You are on page 1of 33

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ


----------------------------------------------------------------

ĐỀ TÀI:

“NHỮNG HẠN CHẾ CÒN TỒN TẠI


TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬT
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM
VÀ GIẢI PHÁP”

Giáo viên hướng dẫn : Ths. Nguyễn Thu Hằng


Lớp : TMA320.1

Nhóm : 1. Hoàng Đức Hiển 0851010061


2. Nguyễn Thanh Hoa 0851010508
3. Lê Minh Hoàn 0851010216
4. Nguyễn Minh Hoàng Linh 0851010022
5. Nguyễn Tùng Linh 0851010071
6. Nguyễn Hùng Mạnh 0851010026
7. Trần Bích Ngọc 0851010023
8. Nguyễn Quang Ngọc 0851010551
9. Tô Quang Phúc 0851010143
10. Huỳnh Thanh Hà Trang 0851010006
11. Nguyễn Thị Hà Trang 0851010017
12. Lê Huyền Trang 0851010041

Hà Nội, tháng 04 năm 2011


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG............................4
I. Lịch sử ra đời của thuế và phân biệt thuế............................................................................................4
II. Đặc điểm............................................................................................................................................6
III. Các văn bản pháp quy điều chỉnh.....................................................................................................6
IV. Những tồn tại đã được khắc phục từ 1997 đến 2008........................................................................8
CHƯƠNG II: NHỮNG KHÓ KHĂN CÒN TỒN TẠI TRONG QUÁ TRÌNH THI
HÀNH LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG........................................................................11
I. Luật thuế chưa theo kịp thực tế.........................................................................................................11
1.1. Bất cập về đối tượng chịu thuế và không chịu thuế.......................................................................11
1.2. Về phương pháp tính thuế.............................................................................................................12
1.3. Về thuế suất...................................................................................................................................12
1.4. Về thủ tục khấu trừ thuế................................................................................................................13
1.5. Về thủ tục hoàn thuế......................................................................................................................13
II. Tính hai mặt của việc giao quyền in hóa đơn cho doanh nghiệp......................................................14
2.1. Thuận lợi.......................................................................................................................................14
2.2. Khó khăn.......................................................................................................................................15
III. Những tồn tại trong công tác kế toán thuế GTGT tại các doanh nghiệp.........................................17
3.1. Về chế độ chứng từ hóa đơn..........................................................................................................18
3.2. Về tài khoản TK133 phản ánh thuế GTGT được khấu trừ.............................................................19
3.3. Về tài khoản TK3331....................................................................................................................19
3.4. Về phương pháp tính thuế.............................................................................................................20
3.5. Những tồn tại trong việc thu thuế GTGT tại các hộ kinh doanh cá thể..........................................21
IV. Ý thức của người tiêu dùng............................................................................................................21
4.1. Không có thói quen lấy hóa đơn khi mua hàng..............................................................................22
4.2. Không phản ứng với thông tin ghi trên hóa đơn............................................................................24
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN HIỆU QUẢ LUẬT
THUẾ GTGT..........................................................................................................................26
I. Đối với Nhà nước..............................................................................................................................26
II. Đối với doanh nghiệp:.....................................................................................................................26
III. Đối với người tiêu dùng:................................................................................................................28
KẾT LUẬN.............................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................30
LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Những qui luật kinh tế khách quan và tất yếu đang từng giờ, từng phút điều chỉnh
nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của từng khu vực, từng quốc gia và bản thân mỗi
chúng ta. Chúng ta cần phải hiểu các qui luật đó và tự điều chỉnh bản thân cho phù
hợp với diễn biến của qui luật. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế trong khu vực
tiến đến toàn cầu hóa nền kinh tế đang dần chứng tỏ là một qui luật của loài người
tiến bộ. Để bắt kịp với quá trình này thì mỗi quốc gia phải liên tục có những cải
cách nhằm làm phù hợp và thích nghi với môi trường bên ngoài. Những cải cách về
thuế của thế giới nhằm tăng sức cạnh tranh trên các lĩnh vực về thương mại mậu
dịch, nguồn lao động .đã có những ảnh hưởng không nhỏ đối với các quốc gia.

Đối với Việt Nam khi Hiệp định về thuế quan AFTA, Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ và khi gia nhập WTO, những biến đổi về cơ cấu thuế và nguồn thu ngân
sách là một điều không thể tránh khỏi. Nhận thức được điều đó, nước ta đã và đang
tiến hành cuộc cải cách thuế nhằm hoàn thiện hệ thống thuế còn nhiều thiếu sót của
mình nhằm đáp ứng được đòi hỏi của thời kì mới.

Từ hơn 40 năm qua, trong hệ thống thuế của các nước trên thế giới, thuế giá trị
gia tăng chiếm một vị trí rất quan trọng. Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián
thu, người tiêu dùng là người chịu thuế nhưng người bán hàng là người nộp thuế.
Nó có vai trò điều tiết thu nhập để đảm bảo công bằng xã hội, vai trò tạo lập nguồn
tài chính cho ngân sách Nhà nước, vai trò điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thông qua
điều tiết tiêu dùng và tiết kiệm. Vai trò to lớn của thuế nói chung và thuế giá trị gia
tăng nói riêng không thể phủ nhận.

Ngày 10/5/1997, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá
IX trong kỳ họp thứ 11 đã biểu quyết thông qua Luật thuế giá trị gia tăng (Thuế
GTGT). Luật thuế mới này ra đời thay thế luật Thuế Doanh thu được áp dụng từ
năm 1990 để góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hoá, dịch vụ,
khuyến khích phát triển nền kinh tế quốc dân, động viên một phần thu nhập của

1
người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước. Luật thuế giá trị gia tăng đầu tiên có hiệu
lực thi hành từ ngày 1/1/1999.

Điểm lại quá trình thực hiện Luật thuế GTGT sau nhiều năm được đưa vào áp
dụng, các mặt tích cực và tiêu cực trong việc thi hành Luật đã bộc lộ rõ: Số thu ngân
sách tăng lên theo từng năm, Thuế GTGT không thu trùng lắp, các mức thuế suất ít
hơn nhiều so với Luật thuế doanh thu.Tuy nhiên, việc áp dụng Luật thuế GTGT còn
nhiều vấn đề nổi cộm về chính sách như hai phương pháp tính thuế tạo ra hai “sân
chơi” không bình đẳng, việc lợi dụng chủ trương hoàn thuế nhằm khuyến khích
xuất khẩu của nhà nước làm hồ sơ giả rút ruột, moi tiền của nhà nước, việc lợi dụng
những kẽ hở để trốn lậu thuế.

Làm thế nào để Thuế GTGT thực sự trở thành một sắc thuế tiến bộ, phù hợp
với nền kinh tế Việt Nam thúc đẩy sản xuất cũng như tạo lập một nguồn thu ổn
định, dồi dào cho ngân sách nhà nước đang trở thành một câu hỏi bức xúc đối với
những nhà lập pháp, những nhà quản lý.

Trong khuôn khổ một tiểu luận, là sinh viên Đại học Ngoại Thương có điều
kiện được nghiên cứu về thuế, đặc biệt là Thuế GTGT, với những hiểu biết tuy còn
rất hạn chế chúng em xin trình bày một nghiên cứu về Thuế GTGT với nội dung
“Những hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện luật thuế giá trị gia tăng ở Việt
Nam và giải pháp” làm tiểu luận. Những suy nghĩ dưới đây được định hướng theo
những yêu cầu và mục tiêu của Chính phủ cho Bộ Tài Chính trong việc nghiên cứu
sửa đổi Luật thuế GTGT mà chúng em có điều kiện tiếp xúc với cô Hà Thị Thanh
Hương - Phó trưởng phòng thanh tra Cục Thuế tỉnh Phú Yên.

Tiểu luận này có kết cấu gồm 3 chương

Chương I: Khái quát chung về Thuế GTGT

Chương II: Khó khăn hiện tại trong việc hành thu Thuế GTGT

Chương III: Giải pháp kiến nghị nhằm thực hiện hiều quả luật thuế GTGT

2
Chúng em xin chân thành cảm ơn Ths. Nguyễn Thu Hằng, đã trực tiếp chỉ bảo
tận tình và hướng dẫn chúng em hoàn thành tiểu luận này. Đồng thời chúng em
muốn gửi lời cảm ơn đến cô Hà Thị Thanh Hương đã giúp đỡ, hỗ trợ chúng em
trong quá trình làm tiểu luận.Có thể nói đây là một đề tài mang tính thời sự trong
thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh nghiệm thực tế, nguồn tài liệu và
thời gian nên tiểu luận này còn rất nhiều thiết sót. Chúng em rất mong nhận được sự
góp ý của thầy cô và các bạn để tiểu luận được tốt hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 14 tháng 04 năm 2011

3
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

I. Lịch sử ra đời của thuế và phân biệt thuế

Lịch sử nước ta mặc dù đã hình thành từ rất lâu nhưng cho đến tận Thể kỷ XI,
đời vua Trần Thái Tông (1225 - 1237) thì việc đánh thuế mới được hình thành một
cách có tổ chức và có hệ thống.

1. 1. Chế định thuế dưới thời phong kiến

Ngay từ thời phong kiến, các cấp lãnh đạo dưới chế độ quân chủ đã biết tổ
chức hệ thống thu thuế để làm nguồn thu cho công quỹ của nhà Vua. Tuy vậy từ các
triều đại nhà Trần trở về sau này, sự tổ chức, cách đánh thuế và thu thuế mới được
ghi chép và có hệ thống.

1.2. Chế định thuế dưới thời Pháp thuộc

Chính phủ thuộc địa Pháp đặt ra các thuế ngoại ngạch tức là loại thuế gián thu
như thuế tiêu thụ thuốc lá, thuế rượu, thuế muối, thuế đoan (thuế quan); thuế trực
thu thì có thuế môn bài, thuế thổ trạch.

1.3. Chế định thuế thời kỳ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 - 1975

Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 đến năm 1954

Chính phủ ta chủ trương bãi bỏ hẳn sắc thuế mang tính chất phi nhân đạo như:
thuế thân, thuế thổ trạch ở thôn quê và một số tạp thuế vô lý, miễn thuế điền thổ cho
vùng bị lụt và giảm thuế điền 20% trong toàn quốc; đình chỉ thu thuế ở miền Nam.

Chính sách pháp luật thuế thống nhất bao gồm 7 loại thuế là: thuế nông
nghiệp, thuế công thương nghiệp, thuế hàng hóa, thuế xuất nhập khẩu, thuế sát sinh,
thuế trước bạ, thuế tem.

Giai đoạn từ năm 1954 - 1975

Sau hiệp định Geneve, Chính phủ ban hành các Luật thuế mới trên cơ sở sửa
đổi, bổ sung các chế độ thuế đã ban hành từ năm 1951 ở vùng tự do cũ để áp dụng

4
thống nhất, bao gồm 12 loại thuế sau: Thuế doanh nghiệp, thuế hàng hóa, thuế sát
sinh, thuế buôn chuyến, thuế thổ trạch, thuế kinh doanh nghệ thuật, thuế môn bài,
thuế trước bạ, thuế muối, thuế rượu. Thuế xuất nhập khẩu và chế độ thu quốc
doanh.

1.4. Giai đoạn từ năm 1975 - 1990

Thời kỳ 1975 - 1980

Miền bắc vẫn tiếp tục thực hiện hệ thống pháp luật thuế đã ban hành từ trước,
có sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Còn miền Nam thì có áp dụng một số loại
thuế cũ của chính quyền Sài Gòn trên cơ sở xóa bỏ một số loại thuế phản tiến bộ và
sửa đổi bổ sung để thích ứng với điều kiện đất nước thống nhất.

Thời kỳ 1980 -1990

Cả nước áp dụng hệ thống pháp luật thuế thống nhất, nhưng hệ thống pháp
luật thuế hiện hành này ngày càng tỏ ra có nhiều nhược điểm, cản trở sự phát triển
các yếu tố của nền kinh tế thị trường đang nảy sinh với các đặc điểm:

- Sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp quốc doanh
thì thực hiện chếđộ thu quốc doanh, thu trích nộp lợi nhuận cùng với các hình thức
thu khác, trong khi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác lại chịu sự
tác động của thuế.

- Thu quốc doanh thu đã bộc lộ nhiều nhược điểm căn bản. Về thực chất, đây
là một loại thuế đa thuế suất với hàng trăm thuế suất; điều này đặc biệt gây khó
khăn cho việc quản lý và hành thu.

1.5. Giai đoạn từ 1990 đến nay

Giai đoạn này được đặc trưng bởi sự hình thành một hệ thống pháp luật thuế
hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay, bao gồm 9 loại thuế: Thuế nông nghiệp, thuế
doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên,
thuế thu nhập, thuế nhà đất, thuế vốn. Ngoài ra còn có một số phí và lệ phí có tính
chất như thuế như: lệ phí môn bài, lệ phí trước bạ, lệ phí giao thông, thuế sát sinh.

5
II. Đặc điểm

Thuế GTGT là thuế Thuế GTGT là thuế đánh trên khoản giá trị tăng thêm của
hàng hóa, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến
tiêu dùng. Có các đặc điểm sau :

- Thuế GTGT là thuế tiêu dùng nhiều giai đoạn ko trùng lặp.

- Thuế GTGT có tính trung lập kinh tế cao.

- Thuế GTGT ko chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi kết quả kinh doanh của người nộp
thuế.

- Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi quá trình tổ chức và phân chia
các chu trình kinh tế.

- Thuế GTGT ko tham gia vào các mục tiêu ưu đãi,khuyến khích đối với một số
ngành nghề,lĩnh vực hay một loại hàng hoá dịch vụ nào.Thuế GTGT ko bóp méo giá cả
hàng hoá.

- Thuế GTGT là thuế gián thu.

- Thuế GTGT có tính luỹ thoái trong việc thu nhập DN.

III. Các văn bản pháp quy điều chỉnh

3.1. Luật

- Văn bản luật đầu tiên về thuế giá trị gia tăng được Việt Nam ban hành là Luật số
02/1997/QH9 ngày 10/05/1997 của Quốc hội về thuế giá trị gia tăng có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/1999 được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10/05/1997

- Luật số 07/2003/QH11 ngày 17/06/2003 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật thuế giá trị gia tăng được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2004

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế Giá
trị gia tăng của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 57/2005/QH11
ngày 29/11/2005 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng ngày
10/05/1997 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế
giá trị gia tăng ngày 17/06/2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006.

6
- Luật thuế Giá trị gia tăng của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 13/2008/QH12
ngày 3/6/2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 thay thế cho 2 văn bản luật là Luật
số 02/1997/QH9 ngày 10/05/1997 và Luật số 07/2003/QH11 ngày 17/06/2003

3.2. Nghị định

- Nghị định đầu tiên được ban hành là Nghị định số 28/1998/NĐ-CP ngày
11/05/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng. Căn cứ Luật
tổ chức Chính phủ ngày 30/9/1992; Căn cứ Luật thuế giá trị gia tăng số 02/1997/QH9
ngày 10/5/1997; Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính

- Từ năm 2000 đến năm 2008, rất nhiều các Nghị định về chi tiết thi hành Luật thuế
giá trị gia tăng được ban bố như Nghị định số 15/2000/NĐ-CP ngày 09/05/2000, Nghị định
của Chính phủ số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000, Nghị định của Chính phủ số
76/2002/NĐ-CP ngày 13/9/2002, Nghị định của CP số 95/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002,
Nghị định số 108/2002/NĐ-CP ngày 25/12/2002, Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày
10/12/2003, Nghị định của Chính phủ số 148/2004/NĐ-CP ngày 23/7/2004

- Và gần đây nhất là Nghị định của Chính phủ số 123/2008/NĐ-CP ngày 8/12/2008
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2009 và thay thế các Nghị định: số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003, số
148/2004/NĐ-CP ngày 23/07/2004 và các quy định về thuế giá trị gia tăng tại Nghị định số
156/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ.

3.3. Thông tư

- Thông tư đầu tiên được ban hành là Thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998
của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 28/1998/NĐ-CP ngày 11/05/1998 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng.

- Từ năm 1999 đến năm 2008, hàng loạt các Thông tư được ban hành để hướng dẫn
thi hành Luật thuế giá trị gia tăng. Và năm 2008, Thông tư của Bộ Tài chính số
129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị
gia tăng và hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng
được ban hành, áp dụng từ 01/01/2009, thay thế các Thông tư số 32/2007/TT-BTC ngày
9/4/2007 và Thông tư số 30/2008/TT-BTC ngày 16/4/2008 của Bộ Tài chính.

7
IV. Những tồn tại đã được khắc phục từ 1997 đến 2008

Luật thuế giá trị gia tăng đầu tiên được thông qua ngày 10 tháng 5 năm 1997 tại kỳ
họp thứ 11 Quốc hội khoá IX và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1999. Việc
ban hành Luật thuế giá trị gia tăng để thay thế cho Luật thuế doanh thu theo Chương trình
cải cách thuế bước II đã được Bộ chính trị, Quốc hội và Chính phủ thông qua. Trong quá
trình triển khai thực hiện, Luật thuế giá trị gia tăng được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhằm
tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của
Việt Nam.

 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng năm 2003

 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá
trị gia tăng năm 2005.

 Luật thuế giá trị gia tăng số 13/QH12 năm 2008

4.1. Về diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng

Luật thuế GTGT năm 1997 quy định 28 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá
trị gia tăng . Tuy nhiên trong quá trình thực hiện và cùng với quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, một số hàng hoá, dịch vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế giá trị
gia tăng sẽ không còn phù hợp, gây bất lợi cho sản xuất kinh doanh.

Tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008, đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng đã
được rà soát, sửa đổi, bổ sung, chuyển sang đối tượng chịu thuế nhằm đảm bảo tính liên
hoàn của thuế giá trị gia tăng và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở sản xuất, kinh doanh.

Mặt khác, Luật thuế giá trị gia tăng quy định một số dịch vụ tài chính cụ thể thuộc
diện không chịu thuế giá trị gia tăng, nhưng trong thực tiễn thi hành đã xuất hiện ngày càng
nhiều các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong Luật, bao gồm các dịch vụ tài
chính phái sinh và các giao dịch chuyển nhượng vốn.

Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 quy định bổ sung Chuyển nhượng vốn và các
dịch vụ tài chính phái sinh vào diện không chịu thuế giá trị gia tăng để đảm bảo bao quát
được các dịch vụ mới phát sinh, phù hợp với thông lệ quốc tế.

8
4.2. Thuế suất thuế giá trị gia tăng

Mức thuế suất 5% là mức thuế suất ưu đãi, được áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ là
đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện, Luật thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi, bổ sung, diện
áp dụng mức thuế suất 5% cũng được mở rộng tuy nhiên chưa theo đúng nguyên tắc nêu
trên. Dẫn đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất
này không những không phải nộp thuế mà còn được hoàn thuế từ ngân sách Nhà nước.

Năm 2008, Luật điều chỉnh thuế suất từ mức 5% sang 10% chủ yếu là đối với hàng
hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất kinh doanh. Việc điều chỉnh này là từng bước thực
hiện Chương trình cải cách thuế và phù hợp với thực tiễn nước ta.

Luật thuế giá trị gia tăng vừa quy định chi tiết danh mục hàng hoá, dịch vụ áp dụng
mức thuế suất 5%, vừa quy định chi tiết danh mục hàng hoá, dịch vụ áp dụng mức thuế
suất 10%. Trong thực tế, nhiều hàng hoá, dịch vụ mới phát sinh nhưng chưa có trong danh
mục; mặt khác, tiêu chí phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất chưa rõ ràng dẫn đến
việc áp dụng mức thuế suất không thống nhất, nảy sinh vướng mắc trong quá trình thực
hiện.

Luật 2008 không liệt kê các nhóm hàng hoá, dịch vụ áp dụng mức thuế suất 10% mà
sử dụng phương pháp loại trừ, theo đó, hàng hoá, dịch vụ áp dụng thuế suất 10% là các
hàng hoá, dịch vụ còn lại không thuộc diện áp dụng các mức thuế suất 0%, 5%.

Ngoài ra sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Dịch vụ vận tải quốc tế được bổ sung vào
đối tượng áp dụng thuế suất 0% để khuyến khích phát triển hoạt động vận tải quốc tế của
doanh nghiệp Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.

4.3. Điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế

Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung quy định căn cứ khấu trừ,
hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào là hoá đơn giá trị gia tăng mua hàng hoá, dịch vụ. Thực
tiễn quản lý thuế cho thấy quy định nêu trên chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị lợi dụng
khấu trừ khống hoặc hoàn thuế khống thông qua việc sử dụng hoá đơn ghi chép không
trung thực với thực tế giao dịch và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để gian lận trong
khấu trừ.

9
Quy định rõ điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào tại Luật. Trong đó, bổ
sung quy định về điều kiện có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch
vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng. Điều
này giúp ngăn chặn các hành vi mua bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp, gian lận trong
khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng , chống thất thu ngân sách, tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng, lành mạnh.

Luật thuế giá trị gia tăng trước năm 2008 quy định thuế giá trị gia tăng đầu vào của
hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế thì
được khấu trừ toàn bộ, trường hợp dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch
vụ chịu thuế và không chịu thuế thì chỉ được khấu trừ số thuế giá trị gia tăng đầu vào của
hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia
tăng. Quy định này là chưa hợp lý và thực tế khó thực hiện do không thể xác định được số
thuế khấu trừ của tài sản cố định trong trường hợp sử dụng chung.

Bổ sung quy định thuế đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng và không chịu thuế giá trị gia tăng
thì được khấu trừ toàn bộ. Điều này có tác dụng khuyến khích đầu tư và đảm bảo phù hợp
với thực tiễn.

10
CHƯƠNG II: NHỮNG KHÓ KHĂN CÒN TỒN TẠI TRONG
QUÁ TRÌNH THI HÀNH LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

I. Luật thuế chưa theo kịp thực tế:

Luật thuế Giá trị gia tăng (GTGT) sửa đổi từ luật thuế GTGT năm 2005, đã
được thông qua ngày 03/06/2008 tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XII, có hiệu lực
thi hành từ ngày 1/1/2009. Qua quá trình Luật thuế GTGT đi vào cuộc sống đã tác
động tích cực đến nhiều mặt kinh tế, xã hội của đất nước và đạt được mục tiêu đề ra
của Luật. Tuy nhiên qua thực tế thực hiện, Luật thuế GTGT đã phát sinh một số bất
cập, chưa phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế cũng như xu hướng hội
nhập.

1.1. Bất cập về đối tượng chịu thuế và không chịu thuế

Trong tình hình hiện nay, khi nông dân trong nước gặp nhiều khó khăn do quá
trình hội nhập, giá vật tư lên cao, lại thêm thiên tai và dịch bệch, thì việc đặt mức
thuế suất 5% đối với một số sản phẩm hàng hóa đầu vào của sản xuất nông nghiệp
như : dịch vụ đào đắp, nạo vét kênh mương, ao hồ phục vụ sản xuất nông nghiệp,
nuôi trồng chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng, sơ chế, bảo quản nông
nghiệp (mục d, khoản 2, điều 8 Luật thuế GTGT) là chưa phù hợp. Các dịch vụ đầu
vào của sản xuất nông nghiệp này nên đưa vào diện không chịu thuế, tạo điều kiện
cho nông dân có điều kiện sử dụng chúng, góp phần nâng cao năng suất và đời
sống. Hơn nữa, với mục tiêu cơ giới hóa nông nghiệp, cũng nên đưa các đối tượng
máy móc phục vụ nông nghiệp (có thuế suất GTGT 5%, quy định tại mục k khoản
2, điều 8) vào diện miễn thuế. Tương tự, với chính sách phổ cập giáo dục thì mục
(m) Khoản 2, Ðiều 8 quy định các sản phẩm phục vụ giáo dục, học tập thuộc diện
chịu thuế suất 5% là không hợp lý trong giai đoạn hiện nay. Đối với mặt hàng, máy
móc nhập khẩu phục vụ cho lĩnh vực nông nghiệp, cần xem xét điều chỉnh thời hạn
nộp thuế GTGT khi nhập khẩu. Điều này sẽ giúp ích nhiều cho doanh nghiệp nhập
khẩu, tạo điều kiện cho nông dân sử dụng máy móc hiện đại, đảm bảo mục tiêu cơ
giới hóa nông nghiệp. Mặt khác, trong thực tế hiện nay, quy định 25 đối tượng

11
không chịu thuế vẫn là quá rộng, gây khó khăn cho việc hành thu cũng như không
đảm bảo được tính liên hoàn của thuế GTGT. Do đó, việc điều chỉnh đối tượng chịu
thuế, đối tượng không chịu thuế là thực sự cần thiết trong thời gian tới.

1.2. Về phương pháp tính thuế

Luật thuế GTGT hiện hành quy định hai phương pháp tính thuế GTGT là khấu
trừ thuế và tính trực tiếp trên GTGT. Điều này đã và sẽ lại dẫn đến sự bất bình đẳng
giữa các cở sở kinh doanh khi cùng tham gia thị trường nhưng lại có cách tính thuế
và hưởng chế độ khấu trừ khác nhau. Thêm vào đó, phương pháp tính trực tiếp trên
GTGT không phải là phương pháp dùng để tính và thu thuế trong thực hành thuế.
Đây chỉ là thể hiện cách tiếp cận khoa học trong nghiên cứu nhằm chỉ rõ thuế
GTGT là loại thuế đánh vào phần giá trị tăng thêm mỗi khi có GTGT xuất hiện.
Phần lớn các cơ sở kinh doanh đang áp dụng phương pháp tính trực tiếp này đều
không thực hiện tốt chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ. Do vậy, trong thực tiễn các
cơ quan thuế thường xác định GTGT thông qua việc ấn định tỷ lệ GTGT hoặc ấn
định doanh thu. Có trường hợp do xác định GTGT quá cao, dẫn đến mức nộp thuế
GTGT trên doanh thu thực tế của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, nên các cơ sở kinh
doanh có xu hướng kê khai doanh thu thấp hơn thực tế rất nhiều để trốn thuế. Như
thế, thuế GTGT chỉ tồn tại về mặt lý thuyết. Vì vậy, nên bỏ phương pháp tính thuế
trực tiếp trên GTGT và có thể cho áp dụng sớm ngưỡng thu thuế GTGT. Cơ sở kinh
doanh có doanh thu đến một mức doanh thu nhất định nào đó mới áp dụng thuế
GTGT và chỉ áp dụng thống nhất phương pháp khấu trừ thuế. Sử dụng phương pháp
này sẽ giảm được lãng phí do việc quản lý thu thuế tốn kém, không hiệu quả các cơ
sở kinh doanh có doanh số thấp. Các cơ sở có doanh thu dưới ngưỡng thu thuế
GTGT có thể được áp dụng mức thuế khoán doanh thu.

1.3. Về thuế suất

Luật thuế GTGT hiện tại vẫn quy định 3 mức thuế suất : 0%, 5% và 10%.
Thực tế cho thấy, càng nhiều mức thuế suất, càng dễ tạo sự nhập nhằng và tùy tiện
khi vận dụng, trốn lậu thuế, tăng chi phí kiểm soát, thanh tra thuế, làm giảm hiệu

12
quả của thuế. Nếu như luật chỉ quy định 2 mức thuế suất 10% và 0%, chỉ xác định
đối tượng chịu thuế 0%, dùng phương pháp loại trừ để ấn định những đối tượng
chịu thuế 10%, thì có thể đảm bảo được tính trung lập của thuế và tính thống nhất
trong áp dụng.

1.4. Về thủ tục khấu trừ thuế

Các đối tượng nộp thuế thường lợi dụng thủ tục khấu trừ thuế để trốn tránh
nghĩa vụ nộp thuế GTGT. Vì vậy, việc quy định về các điều kiện để được khấu trừ
thuế GTGT đầu vào là rất cần thiết. Đặc biệt, cần có điều kiện về chứng từ thanh
toán qua ngân hàng đối với hàng hoá dịch vụ mua vào, trừ các trường hợp đặc biệt
và hàng hoá dịch vụ mua từng lần có giá trị thấp. Thêm vào đó, nên làm rõ mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ ở mức bao nhiêu thì mới cần thiết phải có chứng từ qua
ngân hàng và đòi hỏi phải có các hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh phải có
thực trên thực tế,bởi lẽ trong thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp, việc mua
bán khống hàng hoá nhằm mục đích rửa tiền là điều vẫn xảy ra. Ngoài ra, trong quá
trình hoàn thiện Luật thuế GTGT, việc loại trừ dần đối tượng được hoàn thuế như:
hoá đơn bán hàng thông thường, hàng hoá nông lâm thuỷ hải sản... lập bảng kê,
không có hoá đơn chứng từ v.v... để giảm thiểu các trường hợp gian lận trong hoàn
thuế GTGT, đảm bảo được mục tiêu yêu cầu của việc hoàn thuế, là vô cùng quan
trọng.

1.5. Về thủ tục hoàn thuế

Vẫn còn rất nhiều bất cập. Cụ thể như quy định “Cơ sở kinh doanh nộp thuế
giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn thuế giá trị gia tăng nếu
trong ba tháng liên tục trở lên có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ
hết” (Khoản 1, điều 13) và “Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ
xuất khẩu nếu có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ hai trăm
triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng theo tháng” đã gây không ít
khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc quay vòng vốn. Thủ tục, giấy
tờ đề nghị hoàn thuế hiện nay vẫn còn rườm rà phức tạp, cùng với thời hạn giải

13
quyết dài cũng là trở ngại lớn cho doanh nghiệp. Điều này đi ngược với chính sách
tiền tệ cũng như các chính sách hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp trong nước hiện
nay.

II. Tính hai mặt của việc giao quyền in hóa đơn cho doanh nghiệp

Theo Nghị định 51/2010/NĐ-CP, từ 1-1-2011, các doanh nghiệp sẽ phải tự in


hóa đơn hoặc dùng hóa đơn điện tử, tự chủ trong việc sử dụng hóa đơn thay mua và
sử dụng hóa đơn do Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế phát hành. Đây được xem là thay
đổi quan trọng trong nhận thức và việc sử dụng hóa đơn chứng từ trên toàn quốc,
xóa bỏ tình trạng doanh nghiệp xếp hàng chờ mua hóa đơn tại cơ quan thuế.

Theo quy định mới, cơ quan thuế chỉ còn bán hóa đơn cho bốn đối tượng là hộ
kinh doanh cá thể và tổ chức không kinh doanh, DN siêu nhỏ (sử dụng tối đa 10 lao
động thường xuyên, chưa kể lao động ký hợp đồng dưới ba tháng), DN hoạt động
tại địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, không đủ điều kiện tự in
hoá đơn..

Việc báo cáo sử dụng hóa đơn sẽ được thực hiện theo từng quý thay vì theo
tháng như hiện nay.

2.1. Thuận lợi

Đây là 1 nghị định được đánh giá là mang lại nhiều thuận lợi rõ rệt cho phía
doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp giảm được rất nhiều những phiền hà trong thủ
tục xin mua hóa đơn để chủ động tập trung cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Theo quy định cũ, bộ phận ấn chỉ của các cơ quan thuế địa phương thường
dựa vào tình hình sử dụng hóa đơn mà doanh nghiệp báo cáo của tháng trước làm
căn cứ để quy định số lượng hóa đơn doanh nghiệp được phép mua sử dụng cho
tháng sau. Điều này hoàn toàn phi lý vì công việc kinh doanh không phải lúc nào
cũng như nhau, có khi tháng trước giao dịch ít nhưng tháng sau do vào mùa cao
điểm nên lượng khách hàng của doanh nghiệp sẽ tăng hơn nhiều. Như vậy, yêu cầu
chính đáng của doanh nghiệp có thể bị bác bỏ.

14
Một khó khăn khác là nếu mua hóa đơn vào thời điểm cuối tháng, cơ quan
thuế không chấp nhận bán với lý do bận tổng kết, báo cáo... trong khi doanh nghiệp
không có hóa đơn để giao dịch. Trong những trường hợp này, cơ quan thuế chỉ giải
quyết cho mua ở đầu tháng kế tiếp và khi xuất hóa đơn cho khách hàng, doanh
nghiệp chỉ được phép xuất từ thời gian mua hóa đơn trở đi chứ không được ngược
lại.

Những rắc rối như các trường hợp nói trên đã làm tốn nhiều thời gian, công
sức cũng như gây rắc rối không đáng có cho doanh nghiệp.

Theo quy định mới, doanh nghiệp sẽ hoàn toàn tự chủ trong việc in và phát
hành hóa đơn. DN được quyền quyết định in số lượng hoá đơn tuỳ theo nhu cầu sử
dụng, thậm chí có thể đặt in trước số hoá đơn để sử dụng trong nhiều năm mà không
cần phải đăng ký, chỉ khi nào phát hành mới phải thông báo với cơ quan thuế.

Nội dung trên hóa đơn, trừ những phần quan trọng bắt buộc, doanh nghiệp có
thể thay đổi để mang dấu ấn riêng của doanh nghiệp, góp phần quảng bá hình ảnh.
Mặt khác, việc quản lí đối với hóa đơn sẽ liên quan trực tiếp tới lợi ích của doanh
nghiệp, giảm các doanh nghiệp “ma” chuyên để mua bán hóa đơn.

2.2. Khó khăn

Việc thực hiện theo quy định mới được giải thích khá đầy đủ và rõ ràng trong
nghị định 51/2010/NĐ-CP(tháng 5/2010), và thông tư 3153/2010/TT-BTC ngày
28/9/2010, việc thực hiện cũng đã bắt đầu trong quý I/2011, tuy nhiên, các doanh
nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Thứ nhất là khó khăn trong quá trình thực hiện

Nhiều DN lo ngại, khi cơ chế “xin - cho” trong việc mua hóa đơn hiện nay sẽ
chuyển sang cơ chế “xin - cho” trong việc “xin công văn” chấp thuận cho tự in hóa
đơn. Liệu những tiêu cực trong cơ chế này có giảm đi hay tăng lên? Các doanh
nghiệp sẽ thuận lợi hơn hay lại bị “hành” nhiều hơn?

15
Mặt khác, đối với các doanh nghiệp có nhu cầu hóa đơn nhỏ, vấn đề chi phí in
ấn cũng gây trở ngại. Thực tế, với các cơ sở in, số lượng in càng lớn thì giá một
quyển hóa đơn sẽ càng thấp và ngược lại. Với mức giá khoảng 30.000-50.000 đồng
một quyển hóa đơn, chi phí cho hoạt động của doanh nghiệp chưa chắc đã được
giảm nhiều.

Cũng theo quy định, trên hóa đơn sẽ phải in cả địa chỉ doanh nghiệp cũng gây
lo ngại sẽ dẫn đến tình trạng hàng loạt hóa đơn đã in không sử dụng được vì nhiều
trường hợp doanh nghiệp buộc phải chuyển trụ sở chính do hết hạn hợp đồng thuê
hoặc do bị nâng giá thuê văn phòng đến mức không thể chịu đựng được.

Cuối cùng, là vấn đề năng lực các cơ sở in có để đáp ứng nhu cầu in hóa đơn
của hàng trăm ngàn doanh nghiệp đang hoạt động? Thực tế trong thời gian chuyển
đổi (2 quý cuối năm 2010), số lượng doanh nghiệp cần in hóa đơn quá lớn, dẫn tới
tình trạng quá tải tại các nhà in. Tại Chi nhánh Công ty Viễn thông và in Bưu điện,
1 doanh nghiệp đủ điều kiện in hóa đơn, tổng số doanh nghiệp đến đặt hàng lên tới
2.000. Số doanh nghiệp này đến từ khắp nơi trên cả nước như: Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... Nhiều doanh nghiệp đặt lượng hóa đơn lớn để sử dụng từ
1 đến 3 năm. Do đó, để đáp ứng hết yêu cầu của khách hàng không phải là điều đơn
giản. Hiện nay, trên địa bàn cả nước con số doanh nghiệp có nhu cầu in, đặt in hóa
đơn ước tính là khoảng 400.000 doanh nghiệp có nhu cầu in, đặt in hóa đơn

Thứ hai là khó khăn trong quản lí hóa đơn.

Trao cho doanh nghiệp toàn quyền in hóa đơn, bao gồm cả ký hiệu quyển, số
sê-ri, là phương án tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp. Song, cũng cần
có những biện pháp ngăn chặn tình trạng gian lận trong phát hành hóa đơn để trốn,
lậu thuế. Chẳng hạn, nếu với cùng một sê-ri, doanh nghiệp sử dụng phát hành cho
nhiều lần bán hàng nhưng chỉ kê khai thuế cho một lần thì khó có thể kiểm tra, phát
hiện.

Giả sử trường hợp DN bắt tay với nhiều DN khác cùng xuất một số hoá đơn để
trục lợi. Ví dụ như doanh nghiệp thép trong kinh doanh mua bán với đơn vị xây

16
dựng, đơn vị này có thể muốn lập chứng từ khống, và câu kết với chính nội bộ
doanh nghiệp thép để in hóa đơn bất hợp pháp. Nếu quản lý không tốt thì sẽ tạo cơ
hội cho những hành vi loại này.

Mặt khác, nếu kiểm tra, phát hiện được thì chế tài xử phạt như thế nào? Kiểm
tra việc phát hành hóa đơn của các doanh nghiệp trong cả nước là công việc không
đơn giản. Mặc dù trong những năm qua, ngành thuế đã ứng dụng công nghệ thông
tin ở khá nhiều lĩnh vực, song liệu vẫn chưa có một hệ thống thống nhất trong toàn
quốc để kiểm tra việc phát hành hóa đơn của các doanh nghiệp.

Nhiều DN phân vân về trách nhiệm của DN quá lớn khi được giao quyền tự
chủ hoá đơn, trong khi việc bị nhà in lợi dụng in thêm hoá đơn hoặc bị đơn vị khác
giả mạo hoá đơn... nằm ngoài tầm kiểm soát của DN.

III. Những tồn tại trong công tác kế toán thuế GTGT tại các doanh
nghiệp

Kế toán là một công cụ rất quan trọng trong công tác tính thuế và kiểm tra
thuế đối với Nhà nước. Đặc biệt là với thuế GTGT, kế toán đã trở thành một công
cụ không thể thiếu cho việc thu thuế của cơ quan thuế. Việc xác định số thuế đầu ra,
đầu vào, thuế phải nộp, đều phải dựa trên số liệu thực tế được phản ánh qua hoạt
động kế toán. Chính vì vậy, nếu các doanh nghiệp cũng như các hộ kinh doanh cá
thể không tổ chức tốt công tác kế toán theo quy định thì sẽ rất khó khăn cho việc
thực hiện luật thuế GTGT. Việc thực hiện luật thuế GTGT ở nước ta nhằm mục tiêu
là hình thành cơ chế thuế phù hợp với quá trình tham gia, hội nhập và mở rộng quan
hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới. Nhất là khi
chúng ta thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo Hiệp định AFTA thì việc thu thuế
GTGT càng có ý nghĩa quan trọng cho việc đảm bảo nguồn thu và bảo hộ hợp lý
cho sản xuất trong nước. Xem xét tình hình kế toán ở các doanh nghiệp và các hộ
kinh doanh cá thể để thấy rõ thực trạng vấn đề này.

Doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp có hoạt động chính là mua hàng
vào và bán hàng ra. Loại hình doanh nghiệp này tiến hành hoạt động kinh doanh

17
trên cả thị trường trong và ngoài nước nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Với quy mô kinh
doanh rộng như vậy nên trong thực tế đã nảy sinh nhiều vấn đề cần xem xét.

3.1. Về chế độ chứng từ hóa đơn

Theo Luật thuế GTGT, nhiều hóa đơn đặc thù được ban hành nhằm thể hiện rõ
nội dung hoạt động kinh tế giữa các bên tham giá. Tuy nhiên, số lượng thể loại hóa
đơn ấy vẫn chưa thật đủ để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, cụ thể là
những trường hợp sau:

Khi doanh nghiệp bán hàng thì có hóa đơn bán hàng, hóa đơn GTGT để phản
ánh hoạt động bán hàng của doanh nghiệp. Nhưng vì lý do nào đó, khách hàng trả
lại hàng đã mua cho doanh nghiệp. Hàng hóa trả lại có thể là một phần hay toàn bộ
hàng hóa đã mua. Tuy nhiên, cho dù giá trị hàng hóa của nghiệp vụ này nhỏ hay lớn
thì vẫn có chưa có một hóa đơn đặc thù để phản ánh hoạt động này. Đây là điểm
chưa hợp lý trong công tác kế toán thuế của doanh nghiệp. Ngoài ra, những hoạt
động như chiết khấu thanh toán, giảm giá, tuy xảy ra sau giao dịch mua bán nhưng
cũng có tính chất như trên, do vậy cũng cần có hóa đơn đặc thù để phản ánh.

Doanh nghiệp thương mại với hoạt động bán hàng là chủ yếu nên doanh
nghiệp phải thường xuyên áp dụng hình thức chiết khấu thương mại để thu hút
khách hàng. Chiếu khấu thương mại phản ánh sự ưu đãi cho khách hàng khi mua
hàng hóa của doanh nghiệp và được tách ra khỏi tổng số tiền thanh toán phải trả.
Tuy nhiên, trên hóa đơn bán hàng hay hóa đơn GTGT hiện nay, chỉ ghi tổng giá
thanh toán mà không ghi rõ phần chiết khấu thương mại người mua được hưởng.
Như vậy, tình trạng trên đã không phản ánh được hết nội dung nghiệp vụ kinh tế
phát sinh.

Một hoạt động khác của doanh nghiệp thương mại là hoạt động nhận ủy thác
xuất, nhập khẩu. Theo quy định của BTC và Tổng Cục Thuế, các đơn vị nhận ủy
thác ngoài việc lập hóa đơn GTGT thu phí ủy thác còn phải lập hóa đơn GTGT khi
giao hàng cho cơ sở ủy thác (đối với trường hợp nhận ủy thác nhập khẩu). Như vậy,

18
hoạt động này phải sử dụng hai hóa đơn khác nhau và sẽ gây khó khăn cho việc
kiểm tra sai phạm của các cơ quan chức năng.

3.2. Về tài khoản TK133 phản ánh thuế GTGT được khấu trừ

Tài khoản 133 “Thuế GTGT được khấu trừ” có tên gọi chưa phù hợp với nội
dung. Tài khoản 133 phản ánh toàn bộ số thuế GTGT đầu vào, gồm cả thuế GTGT
đầu vào được khấu trừ và thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ. Thuế GTGT
đầu vào sau khi loại trừ thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ (phân bổ cuối kỳ)
mới còn lại phần thuế GTGT được khấu trừ. DO vậy, nếu lấy tên tài khoản là “Thuế
GTGT đầu vào” thì sẽ bao quát hơn.

Tài khoản 133 có hai tài khoản cấp 2”

1331: “Thuế GTGT được khấu trừ của hàng hóa dịch vụ”

1332: “Thuế GTGT được khấu trừ của TSCĐ”

Nhận xét: việc chi tiết này là không cần thiết. Dù đầu tư hay mua hàng hóa –
dịch vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì kế toán chỉ cần quan tâm đến phần
thuế GTGT được khấu trừ và phần thuế GTGT không được khấu trừ (phân bổ vào
chi phí cuối kỳ). Như vậy, nên tách tài khoản 133 theo hướng theo dõi thuế GTGT
đầu vào được khấu trừ và thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ chờ phân bổ để
tiện cho việc theo dõi và phân bổ.

3.3. Về tài khoản TK3331

Tài khoản 3331 có hai tài khoản cấp 2:

33311: “Thuế GTGT đầu ra”

33312 “Thuế GTGT hàng nhập khẩu”

Kế toán chủ yếu chỉ cần theo dõi thuế GTGT phải nộp, thuế GTGT của hàng
NK cũng chỉ là một khoản thuế GTGT phải nộp. Do đó, nên đổi tên tài khoản 33312
thành “Thuế GTGT phải nộp” để theo dõi toàn bộ số thuế GTGT phải nộp.

19
3.4. Về phương pháp tính thuế

Phương pháp tính thuế hiện nay gồm hai phương pháp: phương pháp khấu trừ
và phương pháp trực tiếp. Dù doanh nghiệp tiến hành tính thuế theo phương pháp
nào thì tổng số thuế phải nộp cũng không đổi và đều bằng nhau. Tuy nhiên, theo
quy định tính thuế hiện nay thi doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp trực tiếp
sẽ phải nộp thuế nhiều hơn so với doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp khấu
trừ.

Về vấn đề xác định tỷ lệ phân bổ thuế đầu vào, Luật thuế GTGT quy định
trường hợp cơ sở sản xuất kinh doanh cả hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và
hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT không hạc toán riêng được thuế GTGT
được khấu trừ thì cuối kỳ sẽ phần bổ thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ
(%) doanh số hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT so với tổng doanh số của hàng
hóa, dịch vụ bán ra.

Việc sử dụng tỷ lệ này để phân bổ thể hiện sự không hợp lý bởi lẽ lượng hàng
hóa dịch vụ mỗi loại bán ra trong kỳ là khác nhau, làm cho tỷ lệ này thay đổi. Thậm
chí, do ảnh hưởng của tỷ lệ này, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ dao động nhiều,
có thể được khấu trừ nhiều, khấu trừ ít, không được khấu trừ hoặc được khấu trừ tất
cả. Do đó, cần xác định một tỷ lệ hợp lý để không là lượng thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ biến động quá lớn.

Một vấn đề cũng khá quan trọng, đó là hiện tượng doanh nghiệp bị Nhà nước
“chiếm dụng vốn”. Khi mua hàng hóa, doanh nghiệp đã phải nộp trước thuế thông
qua tiền thuế ẩn trong giá mua thanh toán cho người bán. Doanh nghiệp mua hàng
hóa về, chưa tiêu thụ được ngay nên hập kho. Như vậy, nhiều doanh nghiệp hoạt
động chủ yếu bằng vốn vay. Khi áp dụng Luật thuế GTGT phải vay thêm để nộp
cho phần thuế đầu vào. Gánh nặng thiếu vốn vay đã nặng nay lại càng nặng hơn.

Trường hợp các doanh nghiệp bán hàng đại lý khi chuyển hàng cho đại lý,
phải nộp ngay thuế GTGT, trong khi đó chỉ khi nào địa lý bán được hàng thì mới
thu được thuế GTGT từ người mua. Trường hợp nhập khẩu cũng tương tự. Trong

20
tình hình Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp có số vốn không lớn lại phải vay
ngân hàng và nộp thuế GTGT 10% khi nhập khẩu hàng, để rồi lại không có vốn
kinh doanh và phải trả lãi suất ngân hàng. Điều này còn dẫn đến tình trạng những
doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc không thể cạnh tranh nổi với những doanh nghiệp
trốn thuế thi bán hàng không cấp hóa đơn để giảm giá bán.

3.5. Những tồn tại trong việc thu thuế GTGT tại các hộ kinh doanh cá thể.

Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể đều thực hiện tự kê
khai nộp thuế. Bên cạnh những doanh nghiệp, hộ kinh doanh chấp hành tốt pháp
luật về thuế còn có những tổ chức, cá nhân chưa nghiêm túc trong việc thực hiện kê
khai. Tình trạng nộp chậm tờ khai vẫn còn, chất lượng tờ khai còn nhiều sai sót.
Nguyên nhân do công tác kế toán của DN còn nhiều yếu kém, kế toán luôn thay đổi.
Vẫn còn hiện tượng một số DN trong thời gian dài không nộp được đồng thuế nào
vào NSNN, kê khai thuế âm liên tục do thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT
hàng hoá dịch vụ bán ra. Đối với các hộ kinh doanh cá thể, hầu hết mới chỉ kê khai
doanh thu thể hiện trên hoá đơn bán hàng còn doanh thu bán lẻ hầu như không kê
khai, nếu có kê cũng rất thấp, nhiều hộ kê doanh thu bằng không, do đó còn để thất
thu về doanh thu tính thuế. Riêng các hộ khoán ổn định thuế mặc dù đã hết thời gian
khoán có sự tăng trưởng về giá cả, sức mua nhưng cũng chưa điều chỉnh doanh thu,
mức thuế kịp thời cũng gây thất thu cho NSNN. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận
việc quản lý, nắm bắt tình hình SXKD của các DN, hộ của chúng tôi vẫn chưa được
kịp thời và sâu sát. Cán bộ quản lý còn thụ động, thiếu kiểm tra đôn đốc nên tình
trạng thất thu về hộ, về doanh thu khá phổ biến, đặc biệt là ngành ăn uống, vận tải,
bán VLXD, cho thuê nhà…Tình trạng nợ đọng thuế của các DN vẫn còn khá phổ
biến.

IV. Ý thức của người tiêu dùng

Mặc dù đa số người tiêu dùng sản phẩm hàng hoá dịch vụ biết rằng mình
chính là người chịu thuế GTGT nhưng ý thức về việc chấp hành luật thuế GTGT
của phần lớn người tiêu dùng vẫn còn rất thấp. Điều đó thể hiện qua việc người tiêu

21
dùng không có thói quen lấy hoá đơn sau khi mua hàng, hoặc đã có ý thức lấy hoá
đơn nhưng không thực sự quan tâm đến những thông tin ghi trên hoá đơn. Người
tiêu dùng vẫn chưa hiểu hết được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với Nhà
nước khi tham gia chấp hành Luật thuế GTGT. Hơn nữa, việc đó còn vô tình tiếp
tay cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện những hành vi gian lận thuế, gây thất
thoát cho ngân sách Nhà nước.

4.1. Không có thói quen lấy hóa đơn khi mua hàng

Luật thuế giá trị gia tăng (VAT) được ban hành từ năm 1997, quy định tất cả
các cá nhân, doanh nghiệp khi bán hàng phải xuất hóa đơn VAT cho khách mua
hàng. Thế nhưng, sau gần 13 năm có hiệu lực, nhiều cửa hàng bán lẻ, nhất là các
cửa hàng điện máy, nhà hàng có doanh số bán mỗi ngày lên đến hàng tỷ đồng vẫn
không thực hiện xuất hóa đơn cho khách hàng. Từ chiếc thẻ cào điện thoại mệnh giá
vài trăm ngàn đến những đồ nữ trang trị giá đến vài triệu, có khi là chục triệu cũng
được mua, bán không có hóa đơn, không khác gì như mua bán một “mớ rau ngoài
chợ”.

Tháng 8-2009, qua phản ánh của báo chí, Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh đã thành
lập đoàn kiểm tra thực hiện rà soát trên 2000 các doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm.
Kết quả, Cục Thuế đã xử lý trên 600 doanh nghiệp, truy thu về cho nhà nước trên
22 tỷ đồng. Trong đó, có không ít các doanh nghiệp “đại gia” có danh tiếng trong
nước như công ty TMDV Phong Vũ, Công ty CP Thương mại Nguyễn Kim...

Thực trạng này diễn ra trong một thời gian dài một phần vì chế tài xử phạt quá
nhẹ không đủ sức răn đe các doanh nghiệp (Theo quy định tại Mục II Phần D Thông
tư số 61/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính phạt tiền từ 2.000.000
đồng đến 8.000.000 đồng đối với các trường hợp vi phạm). Nhưng nguyên nhân chủ
yếu là do thói quen không yêu cầu hoá đơn khi mua bán hàng hoá của người tiêu
dùng. Người tiêu dùng Việt Nam đã quá quen với việc trả tiền – lấy hàng, họ chỉ
quan tâm đến việc mình nhận được hàng hay không chứ không để ý đến có nhận
được hóa đơn hay không.

22
Có rất nhiều lý do để giải thích cho thực trạng này, nhưng chủ yếu là từ một
trong các lý do sau đây:

Thứ nhất, xuất phát từ thói quen mua các hàng hóa nhỏ lẻ. Từ trước khi luật
thuế GTGT được ban hành, người tiêu dùng Việt Nam đã hình thành thói quen trả
tiền và lấy hàng trong các hoạt động mua bán nhỏ lẻ hàng ngày (thịt, cá, rau, nhu
yếu phẩm...). Khi luật được ban hành mặc dù có quy định phải lấy hóa đơn nhưng
không phải ai cũng biết, mà biết thì cũng không thực hiện vì chẳng ai kiểm tra. Ban
đầu chỉ là những hàng hóa có giá trị bé, không lấy hóa đơn thì nhà nước cũng không
thất thu nhiều, chẳng ai quan tâm quản lý. Nhưng theo thời gian, khi mức sống
người dân được nâng cao, giá trị hàng hóa không đừng lại ở con số hàng nghìn,
hàng trăm nữa mà là hàng triệu, chục triệu thì thói quen này đã ăn quá sâu vào hành
vi của người tiêu dùng, nhà nước lúc muốn thay đổi cũng khó mà thực hiện ngay
được trong một sớm một chiều.

Thứ hai, người tiêu dùng không thấy lợi ích trong việc lấy hóa đơn. Hành vi
của người tiêu dùng luôn chạy theo lợi ích thiết thân, cái gì thấy lợi thì mới làm.
Luật ban hành lại không bổ sung “quyền lợi” gì cho những người tiêu dùng mua
hàng lấy hóa đơn, họ cũng chỉ như những người không lấy hóa đơn, tờ hóa đơn có
cầm trên tay thì cũng như “giấy tờ vô giá trị”, có lấy mang về rồi cũng bỏ đi, giữ lại
cũng không để làm gì. Coi nhẹ những chiếc hoá đơn bán hàng là tâm lý chung của
đại đa số người dân hiện nay. Người được lợi ở đây chỉ có doanh nghiệp, người
tiêu dùng vô tình đã tiếp tay cho hành vi trốn thuế của doanh nghiệp mà không biết.

Thứ ba, người tiêu dùng không nhận thức đầy đủ về Thuế GTGT. Thuế GTGT
là thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, cơ sở kinh doanh chỉ có vai trò
là đơn vị đứng ra nộp thuế thay cho người tiêu dùng. Thế nhưng người tiêu dùng
không quan tâm đến điều này. Họ chỉ biết là có tồn tại Thuế GTGT, không hề biết
mình là người phải chịu thuế. Các doanh nghiệp thì lại quá khôn ngoan trong việc
niêm yết giá để giấu đi phần thuế GTGT mà người tiêu dùng phải nộp. Giá sản
phẩm đến tay người tiêu dùng thường là một con số rất “tròn trịa” bao gồm cả tiền

23
thuế GTGT. Người tiêu dùng không mấy khi để ý đến phần thuế GTGT tính trong
giá bán, họ chỉ quan tâm mình phải bỏ ra tổng là bao nhiêu để sở hữu hàng hóa.
Tiền, người tiêu dùng vẫn mất, còn Nhà nước vẫn thất thu thuế, doanh nghiệp “ăn
cả hai mang”. Người tiêu dùng dù đã phải chịu thuế GTGT mà không hay biết. Thất
thu thuế chính từ những hành vi thiếu hiểu biết này của người dân.

Cho đến nay, không ai có thể ước tính hàng năm ngành thuế thất thu bao nhiêu
tỷ đồng qua các hoạt động buôn bán không xuất hoá đơn. Đối với doanh nghiệp,
không xuất hoá đơn là cơ hội trục lợi, còn với người dân sự vô tình tiếp tay này lại
đẩy họ vào hoàn cảnh tự tước đi “vũ khí” bảo vệ cho chính mình. Không ít trường
hợp người dân mua phải hàng hoá kém chất lượng tuy nhiên do không có hoá đơn
mua bán hàng hoá nên không đủ sơ sở yêu cầu doanh nghiệp bồi thường. Ngay cả
việc bảo hành sản phẩm vì vậy mà cũng gặp không ít khó khăn.

4.2. Không phản ứng với thông tin ghi trên hóa đơn

Thời gian gần đây cũng đã có nhiều người đã có “ý thức” lấy hóa đơn khi mua
hàng, chủ yếu là đối với các mặt hàng như máy móc, thiết bị, đồ điện tử, xe máy,
ôto... Nguyên nhân cũng do đặc thù hàng hóa có giá trị cao, lại dễ xảy ra hỏng hóc,
thế nên người tiêu dùng cần có giấy tờ để giải quyết trong các trường hợp xảy ra sự
cố với hàng hóa sau này.

Tuy nhiên rất nhiều doanh nghiệp đã tìm cách không giao đúng hóa đơn cho
khách hàng mà thay thế bởi một giấy tớ khác. Thực tế nhiều doanh nghiệp khi
khách hàng yêu cầu phải có hóa đơn thì lại đưa cho khách hàng phiếu xuất kho hoặc
phiếu báo giá. Khách hàng thấy có đầy đủ thông tin về mặt hàng và giá bán trên
phiếu thì yên tâm và vẫn nghĩ đấy chính là hóa đơn GTGT.

Một trường hợp khác rất phổ biến, đặc biệt là trong hoạt động mua bán xe máy
đó là chủ các cơ sở kinh doanh thường viết hoá đơn thuế thấp hơn giá trị thực tế mà
khách hàng phải trả nhằm gian lận thuế GTGT. Không ít khách hàng vẫn chấp nhận
việc làm này, cá biệt có người còn chủ động đề nghị cơ sở kinh doanh viết hoá đơn
với giá thấp nhằm giảm phí trước bạ cho phương tiện. Việc người tiêu dùng chấp

24
nhận cho chủ cửa hàng viết hoá đơn với giá thấp hơn giá thực tế là đã tiếp tay cho
hành vi gian lận thuế chủa các cơ sở kinh doanh.

Không chỉ thế, không ít doanh nghiệp còn chủ động “thoả thuận” với người
tiêu dùng bán hàng với giá thấp hơn nếu không lấy hoá đơn đỏ. Tuy nhiên, lợi dụng
sự không minh bạch của giá cả thị trường, nhiều doanh nghiệp đã “bội tín”, vẫn bán
đúng giá và không giao hóa đơn cho khách hàng.

Tất cả các hiện tượng kể trên đều do một nguyên nhân vì người tiêu dùng lại
rất thờ ơ đối với các thông tin ghi trên hóa đơn, bởi lẽ mục đích lấy hóa đơn của họ
không phải vì làm theo luật quy định mà vì:

+ Đảm bảo cho quyền lợi của mình khi xảy ra sự cố đối với hàng hóa sau khi
mua. Họ chỉ cần có hóa đơn (đôi khi là một giấy tờ khác do doanh nghiệp cung cấp
nhưng bị nhầm tưởng là hóa đơn), còn trên hóa đơn ghi gì thì lại không mấy quan
tâm.

+ Bị dụ dỗ các quyền lợi được hưởng khi giá đơn ghi sai lệch thông tin. Thông
thường doanh nghiệp sẽ dùng các chiêu thức như được giảm chi phí, giảm giá bán
để lôi kéo người tiêu dùng, người tiêu dùng sẽ đồng ý ngay bởi họ vẫn nghĩ mình
chẳng bị thiệt gì, lại còn có lợi. Vậy là doanh nghiệp vẫn nắm quyền chi phối thông
tin ghi trên hóa đơn sao cho có lợi cho doanh nghiệp nhất.

Một lần nữa, dù có lấy hóa đơn hay không lấy hóa đơn thì người tiêu dùng vẫn
bị các doanh nghiệp lợi dụng để thực hiện các hành vi trốn thuế của mình.

25
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN HIỆU
QUẢ LUẬT THUẾ GTGT

I. Đối với Nhà nước

Thứ nhất, cần phải thống nhất chính sách thuế trong một kế hoạch dài hạn cho
nền kinh tế, phối hợp một cách linh hoạt với các chính sách về nông nghiệp, giáo
dục,… và nhất là chính sách tiền tệ. Từ đó có những điều chỉnh kịp thời, tránh gây
khó khan cho các thành phần kinh tế.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định về căn cứ tính thuế và thuế suất, phương
pháp tính thuế.

Thứ ba, cải cách hành chính thuế. Mục tiêu của cải cách hành chính thuế phải
đảm bảo yêu cầu đơn giản hoá thủ tục, các văn bản thuế phải đảm bảo nguyên tắc,
đơn giản, dễ hiều, dễ làm, dễ kiểm tra, chuẩn hóa các quy định về khấu trừ thuế,
thủ tục kê khai và nộp thuế GTGT. Bộ Tài chính cần rà soát các văn bản thuế đã
ban hành, tránh hiện tượng trùng lắp hay xung đột giữa các văn bản thuế.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về pháp luật thuế nhằm
nâng cao hiểu biết về thuế cho nhân dân, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nho

Thứ năm, hình thành và phát triển đội ngũ tư vấn viên về thuế. Đây là dịch vụ
cung cấp các thông tin, kiến thức, kinh nghiệm và sự hiểu biết về lĩnh vực thuế. Cần
hình thánh các nhóm tư vấn thuế trong các cơ cấu tổ chức, bộ máy ngành thuế.
Không những vậy, cần phải mở rộng dịch vụ này tới nhân dân bằng cách tạo điều
kiện cho các tổ chức tư vấn thuế tư nhân thành lập và hoạt động.

II. Đối với doanh nghiệp:

Thứ nhất, về nghiệp vụ kế toán.

Đối với chiết khấu thương mại, để phản ánh được nội dung này trong hoạt
động bán hàng thì cần phải được thể hiện trên hóa đơn khi tiến hành giao dịch mua
bán. Do đó, nên bổ sung dòng “Trừ chiết khấu thương mại” dưới dòng cộng tiền

26
hàng và trước dòng tính thuế GTGT. VIệc bổ sung như vậy vừa giảm được lượng
chứng từ phải lập vừa phản ánh được đầy đủ nội dung của nghiệp vụ kinh tế phát
sinh.

Đối với nghiệp vụ chiết khấu thanh toán, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả
lại cũng nên xây dựng các hóa đơn: Hóa đơn hàng bán trả lại, Hóa đơn chiết khấu
thanh toán, Hóa đơn giảm giá hàng bán và những hóa đơn này cũng phải được xếp
vào hệ thống chừng từ bắt buộc bởi nó phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các pháp
nhân độc lập. Đặc biết, với hóa đơn hàng bán trả lại, còn có thể giúp cơ quan thuế
kiểm tra được các hành vi gian lận khi sử dụng nghiệp vụ hàng bán trả lại như đã
nêu ở trên.

Đối với hàng nhận ủy thác nhập khẩu, đểvừa đảm bảo phản ánh đúng nội dung
nghiệp vụ kinh tế, vừa có thể giảm bớt số hóa đơn phải ghim nên bổ sung thêm hóa
đơn “Phiếu xuất kho hàng nhận ủy thác”, trên đó phải phản ánh được các nội dung
sau:

- Giá trị hàng nhận ủy thác

- Phí ủy thác

- Số tiền nhận đặt trước

- Số tiền trả lại

- Số tiền thiếu còn phải thu.

Hóa đơn này do đơn vị nhân ủy thác lập khi trả lại hàng cho bên giao ủy thác.
Kế toán sẽ căn cứ vào đây lập phiếu thu, phiếu chi tiền mặt.

Thứ hai, về việc in hóa đơn và quản lí hóa đơn.

Cần phải có cơ chế giám sát, theo dõi việc phát hành hóa đơn lần đầu cần được
hoàn thiện, thống nhất đảm bảo không để sơ sót. Việc thông báo phát hành hóa đơn
cần có cơ chế kiểm tra, giám sát, tránh để xảy ra tình trạng lợi dụng, gian lận thuế.

27
Cần phải có sự mình bạch trong các thủ tục và quy định. Cụ thể là thủ tục xin
tự in hóa đơn của doanh nghiệp, điều kiện hoạt động của các cơ sở in ấn. Đối với
các cơ sở in, cũng nên có quy chế rõ ràng, đảm bảo không xảy ra hiện tượng lợi
dụng tạo bản sao, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.

III. Đối với người tiêu dùng:

Xét cho cùng, các hành vi vô tình giúp doanh nghiệp trốn thuế của người tiêu
dùng là do:

+ Người tiêu dùng hành động chạy theo lợi ích của bản thân.

+ Người tiêu dùng nhận thức không đầy đủ về thuế GTGT.

+ Luật không có tính răn đe người tiêu dùng, cũng không có các quyền lợi đủ
mạnh để khiến người tiêu dùng tự giác thực hiện việc lấy hóa đơn và đảm bảo thông
tin ghi trên hóa đơn khi mua hàng.

Do các thói quen này đã ăn sâu vào hành vi của người tiêu dùng nên không thể
giải quyết trong thời gian ngắn, một số phương án giải quyết như sau:

+ Tăng thêm quyền lợi đối với người tiêu dùng khi lấy hóa đơn.

+ Đẩy mạnh việc thanh toán điện tử, hạn chế các hình thức thanh toán trực tiếp
bằng tiền mặt. Hóa đơn GTGT điện tử sẽ được xuất ngay khi có giao dịch thanh
toán bằng điện tử.

+ Tăng cường các biện pháp truyền thông, kiểm tra việc mua hàng lấy hóa đơn
của người tiêu dùng.

Thiết nghĩ, chỉ có các biện pháp khiến người dân nhận thấy được lợi ích, thiệt
hại trước mắt mà tự ý thức được cần phải làm mới thực sự có tác dụng trong thực tế.

28
KẾT LUẬN

Thuế GTGT nhìn từ vĩ mô đến vi mô đã thực sự đi vào cuộc sống. Sau nhiều
năm áp dụng, chúng ta đã thu được những tín hiệu ban đầu rất khả quan. Số thu
trong Ngân sách đã có xu hướng tăng, không có biến động lớn về giá cả, nền kinh tế
phát triển ổn định, thương mại, dịch vụ, xuất nhập khẩu hàng hóa ngày càng được
mở rộng.

Sở dĩ được như vậy là do Chính phủ Việt Nam đã chuẩn bị kỹ càng về mặt
lượng cũng như mặt chất.

Một nền kinh tế vận động phải là một nền kinh tế mở, một cơ chế tốt phải biết
biến hóa linh động, chính vì vậy để có thể điều hành tốt thuế GTGT, trước hết mỗi
người trong chúng ta phải thực sự hiểu rõ về bản chất và nội dung của nó, đó chính
là mục đích của tiểu luận này.

Hy vọng rằng trong thời gian tới, chúng ta bám sát thực tiễn, nhanh chóng tìm
tòi, sửa chữa những bất hợp lý để thuế GTGT và các luật thuế mới góp phần tích
cực đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đã đề ra.

29
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải, Nguyễn Xuân Nữ, 2003, Giáo trình thuế
và hệ thống thuế ở Việt Nam, NXB Giáo Dục, Hà Nội
2. Mai Ngọc Anh, 2011, Tạp chí thuế nhà nước Số 11 kỳ 3/3/2011, p.3-7
3. Cao Thúy Xiêm,Kinh tế học Vi Mô, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân
4. Luật thuế giá trị gia tãng 1997, 2003, 2005, 2008.
5. Gian lận thuế GTGT trong các doanh nghiệp thương mại ở Việt Nam hiện
nay và biện pháp phòng ngừa.
<http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/luan-van-tot-nghiep-gian-lan-thue-gtgt-trong-
cac-doanh-nghiep-thuong-mai-o-viet-nam-hien-nay-va-bie.38911.html>
6. 2011, Bộ Tài chính trả lời đại biểu Quốc hội và cử tri (Phần 1)
<http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/cttk?
p_itemid=36951661&p_itemtype=2176921>
7. 2010, Bộ Tài chính trả lời đại biểu Quốc hội và cử tri (Phần 1)
<http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/cttk?
p_itemid=36912331&p_itemtype=2176921>
8. 2010, Bộ Tài chính trả lời đại biểu Quốc hội và cử tri (Phần 2)
<http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/cttk?
p_itemid=36912328&p_itemtype=2176921>
9. 2008, Góp ý cho dự thảo Luật thuế GTGT (sửa đổi): Nhiều mặt hàng cần
được đưa vào diện chịu thuế,
<http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/cttk?
p_itemid=2633707&p_itemtype=2176921>
10. 2008, Phòng chống gian lận thuế: Những kiến nghị từ công tác quản lý hoá
đơn
<http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/cttk?
p_itemid=2633560&p_itemtype=2176921>
11. 2008, Luật thuế Giá trị gia tăng: Vì sao cần sửa đổi?

30
<http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/cttk?
p_itemid=2633509&p_itemtype=2176921>
12. Cổng thông tin điện tử chính phủ
<http://www.chinhphu.vn/portal/page?
_pageid=517,1&_dad=portal&_schema=PORTAL>
13. Thực trạng thất thu thuế hàng chục tỷ đồng mỗi ngày: Luật đã lỗi thời hay
chế tài chưa nghiêm? <http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=8017>
14. Trang web của tổng cục thuế - Bộ tài chính: <http://www.gdt.gov.vn/>

31

You might also like