻ có thể làm
giảm bớt những chấn thương không cần thiết.
V- CÁC CHÚ Ý TRONG TẬP LUYỆN THỂ DỤC THỂ THAO.
1. Làm tốt công tác chuẩn bị về thân thể và tâm lý:
Hiểu rõ về tình trạng cơ thể bản thân, điều chỉnh tốt về trạng thái tâm lý, điều
quan trọng nhất là công tác chuẩn bị để hoạt động cực nhọc.
2. Chú ý trang phục tập luyện:
Yêu cầu cơ bản về y phục trong hoạt động TDTT là "gọn nhẹ", trong khi vận
động phải cố gắng hết mức có thể không mặc quá nhiều để quần áo quá nặng
ảnh hưởng đến năng lực vận động.
Ngoài ra trọng điểm phải là " tiện ".
Khi lựa chọn trang phục nên lựa chọn
những trang phục rộng rãi, nhẹ nhàng hoặc
những trang phục có tính đàn hồi.
Khi xem và lựa chọn trang phục tập
luyện cần chú ý nguyên tắc " từ dầy đến
mỏng ". Nên căn cứ vào tình trạng phát
nhiệt của cơ thể trong quá trình vận động
để cân nhắc việc cởi bỏ áo ngoài sau khi
vận động, phải mặc quần áo ngoài kịp thời
bởi lẽ vận động đã toát mồ hôi ra rất nhiều
rất dễ dẫn đến cảm lạnh.
3. Chuẩn bị dụng cụ tập luyện
Trước khi tiến hành tập luyện TDTT cần phải làm tốt công tác chuẩn bị dụng
cụ tập luyện mà môn thể thao đó yêu cầu.
4. Làm quen với dụng cụ sân bãi
Trước khi tập luyện TDTT cần phải tiến hành xem xét, hiểu rõ về dụng cụ
sân bãi tập luyện, đồng thời cần phải kiểm tra những dụng cụ cần phải sử dụng
và sân bãi xem có vấn đề gì không, có phù hợp không, kiểm tra điều kiện bốn
xung quanh xem có gì ảnh hưởng đến tập luyện hay không.
5. Tình hình thời tiết khí hậu

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
19
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Tình hình thời tiết khí hậu là một nhân tố không thể không chú ý trong tập
luyên TDTT, điều kiện thời tiết, khí hậu tốt sẽ đảm bảo tốt cho tập luyện TDTT
được tiến hành bình thường.
Cần phải đặc biệt chú ý việc tiến hành tập luyện TDTT trong đặc thù thời tiết
lạnh. Hiểu rõ đặc điểm, chức năng cơ thể trong hoàn cảnh đặc thù, làm tốt công
tác chuẩn bị phù hợp.
6. Khởi động
Trước khi tiến hành những vận động tối đa bắt buộc phải làm tốt những bài
tập khởi động. Khởi động tốt có thể nâng cao sự hưng phấn của hệ thống trung
khu thần kinh và khắc phục tính ỳ của chức năng các cơ quan nội tạng, cũng
phòng ngừa được sự phát sinh chấn thương vận động, điều chỉnh tốt trạng thái
vận động.
7. Các vấn đề trong vận động
a. "Cực điểm" và "hô hấp lần hai".
Trong khi chạy ở các cự ly trung bình và dài thưưòng xuất hiện sau khi chạy
một thời gian không lâu hiện tượng tức ngực, khó thở, cảm giác chân nặng,
động tác không còn nhịp nhàng. Hiện tượng này gọi là "cực điểm".
Sau khi xuất hiện "cực điểm" chỉ cần
giảm tốc độ chạy thích hợp, hít thở sâu,
kiêm trì với động tác chạy về trước thì
những cảm giác không tốt do "cực điểm" tạo
ra sẽ mất đi, động tác sẽ nhịp nhàng, nhẹ
nhàng có lực trở lại, năng lực làm việc lại
bắt đầu được nâng lên. Hiện tượng này được
gọi là "hô hấp lần hai".
b. Chú ý tính hợp lý giữa lượng vận
động và cường độ vận động
Căn cứ vào thực trạng cơ thể để xây dựng một kế hoạch vận động tương ứng,
sắp xếp lượng vận động và cường độ vận động khi bắt đầu không nên quá lớn để
tránh việc phát sinh những chấn thương.

8. Thả lỏng

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
20
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Thả lỏng là một phương pháp tiêu giảm mệt mỏi, thực tiễn sự phục hồi thế
lực của cơ thể. Thông thường mà mà nói, sau khi con người tham gia vào các
hoạt động kịch liệt mà dừng hoạt động ngay lập tức thì sẽ khó có thể phát sinh
hiện tượng chóng mặt, bị ngất thậm chí còn dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng
khó lường.
Khi kết thúc các vận động, bắt buộc phải thực hiện các vận độg thả lỏng làm cho
cơ thể chuyển từ trạng thái vận động căng thẳng sang trạng thái vận động yên tĩnh.
Sau khi vận động, đặc biệt là sau những vận động kịch liệt nhất định phải
tiến hành thả lỏng.
9. Tắm sau vận động
Sau vận động không được tắm nước lạnh hoặc bơi lội.
Sau vận động nên tiến hành tắm với nước ấm là một phương pháp tiêu trừ
mệt mỏi đơn giản và dễ thực hiện nhất. Nuớc ấm vào khoảng 40 - 44°C là thích
hợp, thời gian tắm khoảng 10 - 15 phút.

Phần III
PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
I - KHÁI NIỆM
Là môn khoa học nhân thể, có lý luận khoa học dựa trên phương pháp luận Á
Đông và triết học của phương Đông. Là phương pháp thể dục toàn diện bao gồm
thể dục cơ khớp, nội tạng, thần kinh. Kết hợp hài hoà, tinh giảm, chọn lọc những
thành tự của phương pháp dưỡng sinh cổ truyền, các môn phái võ thuật, khí
công, yoga, xoa bóp bấm huyệt… Được đúc kết từ những tinh hoa truyền thống,
kinh nghiệm hàng ngàn năm và có khả năng ứng dụng rộng rãi trong thực tế
cuộc sống.
Ví dụ:
YOGA là một lối luyện tập và kiến thức đã có từ lâu đời, 95% của nó là từ
thực tiễn. YOGA là một hệ thống của nhiều kỹ thuật làm sao cho thân thể và trí
não khỏe mạnh. Nó là một khoa học làm thế nào đem lại sự hài hòa hoàn toàn và
quân bình cho đời sống. Bằng chứng là những ai luyện tập YOGA đều đặn đều
có sức khoẻ tốt.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
21
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

YOGA rất hữu ích, nó tự tại như


ánh sáng mặt trời hay không khí, nó
không thuộc bất cứ một ai, một
quốc gia nào hay một dân tộc nào ,
mà nó là của cả nhân loại. YOGA
đã được phát triển tại vùng Hy Mã
Lạp Sơn hàng ngàn năm về trước từ
những nhà nghiên cứu cổ xưa thông thái. Họ quan sát thân thể và tâm trí con
người một cách sâu xa. Họ cũng nhận rõ các động tác của các loài động vật khác
nhau, họ bắt chước những tư thế đó và thử nghiệm trên chính thân thể của họ.
Đó chính là lý do tại sao nhiều bài tập được lấy tên từ các con thú. Những tư thế
yoga đó được gọi là ASANA và có thể có tới 50.000 tư thế.
ASANA có nghĩa là một tư thế, nó có thể giữ được một cách thoải mái và dễ
chịu. Các bài tập YOGA có liên quan đến hệ thống thần kinh, hơi thở, toàn bộ
cơ quan nội tạng và đặc biệt là hệ thống nội tiết. Asana làm tăng sức mạnh hệ
thống nội tạng và làm cho chúng hoạt động một cách điều hòa. Tác dụng lớn của
Asana là trên các tuyến nội tiết. Các tuyến tiết xuất các hormone (nội tiết) vào
dòng máu và tuỳ theo đó mà chúng ta cảm thấy những loại tình cảm khác nhau.
Ví dụ tuyến giáp trạng (Thyroid gland) tiết xuất Thyroxin. Nếu tiết xuất quá
nhiều hormone con người cảm thấy nóng nảy và tâm trí dễ cáu giận. Nếu tiết
xuất quá ít hormone con người cảm thấy trì độn và suy nhược.
Các tư thế YOGA tạo sức ép từ nhiều
phía khác nhau trên các phần của cơ thể
con người giống như một loại xoa bóp
nhẹ. Điều này làm tăng sức kiểm soát
chức năng đúng của các tuyến. Khi việc
điều tiết hormone trở nên quân bình, nó
cũng cân bằng tình cảm của chúng ta,
giúp chúng ta kiểm soát tốt hơn những
xu hướng tình cảm xấu như giận hờn,
ganh tỵ, thèm muốn, sợ hãi..
Hầu hết các bệnh tật đều do chức năng bất toàn của các tuyến. Các Asana
YOGA là các thế tự nhiên nhất để chữa trị tất cả các loại bệnh tật liên quan đến
vấn đề nội tiết. Nhiều loại bệnh tâm sinh lý cũng có thể chữa dễ dàng nhờ kết
hợp đặc biệt các Asana. Cơ thể và trí não liên hệ với nhau qua các kênh năng
lượng rất tinh vi (trung tâm năng lựợng) và não bộ. Các bài tập YOGA làm cho

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
22
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

những kênh lượng tinh tế và trung tâm tinh thần mạnh lên. Kết quả là ta cảm
thấy tinh thần mạnh hơn sau khi tập Asana đều đặn.
Asana cũng liên quan đến hệ thống hô hấp. Bằng cách thở sâu và thoải mái
trong khi luyện tập Asana giúp ta làm biến mất tất cả những căng thẳng nghiêm
trọng về vật chất lẫn tinh thần và cho ta sức sống khi ta luyện tập đều đặn.
II - TÁC DỤNG CỦA VIỆC TẬP LUYỆN PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG
SINH TỔNG HỢP CỔ TRUYỀN
- Nâng cao thể lực, phục hồi và tăng cường chức năng vận động của hệ thống
cơ khớp, cơ bắp.
- Tăng cường phản xạ thần kinh linh hoạt, khéo léo, chức năng thăng bằng.
- Tăng cường chức năng hoạt động của các cơ quan tạng phủ.
- Giải tỏa các ức chế tâm lý, thư giãn thần kinh, tập trung tư tưởng, cân bằng
âm dương, điều hòa khí từ đó có thể điều chỉnh một số rối loạn chức năng và
chữa được một số loại bệnh.
- Tăng cường khả năng giao tiếp, làm chủ thần kinh trong ứng xử xã hội và
có khả năng tự vệ khi cần thiết.
- Nâng cao sức chịu đựng của cơ thể và ngưỡng rung động, cảm xúc phát
huy nội lực, lòng tự tin và sáng tạo trong học tập và công tác.
III - PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA PHƯƠNG PHÁP
1. Phạm vi ứng dụng
Có thể ứng dụng cho mọi đối tượng xã
hội, mọi lứa tuổi, mọi lúc, mọi nơi, trong
và ngoài nước.
2. Đối tượng chính đã thử nghiệm
có kết quả
- Sinh viên các trường Đại học và
Trung học chuyên nghiệp.
- Tầng lớp trí thức, lao động trí óc, người nước ngoài.
- Người cao tuổi, hưu trí, người có sức khỏe yếu.
- Người tàn tật, mù, câm điếc.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
23
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Phần IV
CÂN BẰNG CƠ THỂ - CÂN BẰNG ÂM DƯƠNG
I - KHÁI NIỆM VỀ CÂN BẰNG CƠ THỂ
Theo quan niệm của y học cổ truyền, nếu cơ thể mất thăng bằng, khí huyết
trì trệ, không lưu thông, sự vận hành thiếu sự đồng bộ thì chắc chắn có bệnh "
thông thì bất thống, thống thì bất thông".
a. Có ba loại mất cân bằng cơ thể:
- Mất cân bằng hệ thống vận động: xương, cơ, khớp.
- Mất cân bằng hệ thống chức năng lục phủ ngũ tạng.
- Mất cân bằng hệ thống thần kinh.
b. Nguyên nhân:
- Tư thế làm việc, học tập.
- Làm việc quá sức.
- Vận động quá ít không đồng bộ.
- Ăn uống không đồng bộ, thức ăn kém phẩm chất, có độc hại.
- Căng thẳng thần kinh (stress).
II - KHÁI NIỆM VỀ CÂN BẰNG ÂM DƯƠNG
Theo triết học phương Đông, học thuyết âm dương là cốt lõi để nhìn nhận
đánh giá và nhận định trong nhân sinh và vũ trụ hai mặt đối lập âm dương luôn
luôn vận động, biến hóa không ngừng tương thôi, tương tác, tạo ra muôn vạn
trạng thái hình thể diệu tướng của mọi sự vật, sự việc.
a. Nguyên nhân cơ bản:
- Âm dương căn hỗ.
- Âm dương tiêu trưởng.
- Âm dương chuyển hóa.
b. Ứng dụng trong phạm trù vận động:
- Động và tĩnh
- Cương và nhu.
- Chủ động và thụ động.
- Ý thức và vô thức.
- Bản chất và hình tượng.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
24
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Phần V
PHƯƠNG PHÁP HÍT THỞ THEO
KINH NGHIỆM CỔ TRUYỀN (KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH)

I. KHÁI NIỆM
1. Khí công dưỡng sinh:
Là quá trình luyện cho khí sinh ra đầy đủ, vận hành thông suốt khiến cơ thể
được điều hòa âm dương, thích nghi tốt với các biến đổi môi trường, phương
pháp này giúp rèn luyện thể lực và ý chí con người, luyện tập nó có thể giúp
chúng ta phòng chống và chữa trị được một số loại bệnh như đau khớp, đau thần
kinh toại, đau đầu, mất ngủ…
2. Cân bằng cơ thể:
Theo quan niệm của y học cổ truyền, nếu cơ thể mất cân bằng, khí huyết trì
trệ, không lưu thông, sự vận hành thiếu đồng bộ thì chắc chắn có bệnh, “Thông
thì bất thống, thống thì bất thông”.
a. Có 3 loại mất cân bằng cơ thể:
+ Mất cân bằng hệ thống vận động: Xương, cơ, khớp.
+ Mất cân bằng hệ thống chức năng lục phủ, ngũ tạng.
+ Mất cân bằng hệ thống thần kinh.
b. Nguyên nhân:
+ Tư thế làm việc, học tập.
+ Làm việc quá sức.
+ Vận động quá ít không đồng bộ.
+ Ăn uống không điều độ, thức ăn kém phẩm chất, có độc hại.
+ Căng thẳng thần kinh (stress).
3. Cân bằng âm dương:
Theo triết học phương Đông, học thuyết âm dương là cốt lõi để nhìn nhận
đánh giá và nhận định trong nhân sinh và vũ trụ hai mặt đối lập âm dương luôn
luôn vận động, biến hoá không ngừng, tương thôi, tương tác, tạo ra muôn vạn
trạng thái hình thể diện tướng của mọi sự vật, sự việc.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
25
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

a. Nguyên nhân cơ bản:


+ Âm dương căn hỗ.
+ Âm dương tiêu trướng.
+ Âm dương chuyển hoá.
b. Ứng dụng trong phạm trù vận động.
+ Động và tĩnh.
+ Cương và nhu.
+ Chủ động và thụ động.
+ Ý thức và vô thức.
+ Bản chất và hình tướng (hiện tượng).
+ Cục bộ và đồng bộ.
II. PHÂN TÍCH TÁC DỤNG PHƯƠNG PHÁP HÍT THỞ THEO KINH
NGHIỆM CỔ TRUYỀN – KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH (THỞ BỤNG)
Theo quan điểm của cổ truyền phương đông, bụng là 1 nơi tích tụ năng
lượng chính của cơ thể (Đan điền, khí hải) các trường phái võ thuật, khí công,
Yoga... đều nhấn mạnh vấn đề tập trung khí ở bụng.
1. Quy trình luyện tập
Đầu tiên là bước chuẩn bị: chỗ tập phải tương đối yên tĩnh, sạch sẽ, phải
thoáng khí, không được sáng quá ( kẻo gây chói mắt ), không nóng quá cũng
không lạnh quá. Về cá nhân, cần sắp xếp công việc để có đủ thời gian tập luyện,
khi tập không phải lo lắng về việc gì. Mặc quần áo quá rộng, không bó chặt
thân, không tập lúc quá no, quá đói hoặc lúc đang say rượu. Chuẩn bị tinh thần
thoải mái trước khi luyện tập.
2. Tư thế ngồi: Tĩnh tọa
- Thở thuận chiều:
+ Tư thế ngồi.
+ Hít phình thở thót.
+ Sâu dài êm thoải mái.
- Thở ngược chiều:
+ Tư thế ngồi.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
26
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

+ Hít thót thở phình.


+ Sâu dài êm thoải mái.
3. Tư thế đứng: Hiệp khí âm dương
- Tư thế ban đầu.
- Nạp thiên trả địa.
- Nạp địa trả thiên.
- Điều hòa nhân khí.
4. Tư thế nằm: ngọa công
- Thở thuận chiều.
- Thở ngược chiều.
5. Đạo dẫn khí công theo vòng châu thiên
Đây là phương pháp khí công phối hợp giữa ngồi thiền với việc khai thông
Nhâm, Đốc hai kinh mạch lớn nhất, biểu tượng quan trọng nhất của hai thành tố
âm, dương trong cơ thể. Cách thở này giúp cho năng lượng được vận hành theo
quỹ đạo nhất định.
- Bắt đầu từ mạch Nhâm tính từ trên xuống gồm có các huyệt sau: Ngân
giao (phía trong lợi hàm trên đối diện với ngân trung), thừa tương, thiên đột, đản
trung (chính giữa ngực), cửu vĩ (dưới xương ức một đốt), khí hải quan nguyên
(dưới rốn ba phân), hội âm (điểm ở giữa bộ phận sinh dục và hậu môn).
- Mạch Đốc được tính từ dưới lên gồm: trường cường (đốt sống cuối cùng),
mệnh môn (chính giữa thắt lưng), linh đài, đại chùy (dưới đốt sống cổ thứ 7),
phong phủ, bách hội (đỉnh đầu), ấn đường (chính giữa hai đầu mày kéo ra) và
nhân trung.
Khi tập người tập có thể ngồi trên ghế, chân buông thõng chạm mặt đất hoặc
xếp bằng. Miệng và mắt khép hờ, lưng thẳng, vai hơi thu lại, buông lỏng phần
bụng, cằm hơi đưa vào, đầu lưỡi chạm nướu răng trên, hai bàn tay úp trên hai
đùi hoặc đan chéo nhau để trước bụng, hai đầu ngón cái chạm nhau miễn sao
cảm thấy thoải mái, dễ dãn mềm cơ bắp. Vận khí từ từ đến tất cả các huyệt đạo,
vì "thần đâu khí đó" nên ở đâu có ý tất ở đó có khí, nên tập trung tư tưởng ở đâu
hoặc dẫn đi đâu thì chắc chắn khí sẽ ở đó, sẽ theo tới nơi ta muốn.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
27
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Việc tập luyện khí công có thể tạo ra những tác động ảnh hưởng tốt đẹp,
giúp ích cho chức năng sinh lý của các bộ phận trong cơ thể như: bộ phận hô
hấp, tiêu hóa, hệ thống tuần hoàn máu và hệ thần kinh.
Ngoài ra, việc tập luyện khí công còn giúp ích cho học viên ra tăng sức
mạnh tinh thần như: tập trung tư tưởng, tính tự chủ, tự kiểm soát nội tâm, tâm
hồn thanh tịnh và bình tĩnh để có một đời sống tình cảm an hòa khắc phục được
những trở ngại bất thường trong đời sống hàng ngày. Để đạt được thành quả
trong lúc tập luyện khí công tùy theo hoàn cảnh học viên nên tuân hành nghiêm
chỉnh theo một thời gian biểu tập luyện đều đặn hàng ngày với những bài tập
thích nghi từng bước một, tuần tự tiền hành cho hợp lý.

Phần VI
KINH LẠC HUYỆT ĐẠO THỰC HÀNH
XOA BÓP BẤM HUYỆT PHỤC HỒI SỨC KHỎE
I - KHÁI NIỆM VỀ KINH LẠC, HUYỆT ĐẠO
- Theo y học cổ truyền phương Đông, khí huyết trong cơ thể con người được
lưu dẫn trong các đường kinh (chạy dọc cơ thể) và lạc mạch (đường nhánh chạy
ngang) tới nuôi dưỡng từng bộ phận, từng tế bào của cơ thể.
Có 12 đường kinh chính và 2 mạch
Nhâm và Đốc (chạy chính giữa trước và
sau cơ thể). Mỗi đường kinh lạc có liên
quantới hệ thống thần kinh và chức năng
của một bộ phận cơ thể. Các điểm quan
trọng nằm trên các đường kinh lạc này gọi
là huyệt. Trong hệ thống các huyệt lạic ó
các huyệt chính, có ảnh hưởng quan trọng
tới một số chức năng của từng vùng, từng
bộ phận cơ thể, gọi là đại huyệt

(theo y học hiện đại các điểm này tương ứng với các điểm tập trung, điểm nút
giao nhau của hệ thống dây thần kinh chức năng, đám rối thần kinh).
II - TÁC DỤNG CỦA XOA BÓP BẤM HUYỆT
- Làm cho mạch máu dưới da được lưu thông, da dẻ mịn màng, hồng hào
hơn, cơ khớp vận hành dễ dàng hơn.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
28
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

- Kích thích vào các huyệt vị, huyệt đạo, vào hệ thống thần kinh chức năng
làm cho khí huyết lưu thông, cơ thể dễ chịu, điều chỉnh cân bằng âm dương giúp
cơ thể vận hành đồng bộ.
- Có thể phòng, chống và chữa được một số loại bệnh.
III - MỘT SỐ LOẠI BỆNH HỌC ĐƯỜNG SINH VIÊN THƯỜNG
MẮC PHẢI
1. Bệnh đau đầu:
Có thể đau vùng thái dương, vúng chán, đau nhức nửa đầu, đau sau gáy
a. Nguyên nhân:
- Áp huyết cao, thận hư, thiên đầu thống,
viêm mũi, viêm xoang, hạ đường huyết, thiểu
năng tuần hoàn não, cảm cúm.
b. Cách xử lý
- Những bệnh mang tính thực thể, viêm
nhiễm cần phải theo chỉ định của bác sĩ
chuyên khoa.

- Những bệnh lý mang tính chất rối loạn chức năng như: học hành căng
thẳng, đọc sách quá nhiều, bàn học thiếu ánh sáng, thời tiết thay đổi đột ngột,
thiếu máu lên não, vận động quá tải, không thích hợp… có thể điều chỉnh bằng
cách day ấn một số huyệt: bách hội, ấn đường, đầu duy, dương bạch, thái dương,
hợp cốc…
2. Người bị cận thị
a. Nguyên nhân
- Chủ yếu do rối loạn chức năng về mắt, học hành căng thẳng, đọc sách nơi
thiếu ánh sáng, thiếu chăm sóc mắt thường xuyên.
b. Cách xử lý
- Hạn chế các nguyên nhân gây bệnh.
- Phương huyệt: dương bạch, tình minh, toản trúc, ngư yêu, ty trúc không,
đồng tử liêu.
- Bấm bổ trợ: ấn đường, thái dương.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
29
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

3. Bệnh đau lưng


a. Định nghĩa
Là triệu chứng của nhiều loại bệnh khác nhau, mặt khác do chịu tải trọng
thường xuyên của toàn bộ cơ thể, sinh hoạt, vận động hàng ngày, lao động nặng
nhọc đều lấy hưng phấn làm gốc nên có thể nói hơn 90% người bị bệnh đau
lưng ở mức độ nặng nhẹ khác nhau.
b. Nguyên nhân:
Do thoái hóa, gai đôi, vôi hóa cột sống, lệch đĩa đệm, do va đập, dãn dây
chằng, do nội thương, viêm thận, viêm đại tràng…
c. Cách xử lý:
Không ngồi quá lâu ở một tư thế
cố định, không ngồi lệch nghiêng vẹo
cột sống, cổ gáy, không vận động, lao
động quá sức. Có thể tập một số động
tác đặc trị cột sống sau:
- Mèo duỗi lưng.
- Rắn chào mặt trời.
- Rắn xoay đầu.
- Gập mình.
- Cái cày.

Phần VII

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
30
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

PHƯƠNG PHÁP THƯ GIẢN THẦN KINH,


TẬP TRUNG TƯ TƯỞNG (THIỀN DƯỠNG SINH)
I - KHÁI NIỆM VỀ THIỀN DƯỠNG SINH
Là phương pháp làm cho bộ não lành mạnh
(kiện não phát) giảm thiểu những tần số sóng
loạn động trong não, giúp cho thanh tâm tĩnh
trí, tập trung tư tưởng không để cho những tạp
niệm xen vào, giúp cho đầu óc sáng suốt, ý chí
minh mẫn, kiên nhẫn, tinh thần thanh thản, tâm
hồn thoải mái vui tươi.
Thiền thường được hiểu là ngồi yên, trầm
tư mặc tưởng, phân tích hoặc suy nghĩ về một
luận cứ, một bài
thơ hoặc một bài kinh. Đôi khi nó cũng được hiểu là ngồi xuống , nhắm mắt lại
và giữ cho trí óc không suy nghĩ gì cả, nhờ vậy giữ cho tâm trí được thanh thản
bằng cách tránh thoát các vấn đề. Cả hai cách hiểu này đều không đúng với ý
nghĩa đích thực về Thiền Yoga.
Theo thuật ngữ Yoga, Thiền được gọi là “Dhyana” nghiã là “dòng chảy của
tâm trí”. Đây là một trạng thái tinh khiết và tập trung cao độ khi tâm trí xuôi
chảy không gì ngăn trở, hoàn toàn đắm mình trong ý nghĩ về Ý Thức Vũ Trụ.
Mặc dù, một người mới nhập môn, mỗi lúc chỉ có thể giữ cho tâm trí tập trung
vào Thiền trong vài giây mà thôi, nhưng với sự giúp sức của các kỹ thuật Thiền
đã được điều chỉnh cho thích hợp với khả năng mỗi cá nhân, người tập sẽ dần
dần đạt được tư duy và cảm nghĩ cao cả.
Khi Thiền đã trở thành chủ quan, nghĩa là khi tâm trí của người Thiền mở
rộng vô hạn đến nỗi không ý thức cá nhân nào còn tồn tại, đó là lúc đã đạt được
Đồng Nhất Vũ Trụ, gọi là “Samadhi”, trạng thái này được gọi là “Anandam”
hoặc Chân Phúc Vũ Trụ vì ý thức hoàn toàn được giải thoát khỏi những trói
buộc của bản ngã và đồng hoá vào Ý Thức Duy Nhất mênh mang trong vũ trụ,
nếu không, sức mạnh tâm trí sẽ bị tiêu tan vì sự phân trí nội tại và ngoại tại. Để
điều khiển tâm trí trong khi Thiền, chúng ta cần có điểm tập trung. Tâm trí
muốn đi đến điều gì thích thú, vì thế nhờ sử dụng một Mantra hoặc một rung
động âm thanh đặc biệt, tâm trí sẽ được hướng về điều thích thú nhất.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
31
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

– Ý Thức Vô Hạn. “Mantra” theo từ nguyên, có


nghĩa là “cái giải thoát tâm trí”. Trong khi Thiền,
tâm trí ta tập trung lên từ này. Các Mantra (cái giải
thoát tâm trí) là những từ của ngôn ngữ Phạn, có
những tính chất sau:
+ Nhịp nhàng
+ Có khả năng tạo ra sự tập trung.
+ Có khả năng tạo ra ý tưởng.

Khi luyện Thiền đạt kết quả thì định được tâm, khi thanh tâm tĩnh trí thì đầu
óc minh triết, thấu suốt mọi lẽ tình, sự vật được khắc ghi trong trí nhớ, Thiền
định sẽ đem đến trí tuệ, làm chủ tâm lý thần kinh và ứng xử xã hội tốt.
Theo nghiên cứu người ta đưa ra bốn đại nguy cơ thế giới:
- Mất cân bằng sinh thái.
- Bùng nổ dân số.
- Cạn kiệt nguồn năng lượng.
- Thiếu hụt nhân tài
Trong đó nguy cơ thiếu hụt nhân tài là then chốt, thế kỷ 21 là thế kỷ của nền
kinh tế tri thức, đầu tư khai thác nguồn tài nguyên chất xám, trí tuệ để đưa nền kinh
tế tăng trưởng là một hướng đi tất yếu của tất cả các quốc gia.
Người ta xem Thiền là một phương pháp thể dục thần kinh hữu hiệu, chống
lại Stress và các bệnh có nguyên nhân từ tâm lý. Thiền là phương pháp khai thác
nguồn tài nguyên trí tuệ, chất xám, rèn luyện tâm tính con người, khả năng làm
chủ thần kinh và ứng xử xã hội.
- Ở Trung Quốc người ta đã áp dụng phép "Tĩnh tọa dưỡng thần" để nâng
cao trí tuệ cho thanh thiếu niên .
- Ở Nhật Bản, ủy ban giáo dục đã đưa vào chính khóa giờ học "Tĩnh tọa khai
trí" trong các trường Trung học.
- Ở Ấn Độ, bộ giáo dục đã quyết định cho dạy Yoga ở trên 300 trường Tiểu
học và Trung học.
- Ở Mỹ, trong giáo trình "Sáng tạo trong kinh doanh" của trường Đại học
Stanford, người ta đã đưa chương trình dạy Yoga, khí công, Thiền.
Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
32
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

- Ở nhiều nước phương Tây, việc cá nhà bác học.viện sĩ, giáo sư, tiến sĩ…
luyện tập thiền đã trở thành một vấn đề bình thường và Thiền ngày càng lan rộng ảnh
hưởng tích cực của nó trong vấn đề hoàn thiện con người.
Hiện nay, chữ Thiền được sử dụng rất nhiều để diễn tả nhiều cách thực tập.
Trong Phật giáo, chữ Thiền được dùng để chỉ định hai cách thực tập sau đây.
Cách thực tập một gọi là 'Thiền định' (samatha), và cái thứ hai gọi là 'Thiền
Minh Sát' (Vipassana).
1. Thiền định (Samatha)
Là cách tập trung ý tưởng vào một vật và không để bị chi phối bởi gì khác.
Ta chọn một đề mục như hơi thở chẳng hạn, và chú tâm theo dõi hơi thở ra vào.
Trong cách thực hành này sau một thời
gian huân tập, tâm trí của bạn sẽ được an lành,
yên tịnh, vì những ý tưởng lăng xăng lộn xộn
đến từ những cảm thọ đã bị cắt đứt. Vì thế đối
với sự thực tập này, bạn cần phải có một sự cố
gắng lớn nơi tâm trí của bạn, vì hơi thở không
có gì đặc biệt, không lãng mạn, không phiêu
lưu, hay hấp dẫn...hơi thở rất là tầm thường.

Nó chỉ có như thế, vì vậy bạn phải cố gắng nhiều hơn.Trong cách thiền này,
bạn không cần phải sáng tạo bất cứ một hình ảnh nào. Chỉ cần chú tâm theo dõi
hơi thở. Sau một thời gian theo dõi hơi thở, dần dần hơi thở sẽ trở nên nhẹ
nhàng, đều đặn, và bạn sẽ trở nên trầm lặng hơn... Tôi biết có những lời khuyên
nên tập thiền định để giúp không bị áp huyết cao, vì thiền định làm cho nhịp tim
đập tốt hơn. Ðây là một cách thực tập để được yên tịnh. Bạn có thể chọn những
đề mục khác nhau để tập trung sự chú tâm cho đến khi mà bạn cảm thấy mình
và đề mục chú tâm trở nên Một. Sau một thời gian tập luyện đến mức độ này thì
gọi là ''sự hòa nhập''.
2. Thiền minh sát (Vipassana) hoặc Thiền quán
Là cách thực tập theo cái nhìn thấu đáo thì tư tưởng của bạn sẽ được mở
rộng. Bạn không cần phải chọn những đề mục đặc biệt để tập chú tâm, hoặc
phải hòa nhập với chúng. Nhưng bạn chỉ cần nhìn, quan sát để hiểu rõ sự vật
như nó là. Khi nào bạn thấy rõ sự vật như nó là thì bạn sẽ thấy những cảm xúc
thật là vô thường. Mọi thứ bạn thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm; tất cả những
khái niệm trừu tượng... những cảm giác của bạn, ký ức hay ý nghĩ đang trên đà

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
33
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

thay đổi, và tâm tưởng của bạn cũng vì thế mà đổi thay... Chúng xuất hiện một
lúc rồi chúng biến mất. Trong Thiền Vipassana, chúng ta giữ ý niệm của sự vô
thường (hoặc thay đổi) như là một cách để quan sát những cảm thọ. Ðây không
phải là một triết lý hay một sự tin tưởng có tính cách Phật học, mà đây là thấy
được Vô thường - thấy mọi vật một cách thấu đáo, với cặp mắt của hiểu biết, để
biết rõ mọi sự vật như chúng là. Ðây không phải là cách phân tách những sự vật
để đánh giá rằng chúng như thế này hay thế khác - và khi sự vật không như ta
nghĩ, ta lại tìm cách suy đoán nguyên nhân tại sao. Với sự thực tập về ' cái thấy
rốt ráo', chúng ta không phân tích hay thay đổi sự vật theo ý của mình. Trong
cách thực tập này, chúng ta chỉ kiên nhẫn quan sát để thấy những gì xuất hiện sẽ
biến mất, cho dù trên phương diện tinh thần hay vật chất. Khi 'căn' và 'trần'
duyên với nhau thì ý thức liền xuất hiện. Sau đó là cảm giác thương hoặc ghét
đối với những gì chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm. Tất cả những tên
gọi, những ý tưởng, những chữ và khái niệm, chúng ta đặt ra theo kinh nghiệm
của sự cảm thọ.
Phần lớn đời sống của chúng ta được dựa trên sự phán đoán sai lầm vì
chúng ta không hiểu cũng như không chịu tìm tòi sự thật. Vì vậy đối với một
người không 'tỉnh thức', cuộc sống dường như chán chường, lộn xộn, nhất là lúc
mà những thất vọng hay đau buồn xảy đến. Và như vậy, người đó dễ bị khủng
hoảng thần kinh, vì họ đã không quan sát được sự vật như chúng là.
Trong danh từ Phật giáo, chúng ta dùng chữ Pháp (Dhamma or Dharma) có
nghĩa là "sự thể như nó là" - "luật thiên nhiên". Khi chúng ta quan sát và 'thực
tập pháp', chúng ta mở rộng tư tưởng của chính mình để hiểu rõ sự vật như nó
là. Như vậy, chúng ta sẽ không còn phản ứng mù quáng, chạy theo những cảm
thọ; chúng ta đã hiểu được, và với sự hiểu biết này, là một bắt đầu cho sự từ bỏ
chạy theo cảm thọ. Chúng ta không bị những bề ngoài của sự vật làm mờ mắt,
và chúng ta bắt đầu giải thoát cho chính mình khỏi sự ràng buộc.
Ðể được tỉnh thức không phải là để trở thành như thế mà là 'sống như thế'.
Vì thế, chúng ta hãy tập quan sát ngay bây giờ xem như thế nào, hơn là làm cách
nào để trở nên như thế trong tương lai. Ngồi nơi đây, chúng ta quan sát thân thể
như nó là. Thân thể thuộc về thiên nhiên, phải không nào? Cơ thể con người
thuộc về đất, nó cần được nuôi dưỡng bằng những thức từ mặt đất.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
34
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Bạn không thể sống bằng không khí hoặc thử


nhập cãng thực phẩm từ hành tinh hay vệ tinh. Bạn
cần phải ăn những thức ăn được nuôi dưỡng và lớn
lên từ trái đất nầy. Khi mà cơ thể hư hoại, nó trở về
cát bụi, nó hư thối, mục rửa và trở nên một với đất.
Nó chỉ theo chu trình tự nhiên của sinh và diệt, của
thành và hoại. Tất cả những gì sinh ra sẽ lớn lên, già đi
và rồi chết . Tất cả mọi thứ trong thiên nhiên cho đến vũ
trụ, cũng có thời hạn của chúng; sinh rồi chết, bắt đầu
và kết thúc. Tất cả những gì chúng ta nhận thấy và có khái niệm đều trên đà thay
đổi; chúng vô thường, vì thế không có gì có thể làm bạn hài lòng lâu dài.
Với sự thực tập pháp, chúng ta quan sát sự bất như ý của các cảm thọ. Bạn
hãy để ý xem, trong cuộc sống của bạn, khi bạn muốn được như ý từ những cảm
thọ thì sự thỏa mãn này chỉ ngắn hạn, dù hạnh phúc, cũng chỉ trong giây phút và
rồi thì nó cũng thay đổi. Bởi vì trong ý thức cảm thọ, không có tính chất thường
còn. Vì vậy cảm thọ luôn đổi thay và vì si mê, thiếu hiểu biết, nên chúng ta hay
đòi hỏi quá đáng nơi những cảm thọ. Chúng ta hay hy vọng, đòi hỏi, tạo ra đủ
mọi thứ để rồi sau đó cảm thấy thất vọng, chán chường, hối tiếc, với nỗi thống
khổ già, bệnh, chết.
Ðây là cách xem xét ý thức của cảm thọ. Tư tưởng có thể suy nghĩ một cách
trừu tượng, có thể tạo ra đủ thứ ý kiến và hình ảnh, có thể làm cho mọi vật trở
nên xinh đẹp hay thô xấu. Nó có thể biến một trạng thái từ sang đẹp, hạnh phúc
tới đau đớn, thô kệch, khổ sở : từ thiên đàng đến địa ngục. Nhưng không có
thiên đàng hay địa ngục thường trực, bởi vì tất cả đều là vô thường. Trong lúc
chúng ta thực tập thiền, chúng ta bắt đầu biết được những giới hạn, thấy rõ sự
bất như ý, tính chất thay đổi của cảm thọ; chúng ta cũng bắt đầu hiểu rằng
không có gì là "tôi" hay "của tôi", tất cả chỉ là "anatta", vô ngã.
Vì vậy, khi hiểu rõ điều này, chúng ta bắt đầu giải thoát cho chính chúng ta
khỏi những ràng buộc với những trạng thái của cảm thọ. Không phải là chúng ta
chán ghét chúng nhưng để hiểu rõ thực chất của chúng.
Ðây là một sự thật cần được thấu hiểu, không phải là niềm tin. "Anatta"
không phải là niềm tin của Phật giáo nhưng mà là một chứng nghiệm thực sự.
Bây giờ nếu bạn không chịu bỏ thời gian để tìm hiểu điều này, và vì thế suốt
cuộc sống của bạn, bạn tin rằng bạn là thân thể này. Măc dù đôi lúc bạn cũng
chợt nghĩ, "Ô, tôi không phải là thân này" lúc bạn đọc một bài thơ gây hứng

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
35
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

khởi hoặc một đoạn về triết lý mới. Bạn có thể nghĩ thật là hay quá, vì mình
không phải là thân thể này, nhưng chính bạn đâu có chứng nghiệm được điều
đó. Cho dù có những người rất thông thái sẽ nói, 'chúng ta không phải là thân
thể, thân thể không phải là tôi' nhưng thật ra, nói thì dễ, nhưng thật sự biết thì là
việc khác. Xuyên qua việc thực tập Thiền, khi có được sự hiểu biết về tính chất
thật của sự vật, chúng ta bắt đầu cởi trói cho chính chúng ta khỏi những ràng
buộc tham đắm. Khi chúng ta không còn đòi hỏi, ham muốn thì chúng ta sẽ
không còn hối tiếc hay chán nản, đau buồn khi chúng ta không được những gì
chúng ta muốn.
Do đó, khi thực tập thiền, thì
chúng ta sẽ thấu hiểu rõ ràng về sự
vật cũng như tính chất thật của
chúng. Chúng ta có thể thấy vẻ đẹp,
vẻ cao quý, sự sung sướng, cũng
như sự xấu xí, sự đau đớn, nỗi khổ
đau, là những trạng thái vô thường.
Nếu bạn thật sự hiểu điều này thì bạn
có thể sung sướng và chịu đựng tất
cả những gì có thể xảy ra cho bạn.
Thật ra, bài học của cuộc sống là học chịu đựng những gì chúng ta không
thích nơi chúng ta cũng như nơi cuộc sống, để trở nên kiên nhẫn và tử tế hơn và
sẽ không quá chú trọng đến những gì bất toàn nơi những cảm thọ. Chúng ta có
thể thích ứng và chịu đựng cũng như chấp nhận tính cách đổi thay của sự vật, để
không còn bám víu vào chúng nữa. Khi chúng ta không còn đồng hóa mình với
sự vật, chúng ta sẽ kinh nghiệm được bản chất thật của mình. Một cái gì đó
trong sạch, sáng suốt, hiểu biết. Không còn sự lệ thuộc giữa ta và vật. Không có
"của tôi" hay "tôi"... không có gì để bám víu vào hay phải đạt cho được.
Những lời dạy của Ðức Phật giúp chúng ta thấy rõ được sự vật như chúng
là. Những lời dạy đưa chúng ta đến sự hiểu biết. Những lời này không phải là
những lời răn hay giáo điều mà chúng ta buộc phải chấp nhận hay tin tưởng.
Chúng ta không học những lời dạy của Ðức Phật như học bài; nhưng mà học
những lời này để tự nhắc nhở mình phải luôn tỉnh thức, sáng suốt và chú ý đến
những gì đang xuất hiện cũng như biến mất.
Ðây là một cách luôn luôn theo dõi và quan sát không ngừng nghỉ về những
hiện tượng của cảm thọ. Khi có được thân thể này và sống trong một xã hội như
hiện nay, ai ai trong chúng ta cũng cảm thấy bị 'bức xúc' phần nào. Mọi sự diễn

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
36
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

biến rất nhanh...truyền hình và máy móc hiện đại, xe cộ... mọi thứ dường như
tiến triển ở mức độ khá nhanh. Thật là hay, thật là náo nhiệt và thích thú, và
mọi thứ hình như thu hút mọi giác quan của chúng ta. Chẳng hạn ở Luân Ðôn,
để ý xem, chúng ta sẽ thấy những bích chương quãng cáo mời gọi chúng ta dùng
rượu và thuốc lá. Sự chú ý của chúng ta được mời gọi để tiêu thụ, các giác quan
luôn luôn tìm kiếm những kích thích mới cho sự cảm thọ. Xã hội vật chất luôn
kích thích lòng tham của chúng ta, để cho chúng ta phải xài tiền, và sẽ không
bao giờ hài lòng với những gì mình đang có. Lúc nào cũng phải có gì khác hơn,
tốt hơn, đẹp hơn, ngon hơn, mới hơn những thứ của ngày hôm qua....Và cứ tiếp
tục như thế, các giác quan của bạn bị bao thứ mời gọi, lôi kéo...
Nhưng khi chúng ta bước vào thiền phòng, chúng
ta không đến đây để nhìn nhau, hoặc để cho những đồ
vật trong phòng lôi cuốn. Nhìn mọi vật để nhắc nhở
lấy mình, nên tập trung tư tưởng vào một vật an lành,
hoặc tìm hiểu và suy ngẫm về bản chất của sự vật.
Chúng ta cần phải chứng nghiệm điều này tự nơi bản
thân mỗi người.
Không có sự giác ngộ của ai khác có thể làm cho mình trở nên giác ngộ.
Ðây là một việc làm đòi hỏi nơi tự tâm. Không thể nào đem sự giác ngộ của
người khác để giúp mình giác ngộ. Ðây là một cơ hội để khuyến khích và chỉ
dẫn cho những ai muốn 'tự thức tỉnh'. Thiền Viện là nơi tạm trú để khai thị tư
tưởng của chúng ta. Ðây là một cơ hội duy nhất của chúng ta để thực tập Thiền
khi chúng ta đang mang được thân người.
(Trích trong ' The meditation teaching of Ven. Sumedho." Mindfulness: The
Path to the Deathless do Mỹ Thanh dịch)
II - SỰ PHÁT TRIỂN CÁC PHÁI THIỀN
Trong sự phát triển các phái Thiền ta thấy có:
1. Thiền nguyên thủy (Nhị thừa Thiền)
Đức Thế Tôn dựa trên 6 căn 6 trần 6 thức mà dạy phá chấp ngã tướng, qua
hệ giáo lý nguyên thủy gồm các Kinh: 4 Thánh đế, 8 Thánh đạo, 12 Nhân
duyên, 3 Pháp ấn, A Hàm… Tùy căn bệnh của đệ tử mà lấy pháp đối trị. Chẳng
hạn như người nặng tham dục quán Tứ niệm Xứ. Nhiều sân hận quán Từ bi,
nặng ngu si quán Nhân duyên. Nhiều loạn tưởng quán hơi thở, gọi là tu Quán.
Ngoài tu Quán còn có tu Chỉ, ngưng bặt vọng tưởng, giữ tâm thanh tịnh, buông
dứt ý niệm, hoặc hành Minh sát Tuệ. Đây là lối tu đầu tiên căn bản Đức Phật dạy

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
37
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

cho mỗi đệ tử tìm chỗ thanh vắng trong hang động, bên bờ suối, chỗ vứt thây chết
trong rừng, dưới gốc cây, hoặc chỗ nào thích hợp để nỗ lực hành trì tu tập.
Hành giả tu như vậy đạt từ Sơ thiền (lìa dục sanh hỷ lạc), Nhị thiền (định
sanh hỷ lạc), Tam thiền (lìa hoan hỷ được vui vi diệu), Tứ thiền (buông hết tạp
niệm được thanh tịnh).
Tứ thiền thuộc về Sắc giới, cũng gọi là Thiền phàm phu chứng từ Tu-đà-
hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm; tu thêm một buớc đạt đến bốn Không: Không Vô
biên xứ, Thức Vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ thuộc về
Vô sắc giới. Cộng chung là tám thứ định, tu thêm Diệt tận định. Đạt đến định
này chứng quả A La Hán.
2. Thiền đại thừa
Pháp Thiền này phát triển từ phá chấp ngã tướng đi vào tánh. Ảnh hưởng hệ
giáo lý Bát Nhã, Kim Cương, Lăng Già. Tuy có những mục như Thiền Nguyên
Thủy. Chẳng hạn bậc Bồ Tát tu 5 pháp: Quán tam muội, Quán nhân duyên tam
muội, Quán Phật tam muội, Quán bất tịnh tam muội, Quán lục diệu pháp môn.
Riêng lục diệu pháp môn có:
1- Sổ tức môn, pháp đếm hơi thở từ 1 đến 10 từ 10 đến 1, ngăn trừ loạn
tưởng, không niệm sanh khởi, tiến vào định.
2- Tùy môn, pháp không cần đếm, chỉ theo hơi thở ra vào không niệm tưởng
gì khác.
3- Chỉ môn, pháp ngưng tâm ý và hơi thở.
4- Quán môn, pháp quán tưởng thân thể từ đầu đến chân trong ngoài nhơ
nhớp, chia chẻ thấu rõ. Từng phần vô thường giả hợp.
5- Hoàn môn, pháp xoay về quán tự tâm, sắc ấm che đậy đều diệt.
6- Tịnh môn, pháp làm cho trong sạch thân tâm, uế dục đều lặng.
Với pháp Quán, hành giả quán từ giả tướng thấy thật tướng, tức vào thể tánh
chân như. Thiền theo tông Thiên Thai của ngài Trí Giả Đại Sư ứng dụng pháp
Trung Quán Luận của ngài Long Thọ tu tam quán. Quán không, Quán giả, Quán
trung. Cho rằng cái pháp do duyên sanh, không cố định, tức quán không. Thể
tánh các pháp là không nhưng duyên hợp tạm có, không thật, cũng gọi là Quán
Giả, Không Giả đều buông bỏ chỉ còn nhất tâm chơn như cũng gọi là Quán
Trung Đạo đệ nhất nghĩa. Như thế Thiền Đại Thừa gần với Thiền Tông, nhưng
còn khác biệt ở chỗ có pháp để tu, có quả để chứng. Còn bên Thiền Tông thì
không có pháp dạy người, không có quả để chứng đắc.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
38
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

3. Như lai Thiền


Thời kỳ nhận thức của chúng đệ tử khá cao, cho nên Đức Phật giảng kinh
Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Niết Bàn, dạy lối tu Liễu nghĩa thượng thừa, chỉ thẳng
Tri kiến Phật, Như Lai tạng tâm. Tất cả chúng sanh đều bình đẳng pháp tánh, phải
nhận được cái thấy biết tánh Phật của mình, tâm nầy là Kho Như Lai. Bồ Tát tu
như thế đạt kết quả gồm 52 bậc tu chứng từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa đến Đẳng Giác và Diệu Giác là Phật, Như Lai.
4. Tổ sư Thiền
Là pháp môn truyền thừa Tâm Ấn bắt đầu từ pháp hội núi Linh Thứu, Đức
Thích Ca cầm cành sen đưa lên, đại chúng đều ngơ ngác, không ai hiểu yếu chỉ
của ngài. Duy có trưởng lão Ma Ha Ca Diếp chúm chím cười. Do đó, Đức Phật
nói: "Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay
truyền cho Ma Ha Ca Diếp".
Từ đó dòng thiền Ấn Độ lần lượt truyền đến Bồ Đề Đạt Ma cả thảy 28 đời. Khi Bồ Đề
Đạt Ma nhận giáo chỉ của Sư phụ Bát Nhã Đa La lên đường sang Đông Độ, thẳng đến
Trung Quốc vào năm 520 T.L, gặp Lương Vũ Đế không xứng hợp khế cơ, ngài qua Giang
Bắc vào đất Ngụy 9 năm đối vách tại động đá chùa Thiếu Lâm bằng lời khai thị: "Chẳng
lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo, chỉ thẳng vào tâm, thấy tánh thành Phật".
Qua câu chuyện An Tâm giữa sư tổ Bồ Đề Đạt Ma và nhị tổ Huệ Khả ta
thấy thiền phong khẳng định tâm tức Phật, lấy Tâm Ấn Tâm, không ràng buộc
giáo điều
như Đức Phật đã dạy phổ thông cho bảy chúng đệ tử.
Đến đời Lục Tổ Huệ Năng mặc dù ngài lấy Định Huệ làm căn bản, và lấy 36
cặp đối ứng để phá tâm trụ chấp, thể nhận được "bản lai vô nhứt vật" nhưng có một
thay đổi lớn qua lời dạy của ngài: "Nếu không gây nhân thì không có quả. Do vậy
đừng tạo tác". Ngài đã trở thành Thiền Tổ nổi tiếng qua lời dạy đơn giản này.
Như vậy mục đích của Thiền là chỉ thẳng vào tâm. Mục tiêu của Thiền là đạt
đến giác ngộ giải thoát. Cho nên giáo lý của Đức Phật nói chung là lấy tâm giác
ngộ làm nòng cốt, Thiền tông nói riêng cũng lấy tâm giác ngộ làm nòng cốt. Và
tất cả pháp môn của đạo Phật cũng lấy tâm giác ngộ làm nền tảng.
Giác ngộ là nhận rõ chân tướng của vạn pháp là tánh không, nghĩa là nhận
ngay trong sanh tử tức Niết Bàn, phiền não tức Bồ Đề, chúng sanh tức Phật, vô
minh tức đại trí chơn như Bát nhã. Vậy Thiền và Giác đồng nghĩa như nhau
không khác.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
39
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Có người cho Thiền là dễ bị lạc đường và tẩu hỏa nhập ma, nói như thế
không phải là đúng. Bởi vì những pháp Thiền trong Phật giáo chính thống dạy
về Minh Tâm Kiến Tánh. Còn có những pháp thiền ngoài đạo Phật, dễ rơi vào tà
kiến điên đảo. Thế nào là thiền ngoại đạo ?
Thiền ngoại đạo là lối tu không phải của Phật giáo, thường vọng cầu không
thể giải quyết được luân hồi sanh tử, gồm có:
- Thiền Yoga: Là lối tu có trước đức Phật
hàng ngàn năm, do các đạo sĩ ẩn mình nơi hoang
vắng, xa lánh sự ồn náo của thế gian, tìm về lối
sống minh triết, tịch tĩnh tạo thành hai phái:
Hatha Yoga, chuyên luyện tập thân thể chịu đựng
với thời gian, mong được sống lâu, sống khỏe.
- Raja Yoga: Luyện tập ý chí trở thành năng lực
thông tuệ, đem Tiểu ngã hòa nhập vào Đại ngã.
Dĩ nhiên họ cũng có thần thông, nhưng không có
lậu tận thông.
- Thiền xuất hồn: Chủ trương con người có hai phần xác và hồn. Phần xác
họ cho rằng phía trước và sau dọc xương sống Nhâm và Đốc mạch lên tới đỉnh
đầu, có những bí huyệt lưu chuyển gọi là luân xa. Mở các luân xa nầy và mở
hộp sọ nơi phía sau xoáy đầu sẽ được xuất hồn, bay đi chốn này, chỗ nọ, gặp
cảnh sinh tình, vọng tưởng đam mê tham chấp, ắt sẽ bị điên loạn.
- Thiền thai tức: Thai là gom hết thánh thai, tức là hơi thở. Đưa hơi thở
xuống đan điền để luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần huờn hư.
Như vậy kết được thánh thai (anh nhi), sẽ có thần thông và sống lâu, còn gọi là
Phái Thiền tu Tiên.
- Thiền phàm phu: Chú tâm và kỹ xảo như thôi miên, ảo thuật ...
- Thiền thiêng liêng: Chú tâm vọng tưởng về một đấng thiêng liêng nào đó,
dù không có thật để mong nhập vào xác mình ban cho kẻ khác thứ gì, như trị
bịnh, nói hên xui, cầu danh lợi v.v...
- Tà thiền: Chú tâm luyện phù làm phép ếm đối để mê hại người, hoặc giả
trò ma thuật lừa đảo người mê theo, để kiếm tiền tài, vật dục...
Tóm lại, các thứ Thiền trên đây mong sự mầu nhiệm và kéo dài tuổi thọ.
Thiền Phật Giáo nhằm khai mở trí tuệ, quét sạch vọng tưởng vô minh hôn ám,
nhận rõ cuộc sống hiện tại, tự thắng và làm chủ lấy mình, trở thành giác ngộ giải
thoát sanh tử khổ đau.
Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
40
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

III - TÁC DỤNG CỦA THIỀN


Thiền dưỡng sinh là bộ môn cổ truyền ngày nay đang có rất nhiều người
theo học vì những tác dụng đáng ngạc nhiên của nó. Đây là phương pháp làm
cho bộ não lành mạnh (kiện não phát) giảm thiểu những tần số sóng loạn động
trong não, giúp cho thanh tâm tĩnh trí, tập trung tư tưởng không để cho những tạp
niệm xen vào, giúp cho đầu óc sáng suốt, ý chí minh mẫn, kiên nhẫn, tinh thần
thanh thản, tâm hồn thoải mái vui tươi, yêu đời.
Theo tác giả Tỳ Kheo Thích Minh Hiến thì lợi ích của việc thiền hành như
một phương pháp luyện tập, vận động thể dục trong cuộc sống hàng ngày để làm
sao chúng ta có một “Thân thể khỏe mạnh trong một tinh thần minh mẫn”.Như
vậy để hiểu rõ hơn lợi ích của thiền hành như sự vận động, ta hãy tìm hiểu vận
động là như thế nào ? ra sao ?
Vận động là một quá trình diễn ra giữa con người và thiên nhiên, trong quá
trình đó con người bằng hoạt động của chính mình can thiệp vào, điều hòa và
làm chuyển hóa vật chất giữa mình và thiên nhiên. Vận động không thể thiếu
đối với con người, chẳng khác nào thức ăn đối với sự sống của chúng ta vậy. Vì
nó là những hoạt động liên tục không dừng nghĩ của sự sống.
Vận động hay lao động có 2 mặt : Vận động bằng những hoạt động cơ bắp,
chân, tay v.v.. Đó là sự vận động bên ngoài. Vận động bằng hệ thần kinh, sự suy
nghĩ, tìm tòi là sự vận động bên trong hay là vận động trí óc.
Trong quá trình tiến hóa của con người ngoài sự hoạt động của các cơ bắp
trong các công việc như săn bắn, hái lượm, còn hiện hữu cùng với việc tìm ra những
giải pháp, kinh nghiệm trong việc làm, đó là sự vận động của trí óc.
Từ thời Đức Phật sự vận động được thể hiện qua pháp thiền hành, kinh
hành, đi khất thực, và là một phương tiện chính trong Tăng đoàn, đi từ tụ lạc này
đến quốc ấp kia v.v… luôn luôn là sự vận động điều đặn, ngoài sự di chuyển của
toàn thân, Đức Phật còn dạy các Thầy Tỳ Kheo lúc nào cũng phải chánh niệm
tĩnh giác, quán chiếu các pháp nhằm nhiếp phục các phiền não, đó là sự vận
động hay lao động trí óc trong thiền hành.
Cho nên việc, vận động trong thiền hành là quá trình không thể thiếu đối với
bất cứ người Phật tử nào nói riêng, và nhân loại nói chung.
Đối với mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi địa phương thậm chí mỗi gia đình, mỗi
cá nhân có thể có những truyền thống riêng về cách tận dụng hoạt động thế lực để
rèn luyện thân thể và củng cố sức khỏe. Mỗi cơ thể, mỗi lứa tuổi cũng có những ưa
thích riêng đối với một phương pháp, một thể loại, một kỷ thuật luyện tập.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
41
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Phương pháp đi bộ trong thiền định (thiền hành) là một môn thể dục vận
động không những đối với người già mà còn cho mọi đối tượng, vì nó là một
hoạt động dễ và đem lại nhiều hiệu quả. Tựu chung lại việc đi bộ trong thiền
hành gồm những yếu tố chính sau :
1- Cố gắng kiên trì tập luyện thiền hành
như môn thể thao mình ưa thích, coi nó như
là người bạn không thể xa được.
2- Không nên hấp tấp hay gò bó mà
phải thoải mái trong thiền hành.
3- Kết hợp với việc ăn uống đúng dinh
dưỡng, ngủ nghĩ đúng giờ - phòng ngủ
không chật quá - yên tỉnh - thoáng mát.
4- Luyện tập hít thở điều đặn, không nhanh không chậm.
5- Luôn luôn lúc nào cũng giữ tâm an tĩnh, không sợ hãi, rầu lo, bực tức
v.v… Vì nó là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta.
Nhịp sống dồn dập của thời kỳ hội nhập thời nay là nguyên nhân gây ra
nhiều chứng bệnh cho con người như Stress, khủng hoảng tâm lý, mất ngủ…
Nhiều người đã tốn không ít tiền bạc và thời gian để chạy chữa nhưng tác dụng
nhiều khi lại không như mong muốn. Có một biện pháp đơn giản khác mà lại có
hiệu quả khá cao đó chính là tập Thiền. Thiền định gíup an định tinh thần. Tinh
thần khỏe mạnh tức hệ thần kinh động vật lẫn thực vật hoạt động ổn định. Khi
hệ thần kinh cân bằng, các cơ quan sinh học trong cơ thể sẽ hoạt động bình
thường, chúng ta sẽ hạn chế rất nhiều bệnh do rối loạn cơ năng sinh ra như ung
thư, tiểu đường, stress… và cuộc sống ta sẽ được an lạc. Nếu mỗi ngày bỏ ra chừng
30 phút ngồi Thiền đúng cách ta có thể tại lập sự cân bằng cho cơ thể. Có nhiều kỹ
thuật đưa ra đưa bộ não vào trạng thái tâm không - tức rỗng rang. Trong trạng thái
này, vỏ não (nơi chuyên xử lý thông tin) sẽ được mát xa và nghỉ ngơi. Khi đạt được
trạng thái này ta sẽ cảm nhận cơ thể có sự biến đổi lạ kỳ.
Thiền dưỡng sinh còn được áp dụng để phát triển khả năng tập trung, rèn
luyện ý chí. Người tập Thiền đúng phương pháp sẽ có khả năng tập trung về mặt
thần kinh rất cao, khả năng khai thác và xử lý thông tin từ đó cũng được tăng lên
gấp nhiều lần. Khi tập trung được ý nghĩ, tính chính xác của vận động và tư duy
cũng sẽ trở lên rất linh hoạt. Không chỉ có thế, phương pháp thư giãn thần kinh
tập trung tư tưởng này còn góp phần điều hòa tâm tính, hoàn thiện hơn về nhân
cách. Người tập Thiền thường có khả năng giữ tâm trạng thật bình tĩnh trước

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
42
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

nhiều vấn đề, sự kiềm chế đôi khi cũng mang lại cho con người những thành
công nhất định.
Bên cạnh đó, Thiền dưỡng sinh còn được
sử dụng như một biện pháp để kích thich sự
sáng tạo, tư duy logicvà cả những tư duy trừu
tượng. Theo như tính toán của các nhà nghiên
cứu thì tiềm năng con người mới chỉ được sử
dụng 10%. Thiền định có thể giúp bạn khai
mở thêm các năng lực còn lại. Khi đạt trạng
thái tâm không, các thông tin rối loạn đang
nằm trong hệ xử lý thông tin nằm ở vỏ não sẽ
được loại bỏ, thay vào đó là sự sáng suốt.
Trong sự sáng suốt đó, chúng ta có thể tập trung toàn bộ tư duy vào những
công việc quan trọng. Khi tiềm thức được khai mở, nhiều khả năng đặc biệt
khác của con người có thể được phát huy trong đó có cả những tiềm năng được
coi như là năng lượng siêu nhiên và khi đó chúng ta sẽ từng bước đạt tới sự giác
ngộ. Hiện nay ở một số nước có nền giáo dục tiên tiến thì phương pháp Thiền
dưỡng sinh còn được đưa vào giảng dạy trong các trường học, thậm chí trong
các cơ quan để khai thác tiềm năng của con người, phát huy và đào tạo nhân tài
cho đất nước.
Ngoài ra, Thiền còn là phương pháp bồi dưỡng nhân cách. Nhân cách thông
thường được hình thành ngang qua sự hun đúc của các nền giáo dục, đạo đức,
nghệ thuật v.v… nhưng điều đó chưa hẳn là hình thành một nhân cách trọn vẹn.
Trong dòng chảy cuộc sống, có một số người vì bị mê hoặc bởi các dục
vọng, như danh lợi, quyền thế v.v… mà họ đành phải núp mình trong các nền
giáo dục, nghệ thuật…, khi đứng trước mọi người họ luôn tỏ ra là một người có
nhân phẩm cao thượng,hoặc hành vi trong sáng, nhưng thật chất trong tâm họ lại
chứa đầy những dã tâm đáng sợ và những âm mưu quỉ quyệt. Chúng ta có thể
gọi những người đó là những người có nhân cách hai mặt. Do đó chúng ta không
thể hoàn toàn tin tưởng các nền giáo dục, đạo đức, nghệ thuật có thể vun thành
một nhân cách hoàn mỹ. Những luân lý giáo dục, hoặc các tiêu chuẩn đạo đức,
hoặc những thẩm mỹ nghệ thuật dù có cao đẹp đến đâu, chúng cũng là những
phẩm chất được truyền dẫn từ bên ngoài vào mà thôi, cho đến những áp lực uy
quyền cũng chỉ là những dục cầu bên trong cá nhân, tất cả đều không khế hợp
với một nhân cách hoàn mỹ.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
43
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Thiền là phương pháp tốt nhất để bồi dưỡng nhân cách, bởi thiền là sự tự
giác cao độ phát xuất từ nội tâm mà đạt được sự thăng hoa nhân cách. Giáo dục,
đạo đức, nghệ thuật đối với người hành thiền mà nói, chúng chẳng có tác dụng
gì; vì chúng có thể thay đổi theo hoàn cảnh, thời đại, và đối tượng. Thiền là trực
nhận ra cái trạng thái tĩnh lặng, tự do vô biên tuyệt đối nơi mình, nên thiền không
vay mượn ngoại duyên, cũng chẳng cần lập văn tự. Vì thế thiền là pháp môn huấn
luyện tâm linh muôn đời không thay đổi.
Thực tập hành thiền là sự lột bỏ các lớp vọng niệm của cái tôi, lột mãi lột mãi
cho đến khi nào bóng dáng của cái tôi không còn nữa. Cho nên người hành thiền
không cần phải trang sức, trau chuốt gì trước mặt người khác mà tự nó trong sáng;
hoặc cũng không vì sửa đổi mà phải chấp nhận phục tùng những áp lực bên ngoài,
điều đó chẳng khác nào gồng mình chịu mọi đau đớn để cắt bỏ đi khối u.
Hành thiền là tuân theo phương pháp tu tập, dần dần dứt bỏ các vọng niệm,
cho đến khi đạt được trình độ vô niệm. Lúc bấy giờ, mọi hành vi động tác của
chúng ta đều được soi sáng, hướng dẫn đúng mức. Một nhãn quan mới về nhân
sinh, vũ trụ được mở ra, cõi lòng này sẽ không còn là biển khổ, hay một bức
tranh gớm ghiếc, mà là một bức họa, một bản hợp tấu tuyệt vời, chúng ta sẽ nhìn
đời bằng cặp mắt bình đẳng và đầy tràn tình thương. Cho nên chúng ta không
cần phải truy cầu cái gì, và cũng chẳng cần bỏ cái gì, trách nhiệm của chúng ta
là xây dựng con người của ta hoàn mỹ hơn.
Đức Phật đã dạy: ‘Trí tuệ và phước đức của chúng sanh không đâu không
bằng Phật’. Nếu như chúng ta siêng năng thực hành thiền thì nguyện vọng của
chúng ta nhất định sẽ thành hiện thực. Bất luận là già trẻ gái trai, không phân
biệt kẻ trí người sơ, kẻ mạnh người gầy mòn, cũng chẳng màng đến chức danh
địa vị tôn giáo, cánh cửa thiền luôn rộng mở chào đón chúng ta.
Thế giới ngày nay đầy những đè
nén và căng thẳng về tâm trí. Con
người luôn luôn tất bật mà cũng chẳng
có đủ thời giờ để hoàn tất mọi việc mà
họ đã hoạch định. Tốc độ và mức hoạt
động cao của thế giới hiện đại đang
làm tổn hại trí óc và hệ thần kinh nhạy
cảm của chúng ta.
Muốn chống trả hữu hiệu với sự đè nén và căng thẳng gây ra bởi cuộc sống
trong môi trường ngày càng gay gắt này, con người cần phải đạt được sự hiểu
biết sâu xa cũng như kiểm soát được trí óc của mình. Trí óc là trung khu của mọi

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
44
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

suy nghĩ và cảm giác của chúng ta, và nó cũng là một bộ phận của con người bị
tác động nhiều nhất bởi những điều kiện của môi trường sống. Muốn giảm thiểu
nhưng tác dụng phụ có hại của môi trường gây ra, chúng ta phải biết điều chỉnh
cách thức chúng ta liên hệ với môi trường.
Tất cả các tôn giáo trên thế giới dường như tập trung vào ba điều:
- Khám phá chân lý
- Nhận thức được Đấng Tối Cao
- Đạt đến cuộc sống vĩnh cửu hoặc cõi vĩnh phúc.
Tất cả đều nói đến một hình thức hiện hữu cao hơn và họ đã gọi điều đó
bằng những cái tên khác nhau, chẳng hạn như thượng giới, thiên đường, cứu rỗi,
cõi phúc, Satori, niết bàn, giải thoát.v.v. Tôn giáo bắt nguồn từ khát vọng của
con người là muốn vượt lên trên cuộc sống vật chất và tâm trí để bước vào thế
giới mà chúng ta gọi là cõi tâm linh. Ngày nay, vấn đề về cõi tâm linh đã gây ra
nhiều bối rối và thất vọng. Nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, đã mất lòng tin vào
những truyền thống tôn giáo chính thống và đã không làm cho họ đạt được các mục
tiêu. Nhiều vấn nạn đã được đưa ra, không biết các tôn giáo có biểu hiện được những
gì mà các người đề xướng đã nêu ra hay không. Có điều gì bị bỏ quên hay không? có
phải đức tin đã trở thành dị đoan hay không? Hoặc nhận thức đã trở thành giáo điều?
Những làn sóng thức tỉnh mới về tôn giáo và tâm linh đã sống dậy từ những
đổ nát của các tôn giáo lạc hậu, nhấn mạnh đến chính yếu tính của nhiệm vụ của
họ: kinh nghiệm và nhận thức về Chân lý. Trong số những phong trào tâm linh
mới thức tỉnh này, khoa học cổ xưa của Yoga và Thiền, bắt nguồn từ phương
Đông, ngày càng được phương Tây quan tâm. Một trong những lý do của tình
hình này là phương pháp thực tiễn và khoa học của nó.
Cùng với trào lưu tiến bộ của khoa học kỹ
thuật…giới trẻ ngày nay không sẵn sàng chấp nhận
bất cứ lý thuyết hoặc giáo điều nào nếu nó không
phù hợp với những khám phá khoa học và không
dựa trên luận lý. Yoga nhấn mạnh khía cạnh thực
tiễn của con đường tâm linh chúng ta. Nó không cần
đến vẻ hào nhoáng bên ngoài, cũng không cần đến
những bước lễ nghi hoặc chấp nhận kinh điển nào.
Người ta có thể thuộc bất cứ đức tin nào (hoặc không có đức tin nào cả) mà
vẫn tham gia vào Yoga và Thiền. Vì thế nên không có tranh chấp giữa Yoga và
các tín điều tôn giáo. Thường xuyên luyện tập Thiền giúp cho con người được

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
45
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

sáng suốt hơn trong tín điều của mình (hoặc không có tín điều nào) vì chân trời
tâm trí dần dần mở rộng và con người sẽ dễ tiếp nhận trạng thái thăng hoa của
nhận thức.
Với những tác dụng nêu trên thì phương pháp thư giãn thần kinh tập trung tư
tưởng quả xứng đáng để được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Nó sẽ đem lại cho chúng ta một thể trạng thoải mái và nhiều thành công trong
cuộc sống.
IV - MỘT SỐ TƯ THẾ NGỒI THIỀN VÀ NGỒI THIỀN ĐÚNG
PHƯƠNG PHÁP, ĐÚNG CÁCH
Khi tập trung tư tưởng, để đạt được mục đích thư giãn và bình an cho tâm
trí, người tập có thể nghĩ đến những cảnh quang mà mình ưa thích hoặc đã từng
trải qua như rừng thông bạt ngàn, gió thổi vi vu, bãi cát trắng xóa, sóng biển
nhấp nhô, nhữngcánh đồng lúa rì rào, gió thổi miên man hay cảnh núi non hùng
vĩ, các thác nước trắng xóa… nằm hoặc ngồi thoải mái ở một nơi yên tĩnh,
thoáng mát, mắt khép nhẹ, hít thở điều hòa, thở ra chậm và hít vào thật sâu.
Tập trung tư tưởng nghĩ đến cảnh quan đã
định, hình dung rõ ràng quang cảnh như đang
hiện ra trước mắt mình. Lặng lẽ quan sát để từ
từ tiến đến rung hợp giữa người và cảnh, thấy
mình hòa tan vào cảnh hoặc quên đi bản thân
mình.

Để tăng chất lượng của bài tập có thể sử dụng thêm những âm thanh êm dịu
của đĩa nhạc hay những lời dẫn mượt mà. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng, kết quả
của biện pháp Thiền là khác nhau do khả năng tập trung tư tưởng của mỗi người
là khác nhau. Điều này tùy thuộc vào căn cơ và các điều kiện trợ duyên khác
như chế độ ăn uống, sinh hoạt, giao tiếp… nhưng biện pháp tốt nhất để luyện tập
thành công chính là lắng nghe cơ thể mình.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
46
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Như một vị thiền sư nói: "Ngồi thiền


nghĩa là cảm thấy hài lòng với việc ngồi khi ta
ngồi, hài lòng với việc đi khi ta đi". Đó là
chính mình dù điều gì đến với ta, không bị
cảm xúc chi phối. Để đạt được điều đó, phải
tập luyện thường xuyên, hãy thử nghiệm, cảm
nhận việc đó vì nó thật sự không tốn thời gian.
Tọa thiền cần một căn phòng yên tĩnh. Ăn
uống chừng mực, giảm thiểu những mối giao
tiếp thế sự.
Chớ tính toán nghĩ suy phải quấy, tốt xấu, cũng không theo bên này chống
bên kia. Hãy dừng lại mọi tạo tác vận hành của tâm thức, ngay cả ý niệm muốn
thành Phật cũng nên dập tắt. Ðiều này vẫn đúng không chỉ trong thời tọa thiền
mà suốt mọi động tác trong ngày.
Bạn nên bắt đầu tọa thiền vào buổi sáng sớm thức dậy, trước khi tập thể dục
và ăn sáng. Nếu bạn chọn thực tập trước khi ngủ sẽ bất lợi vì bạn sẽ dễ bị cơn
buồn ngủ lôi kéo hoặc suốt một ngày làm việc tồn đọng lại trong đầu bạn biết
bao tạp niệm chưa giải quyết. Bạn nên mặc quần áo bằng vải mềm, rộng rãi.
Trước hết trải một tấm nệm vuông dày khoảng
2 inches (toạ cụ), ngay giữa đặt lên trên một cái
gối ngồi nhỏ (bồ đoàn) để ngồi. Nếu không có bồ
đoàn bạn có thể dùng một cái gối thường gấp đôi
lại. Nửa mông sau đặt trên bồ đoàn và ngồi ngay
thẳng vững vàng. Có nhiều cách ngồi, nhưng với
những người mới bắt đầu có thể ngồi kiểu
Miến Điện hay ngồi bán kiết già. Những người
thường mặc Âu phục rất khó ngồi bán kiết già hay
toàn kiết già, có thể ngồi thiền trên ghế hay ngồi
theo kiểu Nhật Bản.
- Ngồi kiểu Miến Điện: Cách thứ nhất và đơn giản nhất là cách ngồi kiểu
Miến Điện (Burmese position), cả hai chân xếp chéo nhau đặt đều trên đệm.
- Ngồi Bán Kiết Già (Half Lotus position): Tư thế bán kiết già là đặt chân trái
lên đùi phải. Tuy nhiên có thể thay đổi,chân trái có thể đặt dưới và chân phải đặt
trên đùi trái.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
47
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

- Ngồi Toàn Kiết Già (Full Lotus position): Tư thế toàn kiết già là hai chân
được khoá vào nhau, trước hết đặt bàn chân phải lên đùi trái rồi đem bàn chân
trái đặt lên đùi phải. Kéo sát chân vào trong thân để ngồi được lâu hơn. Còn bàn
tay trái để lên bàn tay phải, hoặc ngược lại. Hai bàn tay để lên hai lòng bàn
chân, những ngón tay chồng lên nhau, hai đầu ngón tay cái chạm vào nhau nằm
ngay chiều rốn, cùi chõ vừa ôm hông là được .
Xương sống hoàn toàn thẳng đứng, không nghiêng bên trái cũng không ngả
bên phải, không cúi tới trước cũng không ngả về phía sau, lỗ tai thẳng với vai và
lỗ mũi ngay nơi rốn. Lưỡi chạm hàm trên, miệng ngậm, mắt hé mở. Đây là tư
thế toạ thiền đúng cách, vững chãi và hữu hiệu nhất. Tuy nhiên, điều quan trọng
nhất của tọa thiền là tâm toạ.
- Ngồi kiểu Nhật Bản (Seiza position): Tư
thế ngồi này là ngồi trên một ghế nhỏ, hai chân
để dưới chân ghế. Cũng có thể dùng một cái gối
nhỏ đặt lên trên hai chân và mông ngồi trên đó.
- Ngồi Trên Ghế (Chair position): Sau cùng
là cách ngồi trên ghế với hai bàn chân đặt trên
mặt thảm. Cũng có thể ngồi trên bồ đoàn đặt trên
ghế. Tư thế lưng cũng giống như các thế ngồi
trên.
Nên chú ý bất cứ kiểu ngồi thiền nào thì xương sống cũng phải hoàn toàn ở vị
thế thẳng đứng, không nghiêng bên trái cũng không ngả bên phải, không cúi tới
trước cũng không ngả về phía sau, lỗ tai thẳng với vai và lỗ mũi ngay nơi rốn.
Chiều chóp mũi ngay đầu ngón tay cái, hai trái tay đối xứng hai bả vai, mắt
mở 1/3 nhìn không quá 5 tấc với một góc độ vừa phải (45 độ) (nếu mắt nhắm
hoàn toàn sẽ dễ bị ngủ, còn mở rộng quá thì sẽ dễ bị toán loạn vì nhìn thấy ngoại
cảnh). Gương mặt bình thản, miệng hơi mỉm để cho các cơ bắp trên mặt được
giãn ra. Điều này rất cần thiết cho hệ thần kinh.
- Thở vào ra trong lúc tọa Thiền: Hít sâu bằng mũi đầy bụng rồi thở ra
bằng miệng nhẹ nhàng. Miệng ngậm lại, môi và răng vừa khít nhau, lưỡi để lên
trên. Từ đây về sau chỉ hít thở bằng mũi đều đều, nhè nhẹ không cố gắng.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
48
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Điều quan trọng của toạ thiền là tâm toạ


tức là làm thế nào để tâm không còn đi dong
duổi ta bà, hết nơi này đến chốn khác. Nhưng
muốn tâm toạ chúng ta phải làm thế nào?
Trên nguyên tắc, chúng ta phải giảm thiểu từ
từ những ý nghĩ miên man trong đầu, mới bắt
đầu từ nhiều niệm về ít niệm rồi về một niệm
và sau cùng là không còn một niệm nào. Từ
từ, tâm chúng ta được trong sáng hơn và từ sự
vắng bặt niệm, tự nhiên bộc phát sự hiểu biết
sáng suốt. Không một niệm trong đầu chính là
đối tượng của thiền.
Có rất nhiều phương pháp khác nhau và Pháp Thở là bước căn bản, là bài học
vỡ lòng của các pháp thiền tập. Thở là sự sống, là năng lực sống còn, là tâm điểm
các hoạt động của cơ thể chúng ta. Tâm và hơi thở của chúng ta là một: khi chúng
ta tức bực, hơi thở trở nên hổn hển, khi tâm chúng ta cảm thấy an lạc thoải mái,
hơi thở trở nên điều hoà, dễ chịu. Vì thế chúng
ta cần điều hoà hơi thở một cách tự nhiên qua
lỗ mũi và chú tâm vào cảm thọ về hơi thở nơi
đan điền (phần bụng dưới rốn), hoặc là hơi thở
vào ra nơi hai lỗ mũ (chỉ nên chọn một). Cảm
thọ này là mục đích thiền tập cơ bản của chúng
ta. Khi tâm chúng ta nghĩ chuyện khác, chúng
ta nên tức khắc gọi nó trở về với hơi thở vào ra.
Thân ở đâu thì tâm ở đó.

Vì mỗi người có một tâm khác nhau nên cũng khó nói có một pháp tu nào áp
dụng chung cho tất cả mọi người được. Vì vậy đức Phật đã chỉ dạy nhiều pháp
khác nhau để mỗi người tùy căn cơ áp dụng.
Một số những pháp môn này như sau:
- Quán tưởng: chú tâm quán sát sâu xa về một đề mục rút trong giáo lý.
- Trì chú: chú tâm tụng niệm những câu chú gồm những chữ bí ẩn.
- Niệm Phật: chú tâm niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà.
- Tham thiền: chú tâm tham một công án hoặc một thoại đầu.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
49
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Có thể liệt kê chi tiết một số pháp môn thiền hiện hành như sau:
- Thiền Tại Hiện (Here and Now Meditation)
- Thiền Niệm Phật
- Thiền Tây Tạng
- Thiền Minh Sát: Mahasi Sayadaw
- Thiền Quán: Ajahn Chah
- Thiền Tào Động (Mặc Chiếu)
- Thiền Công Án
- Thiền Thoại Đầu ..
Nhưng, dù là pháp nào chăng nữa thì việc thực hành cũng là trình tự đưa
tâm từ trạng thái nhiều vọng tưởng về trạng thái ít vọng tưởng rồi về nhất tâm,
về sau từ từ đạt đến vô tâm, rồi liễu tâm, ngưng dứt dòng suy nghĩ miên man,
liên tục của ý thức. Nhà Phật quan niệm rằng sự suy nghĩ liên tục, miên man,
của ý thức, còn gọi là "tâm viên ý mã", tức là tâm ý vọng tưởng chạy nhẩy như
con vượn, con ngựa, có tác hại là đã che mờ mất Chân Tâm, Trí Tuệ Bát Nhã.
Hành giả nên chọn một pháp môn thích hợp với căn cơ của mình, và khi
thực hành thì nên theo tông chỉ của pháp môn đó mới có kết quả. Và dù thực
hành theo pháp môn nào cũng nên có một vị thầy hướng dẫn. Phần trên chỉ có
mục đích hướng dẫn cách ngồi thiền cơ bản cho những ai mới bắt đầu học thiền.
V - GIỚI THIỆU CÁCH LUYỆN TẬP TẬP TRUNG TƯ TƯỞNG VỚI
BABA NAM KEVALAM
Các nhà khoa học sau một thời gian tìm tòi đã tìm thấy nhiều loại sóng não
bộ của con người
1. Sóng Beta (ß – wave) : là một loại mẫu sóng não bộ dao động rất nhanh
và không đều, hơn 13 chu kỳ/giây. Đa số chúng ta đều có loại sóng não này. Nó
thể hiện trạng thái phân tán, không ngừng dao động của tâm trí con người bình
thường đầy lo âu, giận dữ, sợ hãi và thất bại.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
50
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

2. Sóng alpha (α - wave): là một loại mẫu


sóng chậm hơn nhiều và đều đặn, khoảng 8 chu
kỳ/giây. Các nhà khoa học đã tìm thấy trong trạng
thái làn sóng alpha tâm trí con người lắng dịu hơn,
quân bình hơn, thư giãn hơn, cùng lúc đó con
người rất xông xáo vá sáng suốt trong “một trạng
thái ý thức thanh tịnh rất dễ chịu“. Người có được
loại sóng này cảm thấy khá hơn, có thể hoàn thành
công việc và giải quyết các vấn đề tốt hơn. Những
người khác cũng yêu mến họ hơn.
Các thực nghiệm trên những ai thực hành Thiền quán ngữ (Mantra
Meditation) với tư thế hoa sen, sau một thời gian luyện tập cho thấy người hành
thiền luôn luôn ở trạng thái alpha.
3. Sóng Theta (γ - wave): Cuộc thí nghiệm tiếp tục trong nhiều năm, các nhà
khoa học tìm thấy rằng với Thiền thường xuyên, các sóng alpha chậm lại thành
sóng theta (4-8 chu kỳ/giây). Loại sóng não bộ này làm cho sự thanh tĩnh và
trạng thái an lạc, đầy tình thương bên trong được sâu hơn.
Có nhiều kỹ thuật thiền khác nhau :
- Tập trung vào hơi thở
- Lần chuỗi hạt
- Nhìn ngọn đèn cầy hay một điểm bên ngoài
- Cố gắng làm cho tâm trống rỗng, nghĩ về cái không, điều này không thể
được vì bản chất của tâm là suy niệm
Từ việc nghiên cứu cho thấy rằng kết quả tốt nhất là sử dụng một kỹ thuật
gọi là “MANTRA“. “Man“ có nghĩa là trí, “Tra“ có nghĩa là giải phóng. Mantra
là một âm thanh đặc biệt sử dụng trong khi luyện tập tập trung tư tưởng. Âm
thanh của nó tạo ra một rung động nào đó có thể giải phóng cái Trí khỏi tất cả
những khuấy động. Những quán ngữ (Mantra) này xuất phát từ tiếng Phạn, một
ngôn ngữ đặc biệt được các Yogi phát triển từ nhiều ngàn năm. Đó là những âm
thanh bên trong của hệ thống thần kinh vi tế của nhân loại. Mantra là ngôn ngữ
của thân thể con người và tâm trí con người. Những quán ngữ này được lặp lại
trong khi thiền (tập trung tư tưởng). Nó giống như một loại nhạc bên trong cơ
thể, biến đổi dần dần làn sóng beta nhanh thành làn sóng alpha và sóng theta.
Đối với những người mới bắt đầu, quán ngữ này là: BABA NAM KEVALAM.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
51
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

Ý nghĩa của BABA NAM KEVALAM: là một loại tự kỷ ám thị. Nếu một
người luôn luôn suy nghĩ tiêu cực: tôi đau, yếu, tệ.. người ấy sẽ trở nên đau, yếu,
tệ thật. Nếu một người suy nghĩ tích cực, lối suy nghĩ này sẽ đem đến cho họ
sức mạnh, cùng sự thay đổi trong cuộc sống. “Bạn nghĩ như thế nào thì sẽ thành
như thế ấy“ .
1. Ngồi tư thế Hoa Sen nếu có thể, nếu không bạn có thể ngồi trong một tư
thế thoải mái nào cũng được.
2. Ngối giữ lưng thật thẳng nhưng thoải mái, mắt nhắm lại.
3. Thở, chậm thật tự nhiên để làm lắng tâm.
4. Thu rút trí ra khỏi thế giới bên ngoài. Đừng nghĩ về bất cứ vấn đề gì, đừng
để ý đến tiếng động bên ngoài
5. Hãy tưởng tượng bạn đang ngồi một nơi yên tĩnh, vắng vẻ, chỉ có một
mình bạn thôi (ở đỉnh núi hoặc cạnh bờ hồ)
6. Bạn cảm thấy thật tự do và yên bình
7. Cố gắng cảm nhận tình thương của vũ trụ đang bao quanh ta, như một đại
dương vô tận của tình thương và hạnh phúc. Rồi, bạn lặp lại BABA NAM
KEVALAM trong trí bạn mãi mãi..Hít vào nhẩm trong trí BABA NAM. Thở ra
nhẩm KEVALAM.
Bạn hãy cảm thấy bạn hòa làm một với đại dương vũ trụ của tình thương và
hạnh phúc giống như một giọt nước hòa vào biển cả.
Cái năng lượng tích cực của vũ trụ này
là tình thương. Khi ta cảm nhận được tình
thương của vũ trụ trong sáng, ta cảm thấy
hạnh phúc. Cái hạnh phúc bên trong đó sẽ
đem lại cho ta sức mạnh hay năng lực làm
việc tốt hơn. Ban đầu ta có thể nghĩ nhiều
thứ, chưa tập trung được. Nhưng nếu ta
luyện tập đều đặn, sự tập trung tư tưởng
của ta sẽ tốt hơn.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
52
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

*LỢI ÍCH
- Lợi ích về thể chất:
+ Phát sinh phản ứng thư giản:,thực hành hai lần tương ứng với một giấc
ngủ sâu.
+ Phát triển sinh lực cho sức khỏe
+ Làm chậm nhịp đập của tim & trị chứng cao huyết áp.
+ Ngăn chặn những bệnh liên quan đến stress.
- Lợi ích về tinh thần:
+ Giảm bớt cảm giác không an toàn, căng thẳng và stress.
+ Một hướng đi và mục đích thực sư trong cuộc sống
+ Gia tăng trí nhớ & trí thông minh
+ Tăng sức chịu đựng và sự hiểu biết
+ Phát triển sự quân bình và khả năng hội nhập.
+ Gia tăng sự yên bình của trí
+ Trí thoát khỏi sự ảnh hưởng của giáo điều, mê tín và sợ hãi
+ Giảm đi sự tuyệt vọng & cáu kỉnh
+ Điều trị mất ngủ
+ Gia tăng sự minh mẫn
+ Tăng cường sự tự tin
+ Tư tưởng trong sáng.

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
53
Trường Đại học Thăng Long - Bài Tiểu luận Lý thuyết môn Giáo dục thể chất

KẾT LUẬN
Như vậy, Trường Đại học Thăng Long là trường đầu tiên mạnh dạn ứng
dụng các phương pháp thể dục dưỡng sinh cổ truyền vào bộ môn giáo dục thể
chất - sức khỏe. Bên cạnh nhữung bài tập hiện đại như bóng bàn, cầu lông,
dancesport… thì còn có cả môn dưỡng sinh cổ truyền, luyện khí công, xoa bóp
bấm huyệt, thiền dưỡng sinh… Điều này đã tạo nên sự kết hợp hài hòa giữa cổ
điển và hiện đại, vì vậy nó đã thu hút được sự nhiệt tình tham gia của các bạn
sinh viên.
Đối với bản thân tôi, thông qua chương trình đào tạo của Nhà trường tôi đã
nhận thức rõ được sức khỏe và tầm quan trọng của sức khỏe. Chính vì vậy mà
tôi ý thức được rằng mỗi người chúng ta cần phải thường xuyên luyện tập TDTT
dưới nhiều hình thức để giữ cho mình luôn luôn có một cơ thể khỏe mạnh và tạo
cho cuộc sống thêm nhiều điều tốt đẹp và nhiều niềm vui, hạnh phúc. Đặc biệt
qua sự hiểu biết của mình về môn Thiền, tôi thực sự cảm thấy yêu thích môn học
này vì khi tập Thiền sẽ giúp đầu óc thành thơi, có thời gian thư thái và ta có thể
tận dụng những khoảng thời gian yên tĩnh hiếm hoi này để tái tạo lại nguồn
năng lượng đã mất. Khi ta biết cách đạt tới trạng thái ổn định về tinh thần ta có
thể dễ dàng chế ngự được stress và vượt qua khủng hoảng, ổn định tinh thần,
làm tăng cường hệ thống miễn dịch, chia sẻ đau đớn để cơ thể không phải
đương đầu với những nỗi đau thể xác. Ngoài ra tập Thiền sẽ tăng cường khả
năng học tập, lao động và sáng tạo. Do đó, Thiền rất cần cho cuộc sống của
mỗi con người chúng ta.
Bài viết còn nhiều hạn chế do sự hiểu biết có hạn, rất mong nhận được sự
góp ý chân thành của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện và thu
được kết quả tốt hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

Sinh viên: Trần Thị Hồng Nhung MSV: A14001 - Lớp: QA21a9
54

You might also like