You are on page 1of 223

BÀI MỞ ĐẦU

I. PHÂN KỲ LỊCH SỬ
II. CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH CHẾ ĐỘ
PHONG KIẾN
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA CHẾ ĐỘ PHONG
KIẾN

Lịch sử thế giới trung đại là một giai


đoạn trong lịch sử thế giới, nằn giữa phần cổ
đại và cận đại (kéo dài từ thế kỷ V đến giữa
thế kỷ XVII ). Về cơ bản đây là thời kỳ
thống trị của chế độ PK.
Chế độ PK là hình thánh kinh tế chính
trị - xã hội thứ 3 trong lịch sử tiến hóa của
nhân loại. Phương thức sản xuất PK cao hơn
PTSX CHNL
I. PHÂN KỲ LỊCH SỬ TOP
Lịch sử chế độ PK được chia làm 3 thời
kỳ :
- Thời kỳ 1 : Thời kỳ hình thành và củng cố
chế độ PK [ sơ kỳ trung đại ]
- Thời kỳ 2 : Thời kỳ phát triển của chế độ
PK [ trung kỳ trung đại ]
- Thời kỳ 3 : Thời kỳ suy tàn và nãy sinh
quan hệ sản xuất TBCN [hậu kỳ trung đại ]
II. CON ÐƯỜNG HÌNH THÀNH
TOP
CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN
-Từ chế độ CHNL sang CÐPK tiêu
biểu như : Trung quốc , Ấn độ,...
-Từ sự kết hợp giữa sự tan rã của chế
độ CHNL của La mã với sự giải thể của chế
độ CXNT cùa người German như ở Tây âu.
-Từ chế độ CXNT sang PK không
trãi qua chế độ CHNL như các nước Bắc
Âu, Ðộng âu, Mông cổ, Aírập và nhiều quốc
gia châu á khác.
Trong qúa trình hình thành chế độ PK , các
quốc gia PK đều trãi qua qúa trình Phong
kiến hóa ( Qúa trình Phong kiến hóa là
qúa trình giai cấp địa chủ phong kiến chiếm
đoạt ruộng đất của nông dân và biến nông
dân công xã tự do và các tầng lớp nhân dân
lao động khác thành nông dân phụ thuộc
phong kiến hay thành nông nô [ qúa trình
nầy diễn ra trong suốt thời kỳ hình thành
chế độ phong kiến).
III. ÐẶC ÐIỂM CỦA CHẾ ÐỘ
TOP
PHONG KIẾN
@ KINH TẾ :
-Thời kỳ đầu vẫn còn kinh tế tự cấp tự
túc.
-Ở thời kỳ phát triển, sức sản xuất
phát triển, thủ công nghiệp tách khỏi nông
nghiệp. Thành thị trở thành trung tâm hoạt
động của thủ công nghiệp và thương
nghiệp.Quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển,
từ thành thị xâm nhập vào nông thôn, đẩy lùi
dần nền kinh tế tự nhiên, làm tan rã dần nền
kinh tế lãnh địa.
Ðến thời kỳ suy tàn [hậu kỳ] xuất hiện quan
hệ sản xuất TBCN.
@ XÃ HỘI :
Xã hội PK bao gồm hai giai cấp cơ bản :
- Ðịa chủ phong kiến.
- Nông dân phụ thuộc phong kiến hay nông
nô.
Ngoài ra trong xã hội còn có các tầng
lớp xã hội không cơ bản khác như : thợ
thủ công ,thương nhân,....
Mâu thuẩn giai cấp chủ yếu trong xã
hội PK vẫn là mâu thuẩn đối kháng giữa giai
cấp nông dân với địa chủ PK . Những cuộc
đấu tranh của nông dân chống địa chủ PK,
khởi nghĩa và chiến tranh nông dân luôn xãy
ra trong suốt thời kỳ PK.
Ðến hậu kỳ trung đại, ở Châu âu xuất
hiện một giai cấp mới, đó là giai cấp tư sản.
Thời kỳ nầy giai cấp TS là giai cấp tiến bộ -
đại diện cho phương thức sản xuất mới, đấu
tranh chống PK- đại diện cho phương thức
sản xuất lạc hậu lỗi thời.
Cuộc đấu tranh của GCTS chống
GCÐCPK đã tiến hành tên nhiều mặt : văn
hoá, tư tưởng, tôn giáo, chính trị, xã hội.
Cuộc đấu tranh đó cuối cùng đã dẫn đến
CMTS lật đổ CÐPK , xây dựng CÐTBCN
@ CHÍNH TRỊ :
Do tính chất đặc điểm của nền kinh tế, do
các hình thái đấu tranh giai cấp ở mỗi nước
mỗi thời kỳ, nên xuất hiện nhiều nhà nước
PK khác nhau :
- Phong kiến cát cứ phân quyền.
- Phong kiến tập quyền.
- Quân chủ chuyên chế
- Cộng hòa qúi tộc phong kiến
Tuy khác nhau, nhưng bản chất giai cấp của
những hình thức nhà nước đó là một, đó là
bộ máy thống trị của giai cấp địa chủ PK.
@ VĂN HOÁ :
- Văn hóa tinh thần hết sức thấp
kém, tôn giáo chiếm địa vị thống trị
trong xã hội, giai cấp địa chủ PK lợi
dụng tôn giáo, biến tôn giáo thành
công cụ thống trị tinh thần.
Dưới chế độ PK, tư tưởng và tôn giáo,
khoa học và nghệ thuật bị chủ nghiã duy tâm
thần bí, chủ nghiã giáo điều, chủ nghiã kinh
viện, cùng những quan niệm về đạo đức lễ
giáo PK kiềm hãm, làm cho xã hội PK rơi
vào mù mịt, nên người ta thường gọi thời
trung cổ là đêm trường cổ hay đêm trường
trung đại
Tuy nhiên, từ thực tiễn đấu tranh sản
xuất và đấu tranh xã hội, nhân dân lao động
đã tạo nên những thành tựu to lớn về văn
hóa vật chất và tinh thần. Ðó là những cống
hiến qúi báu cho nền văn hóa của nhân loại.
Những tính chất kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa trên là qui luật chung của chế
độ PK.Song mỗi quốc gia PK đều ra đời và
phát triển trong những hoàn cảnh khác
nhau, cho nên mỗi quôc gia đều thể hiện
tính qui luật chung vừa có những đặc điểm
riêng.
• Ðặc điểm riêng của các quôc gia phong
kiến Tây âu:
Xây dựng trên một khu vực đất đai
không rộng, nhưng cư dân thưa thớt và phân
bố tương đối đều. Trên khu vực nầy trước
kia đã trãi qua chế độ CHNL phát triển cao
và tan rã triệt đê, cho nên các yếu tố của chế
độ PK đã hình thành đấy đủ và phár triển từ
thấp đến cao.
• Ðặc điểm riêng của các quốc gia
phong kiến phương đông :
-Xây dựng trên một khu vực đất đai
rộng, nhưng cư dân phân bố không đều,
thường tập trung trên khu vực các con sông
lớn ( mà việc trị thủy đòi ỏi phải có nhà
nước tập trung đứng ra tổ chức quản lý)
- Chế độ PK ra đời sớm [ TQ 221 BC ] , dù
trước kia có trãi qua chế độ chiếm hữu nô lệ
hay chuyển thẳng từ chế độ CXNT sang PK,
nhưng đều tồn tại dai dẳng nhiều tàn dư của
chế độ cũ ( như tổ chức công xã nông thôn,
ruộng đất công hữu, chế độ nô lệ,...).
Quyền sở hữu ruộng đất tối cao thuộc
về nhà nước, song bên cạnh còn tồn tại sở
hữu ruộng đất PK và chế độ ruộng đất tư
hữu tư nhân.
- Hoàng đế có quyền lực chuyên chế rất lớn.
Toàn thể cư dân trong nước đều là thần dân
hay bầy tôi của hoàng đế, phụ thuộc chính
quyền hoàng đế.
Giai cấp địa chủ PK luôn tăng cường chiếm
đoạt ruộng đất của nông dân, khuynh loát
lẫn nhau và lấn át vào hình thức sở hữu
ruộng đất của nhà nước
- Những cuộc chiến tranh PK giữa các
tập đoàn PK với nhau, giữa các tập đoàn PK
với chính quyền hoàng đế xãy ra liên tục.
Nông dân vừa bị sự thống trị của nhà nước,
vừa chịu sự áp bức bóc lột của giai cấp địa
chủ PK. Vì vậy phong trào đấu tranh của
nông dân ở phương đông nổ ra rất lớn và rất
khốc liệt. Nhiều cuộc đấu tranh đã tiêu diệt
cả một triều đại PK.
CHƯƠNG 1 : CÁC QUỐC GIA
PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI TRUNG
KỲ TRUNG ĐẠI (V-VII)
I. SỰ THÀNH LẬP CÁC VƯƠNG
QUỐC MANTỘC CỦA NGƯỜI
ÌGERMAN TRÊN LÃNH THỔ ĐẾ
QUỐC TÂY LA MÃ
1. Tình hình Tây Âu sau khi đế quốc La
Mã diệt vong
2. Sự ra đời và phát triển của vương
quốc FRANCE
II. SỰ THÀNH LẬP VÀ TAN RÃ CỦA
ĐẾ QUỐC CHARLEMAGNE - SỰ RA
ĐỜI CỦA 3 QUỐC GIA PHÁP - ĐỨC -
Ý
III. TÌNH HÌNH KINH TẾ - CHÍNH TRỊ -
XÃ HỘI CỦA CÁC QUỐC GIA
PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI SƠ KỲ
TRUNG ĐẠI
I. SỰ THÀNH LẬP CÁC VƯƠNG TOP
QUỐC MANTỘC CỦA NGƯƠI
ÌGERMAN TRÊN LÃNH THỔ ÐẾ
QUỐC TÂY LA MÃ
Người German là những bộ tộc lớn,
thuộc chủng tộc ARIAN ( hay Ấn-Âu ), đã
đến sinh sống trên vùng biên giới phiá Bắc
và Ðông Bắc La mã từ nhiều thế kỷ trước.
Thế kỷ thứ I BC, người German còn sống
trong tình trạng lang thang du mục, sống chủ
yếu nhờ săn bắn và chăn nuôi cùng với nông
nghiệp đốt rẫy. Ruộng đất là của chung của
thị tộc.
Sang thế kỷ I, người German sống định
cư, lập thành thôn xóm, sống chủ yếu nhờ
nông nghiệp.Thế kỷ IV , V họ bắt đầu tiến
bộ. Về nông nghiệp, họ đã có cày bằng lưỡi
sắt do súc vật kéo. Về thủ công, đã có các
ngành kim khí, dệt, đồ gốm. Sở hữu ruộng
đất vẩn thuộc tập thể thị tộc, nhưng đã giao
quyền sử dụng cho từng gia đình cá thể, chứ
không phải cộng đồng gia tộc lớn như trước.
Do sự phát triển kinh tế cùng với sự gia
tăng dân số, người German có nhu cầu mở
rộng đất đai để sinh sống, nên từ thế kỷ thứ
III , một số bộ lạc của người German đã di
cư vào bên trong đế quốc La mã ( như bộ lạc
của người Wisigoths, Franc,....) và nhận
làm đồng minh của người La mã.
Như vậy, lãnh thổ La mã không còn đóng
kín đối với các bộ lạc của người German
nữa.
Giữa thế kỷ IV, các bộ lạc du mục Hung
nô ào ạt xông vào cườp phá Ðông và Nam
Âu, làm cho các bộ lạc thuộc tộc German
vội vã di cư vàobên trong đề quốc La mã
( lịch sử gọi là cuộc di chuyển lớn của các
tộc, kéo dài suốt 2 thế kỷ IV - V )
Lúc nầy đế quốc La mã bắt đầu suy yếu,
giai cấp chủ nô La mã lại tăng cường áp bức
bóc lột, làm cho những người German ở bên
kia biên giới nhiều lần liên kết với nô lệ và
lệ nông khởi nghiã.
Kết qủa là hầu hết đất đai của La mã bị
những người Man tộc chiếm đoạt, và họ
lập ra những vương quốc Man tộc :
Wisigoths , Vandanes , Burgondes ,
France và Anglo - sachxon. ( tất cả các
vương quốc nầy đều thuộc tộc German )
Ðến năm 476, viên tướng Man tộc chỉ
huy quân cấn vệ của hoàng đế La mã là
Odoacre đã phế bỏ vị hoàng đế cuối
cùng của đế quốc Tây La mã là Romulus
Augustulus và xóa bỏ bộ máy chính
quyền tối cao của đế quốc La mã. (sự
kiện
này đánh dấu sự diệt vong của đế quốc
Tây La mã, đồng thời cũng thủ tiêu chế độ
chiếm hữu nô lệ ở Tây âu)
1- Tình hình tây âu sau khi đế TOP
quốc LA MÃ diệt vong
@ KINH TẾ :
Ruộng đất được đem chia cho các
gia đình cá thể, các thành viên thị tộc không
sống theo quan hệ huyết thống nữa, mà sống
theo quan hệ láng giềng và lập nên các công
xã nông thôn Mác-cơ (Mark).
@ CHÍNH TRỊ
Ðể bảo vệ đất đai và thống trị đất nước,
người German đã lập chính quyền và củng
cố chính quyền. Thủ lĩnh quân sự tối cao
được gọi là vua, vua mang đất đai và lệ nông
ban tặng cho các tùy tùng, một số quan chức
trước kia của chính quyền La mã cũng được
sử dụng để gíup việc cho chính quyền. Tất
cả trở thành qúi tộc mới.
Ðất vua ban tặng cho qúi tộc gọi là Thái
ấp, nên chế độ nầy gọi là chế độ Phong hầu
kiến ấp, nhà nước đó gọi là nhà nước
Phong kiến tảo kỳ
@ XÃ HỘI :.
Sự phân hóa giai cấp và tài sản của
người German khá rõ rệt ngay sau khi các
vương quốc Man tộc mới thành lập. Thời kỳ
nầy xã hội có hai hình thái kinh tế :
- Kinh tế công xã nông thôn Mark [ là
tổ chức hoá độ từ chế độ CXNT sang xã hội
có giai cấp và nhà nước .
- Kinh tế thái ấp của bọn qúi tộc
German [ sử dụng sức lao động của lệ nông,
là sự kế thừa mầm mống của chủ nghiã PK
đã có từ thời CHNL ].
Với hai hình thái trên, nó chưa đại
diện cho phương thức sản xuất PK, mà chỉ là
hình thái tiền PK đến khi chủ nghĩa PK phát
triển lên, nó được thay thế bằng PTSXPK
điển hình, đó là chế độ Phong kiến - nông
nô.
2 - Sự ra đời và phát triển của TOP
vương quốc FRANCE
a - Sự thành lập nhà nước :
Vào thế kỷ thứ III, bộ tộc France đã
đến định cư ở vùng biên giới Ðông bắc đế
quốc Tây La mã và hạ lưu hữu ngạn sông
Rinh. Ðến thế kỷ IV - V , họ vượt sông Rinh
xâm nhập vào vùng Ðông Bắc xứ Gaule và
nhận làm đồng minh của đế quốc Tây La
mã. ( khi vị hoàng đế La mã bị phế bỏ, thì
tại Gaule chính quyền La mã vẫn còn , do
một thống đốc La mã là Syarius thống trị) .
Ðến khi chính quyền La mã suy tàn, thì bọn
qúi tộc France liên kết với nhau bầu Clovis
làm tổng chỉ huy, tiến hành chiến tranh xâm
lược xứ Gaule.
Năm 486, Clovis đánh bại Syarius,
chiếm Gaule và thành lập lên các công xã
nông thôn Mark. (Clovis chiếm đoạt riêng
cho mình nhiều đất đai và đem ban tặng cho
bọn qúi tộc France, nhiều chủ nô La mã đã
ngã theo Clovis cũng được ban tặng). Ðể
bảo vệ đất đai, Clovis đã ban hành bộ luật
Saliens. Ðây là bộ luật củng cố sự bất bình
đẳng trong xã hội. [ qua câu chuyện cái bình
Sachxon].
Trong xã hội ngoài hai giai cấp chính :
Ðịa chủ qúi tộc và nông dân công xã, còn
tồn tại khá nhiều nô lệ và lệ nông.
Xã hội vương quốc France bao gồm
hai thành phần :
- Thống trị : Vua, qúi tộc quan tòa,
Tăng lữ giáo hội, Quân đội vệ binh.
- Bị trị : Nông dân tự do, Nô lệ và lệ
nông.
Sự phát triển quan hệ PK ở vương quốc
FRANCE
Vương triều
MÉROVINGIENS
đầu tiên của vương quốc France, đã sáng lập
ra triều đại Mérovingiens. Ðể cũng cố triều
đại, Clovis tăng cường mở rộng lãnh thổ
bằng cách xâm chiếm và chinh phục các bộ
lạc chung quanh. Ðồng thời Clovis tiếp thu
tín ngưỡng Cơ đốc giáo và cưỡng bức tất cả
những người France phải tin theo, dần dần
tăng lữ của giáo hội cơ đốc giáo trở thành
đẳng cấp có đặc quyền và trở thành một bộ
phận của giai cấp thống trị.
Cuối thế kỷ VII đầu thế kỷ VIII , quyền
lực của nhà vua bắt đầu yếu ớt, trước tình
hình đó, Charles Martel là thừa tướng cuối
triều Mérovingiens đã đề ra một cải cách gọi
là cải cách BÉNEFICIUM ( nghiã là vật
ban cấp )
# MỤC ÐÍCH CẢI CÁCH :
* Hạn chế quyền lực của bọn qúi tộc địa
phương.
* Tập trung quyền lực vào tay nhà vua
để đối phó với các bộ lạc và những quốc
gia chung thường xuyên đến cướp phá
vương quốc ( nguy hiểm nhất là quân đội
Hồi giáo ẢRập)
# NỘI DUNG CẢI CÁCH :
Charles Martel thi hành hình thức ban
cấp ruộng đất kèm theo điều kiện phục vụ
quân sự gọi là Béneficium. Theo hình thức
nầy, người được hưởng ruộng đất phải ký
một bản giao kèo là thề trung thành với
Vua, theo đó phải thực hiện nghiã vụ 40
ngày/năm, tham dự những buổi họp quan
trọng. Ngược lại Vua phải bảo vệ tính mạng
và kinh tế cho người được phong.
# HẬU QỦA :
- Hình thành đẳng cấp phong kiến
quân sự, giữa các đẳng cấp có sự lệ thuộc
lẫn nhau.
- Làm cho nông dân phá sản nhiều
hơn.
- Làm cho nông dân phá sản nhiều
hơn.
Tóm lại : Nhờ thi hành chính sách đất phong
Béneficium, mà Charles Martel đã liên tiếp
đánh thắng quân thù, đặt biệt là đã đánh bại
được quân đội ẢRập trong trận đại chiến ở
Poitiers năm 732, chặn được bước tiến của
quân Aírập vào sâu nội địa Tây âu.
C- Vai trò của giáo hội Cơ đốc giáo :
Trong sự phát triển của vương quốc
France, giáo hội cơ đốc giáo đã gớp phần
quan trọng thúc đẩy quan hệ PK. Giáo hội
được Vua ban tặng nhiều ruộng đất và nông
nô. Nhân dân lao động vì mê tín, nên cũng
đã mang tài sản của mình hiến cho nhà thờ
để nhận sự bảo hộ của nhà thờ và trở thành
nông nô.
Cơ cấu của giáo hội Cơ đốc giáo Tây âu
được tổ chức như sau :

II - SỰ THÀNH LẬP VÀ TAN RÃ


CỦA ÐẾ QUỐC CHARLEMAGNE
TOP
SỰ RA ÐỜI CỦA 3 QUỐC GIA
PHÁP - ÐỨC - Ý
1 - Vương triều CAROLINGIEN & Ðế
quốc CHARLEMAGNE :
Vào khoảng thế kỷ VIII, bọn qúi tộc France
thấy rằng đất đai trong nội địa không đủ để
chúng mở rộng, vì vậy chúng muốn bành
trướng ra bên ngoài để chiếm đoạt ruộng đất
và nông nô, nên đã ủng hộ PEPIN lùn
( Pepin Le Bref ) lật đổ vương triều
Mérovingien lập ra triều Carolingien.
Ðến năm 768, con của Papin là
Charlemagne lên kế vị, đã đưa vương quốc
France đến chổ cực thịnh. Chính sách của
Ông là dựa vào bọn qúi tộc PK và giáo hội
Thiên Chúa giáo. Trong 46 năm cầm quyền,
Charlemagne đã tiến hành 55 cuộc viễn
chinh lớn nhỏ chinh phục khắp nơi. Kết qủa
là Ông đã thành lập được một đế quốc
Charlemagne rộng lớn, biên giới chạy dài từ
sông Ebre ( Tây Ban Nha ) đến sông Elbe
( Ðức ) [ Bao gồm Ðức, Pháp, Bỉ, Hà lan ,
Aïo và một phần nước Ý ngày nay]. Ðến
năm 800, Giáo hoàng chính thức làm lễ lên
ngôi Hoàng đế cho Charlemagne.
2 - Sự tan rã của đế quốc Charlemagne .
Sự ra đời của 3 quốc gia Pháp - Ðức - Ý
:
- Nguyên nhân :
* Thiếu yếu tố kinh tế và yếu tố dân tộc
thống nhất.
* Bọn qúi tộc địa phương luôn chống đối
chính quyền trung ương.
* Người thừa kế Charlemagne bạc
nhược không đủ khả năng cai trị đất
nước .
- Diễn tiến :
Sau khi Charlemgne chết (814), con là Louis
Mộ Ðạo lên thay thấy không đủ khả năng
cai trị đất nuớc, nên đã chia vương quốc ra
làm 3 phần giao cho 3 người con cai trị. Thế
nhưng do bọn lãnh chúc địa phương xúi
giục, nên 3 anh em liên tục đánh nhau , đến
năm 843, ba anh em ký với nhau hiệp ước
Verdun ( ngày nay thuộc Pháp) chia đế quốc
ra làm 3 phần.
- Anh cả LOTHAIRE, giữ phần
Trung bộ của vương quốc , trong đó có hai
kinh đô là Aix - La - Chappelle & La mã ,
hình thành nên quốc gia PK Ý.
- Người thứ hai LOUIS LE
GERMANIQUE ( Louis xứ Ðức ) , cai trị
phần Ðông bộ của vương quốc [ đông
France ], lập nên quốc gia PK ÐỨC
- Em út CHARLES LE CHAUVE
( Charles Ðấu Hói ) chiếm phần Tây bộ của
vương quốc, lập nên quốc gia PK PHÁP.
Ðây là 3 quốc gia phong kiền phân tán, nên
quyền lực của nhà Vua bị thu hẹp lại trong
lãnh địa của mình.
@ HẬU QỦA :
Chiến tranh thường xuyên xãy ra giữa
các nước và giữa bọn qúi tộc lãnh chúa ở
mỗi nước, tạo điều kiện cho các bộ tộc và
những quốc gia lận cận đến cướp phá.
Lãnh chuá địa phương lợi dụng tình
hình , nên tăng cường xây dựng quyền lực tự
trị , biến đất phong thành cha truyền con nối
, tăng cường cướp bóc dân chúng, buộc họ
phụ thuộc vào mình và chẳng bao lâu những
người nông dân đã biến thành nông nô.
Qúa trình phong kiến hóa đến đây là hoàn
thành.
III - TÌNH HÌNH KINH TẾ TOP
CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA CÁC
QUỐC GIA PHONG KIẾN TÂY ÂU
THỜI SƠ KỲ TRUNG ÐẠI
1- Tình hình kinh tế và tổ chức lãnh địa
phong kiến
a- Kinh tế:
Kinh tế tự nhiên chiến địa vị thống trị,
nông nghiệp và chăn nuôi là những ngành
sản xuất chủ yếu. Riộng đất là tư liệu sản
xuất chính, thủ công nghiệp phụ thuộc vào
nông nghiệp. Hình thức sản xuất - tiêu thụ là
tự cung tự cấp, người sản xuất chính là nông
nô.
b - Lãnh địa phong kiến :
Toàn bộ hoạt động kinh tế trong xã hội
phong kiến sơ kỳ đều tập trung ở các lãnh
địa phong kiến.
_ Lãnh địa phong kiến là một khu vực đất
đai khá rộng lớn, bao gồm : ruộng đất , đồng
cỏ, rừng rú, ao hồ, sông đầm, bãi hoang,...
_ Quyền sở hữu lãnh địa thuộc về qúi tộc vũ
sĩ ( Vua và qúi tộc chư hầu) hay qúi tộc tăng
lữ ( giáo hoàng, giám mục và tu sĩ) .
_ Chủ của lãnh địa là lãnh chúa, lãnh địa có
quyền thừa kế, người sản xuất chính trong
lãnh địa là nông nô, nông nô phải nộp tô lao
dịch và những cống vật cho lãnh chúa.
. 2 - Chính trị :
Thời kỳ nầy về cơ bản là chế độ
phong kiến phân quyền, nên quyền lực của
nhà Vua thật nhỏ bé, quyền lực thực tế nằm
trong tay lãnh chúa phong kiến. Ðặc biệt kề
từ khi có luật Miễn trừ các lãnh chuá thật sự
trở thành các ông vua con. Quốc gia bị chia
thành những công quốc, bá quốc ( thực chất
những công quốc hay bá quốc là những quốc
gia thật sự ) . Tuy nhiên giữa các lãnh chuá
lớn nhỏ có mối quan hệ nhất định. Lãnh
chúa nầy có thể là phong quân của lãnh chúa
kia, đồng thời là chư hầu của lãnh chúa
khác.
3 - Xã hội :
Xã hội phong kiến có hai gia cấp cơ
bản : Lãnh chúa và nông nô .
Nông nô : người sản xuất chính
trong xã hội, chiếm hữu tư liệu sản xuất, có
kinh tế riêng nhưng bị gắn chặt vào ruộng
đất, nên hoàn toàn phụ thuộc vào lãnh chúa
phong kiến về thân thể, tư pháp.
CHƯƠNG 2 : CÁC QUỐC GIA
PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI TRUNG
KỲ TRUNG ĐẠI ( XI - XV )
I. THÀNH THỊ VÀ CÔNG THƯƠNG
NGHIỆP TÂY ÂU
1. Sự ra đời của thành thị
2. Hoạt động của thành thị
3. Đấu tranh của thành thị chống lãnh
chúa phong kiến
4. Tác dụng của thành thị trong xã hội
phong kiến Tây Âu
II. GIÁO HỘI THIÊN CHÚA GIÁO -
PHONG TRÀO VIỄN CHINH CHỮ
THẬP
1. Tổ chức của thiên chúa giáo
2. Phong trào viễn chinh chữ thập
III. CÁC VƯƠNG QUỐC ANH - PHÁP
XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
PHONG KIẾN TẬP QUYỀN
1. Ở Pháp
2. Nước Anh chuyển từ chế độ phong
kiến phân quyền sang chế độ phong
kiến tập quyền
IV. VĂN HÓA TÂY ÂU THỜI SƠ VÀ
TRUNG KỲ TRUNG ĐẠI
I -THÀNH THỊ VÀ CÔNG
THƯƠNG NGHIỆP TÂY ÂU
1- Sự ra đời của thành thị TOP
- Thế kỷ XI, kinh tế Tây âu có
một bước phát triển đáng kể
* Trong nông nghiệp :
Rừng rậm được khai phá, đầm lầy
được tát cạn, nên diện tích canh tác được
mở rộng. Phương pháp canh tác được cải
tiến ( luân canh 3 khu, dùng cày nặng có
bánh xe, sử dụng phân bón,...) nên thu hoạch
tăng ( đạt 5, 6 lần thóc giống).
* Trong chăn nuôi :
Số lượng Bò, Ngựa tăng lên nhiều. Ðặc biệt
nuôi cừu để lấy lông dệt dạ.
* Trong thủ công nghiệp :
· Nghề khai thác quặng, chế tạo đồ sắt
( công cụ sản xuất và vũ khí)
· Nghề làm đồ gốm cũng phát triển, làm
xuất hiện những người làm nghề thủ công
riêng biệt.
Như vậy, nhờ sự phát triển của nến kinh
tế, thủ công nghiệp dần dần tách ra khỏi
nông nghiệp, tuy nhiên những người thợ thủ
công vẫn là nông nô và sống trong lãnh địa,
nên phải nộp tô thuế cho lãnh chúa.Vì thế
những người thợ thủ công bắt đầu rời khỏi
lãnh địa bằng cách chuộc lại tự do thân thể
hoặc bỏ trốn. Họ tìm đến những nơi thuận
lợi như ngã ba sông, ngã tư đường, những
chân tường của nhà thờ, tu viện,... mở
xưởng thủ công để việc trao đổi mua bán
được dễ dàng.
Những ngành thủ công sớm thoát khỏi
nông thôn và lãnh địa là những ngành luyện
kim, dệt dạ, làm đồ gốm, thuộc da, xây
dựng,...Những ngành nầy yêu cầu kỹ thuật
cao, cần phân công chuyên môn hóa và cần
đông người , nên sớm tập trung lại.
Những nơi tập trung những người thợ thủ
công dần dần lập thành thành thị
# Thành thị trung đại có 3 loại :
- Thành thị mới : Do những người thợ
thủ công thoát ly khỏi nông thôn lập nên
- Thành thị cổ : Thành thị có từ thời
cổ đại được phục hồi lại
- Thành thị do lãnh chuá qúi tộc
phong kiến xây dựng lên cho thị dân thuê.
Các thành thị đều có thành lũy và tháp
canh bao bọc chung quanh ( để ngăn ngừa
chiến tranh và cướp bóc). Trong thành thị
được hcia thành nhiều khu phố, mỗi khu phố
tập trung những người thợ thủ công cùng
ngành nghề. Nhà cửa trong thành thị thì nhỏ
bé, lụp xụp, đường phố chật hẹp bẩn thỉu.
Ngoài ra trong thành thị còn có những khu
chợ, nhà thờ, tòa thị chính....là những nơi
tập trung công cộng.
2- Hoạt động của thành thị TOP
Cư dân sống trong thành thị gọi là
thị dân (gồm thợ thủ công tự do, thương
nhân tự do) . Trong buổi đầu hoạt động của
thành thị gặp khó khăn do thành thị còn nằm
dưới quyền thống trị của lãnh chúa PK.
Dần dần về sau hoạt động của thành
thị ngày càng phồn thịnh, dân cư ở nông
thôn kéo lên thành thị ngày càng nhiều, làm
cho đất đai trong thành thị chật hẹp, cư dân
phải xây dựng nhà cửa bên ngoài thành lũy.
Như vậy thành thị ngày càng được mở rộng
theo hình tròn đồng tâm
# Hoạt động thủ công nghiệp :
Thành thị là nơi sản xuất hàng hóa
chủ yếu của xã hội phong kiến. Sản phẩm
được chế tạo tại các xưởng thủ công của thợ
thủ công.
Xưởng thủ công có qui mô nhỏ, lao
động hoàn toàn bằng tay với những công cụ
thô sơ, đơn giãn.
Mỗi xưởng thủ công có 1 thợ Cả ( thợ
chính ) và vài ba thợ học việc ( thợ bạn ). Họ
phải tự cung cấp nguyên vật liệu, dụng cụ và
tự tiêu thụ hàng hóa. Quan hệ giữa thợ bạn
và thợ cả là quan hệ hợp tác thầy trò hay gia
trưởng.
Những người thợ thủ công cùng sản
xuát một loại hàng hóa ở trong cùng một
thành thị thì tập hợp lại trong một tổ chức
gọi là phường hội.
Phường hội lập ra nhằm mục đích :
- Giữ độc quyền sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm
- Ðảm bảo quyền lợi giữa những người thợ
thủ công cùng ngành nghề
- Ngăn cản những người thợ thủ công không
có chân trong thành thị cùng làm nghề thủ
công đó.
- Ðấu tranh chống lại sự sách nhiễu của lãnh
chúa PK.
Mỗi phường hội có một qui chế riêng
gọi là phường qui . Tức những điều khoản
bắt buộc người thợ phải thực hiện trong qúa
trình sản xuất hàng hóa như :
- Qui định mỗi xưởng có mấy
thợ.
- Mỗi ngày làm mấy
giờ , dùng những công cụ sản
xuất và nguyên vật liệu gì.
- Quy cách, chất
lượng, giá cả sản phẩm,...
Phường hội ngoài là một tổ chức đoàn
thể (có cờ hiệu) nó còn là một tổ chức quân
sự (mỗi phường hội là một dội tự vệ để bảo
vệ thành thị)
# Hoạt động thương mại :
Trong buổi đầu của thành thị, hàng
hóa được bày bán ở cửa hàng (đồng thời
cũng là nhà ở của thợ thủ công), nên việc
buôn bán chậm chạp,khó khăn.
Dần dần về sau xuất hiện tầng lớp
thương nhân bao mua , họ đem hàng hó từ
thành thị nầy đến thành thị khác hoặc về
nông thôn đề bán hay trao đổi những sản
phẩm khác.
Ðến thế kỷ XIII, thương mại mới bắt
đầu phát triển, xuất hiện con đường buôn
bán giữa các nước, nhiều đường bộ, đường
sông chạy ngang dọc khắp Châu âu và từ Âu
sang Á. Ðường biển cũng phát triển, xuất
hiện nhiều hải cảng sầm uất từ Ðịa trung hải
đến Hắc hải.
Ðể thuận tiện trong việc buôn bán,
thương nhân Tây âu lập ra một tổ chức gọi
là Hanse (thương hội)
@ Mục đích của Hanse :
Giúp đở nhau vận chuyển, bảo vệ dọc đường
đi.
Ðiều chỉnh chế độ tiền tệ, cân đo lường.
Nắm độc quyền thương mại ở những khu
vực nhất định.
Ðể thuận tiện cho việc buôn bán quốc
tế, thương nhân còn mở hội chợ (hay chợ
phiên). Hội chợ mở tại một địa điểm cố
định, thương nhân các nước mang hàng đến
bán , trao đổi, đặt hàng. Hội chợ còn xuất
hiện những quầy đổi tiền và nhận chuyển
tiền
3 - Ðấu tranh của thành thị
TOP
chống lãnh chúa phong kiến
Thành thị khi mới ra đời đều nằm trên
lãnh thổ của lãnh chúa PK. Do đó thành thị
bị lệ thuộc vào lãnh chúa phong kiến và bị
lãnh chúa sách nhiễu mọi thứ : đóng thuế
thân, đi sưu dịch, binh dịch, bị xét sử bất
công,...
Ðể hạn chế sự phụ thuộc vào lãnh
chúa, thị dân đã lập nên những hội nghề
nghiệp (Phường hội cúa thợ thủ công, Hanse
của thương nhân) nhưng không mấy kết
qủa.
Vì vậy, trên lãnh thổ thành thị những
mâu thuẫn giai cấp của chế độ phong kiến
trở nên gay gắt cực độ :
- Thị dân giàu không chịu đựng nổi sự tùy
tiện của bọn phong kiến.
- Dân nghèo chống lại nạn lao dịch và sưu
thuế, chống cướp đoạt và hạch sách về tòa
án.
Tất cả những điều đó dẫn đến chổ
bùng nổ cuộc đấu tranh giai cấp. Từ cuối thế
kỷ XI, gọi là những cuộc cách mạng công
xã và tiếp diễn trong các thế kỷ XII , XIII.
# Hình thức đấu tranh :
Ôn hòa : Thành thị bỏ tiền ra nộp cho lãnh
chúa để chuộc lại tự do cho thành thị
(hình thức nầy tránh cho thị dân khỏi đổ
máu và thành thị khỏi bị tàn phá)
Vũ trang : Do thái độ tham lam của lãnh
chúa, một số thành thị đã tiến hành
đấu tranh vũ trang (điển hình là thành thị
Laon ở Bắc Pháp )
# Kết qủa :
Qua đấu tranh lâu dài có hàng loạt
thành thị được giải phóng khỏi quyền lực
của lãnh chuá phong kiến , và những công
xã hay quốc gia thành thị ra đời. ( Các công
xã nầy có toàn quyền về chính trị, được tự
do về kinh tế)
Chính quyền thành thị lúc đầu do toàn
thể thị dân bầu ra, nhưng chẳng bao lâu,
chính quyền đó trở thành độc quyền của
một số thị dân giàu có (thương nhân, bọn
cho vay lãi, chủ nhà đất lón, chủ xưởng,..) ,
bọn nầy có ưu thế về tiền bạc và có nhiều
mánh lới về chính trị nên dễ dàng nắm được
chính quyền và dần dần trở thành Thị dân
qúi tộc hay Qúi tộc thành thị , họ thi hành
nhiều chính sách hẹp hòi, bất công, gây thiệt
hại cho thị dân lớp dưới.
4- Tác dụng của thành thị
TOP
trong xã hội phong kiến TÂY ÂU
Thành thị không những đóng vai trò quan
trọng về hoạt động công thương nghiệp,
tham gia tích cực vào đời sống chính trị của
xã hội phong kiến, thúc đẩy sự phát triển
của nền văn hóa giáo dục mà còn có tác
động lớn đến nông thôn phong kiến..
a- Thành thị thúc đẩy kinh tế phát
triển .
b- Thành thị ra đời làm thay đổi tình
trạng xã hội và tăng cường đấu tranh
giai cấp.
c - Thành thị ra đời gớp phần chống
phong kiến phân tán , giải phóng nông
nô, thúc đẩy nhanh qúa trình chuyển
biến từ chế độ phong kiến phân quyền
sang tập quyền.
d- Thành thị ra đời , thúc đẩy sự phát
triển của văn hóa và giáo dục.
Như vậy, thành thị trung đại tuy còn nằm
trong khuôn khổ của chế độ phong kiến,
nhưng nó đã phát huy tác dụng đối với chế
độ phong kiến, thúc đẩy chế độ phong kiến
phát triển lên.
II - GIÁO HỘI THIÊN CHÚA
GIÁO & PHONG TRÀO VIỄN
CHINH CHỮ THẬP
1- Tổ chức của thiên chúa giáo TOP
- Ở thời sơ kỳ trung đại , giáo hội cơ
đốc giáo ở Tây âu, đã trở thành lãnh chúa
lãnh phong kiến lớn nhất Tây âu. (Chiếm
hữu 1/3 tổng số ruộng đất Tây âu,có hàng
vạn nông nô phụ thuộc.)
- Từ năm 1054, giáo hội cơ đốc giáo
phân hóa thành hai giáo phái riêng lẽ.
+ Giáo hội Thiên chúa giáo ở
Tây âu do giáo hoàng La mã đứng đầu.
+ Giáo hội Cơ đốc giáo chính
thống ở Ðông âu, đứng đầu là hoàng đế
Bizantium.
Tổ chức của Thiên chúa giáo Tây âu có thể
chia thành 2 tầng lớp :
2- Phong trào viễn chinh chữ TOP
thập
a- Nguyên nhân :
+ Sâu xa :
Do kinh tế ngày càng phát triển, nên
nhu cầu của bọn qúi tộc ngày càng tăng lên.
Họ có tham vọng về một phương Ðông giàu
có.
Thương nhân Tây âu vốn vấp phải đối
thủ có thế lực, đó là thương nhân Ả rập và
thương nhân thổ nhĩ kỳ. Họ muốn có cuộc
viễn chinh đông phương để tiêu diệt kể cạnh
tranh của mình.
Nông dân Tây âu vốn bị qúi tộc PK
áp bức bóc lột nặng nề, họ tham gia thập tự
chinh với ý đồ tìm một nơi sống tốt ở
phương Ðông để thoát khỏi cảnh sống cơ
cực.
+ Trực tiếp :
Vào nững năm đầu thế kỷ XI, quân
đội Hồi giáo Turk-Seljuk đe dọa Bizantium
và chiếm đóng kinh thành Jerusalem, đồng
thời ngược đãi những tín đồ Tây âu sang
viếng mộ Chúa. Trước tình hhình đó, hoàng
đế Bizantium cầu cứu giáo hoàng La mã
giúp đở để chống lại Turk- Seljuk .Ðáp lời
kêu gọi của hoàng đế Bizantium, tháng 11
năn 1095 giáo hoàng Urbain II triệu tập hội
nghị ở Clermont (Pháp) , kêu gọi và đứng ra
tổ chức cuộc chiến tranh tôn giáo để giải
phóng đát thánh Jerusalem.
a- Tính chất và thành phần tham gia :
Ðây là những cuộc xâm lược cướp
bóc, nhưng được ngụy trang bởi cái võ tôn
giáo.Thành phần tham gia gồm giai cấp
phong kiến, thị dân ,nông dân.
c - Diễn biến :
Phong trào Viễn chinh chữ thập diễn ra gần
hai thế kỷ ( từ năm 1096 đến 1270) bao gồm
8 cuộc viễn chinh lớn nhỏ .
@- Ðợt 1 : ( 1096 - 1099 )
Do Pie Ẩn sĩ lãnh đạo, bao gồm đông
đảo nông dân Ðông và Bắc Pháp (họ mang
theo gia đình, tài sản với hy vọng sẽ tìm
được mãnh đất định cư ở phương đông) .
Cuối cùng quân chữ thập cũng chiếm được
Antiose (xứ Xiry) và thành Jerusalem , lập
nên vương quốc Jerusalem và các quốc gia
latinh khác ở Phương Ðông. Nhưng sau đó
bị các quốc gia Hồi gíao xung quanh tấn
công và thu hồi lại gần hết đất đai.
@- Ðợt 2 : (1147-1149)
Gồm đạo quân của Vua Pháp Louis VII và
hoàng đế Ðức Conrat III
@ - Ðợt 3 : ( 1147 - 1192 )
Gồm quân của hoàng đế Ðức Frederik I
râu hung ; Vua Pháp Philippe II August ;
Vua Anh Richard Tim sư tử . Cả hai đợt nầy
do các đạo quân không thống nhất, mỗi đạo
hành động theo một hướng, nên cuối cùng
thất bại.
@- Ðợt 4 : (1202-1204)
Do Giáo hoàng Innocento III (cầm
đầu giáo hội từ năm 1198 đến 1216) đứng ra
vận động và kêu gọi tổ chức, nhờ có quyền
thế, nên ông đã quy động được 3.5 vạn qúi
tộc tham gia.
Năm 1204, quân chữ thập chiếm được
kinh thành Constantinople ( vì lúc bấy giờ
triều đình Bizanium đang xung đột, nên
không có lực lượng bảo vệ kinh thành) và
lập ra đế quốc Latinh Constantinople .
Nhưng quân chữ thập không giữ được bao
lâu, năm 1261 hoàng đế Hy lạp chiếm lại.
Sau khi chiếm được Constantinople,
quân chữ thập không còn nghĩ gì đến đất
thánh nữa, mà họ chỉ nghĩ đến chuyện
cướp bóc. Ðể lấy lại uy tín, năm 1212
giáo hoàng Innocento III lại tổ chức tiếp
đợt viễn chinh chữ thập trẻ em . Hàng vạn
trẻ em châu âu được tập trung về bến
Marseille (pháp) để đưa xuống tàu vượt
biển. Do phương tiện vận chuyển kém, thiếu
thức ăn, nước uống, thiếu dưỡng khí để
thở,...đã làm cho một số trẻ em chết đi, số
còn lại bị bọn chủ tàu chở sang Ai cập và
Bắc Phi bán làm nô lệ.
Sau đợt 4, viễn chinh không còn thu hút sự
chú ý của các tầng lớp xã hội, vì khả năng
cướp bóc thuộc địa không còn, tinh thần tôn
giáo cũng nhạt đi.
@- Ðợt 5 ( 1217-1221)
Chỉ một mình vua Hunggary mang
quân đội của mình cùng một số kỵ sĩ Ðức
sang Ai cập đánh nhau được vài trận rồi rút
về.
@- Ðợt 6 ( 1228-1229)
Do hoàng đế Frederik II Hohenstaufen
( cháu Fredrrik râu hung) tổ chức. Vì có ác
cảm với giáo hoàng, nên khi sang Jerusalem
đã liên kết với quân đội Hồi giáo để chuẩn
bị chống giáo hoàng.
@- Ðợt 7 ( 1248-1254) & Ðợt 8 (1264-
1270)
Chỉ một mình Vua Louis IX đem quân
sang Ai cập đánh nhau vaì trận thì bị bắt,
phải mất một số tiền lớn mới được chuộc về.
Năm 1264, Ông lại đem quân sang
Tuynidy, nhưng tại đây vua chết vì bệnh
dịch tả.
d- Kết qủa :
Phong trào viễn chinh chữ thập hoàn toàn
thất bại. Tất cả thuộc địa của quân chữ thập
ở Trung cận đông, phái đoàn truyền giáo của
giáo hội Thiên chuá giáo cũng không thu
được kết qủa gì đáng kể. Tuy nhiên , các
cuộc thập tự chinh đã có ít nhiều ảnh hưởng
đến sự phát triển ở Tây âu.
_ Về kinh tế :
Thương nhân Tây âu đã phá vỡ được
độc quyền thương mại của người Ả rập và
Thổ nhĩ kỳ ở Trung cận đông, chuyển giao
dịch thương mại ở Ðiạ trung hải cho thương
nhân tây âu, làm cho hàng hóa từ phương
Ðông chuyển đều đặn sang Phương Tây và
nhiều hơn trước.
_ Về văn hóa , khoa học kỹ thuật :
Sau phong trào chữ thập, triết học,
văn học , nghệ thuật, điêu khắc của người
Hy lạp được du nhập vào Tây âu thông qua
những người A rập, làm cho tầm hiểu biết
của người Tây âu được mở rộng.
Lối sống xa hoa của Phương Ðông
cũng được du nhập vào triều đình và bọn
qúi tộc phương Tây.
Trong công nghiệp, những kỹ thuật
tiên tiến của phương Ðông như luyện kim,
dệt vãi bông ,nhuộm đã bổ sung cho kỹ thuật
còn lạc hậu của Phương Tây.
Trong nông nghiệp, kỹ thuật làm thủy
lợi, các giống cây trồng như lúa, bông,...
được du nhập vào phương Tây. Ðặc biệt 3
phát minh lớn của người Trung hoa là La
bàn, nghề làm giấy, thuốc súng cũng được
đưa vào Tây âu thông qua các nước Trung
cận Ðông.
_ Về chính trị xã hội :
Làm suy yếu quyền lực của chúa
phong kiến, giúp cho việc tăng cường chính
quyền quân chủ trung ương tập quyền. Tạo
điều kiện để thị dân và nông nô thoát khỏi
thân phận lệ thuộc.
Tuy nhiên, phong trào viễn chinh chữ thập
đã tàn phá nền văn minh, tàn phá nền kinh
tế và gây đau khổ cho hàng vạn người lớn
và trẻ em,... làm kìm hãm sự phát triển của
các nước Trung cận đông.
III. CÁC VƯƠNG QUỐC ANH -
PHÁP XÂY DỰNG CHẾ ÐỘ
CHÍNH TRỊ PHONG KIẾN TẬP
QUYỀN
1- Ở PHÁP TOP
Có thể nói trong các thế kỷ XI - XII,
Pháp là quốc gia phong kiến phân quyền
điển hình (vương quốc chia thành nhiều
lãnh địa, trong đó có 14 đại lãnh địa - công
quốc, bá quốc , giám mục khu...).
Trước tình hình đó năm 987, sau khi
vua Louis V chết, vương triều Carolingiens
ở Pháp kết thúc. Bọn bá tước Paris liên kết
kại với nhau và bầu Hugnes Capet lên làn
vua, lập nên triều Capetiens (triều đại
nầy kéo dài đến cách mạng tư sản Pháp thì
kết thúc).
Thế kỷ XII, thành thị Pháp ra đời và
lực lượng thị dân ngày càng lớn mạnh, thị
dân ra sức giúp vua đánh bại các thế lực PK
cát cứ, do đó quyền lực của nhà vua ngày
càng được tăng cường.
Sang thế kỷ XIII, các vua Pháp bằng
chinh phục quân sự hay do hôn nhân thừ kế,
đã xác nhập nhiều lãnh địa vào vương quôc.
(lúc bấy giờ chỉ còn 4 đại lãnh địa là chưa
xác nhập vào vương quốc là : FLANDER
[ đông bắc Pháp] , BOURGOGNE [miền
đông], BRETAGNE [tây bắc] và
GUYENNE [tây nam]
Ðồng thời với việc mở rộng lãnh thổ,
các vua Pháp còn chú ý đến việc xây dựng
chính quyền trung ương tập quyền và tăng
cường khống chế các chư hầu.
# CHIẾN TRANH TRĂM NĂM GIỮA
PHÁP VÀ ANH ( 1337 - 1453 )
# nguyên cớ :
Là sự tranh chấp sứ Flander giàu có ,
một bá quốc chư hầu cuả Vua Pháp, nhưng
lại có quan hệ kinh tế chặt chẽ với Vua Anh
( sợi của Flander con thoi của Anh ).
# Nguyên nhân :
Vừa là cuộc xung đột lớn giữa hai
quốc gia đang trên đường hoàn thành chế
độ phong kiến tập quyền.
Vừa là cuộc đấu tranh quyết liệt để
tiêu diệt thế lực cuối cùng của bọn phong
kiến cát cứ.
# Diễn biến :
· Do có sự chuẩn bị trước về quân sự và
ngoại giao, nên trong những trận giao tranh
đầu quân đội Anh luôn luôn thắng thế
( trận thủy chiến ở Eïcluse 1340 , trận Crésy
1346 , đặc biệt là trận đại chiến ở Poitiers
1356 vua Pháp là Jean le bon cùng một số
qúi tộc bị bắt làm tù binh )
. Sau trận poitiers, tình hình nước Pháp
trở nên đen tối, kinh tế bị tàn phá nặng nề,
nền chính trị trở nên thối nát, đã dẫn đến
cuộc khủng hoảng kinh tế - chính trị những
năm 1356 - 1358 và cuộc nội chiến 1358.
Sau cuộc nội chiến 1358, nước Pháp
bị tàn phá nặng nề, buộc phải xin ký hòa ước
đình chiến với Anh.
Sau hòa ước , vua Pháp Charles V
khôn ngoan (1364 - 1380) được qúi tộc
đem toàn lực ủng hộ, nhờ vậy vua tăng
cường được quyền chuyên chế, trấn áp bọn
phong kiến nổi loạn và đuổi được quân đội
Anh ra khỏi nước Pháp ( vua Anh chỉ còn
giữ lại được vài căn cứ : Calais, Bayon ).
Năm 1380, Charles V chết, Charles VI
lên ngôi vì vua còn trẻ ( mới 14 tuổi ) nên
triều đình bị bọn phong kiến nhũng loạn, đã
tạo cơ hội cho chiến tranh trăm năm tái diễn,
mãi đến năm 1453 mới kết thúc.
# Nhìn chung , chiến tranh trăm năm đã làm
cho kinh tế hai nước bị suy sụp, tuy nhiên
sau chiến tranh, nhờ vào hoàn cảnh thống
nhất đất nước, kết hợp với tinh thần lao
động cần cù của nhân dân, nên Pháp đã
sớm phục hồi kinh tế và phát triển nhanh
chóng.
Hậu qủa lớn nhất do chiến tranh trăm
năm để lại là làm cho bọn qúi tộc nghèo đi,
nên một số đã chuyển sang làm nghề thủ
công, một số tình nghuyện phục vụ trong
triều đình nhà vua và trở thành tầng lớp qúi
tộc quân sự và đình thần .
Sau khi kết thúc chiến tranh, Vua
Pháp Louis IX bắt đầu xây dựng chính
quyền trung ương tập quyền. Từ thế kỷ XV
trở đi, Pháp đã hoàn thành thống nhất vương
quốc (Lúc nầy các lãnh địa đã được xáp
nhập vào vương quốc) , vương quốc được
chia thành nhiều Tỉnh do vua chỉ định quan
cai trị. Trong vương quốc thuế khoá, pháp
luật, quân đội được thống nhất.
Cùng với việc thống nhất chính
quyền, chủ nghiã dân tộc tư sản được hình
thành, ý thức dân tộc bắt đầu nãy nở, ngoài
tiếng địa phương, còn có tiếng Pháp chung
và nền văn hóa chung.
2- Nước ANH chuyển từ chế độ TOP
phong kiến phân quyền sang chế độ
phong kiến tập quyền
a - Chế độ phong kiến phân quyền ở Anh :
Vào nửa đầu thế kỷ XI (1066), Vương
quốc Anglo-Sachxon nằm trên đảo Anh, bị
William là công tước xứ Normandy xâm
chiếm. (lúc nầy tại vương quốc Anglo-
sachxon qúa trình nông nô hóa đang diễn ra
và chưa hoàn thành). Vua Anh ( đồng thời là
công tước xứ Normandy ) đã tịch thu rất
nhiều ruộng đất và tài sản của những người
chống lại Ông và lập nên lãnh địa của mình (
bằng 1/7 đất đai toàn quốc) . Số ruộng đất
còn lại, vua đem ban cấp cho bọn đại qúi tộc
( Huân tước , bá tước) và đại tăng lữ. Bọn
qúi tộc Anglo-sachxon đầu hàng hoặc không
phản đối cũng được bảo đảm quyền lợi kinh
tế như cũ.
Như vậy chế độ phong kiến phân quyền ở
Anh được thành lập, tuy nhiên không sâu
sắc và triệt để như ở Pháp và ở Ðức vì vua
có quyền lực mạnh mẽ , khống chế cả bọn
qúi tộc và tăng lữ địa phương.
Ðến thế kỷ XII, thành thị ở Anh pháp
triển, Vua Anh đã nhận lấy tiền chuộc của
thị dân và công nhận các bản hiến chương
thành thị. Do đó Vua được một lực lượng
hùng mạnh ủng hộ đó là thị dân.
Ðể xóa bỏ quyền lực của lãnh chúa
địa phương, Vua Anh đã lập ra tòa án tuần
hồi đi hết các địa phương để xét xử ( trừ
nông nô vẫn bị xét xử trong tòa án của
lãnh chúa).
Từ giữa thế kỷ XII trở đi, Họ
Plantagenet lên cầm quyền ở Anh, đã đưa
nước Anh hùng mạnh nhất Châu âu thời bấy
giờ.
b - Khởi nghiã nông dân Wat - Tyler :
+ Nguyên nhân :
- Từ thế kỷ XIV trở đi, nền kinh tế hàng hóa
ở Anh phát triển, nhưng nông dân Anh vẫn
điêu đứïng vì phải nộp tô tiền.
- Do ảnh hưởng của nạn dịch đen làm cho
nông dân đói khổ, mùa màng thất thu, nông
dân lại phải cung cấp chiến phí cho chiến
tranh. Nên một cuộc khởi nghiã nông dân đã
nổ ra.
+ Diễn biến :
Khởi nghiả nổ ra vào năm 1381, do một
người thợ nề tên là Wat-Tyler và nhà truyền
giáo John Ball lãnh đạo.
- Ðịa điểm : Ban đầu nổ ra ở vùng Ðông
Nam Anh, mạnh nhất là hai bá quốc Essex
và Kent, sau đó lan ra phần lớn nước Anh.
-Tính chất: Trước tiên là chống thuế ( gọi
là thuế toàn dân hay thuế đầu người, đánh
vào mọi người từ 15 tuổi trở lên, không
phân biệt trai gái) , về sau phong trào phát
triển mạnh lên, nông dân chuyển sang bạo
động chống áp bức bóc lột.
Thành phần tham gia : Gồm đại đa số
nông dân ở hai bá quốc Essex & Kent,
cùng một số thị dân nghèo ở các thành thị.
Nông dân đã tập hợp thành đội ngũ tấn công
vào bọn qúi tộc, phá hủy các tu viện của
giáo hội và lâu đài của lãnh chúa. Ðược sự
ủng hộ của thị dân ( họ mở cửa kinh thành
London), nghiã quân đả tấn công và chiếm
giữ kinh thành trong 3 ngày (13,14,15 / 06/
1381), đốt phá nhà cửa của hoàng tộc , giết
một số quan to và đòi gặp Vua Richard II
để đưa ra một số yêu sách.
# Phái Essex đưa ra 4 yêu sách :
- Thủ tiêu chế độ nông nô.
- Ân xá những người khởi nghiã.
- Ðảm bảo tự do buôn bán trong cả nước.
- Qui định mức địa tô tiền cố định.
# Phái Kent đưa ra 3 yêu sách :
- Chia ruộng đất của giáo hội cho nông dân.
- Nông dân được sử dụng mọi tài nguyên
công xã.
-Thủ tiêu phân biệt đẳng cấp và pháp luật hà
khắc.
@- Kết qủa : Cuộc đấu tranh của nông dân
đã thu được một số kết qủa, nhưng do hai
đạo quân không thống nhất hành động với
nhau, lãnh tụ Wat-Tyler mất cảnh giác nên
bị qúi tộc ám hại. Quân đội nhà Vua bí mật
được triệu tập, đã kịp thời đàn áp, khởi
nghiã thất bại. Tuy nhiên sau khởi nghiã,
chế độ nông nô ở Anh không tồn tại được
nữa..
c - Sự thành lập chính quyền quân chủ
chuyên chế Anh :
Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV ở
Anh xãy ra cuộc nội chiến giữa hai
giòng họ , lịch sử gọi đó là chiến tranh
hai Hoa Hồng.
Nội chiến diễn ra trong 30 năm
(1455 - 1585) , kết qủa cả hai phe đều bị
tiêu diệt, quyền hành rơi rơi vào tay
Henri Tudo (con rễ của giòng York)
Henri lập ra triều đại Tudo ( tồn tại đến
cách mạng tư sản Anh 1640), được qúi tộc
mới ( bọn kinh doanh theo phương thức
TBCN : biến ruộng đất thành đồng cỏ chăn
nuôi Cừu và thuê công nhân chăn nuôi) và
thị dân dồn toàn lực ủng hộ để bảo vệ nền
mậu dịch, chế phục lãnh chúa phong kiến và
đàn áp phong trào nông dân.
Như vậy chế độ quân chủ
chuyên chế Anh đã được thành lập vào
cuối thế kỷ XIV .
IV- VĂN HÓA TÂY ÂU THỜI SƠ TOP
VÀ TRUNG KỲ TRUNG ÐẠI
# Về mặt giáo dục :
Ở thời sơ kỳ, chỉ có một số trường học
do nhà thờ và tu viện mở ra để đào tạo các
tăng lữ
Sang thời trung kỳ, do nhu cầu về văn
hoá giáo dục đòi hỏi được mở rộng, nhằm
đào tạo trí thức chung cho xã hội phong kiến
(,nhu cầu quản lý trang trại, mua bán ở thành
thị) do đó một số trường Trung học và Ðại
học được thành lập nhưng dạy với phương
pháp giáo điều và hệ tư tưởng của chủ nghĩa
kinh viện.
# Về triết học :
Thời kỳ nầy trào lưu chính là triết học kinh
viện, phái nầy chiếm địa vị thống trị, nó
bênh vực cho quan điểm của giáo hội.
# Về văn học :
Văn học thời sơ kỳ bị giáo hội chi phối nên
nội dung hết sức nghèo nàn, không đáp ứng
được nhu cầu văn hóa tinh thần trong xã hội
nên phải nhường chổ cho nền văn hóa thế
tục..
# Về nghệ thuật :
Thời kỳ nầy có hai ngành nghệ thuật phát
triển, đó là kiến trúc và hội họa.
Kiến trúc : phổ biến hai loại kiến trúc.
- Roman : Thịnh hành vào thế kỷ IX - XI, do
bắt chước theo kiểu La mã, chủ yếu là dùng
cổng vòm, nhưngthô kệch và nặng nề, tường
dày, cửa sổ thấp và nhỏ,... nhưng có ưu điểm
là vững chắc, phù hợp với yêu cầu phòng
ngự trong chiến tranh.
- Gothique : Không chắc chắn bằng
kiểu Roman, nhưngtrông vui và nhẹ
nhàng hơn, có những cột cao và duyên
dáng, có cửa sổ lớn, lấp kính màu, có nhiều
tranh sặc sở ( nhà thờ Saint Deni - gần Paris,
là nhà thờ đầu tiên xây dựng theo kiểu
Gothique năm 1132).
- Hội họa : Hoàn toàn phục vụ giáo hội,
nên nội dung khô khan, những bức họa
thiếu chất sống vì dựa vào kinh thánh,
với màu sắc âm u.
Tuy nhiên từ thế kỷ XIII trở đi , khi tư
tưởng nhân văn xuất hiện, thì các ngành
nghệ thuật mới bắt đầu chuyển biến, gần gũi
với cuộc sống và con người hơn, gây được
cảm xúc vui tươi sảng khoái cho người
xem.
CHƯƠNG 3 : CHÂU ÂU HẬU KỲ
TRUNG ĐẠI ( THẾ KỶ XVI - NỬA ĐẦU
THẾ KỶ XVII )
I. NHỮNG CUỘC PHÁT KIẾN LỚN VỀ
ĐỊA LÝ CỦA NGƯỜI CHÂU ÂU
1. Những tiền đề của của các phát kiến
lớn về địa lý
2. Tiến trình phát kiến địa lý
II. SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA THỰC
DÂN
1. Chính sách thực dân của BỘ ĐÀO
NHA
2. TÂY BAN NHA bóc lột thuộc địa
CHÂU MỸ
3. Việc khai thác bước đầu và sự ra đời
của chế độ nô lệ da đen
4. Hậu quả của phát kiến địa lý
III. SỰ NẢY SINH CỦA CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN TRONG LÒNG XÃ HỘI PHONG
KIẾN
1. Sự phát triển của sức sản xuất
2. Sự giải thể của chế độ phong kiến
3. Sự tích luỹ ban đầu của chủ nghĩa tư
bản
4. Sự ra đời cũa công trường thủ công
5. Sự ra đời của giai cấp Tư sản và Vô
sản
IV. PHONG TRÀO VĂN HÓA PHỤC
HƯNG
V. CẢI CÁCH TÔN GIÁO Ở CHÂU ÂU
1. Cải cách tôn giáo ở Đức
2. Cải cách tôn giáo của CALVIN ở
Thụy Sĩ
VI. CHIẾN TRANH NÔNG DÂN ĐỨC
1. Tình hình nước Đức trước chiến
tranh
2. Ảnh hưởng cải cách của Luther và tư
tưởng của Muntzer
3. Những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của
nông dân đức

KHÁI QUÁT :
Hậu kỳ trung đại là giai đoạn :
Chế độ phong kiến lâm váo tình trạng
khủng hoảng suy vong và quan hệ tư bản
nảy sinh.Giai đoạn nầy đưộc mở đầu bằng
các cuộc phát kiến lớn về địa lý. Bởi vì phát
kiến địa lý mở đường cho sự ra đời của
CNTB và mở đầu cho sự ra đời của chủ
nghĩa thực dân cận đại.
Ðây cũng là thời kỳ chính quyền quân
chủ chuyên chế được xây dựng ở một số
nước ( Anh , Pháp, Tây ban nha, Bồ đào
nha,....)
Lúc nầy là giai đoạn quá độ, khi mà các
đẳng cấp phong kiến cũ đã suy thóai và giai
cấp tư sản đã hình thành từ tầng lớp thị dân
trung đại, và khi mà giữa hai bên đối địch
nhau chưa bên nào thắng bên nào, lúc ấy
qúi tộc phong kiến bắt tay vời tư bản để tiêu
trừ phong kiến cát cứ và phong trào nông
dân đang lên mạnh.
Ðây cũng là thời kỳ bắt đầu những cuộc
cách mạng về tư tưởng và văn hóa sâu sắc
( đấu tranh giữa hai ý thức hệ tôn giáo phản
động và ý thức hệ tư sản tiến bộ), biểu hiện
qua các phong trào cải cách tôn giáo, văn
hóa phục hưng.
Trong giai đoạn nầy, do tác động của
những điều kiện kinh tế - xã hội và tư tưởng
mới, pnong trào của nông dân và thị dân nổ
ra rất mạnh mẽ, biến thành cuộc chiến tranh
nông dân thực sự, mang tính chất hoàn toàn
mới là thủ tiêu chế độ phong kiến và vương
quyền.
Tất cả những điều đó đã làm cho giai
đọan các thế kỷ XVI - XVII, trở thành một
giai đoạn đặc biệt trong lịch sử, khác về chất
với giai đoạn phong kiến phát triển trước đó
(thế kỷ XI-XV), cũng như với các thế kỷ
tiếp theo của chủ nghĩa tư bản công nghiệp (
thế kỷ XVIII - XIX ). Qui luật những quan
hệ sản xuất tất yếu phải phù hợp với tính
chất của lực lượng sản xuất đã biểu hiện rất
rõ ràng và đẩy nhanh sự tan rã của chế độ
phong kiến.
I- NHỮNG CUỘC PHÁT KIẾN
LỚN VỀ ÐỊA LÝ CỦA NGƯỜI
CHÂU ÂU
1- Những tiền đề của các Phát TOP
kiến lớn về địa lý
- Do nhu cầu phát triển của nền kinh tế
thương mại châu Âu.
- Cơn khát vàng đặc trưng của những
người tham gia các đoàn thám hiểm mạo
hiểm ở thế kỷ XV - XVI là tiền đề đặt
biệt quan trọng của những phát kiến địa
lý.
- Sự phát triển của chủ nghiã chuyên
chế ở Tây âu vào cuối thế kỷ XV cũng là
tiền đề căn bản cho các phát kiến địa lý
vĩ đại.
- Những mâu thuẩn của chế độ phong
kiến, cuộc khủng hoảng sâu sắc của nó
diễn ra trong thế kỷ XV, cũng là tiền đề
thật sự cho phát kiến địa lý.
- Cuối cùng, những tiến bộ của khoa
học và kỹ thuật ở châu Âu là tiền đề cần
thiết cho phát kiến địa lý. (Ngành đóng
tàu, La bàn, bản đồ,....)
2- Tiến trình phát kiến địa lý TOP
Cho đến trước thế kỷ XV, người châu
Âu chỉ biết có 3 đại lục : Âu, Á, Phi nối liền
nhau, chung quanh là biển. Nhưng đến thế
kỷ XV những hiểu biết của người châu Âu
được bổ sung bằng thuyết qủa đất hình tròn,
nhờ vậy mà họ biết rằng muốn sang Ấn độ
thì có thể đi bằng hai cách : Vòng châu Phi
hoặc vượt đại dương đi về phía Tây.
Ði đầu trong việc tiến hành những
cuộc thám hiểm vĩ đại vào thế kỷ XV là hai
quốc gia Bồ đào nha và Tây ban nha.
NHỮNG CHUYẾN ÐI CỦA NGƯỜI BỒ
ÐÀO NHA :
Ðặc điểm của người Bồ đào nha la đi theo
đường vòng châu Phi và khởi hành ở
Lisbonne .
#Các chuyến đi của HENRY :
Henry vừa là một hoàng tử ( con vua John
II) vừa là một nhà hàng hải, ông đã mở đầu
những chuyến đi của người Bồ đào nha.
Năm 1415, người Bồ đã chiếm được pháo
đài Ceuta trên bờ biến châu Phi, từ đó hầu
như năm nào họ cũng tổ chức những đoàn
thám hiểm đi về phía Nam dọc theo bờ biển
châu Phi.
Năm 1419, họ chiếm được hòn đảo Porto
Xanto do người Ý tìm ra trước kia và biến
đảo nấy thành thuộc địa.
Năm 1445, họ đến được Cap Vert (mũi
Xanh).
Năm 1472, họ đến Vịnh Guinée, và bắt đầu
khai thác những lớp đất có vàng, sau đó họ
biến nơi nầy thành nơi buôn bán ngà voi,
vàng , nô lệ và một phần gia vị. Họ đem áo
dài vải gai, hạt cườm vũ khí và rượu bán cho
người da đen ở đây. Khi đến vịnh Guinée,
họ tưởng đây là mõm cực nam của châu Phi,
nên năm 1482 họ cho xây dựng ở đây đồn
Mina để cướp bóc.
# Chuyến đi của BARTHOLEMEN DIAS :
Tháng 8 năm 1486, đợt thám hiểm lần
thứ hai được tiến hành do Bartholemen Dias
thực hiện. Ông đã đến được mũi nam Phi,
nhưng bị một cơn bão kéo dài 13 ngày đẩy
ra khơi, khi quay được trở lại theo hướng
Ðông-Bắc đoàn thám hiểm bất ngờ đi vòng
quanh mỏm cực Nam châu Phi và đặt tên
cho nó là mũi bảo táp. Họ trở về Lisbon năm
1487, Vua John II thấy có cơ sở để tiến xa
hơn nên đã đổi tên mũi bảo táp thành mủi
Hảo vọng .(Cap good of Hope)
# Chuyến đi của VASCO DA GAMA :
Ngày 8 tháng 7 năm 1497, đợt thám
hiểm lần thứ 3 do Vasco da Gama tiến hành.
Ðoàn lên đường với 4 tàu và 168 thủy thủ .
- Ngày 27 tháng 7 , đoàn đến các
đảo ở mũi Cap Vert.
- Ngày 22 tháng 11, các con tàu đi
vòng qua mũi Hảo vọng và đi vào Ấn
độ dương.
- Ngày 01 tháng 05 năm 1498, đoàn
đã đến các thành thị cực Nam của
người Arap ở châu Phi là
Mozambique, sau nhiều lần đụng độ
với người Arap, đoàn đã được một
người hoa tiêu biết đường dẫn tới Ấn
độ.
- Sau 23 ngày bơi trên Ấn độ
dương, cuối cùng ngày 20 tháng 05
năm 1498 đoàn đã đến thành phố
Calicut .
- Ngày 30 tháng 09 năm 1498, đoàn
rời khỏi Calicut. Trên đường đi người
Bồ đã đánh cướp các con tàu của dân
Ấn giáo mỗi khi gặp và giết hại thủy
thủ của nó, mãi đến ngày 01 tháng 01
năm 1499 đoàn mới đến châu Phi.
- Chuyến quay về qua Ấn độ dương
kéo dài trong 89 ngày, tất nhiều thủy
thủ bị chết vì bệnh hoại huyết, tàu Xan
Raphaen bị bốc cháy, đến ngày 10
tháng 3, đoàn đi vòng qua mũi Hảo
vọng.
- Cuối cùng ngày 18 tháng 09 năm
1499, Vasco Da Gama cùng 55 thủy
thủ đã cập bến Lisbon. Họ trở về chỉ
còn hai tàu với đầy ấp vàng, đồ gia
vị, lụa, ngọc, những chế phẩmbằng ngà
voi, đáng giá 60 lần phí tổn chuyến đi.
- Sau thắng lợi của Gama, người Bồ
đào nha còn tổ chức thêm nhiều
chuyến đi nữa. Trong đó có chuyến đi
của Cabral. Ngày 09 tháng 03 năm
1500, Cabral rời Lisbon với 13 tàu,
nhưng khi ra khơi, đoàn tàu đã bị dòng
hải lưu xích đạo đẩy xa về hướng Tây.
Ngày 22 tháng 4 đoàn đã Brasil. Như
vậy, Cabral định đi Ấn độ, nhưng lại
phát hiện ra Brasil và ông nhầm tưởng
đây là một hòn đảo.
NHỮNG CHUYẾN ÐI CỦA NGƯỜI
TÂY BAN NHA :
Ðặc điểm của người Tây ban nha là
vượt đại dương đi về hướng Tây.
# Chuyến đi của CHRISTOPHE
COLOMB :
- Colomb là nhà hàng hải người Ý,
từ thời trẻ đã tham gia những chuyến
đi biển đường dài, ông đã đến Cận
đông, Guinée, Anh và những nơi khác.
Là một người ham học, ông đã nghiên
cứu một cách cơ bản toán học, thiên
văn học và đồ bản, đồng thời nghiên
cứu kỹ càng những thành công của
các nhà thám hiểu Bồ đào
nha.. Khi đến Lisbon, ông đã đệ trình
kế hoạch vượt đại dương theo hường
Tây của mình cho vua Bồ là John II,
nhưng không được ủng hộ.
- Năm 1485, ông đến Tây ban nha,
sau nhiều lần tâu nghị kéo dài, ông
được vua Ferdinan và nữ hoàng
Iszabella phê chuẩn. Năm 1492, ông
thành lập đoàn thám hiểm, bản thân
ông đóng gớp 1/8 chi phí, vì thế được
phong tước đô đốc, được thế tập ở
những vùng đất mới phát hiện, và được
hưởng 1/10 số châu ngọc.
- Ngày 03 tháng 08 năm 1492,
Colomb rời cảng Palos với 3 tàu
( Xanta Maria 100 tấn, Pinta 50 tấn,
Ninia 40 tấn ) và 90 thủy thủ , họ tiến
về phía Tây ra khoảng rộng mênh
mông của Ðại tây dương.
Tiếp tục tiến về hướng Nam,
Colomb phát hiện một số đảo nhỏ và
đật tên Ferdinan, Isabella, Xanta
Maria, sau đó đoàn đã đến được đảo
lớn Cuba thuộc quần đảo Angti, tường
là mình đã đến được Nhật bản, nhưng
tại đây tàu chỉ huy Xanta Maria va
phải đá ngầm và bị vỡ, tàu Pinta tự ý
rời khỏi đoàn, nên ông buộc phải
quay về. Ngày 04 tháng 01 năm 1493 ,
ông trở về theo hướng Ðông-Bắc để
tránh gío ngược, sau đó tiến thẳng
theo hướng Ðông châu Mỹ .Ông chỉ
mang về một ít vàng và đường , không
có hương liệu..
Ngày 15 tháng 03 năm 1493,
đoàn thám hiểm về đến Palos. Giữa
tháng 4, Colomb được đón tiếp một
cách long trọng ở Barcelona.. Theo
định ước ông được nhận tước thủy sư
đô đốc, phó vương Ấn độ và danh hiệu
qúi tộc.
Sau đó từ năm 1493 đến năm
1498, Colomb lại tổ chức chuyến đi
lần thứ hai và đã. tìm ra các đảo
Trinidat, Hamaica, Puecto-Rico thuộc
vùng biển Cariepe. Năm 1502, trong
chuyến đi lần thứ 3 ông tìm ra đảo
Guanaha và mũi Hondurat .Ðến đây
ông tưởng lầm là mình đã đến được bờ
Ðông Ấn độ, nên đã gọi những thổ dân
ở đây là người Indian.
# Chuyến đi của AMERICA
VEPUCCI :
America Vepucci một nhà hàng
hải người Ý, đã từng tham gia những
đoàn thám hiểm của người Tây ban
nha từ năm 1499 ở miền Nam của lục
địa mới, và ông đã soạn lập ra những
bản đồ đầu tiên. Năm 1515, tấm bản
đồ đầu tiên về vùng đất mới do
Colomb phát hiện nhưng mang tên
America đã được in ra, nên người châu
Âu đã lấy tên ông đặt tên cho những
vùng đất mới là America, tức châu
Mỹ. (tuy nhiên cho đến nay quần đảo
Angti và các đảo Bagam vẫn còn được
gọi là Tây Ấn).
# Chuyến đi của MAGELLAN :
Tháng 09 năm 1519, Magellan
rời cửa sông Guadanquivira với 5 tàu
và 265 thủy thủ, vượt đại tây dương đi
men theo phía Ðông bờ biển Nam Mỹ.
Cuối tháng 10 năm 1520 đoàn đi vào
một eo biển hẹp ngăn lục địa với đảo
đất lửa (về sau gọi là eo Magellan).
Ðến ngày 28 tháng 11 năm 1520 đoàn
đã ra đến đại dương mênh mông,
Magellam gọi là Thái bình dương.
Ðoàn thám hiểu sau đó bôi trong
đại dương 3 tháng 20 ngày. Cuối cùng
đến đầu tháng 3 năm 1521, họ đến
được đảo Ladronexe ( đảo kẻ cướp) và
chẳng bao lâu họ đã thả neo ở
Philippines, lập một căn cứ trên đảo
Cebu. Sau đó trên đảo Mactan đã xãy
ra xung đột giữa những thủy thủ với
dân địa phương, Magellan can thiệp và
đã bị thổ dân ở đây giết chết ngày 27-
04- 1521.
Sau cái chết của Magellan,
những thủy thủ còn lại lên đường trở
về, họ đã tới đảo Boocneo, và đến
tháng 11 năm 1521 đến đảo Tidora
thuộc nhóm đảo Malucu. Tại đây họ
cướp lấy nhiều gia vị và chở đầy trên
con tàu nhỏ Victoria trở về Tây ban
nha.
Ngày 06 tháng 09 năm 1522, với
13 người còn sống sót và bị kiệt sức đã
về đến Tây ban nha.. Dù Magellan đã
không còn , nhưng những thủy thủ của
ông ta đã thực hiện thành công chuyến
đi vĩ đại, một cuộc vòng quanh thế giới
lần đầu tiên.
Tóm lại , những người phát hiện
ra châu Mỹ và đi vòng quanh thế giới
là những người có tấm gương sáng về
lòng dũng cảm và nghị lực phi thường.
Họ đã gớp một phần quan trọng trong
việc mở đường cho chủ nghiã tư bản
và là nhân tố cách mạng trong xã hội
phong kiến đang thời kỳ tan rã.
Bên cạnh những mặt tích cực ấy,
những pát kiến địa lý đã dẫn đến chính
sách thực dân của các nước chuyên đi
tìm nguồn tài nguyên mới. Marx và
Engels đã nhận định như sau : Việc
tìm ra châu mỹ và đường biển vòng
quanh châu Phi đã tão nên mãnh đất
hoạt động mới cho giai cấp tư sản
đang lên. Những thị trường Ðông ấn,
Trung quốc, công cuộc khẩn thực ở
châu Mỹ, việc trao đổi với thuộc địa,
sự gia tăng phương tiện trao đổi và
hàng hóa, nói chung đã thúc đẩy mạnh
chưa từng thấy nghề thương mại,
ngành hàng hài, công nghiệp và do đó
sẽ gây nên sự phát triển nhanh chóng
của nhân tố cách mạng trong xã hội
phong kiến đã tan rã.
II- SỰ RA ÐỜI CỦA CHỦ NGHIÃ TOP
THỰC DÂN
Sau cuộc thám hiểm của Colomb ( 1492)
đã nãy sinh ra vấn đề phân chia vùng sở hữu
bên kia đại dương giữa Bồ đào nha và Tây
ban nha. Ðể giải quyết Tây ban nha và Bồ
đào nha đã có những cuộc đàm phán ở
Barcelona và ở Lisbon, nhưng không thành.
Ngày 7 tháng 6 năm 1494, hiệp ước
Tordesillas được ký kêt có sự tham gia của
giáo hoàng Roma Alerxandro VI với tư
cách là người đảm bảo có uy quyền. Theo
hiệp ước, từ 17 độ kinh Tây đến 130 độ kinh
Ðông là thuộc quyền cai trị của Bồ Ðào
Nha, phần còn lại thuộc Tây Ban Nha.
Ðây là sự phân chia thế giới lần đầu tiên
của chủ nghiã thực dân.
1- Chính sách thực dân của TOP
BỒ ÐÀO NHA
Ðể thực hiện việc thống trị và cướp bóc
ở những vùng chiếm đóng, Vua bồ đào nha
đã cử Albuquerque làm phó vương ở Ấn độ,
thực tế y là người đặt nền mống cho chủ
nghiã thực dân của Bồ.
Những căn cứ có vị trí chiến lược quan
trọng của người Bồ là Aden và Goa.
@ Căn cứ Goa :
Ðược xem như một tiểu Lisbon,
Albuquerque cho xây dựng ở đó một pháo
đài và một đơn vị đồn trú mạnh. Ðây là nơi
buôn bán tấp nập, có nhiều đoàn lái buôn ra
vào.Theo lệnh của Albuquerque, tháng 11
năm 1510, một cuộc tàn sát đẩm máu người
Hồi giáo đã diễn ra ở đây kéo dài trong 3
ngày.
@ Căn cứ Aden
Là một cảng biển, được xem là căn cứ
hải quân quan trọng án ngữ ngõ Hồng hải
vào Ấn độ dương và là bàn đạp để tấn công
vào Mecca và Medina, nhằm biến lăng mộ
của Mohamet thành lăng mộ của Jesu, chắm
dứt cuộc tranh chấp hàng thề kỷ giữa người
thiến chúa giáo và Hồi giáo.
Ngoài hai căn cứ trên, từ năm 1517 Bồ
đã đặt quan hệ buôn bán với Trung quốc và
từ năm 1548 với Nhât bản. Nhờ thế mà sau
đó, năm 1557 Bồ đào nha đã lập một thương
điếm trên bán đảo Macao, để làm nơi buôn
bán với Trung quốc và Nhật bản
Như thế là vào thế kỷ XVI đế quốc thuộc
địa của người Bồ đào nha đã xuất hiện, mà
những người sáng lập ra nó là Vacco Da
Gama , Francoi dAlmeida, Albuquerque,
đã biến nước Bồ đào nha nhỏ bé chưa đầy 1
triệu dân trở thành một cường quốc thế giới
mà những thương điếm và các đồn lũy của
nó rãi ra trên bờ 3 lục địa (từ Madagatca
đến Brasil, Trung quốc và Nhât bản )
Mặc khác, do Bồ đào nha chưa tổ chức
được bộ máy cai trị địa phương, do đó
chúng chưa có cơ sở vững vàng ở vùng
chiếm đóng, vì dựa vào các căn cứ rãi rác
như các ốc đảo, hơn nữa giai cấp tư sản Bổ
còn yếu, dựa vào vương quyền ăn chơi xa xĩ,
nên vàng và hàng hóa dần dần rơi vào tay
Anh và Hà Lan (hàng hóa
cướp được chủ yếu bán cho Anh và Hà
Lan). Chính vì thế Bồ đào nha không giữ
được thực dân địa lâu dài, đến thê kỷ XVII,
phần lớn thuộc địa bị Hà lan chiếm.
2 - TÂY BAN NHA bóc lột TOP
thuộc địa CHÂU MỸ
Ở châu Mỹ trước khi bọn thực dân Tây
ban nha đến, đã từng có các tộc Maya,
Aztèques, Incas sinh sống và họ đã có được
một nền văn hóa lâu đời, đang đứng ở đỉnh
cao của công xã thị tộc ( ở Mexico người ta
đã biết làm tuộng, dẫn thủy và có quốc gia
riêng).
Năm 1519, Tây ban nha cử Cortès đem
300 quâm đổ bộ lên Mexico và sau 3 năm y
đã chiếm được xứ nầy Năm 1532, một tên
thực dân khác tên là Pizarro đem 300 quân
chiếm Peru (xứ sở của người Inca, họ đang
sống trong các công xã nông thôn, có chữ
viết) , dù Pizarro bị giết, nhưng bọn thực
dân cũng chiếm được vùng nầy và Trung
Mỹ.
# Chính sách thực dân của Tây ban
nha :
· Mua chuộc chia rẽ nội bộ dân địa
phương.
· Cướp đất đai và hầm mỏ
Họ chiếm được các địa phương vì : dân
địa phương thiếu thống nhất, chân thật, và
thần thánh hóa các phương tiện khoa học.
Ðể thực hiện việc chiếm đóng trên, bọn
thực dân TBN chủ trương chiếm từng miền ,
từng quốc gia để biến thành thuộc địa. Sau
đó tiến hành việc mua bán bằng cách đổi
chác , tiến hành cướp bóc, bắt dân địa
phương nộp sản vật, phá hoại tôn giáo. Của
cải vơ vét được, theo qui ước họ trích 1/5
nộp cho vua Tây ban nha, số còn lại chúng
chia nhau
3 - Việc khai thác bước đầu và TOP
sự ra đời của chế độ nô lệ da đen
# Khai thác bước đầu :
Bọn thực dân sau khi chiếm được những
vùng đất ở châu Mỹ, chúng đã tiến hành
khai thác quặng mỏ để vơ vét kim loại bản
xứ. Họ bắt dân địa phương làm việc trong
điều kiện vật chất thiếu thốn, khắc nghiệt và
cưỡng bức qúa sức lao động, chính vì thế
sau một thời gian khai thác, đã làm cho từ
1/2 đến 2/3 số lao động phải thiệt mạng
# Sự ra đời của chế độ nô lệ da đen:
Ðể bù vào số lao động hao hụt vì chết,
bọn thực dân Tây ban nha đã đặt mua nô lệ
da đen ở châu Phi, hoặc săn bắt họ (khiến
những người da đen châu Phi phải lẫn trốn
vào rừng và sống như thú vật). Chúng dùng
thuyền chở nô lệ sang châu Mỹ (.họ bị nhét
trong tàu hàng tháng trong cảnh thiếu ăn,
thiếu dưỡng khí, nên một số đã chết trên
đường đi, số còn lại chúng đưa vào các đồn
điền, hầm mỏ)
Nhờ sự kích thích trong khi vơ vét, bọn
thực dân đã đem gia đình theo sang châu
Mỹ, nhờ qúa trình tiếp xúc với dân bản xứ,
nên đã tạo thành nền văn hóa Mỹ - Latinh .
Ngoài ra để cai trị xứ sở mới, chúng đã đặt
chức Phó vương và lập Hội đồng các xứ Ấn
độ.
Trong bộ Tư bản, Marx viết : Việc tìm ra
các mỏ vàng, bạc ở châu Mỹ, sự tuyệt diệt,
nô dịch và chôn vùi những dân cư bản xứ
đang sống trong các hầm mỏ, những bước
đầu đi xâm chiếm và cướp bóc Ðông ấn,
việc biến châu Phi thành khu vườn cấm để
săn người da đen - đó là buổi bình minh của
thời đại sản xuất tư bản chủ nghiã.
4 - Hậu quả của các phát kiến TOP
địa lý
# Về kinh tế :
- Trước hết, phát kiến địa lý đã mở rộng
cơ sở lãnh thổ cho nền thương mại thế giới
và phạm vi kinh tế cho tư bản châu âu.
- Hậu qủa quan trọng nhất của phát
kiến địa lý là nó đã tạo nên cuộc cách mạng
giá cả, làm cho giá cả hàng hoá ở châu Âu
tăng vọt , mà nguyên nhân của nó là do
những kim loại qúi đổ vào châu Âu với số
lượng lớn chưa từng có.
Nhìn chung, cách mạng giá cả đã tăng
cường sức mạnh kinh tế của giai cấp tư sản
và cả những phần tử qúy tộc và tầng lớp
nông dân giàu mà phương thức kinh tế của
họ gần gủi với giai cấp tư sản, nhưng lại bất
lợi cho phong kiến, kẻ đã thu tô cố định như
cũ, đồng thời nó làm cho nông dân nghèo và
dân nghèo thành thị thêm bần cùng và biến
họ thành những công nhân làm thuê trong
các công trường thủ công đang phát triển.
# Về chính trị :
Do yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã
hội đã thúc đẩy nhanh qúa trình xây dựng
chính quyền trung ương tập quyền ( triều
Hapsbua ở TBN, Capet ở Pháp, Tudo ở
Anh ) bởi thương nhân và thị dân muốn
chấm dứt tình trạng phân tán, muốn phát
triển kinh tế thương mại.
Hệ tư tưởng phong kiến bị lung lay, chế
độ phong kiến đang trên đường tan rã (xuất
hiện cách mạng tảo kỳ ở Hà lan, chiến tranh
nông dân, cải cách tôn giáo, phong trào văn
hóa phục hưng,...)
Chủ nghiã thực dân phát triển ( ngoài
TBN và BÐN sau nầy có thêm Anh, Pháp,
Hà lan,..)
# Về xã hội :
Ngoài hai giai cấp cơ bản, xuất hiện giai
cấp tư sản và vô sản (giai cấp tư sản ra đời
đồng thời cũng xuất hiện giai cấp vô sản -
gcts hình thành do cách mạng giá cả, do rào
đất cướp ruộng,.. CNTB ra đời thúc đẩy các
nước thực dân đi xâm lược thuộc địa bằng
những phương pháp tàn bạo rất nhiều lần)
# Về khoa học kỹ thuật :
-Thúc đẩy sự phát triển về điạ lý, thiên
văn và công nghiệp.
- Tạo nên một sự giao lưu văn hóa Tây -
Ðông, mở rộng khả năng nghiên cứu khoa
học ( Dân tộc học, ngôn ngữ học, sinh vật
học,...)
III- SỰ NÃY SINH CHỦ NGHIÃ TƯ
BẢN TRONG LÒNG XÃ HỘI
PHONG KIẾN
1- Sự Phát Triển Của Sức Sản TOP
Xuất
a- Trong công nghiệp :
- Phát minh lò cao làm tăng khối
lượng gang thép (TK XV).
- Phát minh nhiều máy móc : Máy
bơm nước, bánh xe guồng nước, bánh
xe quay sợi, máy in,... phục vụ cho
nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa,...
- Kỹ nghệ chiến tranh cũng phát
triển : súng đại bác, súng cầm tay,
thuốc nổ,...
- Có sự phân công trong lao động
nên năng xuất cao.
b- Trong nông nghiệp :
- Xu hướng chuyên môn hóa xuất
hiện, làm cho hiệu xuất lao động tăng :
nuôi bò lấy sữa làm format ; nuôi cừu
lấy lông dệt dạ; trồng nho ép rượu,...
c- Trong thương nghiệp :
- Công nông nghiệp phát triển đã
thúc đẩy thương nghiệp phát triển,
quan hệ buôn bán ngày càng được đẩy
mạnh, làm xuất hiện mần mống tư bản
chủ nghiã.
2- Sự giải thể của chế độ TOP
phong kiến
· Vào thế kỷ XVI - XVII quan hệ
sản xuất phong kiến vẫn còn chiếm
địa vị thống trị. Tuy nhiên quan hệ
phong kiến bắt đầu giải thể .
Như vậy, từ sự phát triển của sức sản
xuất và sự giải thể của chế độ phong kiến đã
làm nãy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghiã. Mặc khác cũng do sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật và sự phát triển của kinh
tế hàng hóa, tuy nhiên bản thân nền kinh tế
hàng hoá không làm nãy sinh chủ nghiã tư
bản, mà chủ nghiã tư bản có điều kiện căn
bản là sự tích luỹ ban đầu.
3 - Sự tích lũy ban đầu của chủ TOP
nghiã tư bản
# Ðiều kiện để thực hiện TLTBNT :
@ Tư bản :
- Bằng sự phát triển buôn bán, của
cải tập trung trong tay một số ít người.
- Thuế má nặng nề đánh vào nông
dân, làm cho thị dân giàu lên.
- Cho Vua vay trước tiền thuế rồi
đứng ra bao thầu việc thu thuế
Tư bản ra đời đầm đìa những
máu và bùn nhơ
ở khắp mọi lổ chân lông của
nó [Marx].
@ Lực lượng lao động làm thuê :
Lực lượng lao động làm thuê có thể
có được là do chiến tranh, thuế má, cướp
đoạt ruộng đất,... làm cho người nông dân
bị phá sản, họ kéo lên thành thị ngày
càng đông, thợ thủ công ngày càng xuất
hiện nhiều, họ là một lực lượng lao động
làn thuê đáng kể.
Như vậy, việc cướp đoạt nông dân
là điều kiện chủ yếu vừa tạo nên tư bản,
vừa tạo nên lực lượng lao động làm thuê (
Anh là nước điển hình trong việc tích luỹ
TBNT).
Chủ nghiã tư bản ra đời là một
bước ngoặt lớn của lịch sử, một bước tiến
bộ rất dài so với chế độ phong kiến. Nó
đã sản sinh ra một khối lượng của cải lớn
hơn nhiều so với các xã hội trước và tạo
nên một nền văn hóa phát triển cao. Tuy
nhiên lịch sử vế sự tước đoạt họ (nông
dân) không phải là một vấn đề nghi vấn :
nó được ghi trong sử sách của nhân loại
bằng nghững chữ máu và lửa không bao
giờ phai [ K.Marx- Tư bàn, Q1, T3, Sự
thật, HN 1960, Tr 220].
4 - Sự ra đời của Công trường TOP
thủ công
Một đặc trưng cho sự ra đời của
chủ nghiã tư bản thời ấy là sự xuất hiện
của các công trường thủ công. Ðây là
hình thức kinh doanh công nghiệp đầu
tiêbn của CNTB. Vì CNTB ra đời bằng
sự phát triển của kinh tế hàng hóa,
thương mại, mậu dịch hàng hải, tổ chức
ngân hàng tín dụng và các công trường
thủ công .
# Khái niệm CTTC :
Công trường thủ công là một tổ
chức có phân công lao động và kỹ thuật
thủ công trong một qúa trình sản xuất, do
những người có vốn bỏ vốn ra mua
nguyên liệu và tập hợp những người lao
động làm thuê lại để sản xuất hàng hóa,
nhằm tạo ra nhiều gía trị thặng dư trong
bóc lột.
- Thế kỷ XV, những công trường
thủ công ở Châu âu bắt đầu hình thành.
Có hai loại công trường thủ công :
+ Công trường thủ công tập trung:
Loại công trường nầy được nhà tư bản
lập ra và tập hợp những người thợ thủ
công khác ngành nghề tại một xưởng
để sản xuất hàng hoá.
+ Công trường thủ công phân tán : Nhà
tư bản cho những người thợ thủ công
chuyên nghiệp nhận gnuyên liệu về
làm gia công.
Trong các công trường thủ công, căn bản
là sản xuất bằng tay, có một vài kiểu máy
móc thô sơ (khung cửi nửa tự động, lò cao
đơn giản,...) Tuy nhiên lúc nầy công trường
thủ công tập trung chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ
so với công trường phân tán.
Công trường thủ công xuất hiện
trước hết ở những ngành cổ truyền , gắn
với nhu cầu sinh hoạt của quần chúng
(như nghề làm len dạ) , sau đó xuất hiện
các công trường khai thác quặng, luyện
kim, đóng tàu, chế tạo vũ khí,...
Có thê nói, công trường thủ công ra
đời vào thời kỳ nầy đã gớp phần làm cải
tiến bộ mặt xã hội ( nhất là bộ mặt nông
thôn) , nhưng chưa cải tiến một cách triệt
để, việc nầy phải đợi đến nền đại công
ngiệp sử dụng nhiều máy móc mới làm
được.
5- Sự ra đời của giai cấp Tư TOP
sản và Vô sản
Thế kỷ XV, tầng lớp thương nhân
và chủ xưởng ra sức kinh doanh lập ra
nhiều công trường thủ công, bóc lột công
nhân làm thuê, làm phá sản thợ thủ công
và tước đoạt ruộng đất của nông dân, làm
những người lao dộng ấy mất đi hết tư
liệu sản xuất trở thành người vô sản. Nhờ
qúa trình ấy, giai cấp tư sản ra đời đồng
thời giai cấp vô sản cũng xuất hiện.
# Giai cấp tư sản :
- Thành phần xuất thân của giai cấp
tư sản rất phức tạp, gồm : thợ cả,
thương nhân, thị dân giàu, chủ nhà
buôn, chủ ngân hàng,... họ nắm trong
tay nhiều của cải, là lực lượng lãnh đạo
cách mạng tư sản (có một bộ phận
thân cận với triều đình, mua quan bán
tước, quyền lợi của họ gắn liền với
triều đình phong kiến gọi là tầng lớp
qúi tộc áo dài- tiêu biểu ở Pháp).
- Ngoài ra còn có bọn qúi tộc
mới , xuất thân từ nhiều thành phần
khác nhau, họ kinh doanh theo lối tư
bản chủ nghiã (rào đất, chuyên trồng
đồng cò để nuôi cừu)
Cả hai bộ phận nầy chưa ổn định về
thành phần, có nhiều quan hệ với xã hội
phong kiến, và bước đầu còn phục tùng và
ủng hộ triều đình, bằng nhiều hình thức bóc
lột khác nhau, nhưng đều nhằm chiếm lấy tư
liệu sản xuất và làm vô sản hóa nhân dân lao
động.
# Giai cấp vô sản :
Là những người bị tước đoạt mất tư liệu
sản xuất, trở thành những người làm thuê
(thợ thủ công, nông dân, dân nghèo thành
thị) . Vào thời kỳ nầy họ còn quan hệ nhiều
với nông thôn, đau khổ do chế độ phong
kiến gây ra, nên theo giai cấp tư sản để làm
cách mạng phản phong.
IV- PHONG TRÀO VĂN HOÁ TOP
PHỤC HƯNG
1- Sự ra đời :
Cùng với sự ra đời của CNTB, một nền
văn hóa mới cũng xuất hiện, đối lập gay gắt
với hệ tư tưởng văn hóa phong kiến : đó là
nền văn hoá phục hưng.
Văn hóa phục hưng là khôi phục lại và phát
triển nền văn hóa xán lạn của Hy lạp - La
mã bị xã hội phong kiến và giáo hội Thiên
chúa giáo vùi dập đi gần 10 thế kỷ.
Văn hóa phục hưng xuất hiện tương đối
sớm, vào thế kỷ XIV, XV ở các thành thị
của Bắv Ý, về sau phong trào lan ra Hà Lan,
Anh, Pháp, Ðức , Tây ban nha, Bồ đào
nha,.... phát triển rực rở nhất vào thế kỷ XVI
và ảnh hưởng của nó kéo dài đến thế kỷ
XVII.
Sự ra đời của nền văn hó a phục hưng
biểu hiện bằng sự phát triển phong phú của
các thể loại và hình thức (văn, kịch , nhạc,
hội họa,...) , nó còn biểu hiện ở sự nhảy vọt
của khoa học kỹ thuật , của khối lượng đồ sộ
các tác phẩm và những tài năng sáng tạo.
Giá trị chủ yếu của nền văn hóa nầy vẫn là ở
nội dung tư tưởng của nó.
2- Về nội dung :
Trong nền văn hóa thời phục hưng, chủ
nghiã nhân văn được thể hiện rõ ràng. Trước
hết ở sự phê phán xã hội phong kiến và lên
án giáo hội thiên chúa giáo, tinh thần đề cao
gía trị con người, đòi quyền tự do cá nhân,
tinh thần dân tộc nãy nở.
CHỦ NGHIÃ NHÂN VĂN : Theo V.P
Volgin : chủ nghiã nhân văn là một quan
điểm đạo đức và chính trị không phải xuất
phát từ những nguyên tắc nào đấy ở cỏi âm
hoang, ở bên ngoài đời sống thực tế của con
người, mà xuất phát từ con người tồn tại
thực tế, với những nhu cầu và năng lực thực
tế đòi hỏi phải được phát triển và thoả mãn
càng rộng càng đầy đủ càng tốt trong đời
sống thực tế.
Theo nghiã hẹp , chúng ta gọi trào lưu tư
tưởng nhất định thế kỷ XIV -XVI là chủ
nghiã nhân văn vì các đại biểu của nó biểu
hiện rõ ràng các khuynh hướng nói trên.
a- Tư tưởng phê phán xã hội phong
kiến Và lên án giáo hội Thiên chúa
giáo :
Người được coi là mở đầu và tiêu biểu
cho tư tưởng nầy là Alighieri Dante (1265 -
1321) tác giả của Hài kịch thần thánh .
Thông qua tác phẩm ông muốn tỏ rõ thái độ
của mình đối với bọn thống trị, bọn thầy tu
gian ác, bọn giáo hoàng.
Tác giả thứ hai là Fracois Rabelais
( 1494-1553). Ông là ngôi sao sáng của nền
văn hóa phục hưng, ông dã phê phán giáo
hội và chỉ trích sâu cay trật tự xã hội PK,
đánh thẳng vào bọn vua chúa, với tác phẩm
nổi tiếng Garganchuya và Pantaguyen “.
b- Tinh thần đề cao gía trị con người :
Ðược thể hiện sâu sắc trong tác phẩm
Don Quichotte nhà qúi tộc tài ba xứ
Manche của đại văn hào người Tây ban
nha Miguel de Cervantès (1547-1616).
c- Ý thức đòi quyền tự do cá nhân :
Ðòi giải phóng con người hỏi mọi qui
tắc, giáo điều và sự khổ hạnh do bọn tăng lữ
phong kiến đề ra. Ðòi được tự do yêu
thương.
d- Tinh thần dân tộc :
Văn thơ thời kỳ nầy nói lên lòng yêu quê
hương, sự gắn bó với dân tộc, tinh thần qúi
trọng tiếng nói của dân tộc . Tiêu biểu như
Dante, Joachim Du Belley (1522-1560).
Ngoài các nhà văn học ra, ta thấy chủ
nghiã nhân văn được tổng hợp, được nâng
tới cao độ và khép lại ở William Shakespear
(1564-1616), nhà viết kịch nổi tiếng người
Anh. Kịch của ông lên tiếng sự tàn bạo, lòng
tham lam ích kỷ và sự phản bội, bao gồm
hai loại kịch ;
· Hài kịch : gây tiếng cười sảng
khoái, toát lên từ những tấm lòng
yêu đời và chung thủy trong tình
yêu.
· Bi kịch : là những tiếng nói đanh
thép, kết tội thái độ thù địch phong
kiến, lên án những cuộc đổ máu vì
lòng ích kỷ, những âm mưu phản
trắc,... đồng thời là tiếng nói bênh
vực tình yêu chính đáng và trong
sạch, ca ngợi tấm lòng kiên trung.
3- Nền nghệ thuật thời Phục hưng :
a- Nghệ thuật tạo hình :
Lấy con người làm chủ đề sáng tác,
nên đã thoát khỏi những đường nét hạn
chế, những bộ mặt nghiêm nghị hay
thiểu não, những màu sắc sặc sỡ hay ảm
đạm của nghệ thuật phong kiến.
Tiêu biểu cho nghệ thuật hội họa là
Leonardo da Vinci (1452-1519) và
Michelangele Buonarrotti (1475-1564)
đều là người Ý.
· Leonardo da Vinci với tác
phẩm nổi tiếng là bức Lajocol vẽ
hình ảnh người thiếu phụ
Monnalida với nụ cười và đôi
mắt chứa chan hàm xúc.
· Michelangele, nhà họa sĩ điêu
khắc nổi tiếng với bức bích họa
có diện tích 221 mét vuông vẽ
trên trần nhà thờ Sittien ( Roma).
b- Kiến trúc :
Những công trình xây dựng thời kỳ
nầy đều mang những phong cách mới :
Kiểu trang trí đơn điệu, đường nét hạn
chế, gãy khúc, hình dáng nặng nề đã
nhường chổ cho những công trình có bề
mặt rộng rãi, khoáng đạt, sáng sủa, chắc
chắn và bề thế ( với những vòm lớn,
những dãy cột cao, cửa sổ có lấp kính
màu) vừa gắn với thiên nhiên, vừa gần
gũi với cuôc sống hơn.
c- Âm nhạc :
Có những tiến bộ, thoát khỏi những
khuôn khổ nhạc đệm cho những bài hát
trong nhà thờ. Ðặc biệt nhiều nhạc cụ
mới được cải tiến, biết tổ chức dàn nhạc
và dàn hợp xướng với 3-4 bè.

4- Sự tiến bộ của kỹ thuật :

Có nhiều thay đổi lớn về kỹ thuật như :


· Cải tiến bánh xe nhỏ quay bằng sức
nước các giòng sông thành những
bánh xe lớn dùng sức nước từ các máng
trên cao đổ xuống ( gọi là nguồn n7ớc
trên)
· Trong ngành luyện kim, người ta đã
biết xây những lò cao để nấu gang và
luyện thép.
· Ngành sản xuất vũ khí đã đúc được
súng đại bác và súng cầm tay bằng sắt
dày và tốt, đạn bằng gang thay thế cho
đạn đồng và đá. ( sự tiến bộ của vũ khí,
những thành quách phong kiến có thể bị
phá vỡ, những đội kỵ binh trở nên mất
tác dụng, nên nghĩ đến việc cải tổ quân
đội).
· Ngành hàng hải cũng đạt nhiều
thành tựu : đóng được những thuyền đi
biển lớn, có trọng tải 50 - 100 tấn, tốc độ
60 km/ngày. Hoàn thiện và áp dụng rộng
rãi la bàn, viễn kính, thước đo phương vị.
· Ðồng hồ lên dây cót được chế tạo
sớm nhất ở Hà lan, Pháp , Thụy sĩ.
· Dệt có sự phân công trong qúa trình
sản xuất, dệt đưọc len và sợi pha len,
dệt thành nhiều tấm có nhiều màu.
· Máy in cũng ra đời, đánh dấu bước
phát triển quan trọng trong kỹ thuật
(quyễn sách in máy đầu tiên ra đời vào
khoảng năm 1445)
5- Khoa học và Triết học :
# Khoa học : xuất hiện những ngôi sao
sáng.
Nikolai Copernik (1473- 1543), nhà bác
học Ba lan đã phát hiện ra Hệ thái dương
và cho rằng trái đất hình cầu và xoay quanh
mặt trời.
Jordano Bruno (1548-1600), người Ý ,
Ông đã phát triển lý thuyết của Copernik,
ông cho bầu trời là vũ trụ bao la và vô tận.
Galileo (1564-1642) người Ý, ông là
người đầu tiên quan sát bầu trời bằng kính
thiên văn, phóng to nó gấp 30 lần, ôg còn
nghiên cứu mặt trăng và các hành tinh khác,
đã khẳng định kết qủa của những người đi
trước.
# Triết học :
Nhà triết học Fracis Bacon (1561-1626)
người Anh, Decaster người Pháp đả phá thế
giới quan duy tâm của giáo hội, xây dựng
thế giới quan duy vật tiến bộ.
Khoa học và triết học thật sự là một
cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng.
6- Kết qủa- Ý nghiã :
- Nền văn hóa phục hưng mang tính
chất giai cấp rõ rệt. Nền văn hóa đó là
nền văn hóa của giai cấp tư sản mới ra
đời, nó đại diện cho nền kinh tế mới
tiến bộ. Trong khi đấu tranh chống
những tư tưởng và hành động của giáo
hội, nó đề cao gía trị con người, đòi
giải phóng con người, phát động quần
chúng chống lại chế độ cũ.
- Trong đấu tranh chống chế độ cũ,
xuất hiện một bộ phận tri thức của giai
cấp tư sản mới hình thành, đó là nền
tảng của nền văn hóa tư tưởng mới.
Tuy nhiên nền văn hóa phục hưng cũng
còn nhiều hạn chế :
- Trong khi đấu tranh chống lại giáo
hội, chống chế độ phong kiến, các nhà
tư tưởng không đòi thủ tiêu tôn giáo
màchỉ thay bằng tôn giáo khác ( tôn
giáo cải cách).
- Khi đề cao gía trị con người, thì
lại đề cao con người tư sản , với những
đức tính khôn ngoan, óc sáng tạo,
nghị lực làm giàu,...
- Khi đòi giải phóng cá nhân, đòi tự
do cá nhân, các nhà văn hóa đã đặt nền
mống cho chủ nghiã cá nhân thâm chí
cực đoan.
V- CẢI CÁCH TÔN GIÁO Ở TOP
CHÂU ÂU
Cùng với phong trào văn hóa phục hưng,
phong trào cải cách tôn giáo cũng ra đời.
Ðây là mặt thứ hai của cuộc đấu tranh phản
phong trong hệ tư tưởng-văn hóa của giai
cấp tư sản.
Cải cách tôn giáo kịch liệt lên án những
hành vi tham nhũng và đồi bại của của giáo
hoàng thời ấy, chỉ trích những giáo lý của
giáo hội, đòi cải tổ giáo hội về tổ chức và
nghi lễ.
Cải cách tôn giáo được phổ biến rộng rãi
ở châu Âu, vì gần như toàn bộ dân chúng
châu âu đều là tín đồ Thiên chúa giáo, và
những người khởi xướng phong trào nầy là
những tăng lữ thiên chúa mang tư tưởng tư
sản.
1- Cải cách tôn giáo ở ÐỨC TOP
Phong trào cải cách tôn giáo nổ ra trước
tiên ở Ðức, vì Ðức là nước bị giáo hoàng và
giáo hội áp bức bóc lột tồi tệ nhất : vừa áp
bức giai cấp, vừa áp bức dân tộc.
Ngoài ra người dân Ðức còn phải đóng
nộp thuế thập phân (1/10), tiền sắc phong,
tiền bán thẻ xá tội cho giáo hội. Vì thế giai
cấp phong kiến, qúi tộc, thị dân và nông dân
đều căm ghét và oán hận giáo hoàng.
Vào thế kỷ XVI, CNTB đã hình thành ở
Ðức, nên tư tưởng tư sản đã thâm nhập vào
nước nầy. Người đầu tiên khởi xướng phong
trào cải cách tôn giáo ở Ðức là Martin
Luther (1483-1546) người Ðức, là một tu
sĩ, giáo sư thần học và triết học của trường
đại học Wittenberg. Ông xuất thân từ một
gia đình nông dân khá giả, cha là một thợ
mỏ.
# Nội dung cải cách của Luther :
- Trở lại tôn giáo cơ đốc nguyên
thủy, lấy kinh thánh làm giáo lý duy
nhất. Vì đạo cơ đốc lúc nầy đã bị giáo
hoàng đưa vào giáo lý nhiều tư tưởng
xấu.
- Thực hiện giáo hội rẽ tiền, tịch thu
toàn bộ tài sản của giáo hội đương
thời. Giáo hội không cần có tài sản,
không cần tổ chức những nghi lễ tế tự
phiền phức ( đã có nhiều người theo
phe cải cách để lấy tài sản của giáo
hội).
- Lấy cơ sở là cứu vớt con người
bằng lóng tin, chống lại việc cứu vớt
con người bằng việc thiện. ( đối với
đạo thiên chúa, việc gì nhà thờ cũng
buộc tín đồ nộp tiền để làm lễ, nên
Luther tuyên bố Mỗi người là một linh
mục của chính mình.
Như vậy nội dung cải cách của Luther
đã biểu hiện tính tư sản vì còn duy trì tôn
giáo, hay nói cách khác , Luther muốn tách
giáo hội Ðức ra khỏi Giáo hoàng và chuyển
tài sản giáo hội cho tư sản và qúi tộc.
# Diễn tiến:
Cải cách của Luther nhanh chóng lan
ra khắp nước Ðức. Lúc đầu Luther viết
Luận văn 95 điều chống việc giáo hoàng bán
thẻ xá tội, nên được qúi tộc, thị dân nghèo
mà đặc biệt là nông dân ủng hộ. Những
người nông dân đã biến việc ủng hộ cải cách
của Luther thành cuộc đấu tranh chống lại
giáo hoàng, được sự ủng hộ của tiểu qúi tộc,
cuộc đấu tranh đã biến thành cuộc đại khởi
nghiã của nông dân Ðức.
Trước tình hình đó, năm 1520 Giáo
hoàng đã Rút phép thông công của Luther,
Còn bản thân Luther khi thấy cuộc đại khởi
nghiã của nông dân nổ ra cũng hoảng sợ,
nên vội chạy theo phe qúi tộc lớn và kêu gọi
qúi tộc đàn áp nông dân.
Năm 1521, trước những biến động do
khởi nghiã nông dân gây ra, Hoàng đế Ðức
đã ra lệnh bắt giam Luther, nhưng hầu tước
xứ Dacsen là Frederik đã che chở và dấu
Luther vào lâu đài Wartburg. Từ đó coi như
Luther không còn là người lãnh đạo phong
trào nữa.
# Kết qủa :
Cải cách tôn giáo của Luther không
triệt để, vì sự phản bội của Luther đã biến
tôn giáo cải cách của ông thành thứ tôn giáo
của qúi tộc và vì thế giáo hội Tân giáo trở
thành tay chân của phong kiến.
2- Cải cách tôn giáo của TOP
CALVIN ở Thụy sĩ
Jean Calvin (1509-1561), người Pháp,
học luật tại Paris, con một viên chức cấp
tỉnh. Trong khi tiếp thu học vấn, Calvin
đồng thời tiếp thu tư tưởng cải cách tôn giáo
của Erasme, Luther.
Năm 1530, ông bị trục xuất khỏi Pháp,
sang Ðức và từng sống ở nhiều vùng khác
nhau của nước Ðức, sau đó ông đến Genève
(Thụy sĩ), Calvin mới xây dựng nên nền
mống cho tôn giáo mới của mình. Ðó là đạo
Tin lành. ( dịch từ chữ Evangélisme, có
nghiã là tôn giáo Phúc âm [tin mừng] )
Thụy sĩ là nước tự do kiểu tư sản, nên
cải cách của Calvin rất thích hợp và được
hoan nghênh, vì cải cách của Calvin có
nhiều ưu điểm và gần với giai cấp tư sản
hơn.
# Nội dung cải cách :
Năm 1536, tại Besel (Ðức) Calvin cho
xuất bản tập Lời khuyên về lòng tin thiên
chúa, tóm tắt những quan niệm giáo lý và
đạo đức cùng một số tác phẩm khác của
ông, đã trở thành hệ thống tư tưởng của đạo
Tin lành . Cụ thể : Vẫn thực hiện 3 nội dung
cải cách của Luther, nhưng ông bổ sung thên
thuyết định mệnh.
Cải cách của Calvin ảnh hưởng đến
các giai cấp trong xã hội: giai cấp tư sản,
giai cấp phong kiến, giai cấp vô sản.
# Tổ chức :
- Ông chia xã hội ra làm hai hạng
người : Hạng người được thượng đế
lựa chọn và hạng người bị đọa đày
ghét bỏ.
- Ở mỗi khu vực ông cho hình
thành một Công xã những người được
lựa chọn , ở đó mục sư là người chịu
trác h nhiệm về tinh thần ( linh hồn)
của các tín đồ trong công xã. Trong
công xã có Hội dồng trưởng lão do
công xã bầu lên ( các thành viên trong
hội đồng trưởng lão ở Genève đếu do
thị dân tư sản giáu có đảm nhiệm), hội
dồng trưởng lão có quyền bãi miễa,
chọn mục sư cho công xã, nắm quyền
sử án và hành chánh trong công xã. Ở
mỗi công xã có một nhà thờ là nơi
giảng giải giáo lý.
- Ðể quản lý các khu vực có cơ
quan quản lý tối cao, mà trong đó toà
án tôn giáo là cơ quan tối cao của giáo
hội Calvin, do mục sư và hội đồng
trưởng lão hợp thành.
Như vậy trong khi đấu tranh chống lại
giáo hội Thiên chúa , giáo hội của
Calvin đã thực hiện độc tài về tôn giáo
cũng như về chính trị.
# Biện pháp thực hiện cải cách :
- Ở Genève, Calvin cho mở viện
Thần học, để đào tạo giáo sĩ đi truyền
bá cải cách.
- Về giáo hội : bỏ mọi nghi thức, lễ
giáo phiền phức, nhà thờ không có bàn
thờ, tranh ảnh, tương chúa (chỉ còn giữ
lại lễ rửa tội và ban bánh rượu)
- Về giáo lý, chỉ công nhận những
tín điều rút ra từ kinh thánh (nghiã là
vẫn công nhận rất nhiều thuyết vô lý
như thánh linh tam vị nhất thể)
- Bài xích những người theo tín
ngưỡng khác, hoặc có tư tưởng khác
với giáo lý của mình. ( Năm 1533, nhà
sinh vật học Tây ban nha là Michel
Servet bị giáo hội Calvin xử thiêu
sống vì dám công kích thuyết Thánh
linh tam vị nhất thể. Ở Genève, hội
đồng trưởng lão thành phố đã xử tử 58
người vô thần và đuổi ra khỏi thành
hố 76 người trong sạch vì không chịu
đi lễ).
Có thể nói, chủ nghiã Calvin đã được tiếp
thu nhanh chóng và bành trướng mạnh mẽ ở
các thành thị và những miền có quan hệ
TBCN phát triển. Nó được truyền sang các
nước Anh , Pháp, Hà lan, Hungary, Ba lan,
Hoa kỳ. Dưới những danh hiệu khác nhau,
những người theo chủ nghiã Calvin ở mỗi
nước chẳng những là nhà hoạt động về tôn
giáo, mà còn là nhà hoạt động tích cực về
chính trị, xã hội.
VI- CHIẾN TRANH NÔNG DÂN
ÐỨC
1- Tình hình nước Ðức trước TOP
chiến tranh
a- Về kinh tế :
- Ðức là một quốc gia chiếm vị trí
trung tâm châu Âu, đã có một số ngành
công nghiệp cổ truyền phát triển như :
luyện kim, dệt , làm giấy , in,... nhưng
kinh tế Ðức không đồng bộ và phát
triển không đều ở các địa phương.
- Kinh tế không theo kịp các nước
( công nông nghiệp kém Anh và Hà
lan ), hơn nữa chưa có thành thị nào ở
Ðức đóng vai trò trung tâm để thúc
đẩy nền kinh tế dân tộc (như London
của Anh, Paris của Pháp , Amsterdam
của Hà lan,..)
b- Xã hội :
Xã hội Ðức rât phức tạp .
- Cho đến thế kỷ XVI, Ðức vẫn còn
chế độ phong kiến phân quyền. Trong
khi đó giao hội gắn với La mã là chổ
dựa của hoàng đế Ðức thì bị cả qúi tộc
lẫn kỵ sĩ căm ghét.
- Một bộ phận bình dân ( thợ bạn,
những người buôn bán nhỏ, dân nghèo
thành thị) và nông dân phá sản muốn
vào thành thị tìm công ăn việc làm,
nhưng thành thị Ðức chưa phát triển,
nên học trở thành cùng dân, vì thế họ
sát cánh với nông dân trong đấu tranh (
bản thân họ cũng thường xuyên đấu
tranh nhưng thiếu chí hướng và thiếu
kiên định nên thất bại ).
- Một số phong trào đấu tranh của
nông dân nổ ra như phong trào liên
minh giày cỏ, phong trào Conrat
nghèo khổ, đã cho thấy sự bất mãn
của quần chúng đối với chính quyền
và giáo hội.
- Hoàng đế Ðức Charles V (vừa là
hoàng đế Ðức, nhưng do thừa kế vừa
là Vua Tây ban nha, Netherland, một
phần Ý và nhiều kãnh địa khác ở châu
Âu) mãi lo tiến hành chiến tranh, ít chú
trọng đến đời sống nhân dân, gánh
nặng chiến tranh lại trút lên đầu nhân
dân , làm cho nhân dân càng thêm bất
mãn.
2- Ảnh hưởng cải cách của TOP
Luther và tư tưởng của Muntzer
Có thể nói cải cách tôn giáo của
Luther ảnh hưởng rất lớn đối với các giai
cấp trong xã hội Ðức.
# Ðối với qúi tộc phong kiến: Vì
tư tưởng của Luther bị giáo hội căm ghét
và kịch liệt chống đối, nên qúi tộc đồng
tình và ủng hộ phong trào của Luther,
nhằm làm giãm uy tín của giáo hội và
cướp ruộng đất của nhà thờ.
# Ðối với kỵ sĩ : Là tầng lớp thấp
nhất trong bậc thang phong kiến, vai trò
của kỵ sĩ đã lỗi thời vì sự xuất hiện của
pháo binh và súng cá nhân, làm cho thu
nhập của họ ít đi, họ hùa theo phong trào
của Luther và đấu tranh rất mạnh nhằm
chống lại qúi tộc và thị dân giàu ( Kỵ sĩ
vùng Shwaben và Franken đã liên minh
lại với nhau khoảng 700 người, từ tháng
8-1522 đến tháng 9 -1523 họ đã liên tục
tấn công vào địa phận của tổng giám
mục Trier nhưng thất bại vì nhân dân
không ủng hộ họ).
# Ðối với phong trào nông dân :
Cải cách của Luther đã giúp cho những
người nông dân hiểu rõ hơn về giáo hội
và bọn thống trị phong kiến, nên nhân
dân ủng hộ phong trào của Luther, tuy
nhiên nhiệt tình và tinh thần đấu trnh của
nông dân đã vượt xa hơn Luther, nên họ
đã đẩy phong trào đấu tranh thành những
cuộc khởi nghiã nông dân, chống lại giáo
hội và chính quyền.
@ Tư tưởng của Muntzer :
Thomas Muntzer (1490-1525), là
con một thợ mỏ, cha ông bị bọn phong
kiến treo cổ vì có hành động chống đối.
Ông học và đỗ tiến sĩ thần học, làm linh
mục ở nhà thờ Schwitcao. Ông là người
tiêu biểu cho tư tưởng của phái Rửa tội
lại. Giáo phái nầy chủ trương không
thờ tượng thánh, không nghi thức.
Như vậy quan điểm tôn giáo của Muntzer
đi gần với chủ nghiã vô thần.
Về quan điểm chính trị, Muntzer
tin tưởng xây dựng một vương quốc thần
thánh, trong xã hội không có giai cấp,
không phân chia tài sản, không phân biệt
các thành viên trong xã hội. Có thể nói
quan điểm chính trị của ông đi gần với
chủ nghiã cộng sản không tưởng.
Tư tưởng của Muntzer dã có ảnh
hưởng rất lớn đối với nông dân, nên khi
Muntzer kêu gọi khởi nghiã, ông đã
được nông dân ở 2 vùng Thuygingel và
Dacsen hưởng ứng đông đảo.
3 - Những cuộc khởi nghiã tiêu TOP
biểu của nông dân Ðức (1524 - 1525)
a- Khởi nghiã nông dân SCHWABEN :
@ Thời gian và địa điểm :
Khởi nghiã nổ ra vào tháng 6 năm
1524. Trung tâm khởi nghiã là thị trấn
Waldhut ( nơi có ảnh hưởng khá nhiều
của tư tưởng Muntzer)
@ Diễn biến :
Lãnh đạo khởi nghiã là một cựu
chiến binh tên là Hans Munler. Lực
lượng khoảng 3000 người.
Nghiã quân đã tấn công vào lâu đài
của bọn lãnh chúa, đòi họ phải giãm bớt
sự bóc lột đối với nông dân. Bọn lãnh
chúa hoảng sợ nên vôi vã xin điều đình
với nông dân, nhưng thực chất chúng
muốn trì hoãn để chờ cứu viện, nghiã
quân nhận thấy sự thiếu thiện chí của
lãnh chúa, nên đã đẩy phong trào phát
triển mạnh lên. Phong trào lan ra toàn
vùng Schwaben và con số nghiã quân
tăng lên đến 40.000 người, được chia
thành 6 đạo quân , chia nhau tấn công
vào nhiều hướng.
Trên đà thắng lợi, tháng 3 năm
1525, các đạo quân họp nhau lại ở
Meiningel để thống nhất hành động và
đưa ra cương lĩnh đấu tranh gồm 12
điểm, gọi là cương lỉnh Meiningel, đại để
:
· Ðòi cải cách tôn giáo và được
bầu mục sư.
· Ðòi giaó hội xóa thuế 1/10.
· Thủ tiêu chế độ nông nô.
· Giáo hội và nhà nước giãm thuế,
giãm nghiã vụ và
tiền phạt.
· Cho nông dân được sử diụng
ruộng đất công
( như săn bắt và
đốn củi trong
rừng).
@ Kết qủa :
Do không thống nhất hành động
nên qúi tộc phong kiến đã kịp thời tập
hợp lực lượng, dùng thủ đoạn lừa lọc phân
tán lực lượng nghiã quân. Tháng 12 năm
1525, phong trào bị tiêu diệt.
@ Ý nghiã :
Phong trào Schwaben tiêu biểu cho khởi
nghiã nông dân Ðức : nhiệt tình, mãnh liệt
nhưng không triệt để Ðó cũng chính là đặc
điểm của của phong trào nầy.
b- Khởi nghiã nông dân Franken :
@ Thời gian và địa điểm :
Khởi nghiã nổ ra vào đầu năn 1525 ở
Franken.
@ Diễn biến :
- Lãnh đạo khởi nghiã là Ghipelen
và Berlikhingel.
- Lực lượng : chủ yếu là nông dân
ngoài ra còn có thị dân và kỵ sĩ. Quân
số 30.000 người , chia làm 4 đạo quân.
Nghiã quân tấn công vào lâu đài của bọn
lãnh chúa, nhà thờ và tu viện của giáo hội.
Họ đã chiếm được lâu đài lớn của bá tước
Henfenstai và đem ông ta đi tử hình.
Tháng 5 năm 1525, các đạo quân đã họp
ở Heilbronn để thông qua chương trình
hành động chung , gọi là cương lĩnh
Heilbronn gồm 14 điểm. Nội dung được thể
hiện ở 3 điểm lớn sau :
· Ðòi thủ tiêu chế độ nông nô, cho
nông dân lệ thuộc chuyển thành
nông dân tư hữu tực do bằng cách
chuộc lại ruộng đất phong kiến
· Hoàn tục đất nhà thờ chuyển cho
kỵ sĩ và đòi cho kỵ sĩ được tham gia
toà án hoàng đế.
· Ðòi bỏ thuế quan nội địa, thống
nhất đo lường, xóa độc quyền
phường hội của thượng lưu thành thị
và đòi cho thị dân tham gia vào toà
án hoàng đế.
@ Thái độ của phong kiến :
Trước sức tấn công của nghiã quân,
bọn phong kiến Franken đã hoảng sợ nên
vội liên minh với phong kiến Schwaben,
hình thành nên đồng minh Schwaben do
Truchsess Von Waldburg- một qúi tộc tàn
bạo và xảo huyệt cầm đầu, để đối phó với
nghiã quân. Lúc nầy nghiã quân đang bao
vây pháo đài Fraoelbe, Berlikhingen được
lệnh quay sang tấn công liên minh
Truchsess, nhưng y đã hoảng sợ nên bí mật
thương lượng với địch và bỏ ngũ trong khi
nghiã quân đang chiến đấu, làm cho hàng
ngũ nghiã quân mau chóng tan rã.
@ Hậu quả :
Dù kiên cường chiến đấu nhưng do
không thống nhất hành động, thống nhất lực
lượng và bị phản, nên phong trào đi xuống
và thất bại nặng nề trong trận quyết chiến
bên bờ sông Tabor. Tháng 7-1525,
Truchsess bao vây cứ điểm cuối cùng của
nghiã quân ở Watsburg, bọn thị dân thành
thị làm nội ứng, nên nghiã quân bị tiêu diệt.
c- Khởi nghiã Thuringen & Sachsen :
@ Thời gian & địa điểm :
Khởi nghiã nổ ra vào đầu năm 1525 ở
Thuringen & Sachsen. Trung tâm khởi nghiã
là thành phố Muhlhausen.
@ Diễn biến :
- Lãnh đạo : Muntzer & Pephayfe.
- Lực lượng : Nông dân, bình dân và
công nhân mỏ.
- Quân nòng cốt là 8.000 người.
Ngày 17-03-1525, nghiã quân tấn
công vào thành phố Muhlhausen và lật đổ
được chính quyền do bọn thượng lưu thành
thị nắm, họ lập ra một tổ chức của quần
chúng gọi là Hội đồng vĩnh viễn, bầu
Muntzer làm chủ tịch.
Phong trào sau đó lan rộng ra các
vùng xung quanh, họ tấn công vào các thành
thị, lâu đài của lãnh chúa, tu viện, nhà thờ
của giáo hội. Theo lệnh của Muntzer, nơi
nào làm chủ được thì lập chính quyền ở nơi
đó, lấy tài sản của nhà thờ, của bọn thượng
lưu thành thị, của qúi tộc chia cho dân
nghèo, xây dựng một trật tự mới dân chủ
hơn.
Sau những thắng lợi ban đầu, Muntzer
cho người đi kêu gọi nông dân vùng
Schwaben và Franken thống nhất hành
động với nông dân Thuringen và Sachsen,
để phát triển một phong tráo chung.
Tuy nhiên họ chưa kịp tập họp lực
lượng thì bọn phong kiến đã liên minh với
nhau, mà đứng đầu là bá tước xứ Hessen và
quận công vùng Sachsen- nơi có phong trào
nông dân phát triển mạnh. Lực lượng liên
minh của bọn phong kiến được sự yểm trợ
của kỵ binh và pháo binh, nên trong trận
quyết chiến ở Frankenhausen ngày 16-05-
1525, 5000/8000 nghiã quân đã hy sinh,
Muntzer bị bắt và bị chặt đầu. Số nghiã quân
còn lại rút về Muhlhausen, dước sự chỉ huy
của Pephayfe, họ tiếp tục chiến đấu, đến
ngày 25-05-1525 Pephayfe và nhiều ủy viên
trong hội đồng đã bị bắt và bị hành hình,
đến đây thì phong trào tan rã.
@ Kết quả :
Dù chiến đấu kiên cường anh dũng,
nhưng do lực lượng ít và trang bị kém, đồng
thời do những hạn chế nhất định như nghiã
quân không được huấn luyện đầy đủ , lãnh
đạo có tinh thần kiên quyết nhưng thiếu kinh
nghiệm tổ chức , nên phong trào nhanh
chóng thất bại. Ðó cũng là một bài học kinh
nghiệm cho những cuộc khởi nghiã nông
dân.
d- Ý nghiã của chiến tranh nông
dân Ðức (1524 -1525)
· Ðặc điểm :
- Gần như đồng thời ở Ðức cùng nổ ra 3
cuộc khởi nghiã lớn mà lực lượng
nông dân là chủ yếu, tạo thành một
phong trào rộng lớn, bao gồm 1/3 lãnh
thổ, vượt phạm vi một hay một số lãnh
địa.
- Tiến bộ hơn so với các phong trào
nông dân khác và ở các thời kỳ trước
về một số mặt :
· Bước đầu có tổ chức.
· Có cương lĩnh đấu tranh.
· Khắc phục được tình
trạng ô hợp.
· Trong một chừng mực
nào đó có phối hợp dược
hành động.
Ðây là phong trào dồn dập, mãnh liệt,
sâu sắc, lay động được xã hội, thu hút được
nhiều tầng lớp tham gia. Phong trào phát
triển ngày càng cao, ít nhiều mang tính tư
sản, từng bước thoát ly ý thức hệ phonng
kiến. Và đây chính là cuộc chiến tranh nông
dân vĩ đại chưa từng có trong lịch sử châu
Âu.
Tuy nhiên những cuộc khởi nghiã
nông dân Ðức cũng cho thấy những hạn chế
lớn lao của nó. (là nguyên nhân thất bại, do
xã hội Ðức tạo ra).
- Nông dân : đại diện nền sản xuất nhỏ,
nên chưa có một tổ chức vững chắc và
mục tiêu rõ ràng, lúc nguy hiểm nhất
lại không dám đoàn kết nhất trí, có lúc
lại bắt tay với kỵ sĩ và thị dân, những
kẽ mà về bản chất giai cấp là không
thể dung hòa được.
- Kỵ sĩ : Do bản chất giai cấp phong
kiến, sẽ vì quyền lợi mà phản bội
phong trào.
- Thị dân giàu thì lưng chừng thậm chí
phản bội (tiêu biểu là Luther), còn thị
dân nghèo ( tiêu biểu là Muntzer ) thì
hào hùng nhưng chiếm tỷ lệ ít trong xã
hội, nên chưa thể cùng nông dân đưa
phong trào đến thắng lợi .
- Cùng dân : có mục tiêu nhất thời, vô
kỷ luật nên đã tác hại không ít đến
phong trào.
# Ý nghiã :
Chiến tranh nông dân Ðức được
xem như là trận chiến đấu lần thứ nhất
chống chế độ phong kiến của gai cấp tư
sản châu Âu. Nó nói lên lòng căm thù tột
độ của quần chúng chống áp bức bóc lột
và chủ nghiã anh hùng của họ, làm lung
lay nền thống trị phong kiến.
Cuối cùng nó để lại cho đời sau
một bài học lớn. Bài học về sự liên minh
giữa giai cấp công nhân và nông dân để
đưa cách mạng đến thắng lợi.
TRUNG QUỐC DƯỚI CHẾ ĐỘ PHONG
KIẾN
A. THỜI KỲ HÌNH THÀNH VÀ CỦNG
CỐ CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN TRUNG
QUỐC
I. NHÀ TẦN
II. NHÀ HÁN
III. THỜI KỲ TAM QUỐC: NGỤY -
THỤC - NGÔ
B. THỜI KỲ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỘ
PHONG KIẾN TRUNG QUỐC
TRIỀU ĐƯỜNG
IV.

V. THỜI KỲ NGŨ ĐẠI

B. THỜI KỲ SUY TÀN CỦA CHẾ ĐỘ

PHONG KIẾN TRUNG QUỐC


VI. TRIỀU NGUYÊN
VII. TRIỀU MINH
VIII. TRIỀU THANH

ÐẶC ÐIỂM CƠ BẢN :


Là một quốc gia ra đời sớm (thiên niên kỷ
III BC ), nhà nước phong kiến trung quốc ra
đời sớm hơn các nhà nước phong kiến ở Tây
âu (221BC).
Lịch sử phong kiến trung quốc trãi qua
nhiều triều đại rất phức tạp :Tần ,Hán
(đông-tây), Tam quốc, Ngũ đại, Nam -Bắc
triều, Ðường, Tống, Nguyên, Minh,
Thanh,...
Kinh tế tự nhiên tự túc chiếm địa vị thống trị
(có kinh tế hàng hóa, thương mại đô thị
nhưng không tác động nhiều đến kinh tế
Trung quốc) làm ảnh hưởng đến nền kinh tế
hàng hóa, làm chậm sự ra đời của kinh tế tư
bản chủ nghiã ở Trung quốc nói riêng và
Phương Ðông nói chung.
Có một nền văn minh sớm và lâu đời. Nhân
dân Trung quốc thời phong kiến đã xây
dựng nên một nền văn hóa phát triển cao với
những thành tựu rực rỡ, đóng gớp vào kho
tàng của nền văn hóa thế giới những giá trị
văn hóa độc đáo.
Ðấu tranh giai cấp thực sự là một động lực
thúc đẩy sự phát triển của xã hội Trung
quốc. Mâu thuẩn chủ yếu trong xã hội vẫn là
mâu thuẩn giữa địa chủ và nông dân .Những
cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân,
những cuôc khởi nghiã nông dân diễn ra
thường xuyên trong các triều đại phong
kiến, nó thật sự biến thành những cuộc chiến
tranh nông dân, làm sụp đổ cả một triều đại
phong kiến.
PHÂN KỲ LỊCH SỬ :
Lịch Sử chế độ phong kiến Trung
quốc có thể chia làm 3 thời kỳ:
- Tần - Hán : Thời kỳ hình thành và
củng cố chế độ phong kiến.
- Ðường - Tống : Thời kỳ chế độ
phong kiến phát triền cao.
- Nguyên - Minh - Thanh : Thời kỳ suy
tàn của chế độ phong kiến.
A- THỜI KỲ HÌNH THÀNH VÀ
CỦNG CỐ CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN
TRUNG QUỐC
I - NHÀ TẦN ( 221 B.C - 207 B.C ) TOP
Thời Chiến quốc, ở Trung quốc có 7
nước lớn là : Yên , Tề, Sở, Triệu, Ngụy,
Hàn và Tần, trong đó từ giữa thế kỷ thứ IV
B.C, Tần trở thành nước hùng mạnh nhất.
Trong cuộc tổng tiến công cuối cùng diễn ra
từ năm 230 đến năm 221 B.C, Tần đã lần
lượt tiêu diệt sáu nước kia, hoàn thành việc
thống nhất Trung quốc, trên cơ sở đó , triều
đại phong kiến đầu tiên ở Trung quốc - triều
Tần - được thành lập.
1- Những điều kiện để nhà Tần thống
nhất Trung quốc :
a- Khách quan :
- Chiến tranh liên miên từ thời Xuân thu -
Chiến quốc, đã phá hoại nền kinh tế Trung
quốc, do đó yêu cầu thống nhất Trung quốc
được đặt ra.
- Do yêu cầu về thủy lợi.
- Thống nhất để có thể chống ngoại xâm
(quân Hung nô - một bộ phận của tộc Mông
cổ, ở phương Bắc)
- Có những biến đổi quan trọng trong lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
b- Chủ quan :
- Cải cách của Thương ưởng đã đặt cơ sở để
xây dựng chế độ phong kiến mới.
Thương Ưởng tên là Vệ Ưởng,
nhưng do được phong đất ở Thương
nên gọi Thương Ưởng. Ông được Tần
Hiếu Công tin dùng, cải cách của Ông
xác định chế độ mua bán ruộng đất,
nhằm nâng đở địa chủ và thương
nhân, để củng cố chính quyền và xây
dựng lực lượng quân đội mạnh.
-Vua Tần ( Tần Thủy Hoàng ) được nhiều
tướng tài và người tài giúp sức (như Lã Bát
Vi, Lý Tư, Bạch Khởi,...).
- Giai cấp thống trị thấy cần phải thống
nhất đất nước, thống nhất lực lượng để đối
phó với quần chúng (qúi tộc cũ, thương
nhân , địa chủ dù nội bộ chúng có mâu
thuẩn)
Nhờ những điều kiện thuận lợi
trên mà nhà Tần đã nhanh chóng đánh bại
được 6 nước , thống nhất được Trung quốc.
2- Những chính sách của nhà Tần :
Năm 221 B.C, Vua Tần là Doanh
Chính đã thống nhất toàn bộ lưu vực sông
Hoàng hà và Trường giang, lên ngôi đặt
hiệu là Tần Thủy Hoàng đế.
# Về kinh tế :
- Nông nghiệp :
Hoàng đế nắm quyền sở hữu ruộng
đất tối cao, những người sử dụng ruộng đất
phải nộp tô thuế và làm nghiã vụ lực dịch
cho nhà nước (trừ qúi tộc và tăng lữ). Tuy
nhiên nhà nước vẫn công nhận quyền tư hữu
ruộng đất và không thu thuế ruộng đất tư.
Khuyến khích dân chúng khẩn hoang.
Nhà nước quản lý, sửa sang các công trình
thủy lợi, đê điều, xây dựng đường xá, cho
đào con sông lớn gọi là Biện hà (huyện
Khai phong- Tỉnh Hà nam) nối liền các dòng
sông Tế, Nhữ, Hoài, Tứ ; khơi nhiều sông
ngòi ở các miền thuộc đất Sơ, Ngô, Tề ,
Thục cũ, vừa đế tưới ruộng vừa để đi lại dễ
dàng.
Nhờ những chính sách trên mà chỉ trong
một thời gian, nông nghiệp được phục hồi
và phát triển, đảm bảo được lương thực, đời
sống của người dân dễ chịu hơn.
- Ðo lường , tiền tệ :
Nhà nước thống nhất chế độ đo lường,
ban hành một loại tiền kim gọi là Tệ
(thượng tệ bằng vàng, hạ tệ bằng đồng ),
bãi bỏ các loại tiền bằng võ sò, vải lụa, mai
rùa trước kia. Ban bố một chế độ thuế khoá
chung rất cao.
# Về chính trị :
Quyền lực của hoàng đế cao nhất,
tuyệt đối và toàn diện. Tần Thủy hoàng cho
xây dựng một bộ máy thống trị quan liêu và
được tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa
phương.
BỘ MÁY TRUNG
ƯƠNG

Ngoài ra ở ở trung ương cón có các quan


coi giữ binh mã, tiền tài, tư pháp.
Ở địa phương, Tần thủy hoàng không
thi hành chế độ phân phong, mà chia cả
nước thành 36 quận, mỗi quận lại chia thành
nhiều Huyện. Ðứng đầu quận là Quận thú
do hoàng đế chỉ định và có quyền bãi miễn,
đứng đầu Huyện là Huyện Lệnh hay Huyện
trưởng. Ngoài ra để gíam sát quận thú và
mật báo tình hình trong quận với vua có
quan Giám ngự sử.
Ở mỗi quận huyện cũng có các chức
quan coi giữ binh mã, tiến tài và lương thực.
Sự cai trị ở quận huyện là căn cứ theo pháp
luật của nhà nước và những chỉ thị khác của
triều đình.
Ngoài ra hoàng đế còn có một kực
lượng quân đội khá mạnh, để giữ trật tự xã
hội, đàn áp những cuộc khởi nghiã của nhân
dân, những cuộc nổi loạn của phong kiến
cát cứ, và tiến hành chiến tranh xâm lược
bên ngoài.
# Về xã hội :
Nhà nước quản lý nhân dân trong
nước tất chặc chẽ, gọi dân là đầu đen, biên
chế dân theo hộ, gọi là hộ tịch , các Hương,
Ðình, Lý ở địa phương căn cứ vào đó thu
thuế, sưu dịch và trưng binh. ( Tô ruộng tính
bằng thóc, thuế đinh tính bằng tiền).
Nhà nước quản lý chặt chẽ bọn qúi tộc
thời chiến quốc, để tránh phản loạn, cát cứ.
(nhà Tần đã dời 12 vạn qúi tộc cuả 6 nước
về Hàm dương và phân tán vào Ba thục [ Tứ
xuyên] , tịch thu toàn bộ binh khí và đồ
đồng trong dân , đúc thành 12 pho tượng
đồng, mỗi pho nặng 24 vạn cân- tương
đương 120.000 kg).
# Về văn hóa - giáo dục :
Ðơn giãn và thống nhất chữ viết, hình
thành một loại chữ tượng hình mới gọi lả
chữ Tiểu triện & Lệ thư .
Ðề cao học thuyết Pháp gia cuả Hàn
Phi Tử. Nhà nước lấy pháp luật làm công cụ
cai trị và coi đó là công cụ thống trị chính
thống, thẳng tay đàn áp những tư tưởng học
thuật khác như phái Bách gia chư tử ( đốt
hết sách vỡ của phái nầy).
Cấm luận bàn kinh Thi, Thư hai
người dám bàn nhau về kinh thi kinh thu thì
chém giữa chợ , cấm bàn chuyện xưa chê
chuyện nay lấy chuyện đời xưa mà chê
chuyện nay thì giết cả họ .
Bó hẹp giáo dục trong tầng lớp quan
liêu, cấm mở trường học ở nhà riêng ( lối tự
học trong dân gian bị bãi bỏ )
Pháp luật cai trị của Tần thủy hoàng là
mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định,
khắc bạc, không dùng nhân đức ân nghiã .
Có thể nói pháp luật của nhà Tần là vô cùng
khắc nghiệt :
Ðồng thời với chính sách cai trị hà
khắc, Tần Thủy Hoàng còn huy động sức
người sức của để xây dựng những công trình
qui mô, nhằm gây uy thế cá nhân và phục
vụ cho nhu cầu xa xỉ của ông ta, như Vạn lý
trường thành, Cung A Phòng, Lăng Ly
sơn,...
Ngoài chính sách thống trị hà khắc
trong nước, Tần Thủy Hoàng còn tiến hành
những cuộc chiến tranh xâm lược ra bên
ngoài. Năn 223 B.C , tấn công các tộc Việt ở
phía nam, đến năm 214 B.C, chiếm phần
lớn các tỉnh Phúc kiến, Quảng Ðông, Quảng
Tây, lập nên 4 quận Mân trung , Nam hải,
Quế lâm và Tượng. Nhưng khi tấn công sâu
vào Âu lạc - tức nước ta, quân Tần đã bị thất
bại nặng nề, tướng Tần là Ðồ Thư bị giết
chết, nên cuộc tiến công xuống phía Nam
của Tần bị chặn lại.
Ðến năm 210 B.C, Tần Thủy Hoàng
chết trên đường đi xem xét các địa phương,
thừa cơ hội, thừa tướng Lý Tư và hoạn quan
Triệu Cao đã mưu giết người con trưởng của
Tần Thủy Hoàng là Phù Tô, lập con thứ là
Hồ Hợi lw6n làm vua, lấy hiệu là Nhị Thế.
Nghe theo lời phỉnh nịnh của Triệu
Cao, Nhị Thế thẳng tay giết hầu hết các
quan đại thần và các công tử, những viên
quan nhỏ dưới trướng những người nầy
cũng bị giết chết. Trong khi đó pháp luật
trong nước lại càng nghiêm ngặt, do vậy
mâu thuẫn trong xã hội vốn đã gay gắt lại
càng thêm gay gắt.
3- Phong trào nông dân cuối Tần :
Sống dưới sự thống trị tàn bạo của nhà
Tần, nhân dân Trung quốc vô cùng khổ cực.
Ðại đa số nhân dân phải sống trong cảnh
khốn cùng, đến nỗi phải mặc như bò ngựa,
ăn như chó lợn. Bởi vậy lòng oán hận của
nhân dân lên đến cao độ, chỉ còn chờ đợi
thời cơ là đứng lên lật đổ nhà Tần.
Năm 209 B.C, Tần Nhị Thế huy động
một đội lính thú gồm 900 người, trong đó có
Trần Thắng và Ngô Quảng ở hương Ðại
trạch đi trấn thủ ở Ngư Dương. Lúc bấy giờ
đang là mùa mưa, đường xá lầy lội khó đi,
nên họ không thể đến nơi đúng kỳ hạn. Trần
Thắng và Ngô Quảng giết chết người chỉ
huy và nói với đồng đội rằng :Các ông gặp
mưa, đều đã sai lỳ hạn. Sai kỳ hạn đều bị tội
chém. Dù có khỏi bị chém đi nu84a thì
trong số mười người đi thì cũng chết mất
sáu bảy. Vã chăng kẻ tráng sĩ không chết thì
thôi chứ đã chết thì phải lừng lẫy tiếng tăm.
Vương hầu khanh tướng há phải có dòng
dõi mới làm nên sao ?. Ý kiến đó được mọi
người hưởng ứng, và như vậy cuộc khởi
nghiã nông dân cuối Tần bắt đầu bùng nổ.
Trần Thắng và Ngô Quảng vốn là
những người nông dân nghèo, nhưng để
tranh thủ sự ủng hộ của đông đảo quần
chúng, Trần Thắng giả xưng là công tử Phù
Tô, Ngô Quảng giả xưng là Hạng Yên,
tướng cũ của nước Sở, vì đó là những người
vốn được nhân dân có thiện cảm.
Tin khởi nghiã truyền đi, nhân dân nổi
dậy giết chết quan lại quận huyện để hưởng
ứng. Do đó lực lượng phát triển rất nhanh
chóng. Từ hương Ðại Trạch, nghiã quân tiến
đến đất Trần. Tại đây , theo ý kiến của các
bô lão , kỳ mục và những người có tên tuổi,
Trần Thắng tự xưng là Vua, lấy hiệu là
Trương Sở (nghiã là mở rộmh nước Sở) lập
chính quyền mới ở đất Trần. Ngay sau đó,
Trần Thắng sai người dẫn quân đi chiêu
hàng các lực lượng nổi dậy ở đất Triệu,đất
Ngụy,...một mặt phái Ngô Quảng, Chu Văn,
Tống Lưu, cầm đầu 3 đạo quân chia làm 3
mũi tấn công quân Tần.
Trong 3 cánh quân tiến về phía Tây,
lực lượng do Chu Văn chỉ huy là đội quân
mạnh nhất. Nhưng khi quân Chu Văn vừa
tiến vào cửa Hàm cốc, thì bị tướng Tần là
Chương Hàm đánh bại, nên cuối cùng Chu
Văn phải đâm cổ tự tử.
Cánh quân do Ngô Quảng chỉ huy lúc
đầu thu được một số thắng lợi, nhưng khi
đánh thành Huỳng Dương do sự cố thủ của
quân Tần, nghiã quân tấn công nhiều lần
không hạ nổi. Trong tình thế ấy, Ðiền Tang
cùng một số tướng lĩnh khác cho rằng Ngô
Quảng kiêu ngạo, không biết binh quyền,
bèn giả danh theo mệnh lệnh của Trần
Thắng, giết chết Ngô Quảng rồi đem đầu
dâng cho Trần Thắng. Sau đó Diền Tang
được phong làm thượng tướng và trở thành
kẻ chỉ huy của cánh quân nầy. Ông bố trí
một số quân ở lại Huỳnh Dương, còn mình
mang quân đi về hướng Tây để đánh quân
Tần, nhưng cuối cùng toàn bộ cánh quân của
Ông bị Chương Hàm đánh bại.
Nhân đà thắng lợi ấy, Chương Hàm
đánh thẳng vào căn cứ điạ củ quân nông dân
ở đất Trần. Trần Thắng bị thua phải bỏ chạy,
cuói cùng bị tên đánh xe phản bội giết chết
để đầu hàng Tần. Còn Tống Lưu, người chỉ
huy cánh quân thứ 3, khi nghe tin Trần
Thắng chết liền đầu hàng quân Tần, nhưng
vẫn bị giải về Hàm Dương cho xe xé xác.
Như vậy sau nửa năm đấu tranh, cuộc
khởi nghiã Trấn Thắng- Ngô Quảng đến đây
bị thất bại. Tuy nhiên đó chỉ là kết thúc giai
đoạn thứ nhất, chứ không phải phong trào
khởi nghiã chống Tần đã bị dập tắc. Trái lại
ngọn lửa đấu tranh do hai thủ lĩnh nông dân
ấy nhóm lên đã bùng cháy và ngày càng lan
rộng khắp cả nước.
Khi nghe tin Trần Thắng chết, để
tranh thủ sự ủng hộ rộng rải của quần chúng,
Hạng Lương lập một đứa cháu của Sở Hoài
Vương lúc bấy giờ đang đi chăn dê lên làm
vua và cũng gọi là Sở Hoài Vương. Chẳng
bao lâu Hạng Lương bị Chương Hàm đánh
bại. Thừa thắng Chương Hàm vượt Hoàng
Hà đánh thành Cự Lộc ở đất Triệu, Hoài
Vương cử Hạng Vũ đi giải vây cho thành
Cự Lộc, đồng thời cử Lưu Bang tiến quân
đánh đất Tần.
Tại đất Triệu, Hạng vũ đã nhanh
chóng đánh tan quân Tần, Chương Hàm
phải đầu hàng, do đó uy danh của Hạng Vũ
trở nên lừng lẫy. Còn Lưu Bang khi vào đến
Hàm dương thì vua Tần là Tử Anh xin hàng.
Lưu Bang tuyên bố xóa bỏ luật pháp hà khắc
của nhà Tần.
Khi nghe tin Lưu Bang làm chủ đưộc
kinh đô của Tần, Hạng Vũ sợ Lưu Bang
chiếm mất đất Tần cũ, bèn vội vàng kéo
quân vào Hàm Dương, giết Tử Anh đã đầu
hàng, đốt cung thất, thu của cải châu báu.
Thế là sau 15 năm kể từ khi Tần Thủy
Hoàng lên ngôi hoàng đế, nhà Tần đã bị diệt
vong.
II - NHÀ HÁN TOP
1- Cuộc chiến tranh Hán - Sở & sự
thành lập triều Tây Hán (206 B.C - 8 A.D)
Sau khi lật đổ nhà Tần, Hạng Vũ tôn
Sở Hoài Vương lên làm hoàng đế, hiệu là
Nghiã Ðế, còn mình thì tự xưng là Tây sở bá
vương, đồng thời tiến hành phong đất phong
vương cho các tướng lĩnh, thành lập 18 nước
chư hầu.
Trước đó Sở Hoài Vương có nói rằng,
ai vào được Quan Trung ( tức đất Tần cũ),
thì được phong vương ở đó. Lưu Bang vào
trước tiên nhưng Hạng Vũ không thực hiện
lời hứa của Sở Hoài Vương, đem vùng nầy
phong cho 3 hàng tướng của quân Tần là
Chương Hàm, Tư mã Hân và Ðổng Ế, lập
thành 3 vương quốc, còn Lưu Bang chỉ được
phong làm Hán vương ở Hán trung , Ba
Thục.
Lưu Bang giả vờ ngoan ngoãn kéo
quân đến đất phong của mình, nhưng khi
Hạng Vũ vừa đem quân về phía Ðông, thì
Lưu Bang liền tiến quân lên phía bắc, đánh
bại Chương Hàm, Tư mã Hân và Ðổng Ế, và
chiếm được toàn bộ vùng Quan Trung.
Tiếp đó, nhân khi Hạng Vũ đem quân
đánh Tề, Lưu Bang lại tiến sang phía đông,
chiếm một số vương quốc rồi dẫn đại quân
đi đánh Sở. Cuộc chiến tranh Hán - Sở chính
thức bùng nổ.
Lúc đầu Lưu Bang bị thất bại nhiều
lần, tuy nhiên về sau so sánh lực lượng dần
dần có lợi cho Hán, nên cò thể giằng co với
Sở. Ðến năm 202 B.C, nhận thấy lực lượng
của mình hơn hẵn đối phương, Lưu Bang
chủ động tấn công Sở, và cuối cùng trong
trận Cai hạ, Hạng Vũ bị thua nên nhảy
xuống sông Ô Giang tự tử.
Sau khi đánh bại được Hạng Vũ, Lưu
Bang lên làm vua , hiệu là Hán Cao Tổ (206
- 195 B.C) đóng đô ở Lạc Dương, sau dời về
Trường an.
2- Những cuộc đấu tranh trong nội bộ
triều Tây Hán :
Khi nhà Hán mới thành lập, Hán Cao tổ
bắt tay ngay vào chỉnh đốn mọi việc để củng
cố ngai vàng của mình.
Ðối với nhân dân, Cao tổ chú ý đến
việc khôi phục và phát triển nông nghiệp,
khuyến khích dân trở về quê cũ làm ăn, trả
tự do cho những người vì nghèo phải bán
mình làm nô tỳ,...
Ðối với giai cấp địa chủ, nay trở về
quê cũ thì được nhận lại đất, được khôi phục
tước vị cũ, các quan đều được thăng tước
một cấp.
Ðối với những người thân thích và các
công thần, Cao Tổ phong đất và phong tước
hiệu qúi tộc cho họ để tạo vây cánh cho
mình.
Năm 195 B.C, Hán cao tổ chết, Huệ
đế lên nối ngôi, nhưng mọi việc đều do Lữ
Hậu ( Hoàng hậu của Lưu Bang ) quyết
định .
Năm 188 B.C, Huệ đế chết, Lữ Hậu
trở thành người cầm quyền như hoàng đế,
đồng thời cho người họ Lữ nắm giữ binh
quyền và các chức vụ quan trọng trong triều
đình. Lữ Hậu còn thẳng tay giết chết nhiều
người trong họ Lưu. Chính quyền họ Lưu
đứng trước nguy cơ tiêu vong. Năm 180 B.C
, Lữ Hậu chết, trong cung đình nổ ra cuộc
chính biến, họ Lữ bị tước mọi quyền lựcm
ngai vàng họ Lưu lại được củng cố. Tuy vậy
cho đến giữa thế kỷ thứ II B.C, thế lực của
các vương còn qúa mạnh, chính phủ trung
ương thực tế chỉ cai trị được 15 quận, còn 39
quân do các vương khống chế. Vì vậy sau
khi lên ngôi, Hán vủ đế (140- 87 B.C) đã thi
hành nhiều chính sách nhằm tập trung mọi
quyền hành vào chính phủ trung ương và đề
cao hơn nữa uy quyền của hoàng đế.
Ðể làm suy yếu lực lượng các vương,
Vũ đế ra lệnh cho các con thứ của các vương
cũng được kế thừa đất phong và được phong
tước hầu, thực chất là để chia nhỏ các vương
quốc và để hoàng đế có thể quản lý một
phần đất đai vốn thuộc các vương quốc, vì
lãnh địa của tước hầu thuộc quyền quản lý
của chính phủ trung ương.
Ngoài ra Vũ đế còn hạn chế quyền
lực của thừa tướng, chia cả nước ra làm 13
khu giám sát gọi là Châu, đứng đầu là Thứ
sử có quyền giám sát Quận Thú để trung
ương khống chế các địa phương chặt chẽ
hơn.
Về hệ tư tưởng, học thuyết của Lão
Tử được tôn sùng, nhưng đến năm 136 B.C,
Vũ đế ra lệnh bãi bỏ các học thuyết khác,
chỉ đề cao Nho học. Từ đó học thuyết nầy
trở thành công cụ tinh thần để bảo vệ chế độ
phong kiến ở Trung quốc.
3- Triều Tân ( 9 - 23 ) :
Sau khi Vủ đế chết một thời gian,
tình hình Tây Hán ngày càng rối ren. Ðến
cuối thề kỷ I, quyền bính rơi vào tay ngoại
thích họ Vương. Năm 8, ngoại thích Vương
Mãng cướp ngôi nhà Hán, tự mình lên làm
Vua, đặt tên triều đại mới là Tân.
Với mục đích cứu vãn tình hình nguy
ngập cuối triều Tây Hán, xoa dịu mâu thuẩn
xã hội, củng cố nền tống trị, Vương Mãng
đã ban hành môtü số chính sách cải cách,
gồm những nội dung chính sau :
· Tuyên bố tất cả ruộng đất đều thuộc
nhà vua, gọi là Vương điền, nô tỳ thì gọi
là tư thuộc, gia đình nào có dưới 8 người
thì không được chiềm hữu qúa 900 mẫu
đất, mỗi đinh nam được nhận 100 mẫu đất.
· Nhà nước độc quyền quản lý 8 thứ :
Muối, sắt, nấu rượu, đúc tiền, rừng núi, ao
hồ, thị trường và cho vay nợ.
· Thay đổi chế độ quan lại, đặt lại tên
đất.
Những chủ trương của Vương Mãng
phần thì không thực tế, phần thì đụng
chạm đến quyền lợi của giai cấp địa chủ,
phần thì gây nhiều xáo trộn trong xã hội,
nên không thi hàng được. Những mâu
thuẩn trong xã hội chẳng những không
giải quyết được mà càng gay gắt thêm. Vì
vậy triều Tân của Vương Mãng không
tránh khỏi sụp đổ.
4- Phong trào chiến tranh nông dân Xích
Mi -Lục Lâm & sự thành lập triều Ðông
Hán ( 25 - 220 ):
Cải cách của Vương Mãng không
thành công, giai cấp địa chủ vẫn chiếm
nhiều ruộng đất, thêm vào đó thiên tai như
hạn hán , Châu chấu cắn lúa xảy ra khắp nơi,
nên làm cho nông dân đói khổ, nên nhiều
nơi nông dân nổi dậy khởi nghiã.
Năm 17, dưới sự lãnh đạo của Vương
Khuông, nhân dân ở Hồ Bắc đã tập hợp
thành một lực lượng đóng trên núi Lục Lâm,
nên gọi là quân Lục Lâm. Năm 22, quân Lục
Lâm rời khỏi căn cứ địa ra ngoài hoạt động,
được sự họp tác của số địa chủ như Lưu
Huyền, Lưu Diễn, Lưu Tú, nên lực lượng
ngày càng lớn mạnh.
Năm 23, sau khi đánh thắng quân
Vương Mãng, Lưu Huyền lên làm hoàng đế,
lấy hiệu là Cánh Thủy, đặt tên nước là Hán,
đóng đô ở đất uyển ( Hà Nam). Ngay năm
đó quân Lục Lâm chia làm hai đạo quân đi
đánh Lạc Dương và Trường An, khi quân
Lục Lâm chưa đến nơi thì ở Trường an xãy
ra cuộc binh biến, Vương Mãng bị giết chết.
Ðầu năm 24, Lưu Huyền vào làm vua
Trường An.
Trong khi quân Lục Lâm nổi dậy ở
Hồ Bắc, thì ở Sơn Ðông, dưới sự lãnh đạo
của Phàn Sùng, nông dân cũng nội dậy khởi
nghiã.
Năm 22, Vương Mãng điều 10 vạn
quân đến đàn áp. Ðể phân biệt với địch
,nghiã quân tô đỏ lông mày, nên gọi là quân
Xích mi. Quân Xích mi đã đánh quân
Vương Mãng thất bại nhiều lần. Năm 23,
Phàn Sùng và các tướng lĩnh khác được Lưu
Huyền phong hầu.
Năm 25, lực lượng của quân Mày đỏ
phát triển lên 35 vạn. Họ muốn lập một
người trong dòng họ nhà Hán lên làm hoàng
đế. Trong hàng ngũ nghiã quân có 3 người
có họ gần gũi với nhà Hán, rồi bằng phương
pháp bốc thăm, Lưu Bồn Tử, vốn là một chú
chăn bò 15 tuổi được cử lên làm vua.
Trong khi đó Lưu Huyền ngày càng
xa rời quần chúng, nên xãy ra xung đột nội
bộ giữa các tướng lĩnh xuất thân nông dân
và các tướng lĩnh xuất thân địa chủ. Nên khi
quân mày đỏ tiến sang phía Tây, các tướng
lĩnh xuất thân là nông dân trong quân Lục
Lâm đã phối hợp với quân Mày đỏ tấn công
Trường an, Lưu Huyền phải đầu hàng, Lưu
Bồn Tử tiếp quản Trường an.
Tuy làm chủ được kinh đô, nhưng
nghiã quân bị bao vây kinh tế, nên buộc phải
rút khỏi Trường an.
Ngoài hai trung tâm Hồ Bắc và Sơn
Ðông, lúc bấy giờ ở Hà Bắc cũng có những
cuộc khởi nghiã nhỏ. Năm 23 Lưu Tú được
Lưu Huyền phái đế đây để phát triển lực
lượng, với sự ủng hộ của một số quan lại và
địa chủ địa phương, Lưu Tú lập được căn cứ
của mình, tiêu diêt các nhóm khởi nghiã
khác, làm chủ được vùng Hồ Bắc, tấn công
Lưu Huyền, chiến được Lạc Dương.
Năn 25, Lưu Tú xưng làm hoàng đế,
hiệu là Quang vũ đế, đặt tên nước là Hán,
đóng đô ở Lạc dương, lịch sử gọi là Ðông
Hán.
4- Tình hình thời Ðông Hán & Phong
trào nông dân Khăn vàng :
Ðầu thời Ðông Hán, Quang vũ thi
hành nhiều chính sách tích cực như giãm
thuế từ 1/10 xuống 1/30, phục viên binh
lính để tăng thêm ngươp nhập huyện để bớt
quan lại, xây dựng các công trình thủy lợi,...
nhờ vậy tình hình xã hội tương đối ổn định.
Ðối với bên, nhà Ðông Hán tiến hành
xâm lược nước ta năm 40, và đến năm 43,
đặt ách đô hộ lên nước ta một lần nữa. Ðối
với Tây vực, nhà Hán đánh Hung nô.
Tuy nhiên sự ổn định của nhà Ðông
Hán không duy trì được lâu, sang thế kỷ II,
trong triều đình thường xuyên diễn ra những
cuộc tranh giành quyền lực giữa ngoại thích
và hoạn quan, do đó tình hình chính trị hết
sức rối ren. Ở các địa phương, giai cấp địa
chủ tìm cách chiếm đoạt ruộng đất, lập
thành những điền trang rộng lớn. Trong khi
đó thiên tai thường xuyên diễn ra, làm cho
đời sống nhân vô cùng khốn khổ, vì vậy
nông dân đã nhiều lần khởi nghiã và đến
cuối thế kỷ II, dưới sự lãnh đạo của Trương
Giác, một cuộc chiến tranh nông dân đã
bùng nổ.
Trương Giác vốn là thủ lĩnh của giáo
phái Ðạo giáo lưu hành trong dân gian gọi
là đạo Thái bình, chủ trương dùng tàn hương
và nước lã chữa bệnh. Ðể chuẩn bị khởi
nghiã, Trương Giác chia tín đồ thành 36
phương, mỗi phương trên dưới 1 vạn người
và cử tướng lĩnh đến chỉ huy. Ðồng thời ông
cón sai người đi tuyên truyền câu sấm : Trời
xanh sắp chết, trời vàng đang lập, đến năm
Giáp tý, thiên hạ tốt lành.
Năm 184 (năm Giáp tý), Mã Nguyên
Nghiã, thủ lĩnh một phương lớn được giao
nhiệm vụ tổ chức khởi nghiã, nhưng kế
hoạch bị bại lộ. Bởi vậy, Trương Giác quyết
định cả 36 phương phải khởi sự trước thời
gian dự định. Quân khởi nghiã đầu trích
khăn vàng để làm dấu hiệu riêng nên gọi là
quân khăn Vàng. Khắp nơi, họ tấn công
thành ấp, đốt phá dinh thự.
Hoảng sợ trước sự đấu tranh của
nông dân, chính phủ Ðông Hán và các tập
đoàn quân phiệt ở các địa phương đã huy
động toàn bộ lực lượng để đàn áp. Quân
Khăn Vàng chiến đấu rất ngoan cường,
nhưng đến cuối năm 184 bị Hoàng Phủ
Tung đánh bại. Trương Giác trước đó đã ốm
chết, 5 vạn nghiã quân không chịu khất phục
nên nhảy xuống sông tự tử, 13 vạn người
khác bị quân Hoàng Phủ Tung giết chết. Mộ
của Trương Giác bị quật lên, cắt đầu đưa về
kinh đô. Sau khi quân chủ lực của quân
Khăn Vàng thất bại, nông dân các nơi khác
vẫn tiếp tục đấu tranh 20 năm nữa mới hoàn
toàn bị dập tắt.
Như vậy, triều Ðông Hán vẫn chưa bị
phong trào nông dân lật đổ, nhưng từ đó lại
càng thêm suy yếu. Vua Ðông Hán chỉ là bù
nhỉn trong tay các tướng quân phiệt và đến
năm 220 thì phải nhường ngôi cho họ Tào.
III. THỜI KÌ TAM QUỐC : NGỤY, TOP
THỤC, NGÔ ( 220 - 280 )
1. cuộc nội chiến dưới thời Ðông Hán:
Cuối đời Ðông Hán, nhân khi chính
quyền trung ương auy yếu, trật tự xã hội
hỗn loạn, các quan lại châu quận và các
nhà hào phú ở địa phương đã phát triển lực
lượng vũ trangcủa mình trở thành những
tập đoàn quân phiệt chiếm cứ các nơi trong
nước.
Ở triều đình, sau khi đàn áp được phong
trào khăn vàng, cuộc đấu tranh giữa các thế
lực chính trị khác nhau vẫn tiếp diễn. Năm
189, Hán linh đế chết. Kẻ nắm quyền binh là
đại tướng quân Hà Tiến (anh của Hà hoàng
hậu ) ngầm liên kết với các tướng quân phiệt
Viên Thiệu, Ðổng Trác để tiêu diệt bọn quan
hoạn, nhưng việc chưa thành thì bị bọn quan
hoạn giết chết. Với binh lực trong tay, Viên
Thiệu giết hơn hai ngàn quan hoạn, nhưng
ngay sau đó đổng Trác kéo quân vào kinh đô
nắ lấy mọi quyền hành trong triều đình. Năm
192, Ðổng Trác bị một viên tướng của mình
là Lữ Bố giết. Từ đó, cuộc nội chiến giữa các
thế lực quân phiệt càng lan rộng và quyết
liệt, còn vua đông Hán và hiến đế (năm 190 -
220 ) thì hết bị tập đoàn quân phiệt này đến
tập đoàn quân phiệt khác thao túng. Năm
196, Tào Tháo, một kẻ rất tích cực trong việc
đánh Ðổng Trác và nhanh chóng phát triển
lực lượng của mình nhờ thu nạp được 30 vạn
quân Khăn vàng đã khống chế được chính
quyền Ðông Hán.
Năm 200, Tào Tháo đánh thắng Viên
Thiệu ở trận Quan Ðộ rồi thu tóm cả miền
Bắc Trung Quốc. Lúc bấy giờ, ở miền Nam
có hai lực lượng đáng chú ý là Tôn Quyền
và Lưu Bị. Năm 208, Tào Tháo đưa 30 vạn
quân xuống giao chiến với 5 vạn quân của
Tôn Quyền và Lưu Bị ở trận Xích Bích
nhưng thất bại nặng nề.
Sau trận đánh nổi tiếng này, Lưu Bị tiến
về phía Tây, tạo thành ba thế lực đối địch
nhau : Tào Tháo ở phía bắc, Tôn Quyền ở
Ðông nam, Lưu Bị ở Tây nam.
2. sự thành lập và diệt vong của ba
nước Ngụy, Thục, Ngô :
Năm 220, Tào Tháo chết, con là Tào
Phi bắt Hán đế phải nhường ngôi cho mình,
nhà Ðông hán diệt vong. Tào Phi lên làm
vua, đóng đô ở Lạc dương, đặt là Ngụy.
Năm 221, Lưu Bị cũng xưng làm
hoàng đế, đóng đô ở Thành đô, lấy quốc
hiệu là Hán, lịch sử thường gọi là Thục.
Năm, 222, Tôn Quyền xưng vương
(đến năm 229 cũng xưng đế ), đóng đô ở
Kiến Nghiệp (Nam Kinh sau này ), đật tên
nước là Ngô.
Thế là, bắt đầu từ năm 220, lịch sử Trung
Quốc chính thức bước vào thời kìTam Quốc
Trong ba nước này, Ngụy là nước
mạnh nhất, do đó tuy giữa thục và ngô,
trước đây từng xãy ra chiến tranh, nên vì
quyền lợi sống còn nên hai bên phải thân
thiẹn với nhau để chống lại Ngụy. Sau mấy
chục năm giằng co với nhau, đến năm 263,
Thục bị Ngụy tiêu diệt. Năm 265, ở miền
bắc, triều Tấn thay triều Ngụy. Ngay sau đó,
Tấn lấy đất Thục làm căn cứ quân sự để
đóng chiến thuyền, huấn luyện thủy quân,
chuẩn bị đánh Ngô. Năm 280, Ngô bị Tấn
tiêu diệt. Trung Quốc lại được thống nhất.
B - THỜI KỲ PHÁT TRIỂN CỦA
CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN TRUNG
QUỐC
IV.TRIỀU ÐƯỜNG TOP
1. Sự thành lập triều Ðường và nền
thịnh trị thời Ðường Thái Tông:
Sau khi Tùy Dượng đế chạy khỏ kinh
đô, năm 617, một viên quan của nhà tùy tên
là Lý Uyên cùng với con mình là Lý Thế
Dân khởi binh ở Thái Nguyên (Sơn Tây ) rồi
tấn công Trường An. Năm 618, Lý Uyên
xưng làm vua, hiệu là Cao Tổ, đặt quốc hiệu
là Ðường.
Tiếp đó, Ðường tập trung lực lượng
để đánh bại quân nông đân và tàn quân của
Tùy. Ngay năm 618, Lý Mật phải đầu hàng,
đến năm 621, Ðậu Kiến Ðức cũng bị Lý Thế
Dân đánhbại và bị bắt, lực lượng hoàn toàn
tan rã. Sau 10 năm chẳng, đến năm 628, mọi
thế lực các cứ đều bị tiêu diệt, Trung Quốc
lại hoàn toàn thống nhất.
Trong quá trình ấy, năm 626 do
ghen tị, người con trưởng của Lý Uyên là Lý
Kiến Thành và người con thứ là Lý Nguyên
Cát đã tổ chức đầu độc Lý Thế Dân nhưng
không thành công, do đó đã bị Lý Thế Dân
và vây cánh giết chết ở cửa Huyền Vũ của
hoàng thành. Cũng năm đó, Lý Uyên thoái
vị, Lý Thế Dân lên nối ngôi, hiệu là Thái
tông.
Phong trào đấu tranh của nhân dân
và sự diệt vong của các triều đại trước đã
làm cho Ðường thái tông nhận thức được
rằng: thuyền ví như vua, nước ví như dân,
nước có thể chở thuyền, cũng có thểlật
thuyền..
Ông còn nói : Tai họa của vua không phải
từ bên ngoài đến mà thường tự mình mà ra.
Nếu muốn phô trương thì phải chi tiêu rộng,
chi tiêu rộng thì phải thu thuế nặng, thu thuế
nặng thì dân sầu oán, dân sầu oán thì nước
nguy, nước nguy thì vua chết..
Chính nhờ hiểu được như vậy, nên
Ðường thái tông đã thi hành nhiều chính
sách có lợi cho dân như thi hành chế độ
quân điền, giảm bớt lao dịch, hạn chế lãng
phí, giảm nhẹ hình phạt, chọn quan lại thanh
liêm... Do đó, chỉ sau mấy năm, kinh tế
được khôi phục và phát triển, chính trị ổn
định, lịch sử Trung Quốc gọi là nền thịnh trị
thời Trinh Quán ( niên hiệu của Thái tông từ
627 - 649 ).
2. Sự chuyên quyền của nữ hoàng Vũ
Tắc Thiên
Năm 649, Ðường Thái Tông chết. Cao
Tông, lên nối ngôi, là một người nhu nhược
ốm yếu, nên đần mọi việc đều do hoàng hậu
Vũ Tắc Thiên quyết định.
Vũ Tắc Thiên là con một công thần của
nhà Ðường. Năm 14 tuổi vào làm một chức
nữ quan trong cung Ðường thái tông. Thái
tông chết, Vũ Tắc Thiên được bố trí cho vào
chùa đi tu rồi ít lâu sau được đón về làm
cung phi của Ðường Cao Tông. Là một phụ
nữ xinh đẹp, khôn ngoan, xảo quyệt, tàn
nhẫn, cương quyết lại biết nhẫn nhục chờ
thời, đến năm 655, Vũ Tắc Thiên giành
được ngôi hoàng hậu.
Năm 683, Cao Tông chết, Trung Tông,
Duệ Tông lần lượt được cử lên làm vua bù
nhìn, nhưng mọi quyền hành đều nằm trong
tay thái hậu họ Vũ. Tuy vậy, vẫn chưa thỏa
mãn, nên đến năm 690 Vũ Tắc Thiên chính
thức xưng làm hoang đế, đổi quốc hiệu
thành Chu (690 - 705 ).
Trong suốt mấy chục năm chấp chính,
nhất là sau khi làm vua, Vũ Tắc Thiên thẳng
tay khủng bố những quí tộc chống đối bằng
những nhục hình vô cùng thảm khốc. Kết
quả là rất nhiều tôn thất, quý tộc, công thần
bị giết hại. Trong khi đó, nhân dan phải
gánh chịu những nghĩa vụ thuế khóa, lao
dịch, binh dịch nặng nề hơn trước, lại bị bọn
quan lại tham ô tàn bạo nhũng nhiễu, hà
hiếp, nên đời sống ngày càng cực khổ.
Năm 705, Vũ Tắc Thiên ốm nặng, trong
cung nổ ra chính biến. Vũ Tắc Thiên buộc
phải thoái vị. Triều Chu ngắn ngủi của vị nữ
hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc
kết thúc.
3. Những cuộc chiến tranh xâm lược
đầu đời Ðường:
Ðến đời Ðường Thái tông, Trung
Quốc lại bước vào một thời kì thống nhất ổn
định. Với điều kiện ấy, nhà Ðường lại phát
động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược các
nước xung quanh.
Ơí phía bắc, Thái tông lần lược chinh
phục Ðông Ðột Quyết và Tiết Diên Ðà. Vào
cuối đời Tùy, thế lực của Ðông Ðột Quyết
tương đối mạnh, đã từng đưa hai ngàn kỵ
binh và một ngàn con ngựa giúp Lý Uyên
trong cuộc nổi dậy chống Tùy nhưng sau khi
nhà Ðường thàh lập, Ðông Ðột Quyết
thường xuyên tấn công Trung Quốc. Ðến
năm 629, nhân khi nội bộ Ðông Ðột Quyết
có nhiều mâu thuẫn gay gắt, Thái tông đã
liên minh với Tiết Diên Ðà cư trú ở phía bắc
sa mạc Gô Bi cùng tấn công Ðông Ðột
Quyết. Năm 630, Ðông Ðột Quyết thua,
quốc vương của họ bị bát, quốc gia tan rã.
Sau khi Ðông Ðột Quyết diệt vong,
thế kực của Tiết Diên Ðà mạnh hẳn lên. Lo
ngại trước tình hình đó, nhà Ðường lại khôi
phục nhà nước cho người Ðột Quyết để tạo
nên một thế đệm ở giữa Ðường và Tiết Diên
Ðà. Năm 641, nhân khi Tiết Diên Ðà tấn
công Ðột Quyết, nhà Ðường đem 10 vạn
quân đánh Tiết Diên Ðà. Tiết Diên Ðà phải
rút lui. Năm 646, nhân khi nội bộ Tiết Diên
Ðà lục đục, Ðường lại tấn công Tiết Diên
Ðà. Quốc vương nước này bỏ chạy, sau bị
Hồi Hột giết chết.Tiết Diên Ðà diệt vong.
Ngay năm ấy, nhà Ðường thiết lập ở đây
một cơ quan cai trị gọi là An bắc đô hộ phủ.
Về phía tây, năm 635, nhà Ðường
thôn tính Ðột Dục Hồn, năm 640, chiếm
được nước Cao Xương rồi thành lập ở đây
An tây đô hộ phủ. Tiếp đó, Ðường chiếm
thêm một số nước, một số nước nhỏ bế khác
phải thuần phục.
Ơí phía đông bắc, lúc bấy giờ mâu
thuẫn giữa ba nước Cao Câu Li, Bách Tế và
Tân La rất gay gắt. Riêng ở Cao Câu Li,
năm 642, Tuyền cái Tô Văn giết vua Cao
Vũ rồi lập Cao Tạng lên ngôi, còn tự mình
thì làm Mạc li chi ( tương tự như tể tướng )
và nắm lấy mọi quyền binh.
Năm 643, Tân La bị liên quân Cao
Lâu Li và Bách tế tấn công, nên sai sứ sang
Trung Quốc cầu viện. Nhân cơ hội ấy, dưới
chiêu bài để :báo thù cho con em Trung
Quốc và rữa nhục cho vua cha của Cao Li,
Ðường Thái tông quyết định tấn công Cao
Câu Li.
Với 10 vạn quân thủy bộ và năm trăm
chiến thuyền, năm 645, Ðường Thái tông tự
mình chỉ huy cuộc viễn chinh. Tần La cũng
đem 5 vạn quân phối hợp tác chiến. Quân
Ðường vây thành An Thị ( ở Liêu Ninh,
Trung Quốc ngày nay ) 88 ngày không hạ
được, lực lượng bị tổn thất nhiều, nên phải
rút quân.
Cay cú vì thất bại, Ðường Thái tông
định đánh Cao Lâu Li một lần nữa, nhưng
sau khi bàn luận, cả triều đình cho rằng :
Cao Li dựa vào núi làm thành, tấn công
không thể hạ nhanh được . Vì vậy, vua quan
nhà Ðường chủ trương thay đổi chiến lược
sai những đội quân nhỏ thay nhau quấy
nhiễu biên giới làm cho nhân dân Cao Li
mỏi mệt vì phải trốn tránh, bỏ cày cuốc để
vào trong đồn lũy, sau mấy năm thì cả ngàn
dặm bị tiêu điều, đo đó lòng người tự li tán.
Ðến lúc ầythi vùng phía bắc sông Aïp Lục
có thể không cần đánh cũng lấy được.
Ngay sau đó, nhà Ðường nhiều lần
đưa những độiquân từ 1 đến 3 vạn người
sang đánh phá các thành của Cao Lâu Li rồi
rút về. Năm 649, Ðường Thái tông chết,
mưu đồ chinh phục Triều Tiên phải tạm gác
lại.
Ðến thời Ðường Cao tông( 650 -
683 ), sự xung đột giữa các nước ở Triều
Tiên vẫn tiếp diễn. Với sự giúp đở của Cao
Lâu Li, Bách Tế nhiều lần xâm lược Tân La.
Vì vậy, năm 660, Tân La lại cầu cứu nhà
Ðường một lần nữa.
Lần này, nhà Ðường đưa 10 vạn quân
thủy bộ sang đánh Bách Tế. Bách Tế diệt
vong.
Ơí Cao Lâu Li, năm 666, Tuyền cái
Tô Văn chết. Vì tranh giành quyền lựa, giữa
các con ông đããy ra xung đột vũ trang. Nhân
cơ hội ấy, năm 667, nhà Ðường phái quân
sang tấn công Cao Lâu Li. Năm 668, Cao
Lâu Li thất bại, phải đầu hàng.
Trên đất đai mới chiếm được, nhà
Ðường thành lập An đông đô hộ phủ ở Bình
nhưỡng. Nhưng chỉ sau 8 năm, do sự đấu
tranh của nhân dân Triều Tiên dưới sự lãnh
đạo của Tân La, năm 676, thế lực của
Ðường phải rút khỏi bán đảo và phải dời An
đông đô hộ phủ về Liêu Ðông.
Như vậy , trải qua gần 40 năm, các
vua đầu đời Ðường đã thôn tính được nhiều
nước xung quanh lập thành một đế quốc
rộng lớn vào bậc nhất thế giới đương thời.
4. Vụ loạn An Sử và sự suy thoái của
nhà Ðường:
Sau khi Vũ Tắc Thiên thoái vị, Trung
Tông lại được, nhà Ðường được khôi phục.
Tuy vậy, tình hình trong triều rất rối ren, chỉ
trong 7 năm, chính biến xãy ra nhiều lần, ba
vua được lập lên rồi bị phế truất.
Năm 712, Huyền Tông lên ngôi. Trong
thời kì đầu, Huyền Tông tỏ ra là một ông
vua có năng lực, đã thi hành một số chính
sách nhằm ổn định tình hình trong cả nước.
Về chính trị, Huyền tông chỉnh đốn lại bộ
máy chính quyền ở trung ương và địa
phương, phái các vương đi làm Thứ sử ở các
châu để họ khỏi gây chính biến ở kinh đô.
Về kinh tế, ông rất chú ý đến việc sản xuất
và tiếït kiệm như ra lệnh ngừng một số công
trình xây dựng, phái quan lại về địa phướng
đôc thúc việc diệt châu chấu cắn lúa, cấm
tìm ngọc dệt gấm, bỏ các xưỡng dệt gấm ở
hai kinh đô Trường An và Lạc Dương, thậm
chí còn ra lệnh đốt hủy tất cả châu ngọc gấm
vóc.
Qua một thời gian, trật tự xã hội ngày
càng ổn định, kinh tế phát triển, chính quyền
nhà Ðường vững vàng, Trung Quốc bước
vào một thời kì phồn thịnh gọi là nền thịnh
trị thời Khai Nguyên - Thiên Bảo ( hai niên
hiệu của Huyền Tông năm 713 - 755 ).
Nhưng đến cuối đời Huyền Tông say
đắm Dương Quý Phi, mọi việc trong triều
đều giao cho Dương Quốc Trung ( anh của
Dương Quý Phi ) và những người thân tín
khác, do đó những người này tha hồ làm
mưa làm gió ở kinh đô.
Ơí các địa phương, giai cấp địa chủ
tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nông
dân, chế độ quân điền tan rã, thế lực của các
tiết độ sứ ở các vùng biên cương phát triển,
mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn giữa trung
ương và địa phương trở nên sâu sắc.
Trong hoàn cảnh ấy, năm 755, An Lộc
Sơn và Sử Tư Minh khởi binh chống
Ðường, sử sách gọi là loạn An Sử.
An Lộc Sơn vốn là người Hồ, nhờ có
nhièu chiến công được phong làm tiết độ sứ
ba trấn rồi được phong làm Ðông bình quận
vương.
Dưới chiêu bài giết Dương Quốc
Trung, nhưng thực chất là giành lấy ngai
vàng của nhà Ðường, từ Phạm Dương ( Hà
Bắc ), An Lộc Sơn tiến quân nhanh chóng
xuống Lạc Dương rồi tiến sang Trường An.
Huyền tông cùng triều đình phải chạy sang
Tứ Xuyên. Vừa mới đến Mã Ngôi ( Thiểm
Tây ), theo yêu cầu của quân sĩ, Huyền tông
buộc lòng phải cho giết Dương Quốc Trung
và Vương Quý Phi.
An Lộc Sơn chiếm được Trường An,
nhưng từ đó nội bộ thường xãy ra những vụ
chém giết lẫn nhau để tranh quyền. Còn nhà
Ðường thì vừa khẩn trương tập hợp lực
lượng vừa mượn viện binh của Hồi Hột để
lấy lại Trường An. Cuối năm 754, Ðường
chiếm lại được hai kinh, nhưng đến năm
759, một lần nữa Lạc Dương lại Rơi vào tay
quân phiến loạn, mãi đến năm 762, với sự
giúp đở của Hồi Hột, Ðường mới thu hồi
được thành phố này. Ðến đây, hàng ngũ
quân phiến loạn tan rã, nhiều tướng lĩnh đầu
hàng nhà Ðường, đến năm 763 thì hoàn toàn
thất bại.
Vụ loạn An Sử đã để lại rất nhiều hậu
quả nghiêm trọng. Nhiều vùng cư dân trù
mật trở nên hoang vắng không có bóng
người. Ðây cũng là cái mốc đánh dấu nhà
Ðường từ chổ thịnh trị bước vào thời kì suy
yếu. Từ đó về sau trong triều đình, vua
Ðường chỉ làm bù nhìn, mọi quyền hành đều
do hoạn quan lũng đoạn. Bọn quan hoạn có
thể tự ý phế lập các vua, khống chế các quan
từ tể tướng trở xuống. Bị hoạn quan o ép,
các quan trong triều lần lần liên kết với nhau
để chống lại, nhưng đều bị thất bại. Ơí các
địa phương, thế lực các Tiết độ sứ ngày càng
lớn mạnh, trở thành những lực lượng các cứ
độc lập không chịu sự quãn lí của chính phủ
trung ương.
Trong quá rình đó, nhà Ðường lại bị
Thổ Phồn và Nam Chiếu tấn công và chiếm
mát nhiều đất đai. Từ thế kỉ thứ VII, Thổ
Phồn ( tiền thân của Tây Tạng ) trở thành
một quốc gia thống nhất hùng mạnh và đã
nhiều lần đánh bại quân Ðường. Năm 763,
sau khi chiếm được một vùng rộng lớn ở
Tây Bắc Trung Quốc, Thổ Phồn đem 20 vạn
quân tiến sang phía đông cướp phá Trường
An 15 ngày rồi rút lui.
Còn Nam Chiếu là quốc gia của tộc
bạch ở Vân Nam thành lập vào thế kỉ thứ
VIII. Lúc đầu Nam Chiếu cũng thuần phục
nhà Ðường, nhưng sự tàn ác của bọn quan
lại Trung Quốc đã đẩy họ chuyển sang thuần
phục Thổ Phồn. Do vậy, nhà Ðường đã hai
lần sai quân đi đánh Nam Chiếu nhưng toàn
quân bị tiêu diệt. Năm 829, Nam Chiếu tấn
công vào nước Thục đến tận Thành Ðô,
cướp bóc trong 10 ngày và bắt đem đi hàng
vạn thợ thủ công Trung Quốc. Mối đe dọa
của Nam Chiếu kéo dài mãi cho đến khi nhà
Ðường diệt vong.
5. phong trào chiến tranh nông dân
cuối đời Ðường.
Sau loạn An Sử, chế độ quân điền bị
phá hoại, hiện tượng tập trung ruộng đất vào
tay các địa chủ ngày càng trầm trọng, do đó
kẻ giàu có ruộng hàng vạn mẫu, người
nghèo không có chổ đặt chân.
Thuế khóa cũng là một gánh nặng mà
nhân dân không thể chịu đựng nổi. Ðến kì
thu thuế, nhân dân thường phải dỡ nhà bán
ngói bán gỗ hoặc cầm vợ bán con để lấy tiền
đong thóc nộp thuế, nhưng nhiều khi các thứ
đó chỉ mới đủ dọn cơm rượu thết đãi bọn
quan lại về thu thuê, chứ chưa có gì nộp vô
kho nhà nước. Gặp năm mất mùa, nhân dân
phải ăn lá hòe trừ cơm, những người già yếu
không đi kiếm được, đành phải chịu chết
đói.
Ngoài ra, nhân dân còn phải chịu
nhiều nổi khổ khác như không có muối mà
ăn vì muối cũng như rượu, chè đều do nhà
nước độc quyềnmua bán hoặc bị quan hoạn
tự do cướp hàng hóa ngoài chợ...
Sự khốn khổ cùng cực của nhân dân là
nguyên nhân trực tiếp dẩn đến các cuộc khởi
nghĩa liên tiếp cuối đời Ðường.
Năm 874, phong trào khởi nghĩa nông
dân lớn bùng nổ ở Sơn Ðông. Lúc bấy giờ ở
vùng này, đê Hoàng Hà bị hỏng, nạn lụt xãy
ra luôn, vụ thu năm đó hầu như mất trắng;
mặt khác chính phủ quãn lí muối rất chặt,
giá muối cao. Vì vậy đời sống của nhân dân
ở đây càng cực khổ.
Người lãnh đạo lúc đầu là Vương Tiên
Chi, một người buôn muối lậu. Quân khởi
nghĩa truyền lệnh lên án nhà Ðường thối nát,
quan lại tham nhũng, thuế khóa nặng nề.
Chẳng bao lâu nghĩa quân đã chiếm nhiều
nơi ở Sơn Ðông.
Năm 875, Hoàng Sào cũng triệu tập
được mấy ngàn người nổi dậy hoạt động ở
Sơn Ðông rồi gia nhập lực lượng của Vương
Tiên Chi. Từ đó, hàng ngũ nghĩa quân phát
triển nhanh chóng, địa bàn hoạt đọng từ Sơn
Ðông mở rộng đến vùng Hà Nam, Hồ Bắc,
An Huy.
Từ đó, Hoàng Sào trở thành người
lảnh đạo chủ yếu của phong trào. Ðể tránh
chổ mạnh của địch, năm 878, Hoàng Sào
quyết địn htiến hành cuộc trường chinh
xuống miền Nam, nơi đang tồn tại nhiều thế
lực cát cứ, lực lượng giai cáp phong kiến
không thống nhất.
Xuất phát từ Hà Nam, quân Hoàng
Sào đi qua Sơn Tây, An Huy, Triết Giang,
Phúc Kiến đến Quãng Ðông. Do không quen
khí hậu miền Nam,nghĩa quân bị ốm chết
mất ba bốn phần mười, nên cuối năm 879, từ
phía đông, Hoàng Sào lại kéo quuân trở lên
miên Bắc. Khi quân nông dân tiến gần đến
Trường An, triều đình nhà Ðường hoảng sợ
bỏ kinh thành chạy sang Tứ Xuyên. Năm
880, quân Hoàng Sào tiến vào kinh đô. Năm
881, Hoàng Sào tự xưng làm hoàng đế, đặt
tên nước là Ðại Tề.
Trước tình hình ấy, giai cấp phong
kiến liên hợp với nhau để bao vây Trường
An. Quân nông dân cầm cự được hơn 2 năm,
đến năm 883, phải rút về Hà Nam, Sơn
Ðông, đến năm 884, thì bị quân Ðường đánh
bại. Hoàng Sào tự tử.
Như vậy, phong trào khởi nghĩa này
chưa lật đổ được nền thống trị của nhà
Ðường, nhưng làm cho đế quốc Ðường ngày
càng bị chia năm xẻ bảy, trong cung đình
càng hổn loạn, nhà Ðường chỉ còn tồn tại
trên danh nghĩa mà thôi.
V. THỜI KÌ NGŨ ÐẠI ( 907 - 960 ) TOP
1. Thời kỳ Năm đời Mười nước :
Năm 882, một viên tướng của Hoàng
Sào là Chu Ôn đầu hàng nhà Ðường, được
nhà Ðường cho đổi tên thành Chu Toàn
Trung và giao cho quyền cao chức trọng,
dần dần trở thành một thế lực quân phiệt
hùng mạnh. Năm 900, Ðường Chiêu Tông
có mưu toan chống lại tập đoàn quan hoạn
nên bị quan hoạn cầm tù. Tể tướng Thôi
Dận, do đó mời ChuToàn Trung đem quân
về kinh đô tiêu diệt bọn quan hoạn. Nạn
hoạn quan tuy trừ xong, nhưng mọi quyền
hành đều rơi vào tay Chu Toàn Trung. Năm
904, Chu Toàn Trung giết Chiêu Tông lập
Ai Ðế và đến năm 907 thì giành hẳn ngôi
nhà Ðường lập nên triều Hậu Lương, đóng
đô ở Biện Lương ( Khai Phong ).
Từ đó cho đến năm 960, ở miền bắc
Trung Quốc lần lược dựng lên 5 triều đại là
Hậu Lương ( 907 - 923 ), Hậu Ðường ( 923 -
935 ), Hậu Tấn ( 936 - 947 ), Hậu Hán (947
- 950 ), Hậu Chu ( 951 - 960 ).

Ơí miền nam, từ cuối đời Ðường, các


tướng, quân phiệt mỗi người chiếm giữ một
vùng. Sau khi Ðường diệt vong, các thế lực
các cứ ấy đã lần lượt lập thành 9 nước là
Tiền Thục ( 907 - 925 , Ngô Việt ( 907 - 978
), Mân ( 909 - 945 ), Ngô (919 -937 ), Nam
Hán ( 917 - 971 ), Nam Bình ( 925 - 978 ),
Sở ( 927 - 951 ), Hậu Thục (934 - 965 ),
Nam Ðường ( 937 - 975 ), cộng với nước
Bắc Hán ( 951 - 979 ) ở miền Bắc là 10
nước. vì vậy thời kì lịch sử này gọi chung là
thời kì Ngũ đại thập quốc.
Trong thời kì này, do tình trạng chia
cắt trầm trọng như vậy nên chiến tranh diễn
ra liên miên. Ơí những vùng xãy ra chiến sự,
thây chết đầy đường, đồng ruộng bỏ hoang,
cả nghìn dặm không có bóng người. Khi
đánh nhau, bọn quân phiệt còn tự động phá
đê, càng làm cho các loại thiên tai như hạn,
lụt bảo thêm trầm trọng. Trong khi đó, chính
quyền ở các nước đều thi hành chính sách
thuế khóa nặng, hình phạt tàn khốc, bọn
quan lại nhân cơ hội ấy tha hồ ức hiếp nhân
dân, bởi vậy đời sống nhân dân Trung Quốc
vô cùng khổ sở.
1. Sự đe dọa của người Khiết Ðan :
Bắt đầu từ thời kì này, Trung Quốc
bị người Khiết Ðan xâm chiếm đất và
thường xuyên đe dọa.
Người Khiết Ðan vốn là một chi
nhánh của Ðông Hồ sống bằng nghề du
mục ở đông bắc Trung Quốc ngày nay.
Năm 916, một thủ lĩnh bộ lạc là Gia Luật
A Bảo Cơ thống nhất các bộ lạc Khiết
Ðan, lên ngôi hoàng đế. Nước Khiết Ðan
bắt đầu được thành lập. Ngay năm đó,
Khiết Ðan tấn công các tộc Ðột Quyết
Ðột Dục Hồn, Ðảng Hạng, Sa Ðà ở phía
tây và xâm chiếm nhiều châu ở phía bắc
Trung Quốc. Năm 926, Khiết Ðan tiêu
diệt nước Bột Hải ở phía đông, do đó địa
bàn được mở rộng , trở thành một nước
lớn mạnh.
Năm 936, Tiết độ sứ Hà Ðông của
hậu Ðường là Thạch Kính Ðường (người
Sa Ðà ) dựa vào thế lực của Khiết Ðan để
cướp ngôi Hậu Ðưòng, lập nên triều Hậu
Tấn.
Năm 937, Khiết Ðan đổi tên thành
nước Liêu. Vốn có âm mưu thôn tín cả
miền Bắc Trung quốc, năm 942, nhân
khi Thạch Kính Ðường chết, Vua Liêu
đem quân tiến xuống phía Nam, nhưng bị
nhân dân Trung quốc chặn đánh, nên
phải tạm thời lui quân.
Năm 946, Liêu lại tấn công Hậu
Tấn, nhiều tướng lĩnh của Hậu Tấn đầu
hàng, quân Liêu chiếm được Biện Lương,
Hậu Tấn diệt vong. Gia Luật Ðức Quang
lên làm hoàng đế ở Biện Lương, nhưng
nhân dân Trung quốc khắp nơi nổi dậy
đấu tranh, đến cuối năm 947, phải rút về
Hoàng Hà.
C - THỜI KỲ SUY TÀN CỦA CHẾ
ÐỘ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC
VI - TRIỀU NGUYÊN :( 1271-1368) TOP
1- Cuộc chinh phuc của người
Mông cổ Và sự thành lập triều
Nguyên :
Năm 1206, một thủ lĩnh bộ
lạc tên là Têmusin, được hội nghị qúy tộc
bầu làm đại Hãn, lấy hiệu là Singhit. Ðó
là nhân vật ta quen gọi là Thành Cát Tư
Hãn. Sự kiện ấy đánh dấu nhà nước
Mông cổ chính thức thành lập.Ngay sau
đó với những đội kỵ binh thiện chiến,
Thành Cát Tư Hãn tích cực chuẩn bị
chinh phục bên ngoài.
Năm 1209, Mông cổ tấn công Tây
hạ, Tây Hạ thấy thế không thể chống cự
nổi, phải nộp con gái xin hàng. Năm
1211, Thành Cát Tư Hãn tấn công nước
Kim, đến năm 1215, chiếm được toàn bộ
vùng đất từ Hoàng hà trở về Bắc. Năm
1216, Thành Cát tạm ngừng chiến sự ở
phía Nam để chuẩn bị chinh phục phía
Tây.
Năm 1218, cuộc viễn chinh sang
phía Tây bắt đầu, chỉ trong vòng 7 năm,
quân Mông cổ lần lượt chiếm được Trung
Á, một phần Tây Á và lưu vực sông
Daniep ở Ðông âu. Năm 1226, Mông cổ
lại đánh Tây Hạ và năm sau Tây Hạ bị
diệt vong, Thành Cát Tư Hãn bị bệnh
chết mấy ngày trước khi Tây Hạ nộp
thành đầu hàng.
Năm 1230, Mông cổ lại tấn công
nước Kim, đến năm 1234, quân Mông cổ
với sự tham gia của quân Tống, đã đánh
bại nước Kim. Theo giao ước trước kia,
Tống đem quân thu hồi Lạc dương và
Khai Phong, nhưng bị quân Mông cổ
chặn đánh và tháo nước sông Hoàng Hà
làm cho quân Tống chết đuối gần hết.
Việc đó mở đầu cho sự xung đột giữa
Nam Tống và Mông cổ. Tuy nhiên do sự
đấu tranh trong cung đình Mông cổ, cuộc
chinh phục Nam Tống phải tạm hoãn.
Năm 1251, Mông Ca (cháu Thành Cát Tư
Hãn) giành được ngôi đại hãn.
Ðể tạo nên một thế bao vây đối với
Nam Tống, Mông Ca sai em mình là
Khubilai (Hốt tất Liệt) chinh phục khu
vực phía Tây và Taq6y Nam của Trung
quốc ngày nay và đã tiêu diệt nước Ðại
Lý ở Vân nam vào năm 1253. Năm 1258,
Mông Ca và Hốt Tất Liệt đem quân tấn
công Nam Tống, nhưng đến năm 1259,
Mông Ca bị tử trận, Hốt Tất Liệt vội vàng
rút quân về Bắc để tranh giành ngôi đại
hãn.
Sau 4 năm tranh giành, Hốt Tất
Liệt giành được ngôi đại hãn. Là người
vốn chịu nhiều ảnh hưởng của văn minh
Trung quốc, năm 1271,Hốt Tất liệt đổi
xưng làm hoàng đế, đặt tên nước là
Nguyên, dời đô từ Khai Bình đến Ðại Ðô
(Bắc Kinh), đặt chế độ quan lại giống
như các triều đại phong kiến Trung quốc.
Sau đó năm 1274,, Hốt Tất Liệt sai tướng
đem quân đi đánh Nam Tống. Năm 1276,
kinh đô Lâm An (Hàng Châu) của Nam
Tống bị hạ, triều đình Nam Tống đầu
hàng, nhưng một số quan lại yêu nước lập
dòng dõi nhà Tống lên làm vua ở Phúc
Châu (Phúc Kiến) và tiếp tục kháng chiến
đến năm 1279 mới hoàn toàn bị tiêu diệt.
2- Chính sách thống trị của nhà
Nguyên:
Trong qúa trình chinh phục nước
Kim, quân Mông cổ thi hành chính sách
giết sạch, cướp sạch, đốt sạch để lấy đất
làm bãi chăn nuôi.
Sau khi tiêu diệt Nam Tống, Triều
Nguyên một mặt hoàn toàn bắt chước
cách tổ chức bộ máy nhà nước, chế đô
phân phong ruộng đất, chế độ thuế
khóa,... của Trung quốc, nhưng mặt khác
lại thi hành chính sách áp bức dân tộc
trắng trợn. Ðể giành quyền ưu tiên cho
dân tộc chinh phục, triều Nguyên chia cư
dân cả nước làm 4 loại :
- Loại 1 là người Mông cổ.
- Loại 2 là người Sắc, Mục (bao
gồm người Tây Hạ,Duy Ngô Nhĩ, các
tộc ở Trung á, Ba tư,...)
- Loại 3 là người Hán ( bao gồm
người Khiết Ðan, Nữ Chân, Hán, Cao
Li,... vốn là cư dân của nước Kim).
- Loại 4 là người Nam ( tức là cư
dân của Nam Tống).
Bốn loại người nầy bị đối xử phân
biệt rõ rệt về mọi mặt. Quyền chỉ huy
quân đội hoàn toàn thuộc về người Mông
cổ.Về pháp luật, nếu người Hán, người
Nam phạm tội giết người thì bị xử tử, còn
người Mông cổ thì chỉ bị phạt đánh gậy
hoặc đưa lên biên giới phía Bắc sung vào
quân đội. Ðể đề phòng nhân dân Trung
quốc nổi dậy đấu tranh, pháp luật hà
Nguyên còn nghiêm cấm người Hán,
người Nam không được tụ họp đông
người như đi săn, rước thần và không
được cầm vũ khí.
Về mặt ruộng đất, nhà Nguyên ban
cấp nhiều ruộng đất cho qúy tộc Mông cổ
và các chùa chiền. Ngoài ruộng đất được
phong, bọn qúi tộc Mông cổ còn chiếm
đoạt ruộng đất của nông dân.Nhân đó ở
Hoa Nam, các địa chủ Hán tộc cũng tìm
mọi cách phát triển thế lực kinh tế của
mình.,
Do chính sách khủng bố, cướp đoạt
và nô dịch đó, nông dân Trung quốc rất
cực khổ. Rất nhiều người bị biến thành
nô tỳ mà đời Nguyên gọi là khu khẩu
hoặc khu đinh.
3 - Những cuộc chiến tranh xâm lược :
Ðầu đời Nguyên, chỉ trong vòng 20
năm, Hốt Tất Liệt đã phát động nhiều cuộc
chiến tranh để xâm lược Nhật Bản, Miến
Ðiện, Chiêm Thành, Ðại Việt và Gia Va.
Từ lâu Nhật Bản là mục tiêu chinh
phục của Mông Cổ. Năm 1226, Hốt Tất Liệt
nhiều lần sai sứ đưa thư sang Nhật Bản yêu
cầu lập quan hệ ngoại giao và gịuc vua Nhật
Bản cử ngay sứ giả sang triều đình Mông
Cổ, nếu không đáp ứng yêu cầu đó, thì chiến
tranh không thể tránh khỏi nhưng trước sau
Nhật Bản vẫn không trả lời.
Vì vậy, sau khi thành lập nhà
Nguyên, Hốt Tất Liệt sai Hân Ðô, Hồng
Trà Khâu đưa quân sang đánh Nhật Bản.
Quân Nguyên chiếm được các đảo nhỏ Su Si
Ma và I Ki rồi đổ bộ lên miền Tây Bắc đảo
Kiu Sư. Tuy nhiên, tự nhận thấy mình chưa
đủ lực lượng tiến sâu hơn nữa, quân Nguyên
phải rút lui.
Năm 1281, nhà Nguyên lại sai các
tướng A Tháp Hải, Phạm Văn Hổ, A Hàn
Ðô, Hồng Trà Khâu đưa quân sang tấn công
Nhật Bản lần thứ hai. Khi quân Nguyên vừa
mới tới Nhật Bản chưa kịp giao chiến thì
gặp bão, nhiều thuyền bị đắm. Văn Hổ cùng
các tướng khác tự chọn lấy những chiếc
thuyền chắc chắn và tốt để về, bỏ lại hơn 10
vạn binh lính ở dưới chân núi... mọi người
đang chặt gổ đóng thuyền để về thì người
Nhật Bản đến đánh, binh sĩ chết gần hết, ba
vạn người bị bắt đem đi...thế là 10 vạn quân
chỉ còn ba người về được mà thôi..
Nhà Nguyên dự định đánh Nhật Bản
một lần nữa, nhưng khi đang chuẩn bị binh
lính thuyền bè thì cuộc chiến tranh xâm lược
Ðại Việt năm 1285 bị thất bại nặng nề, nên
năm 1286, Hốt Tất Liệt phải quyết định bỏ
việc Nhật Bản để chuyên vào việc Giao
Chỉ .
Ðối với Miến Ðiện, năm 1271, Hốt
Tất Liệt nhiềulân sai sứ sang yêu cầu Miến
Ðiện đầu hàng, nhưng Miến Ðiện Không
chịu thuần phục, thậm chí còn có lần giết sứ
giả. Vì vậy Hốt Tất Liệt đã cho quân sang
tấn công Miến Ðiện ba lần vào các năm
1277, 1283, 1287. Kết quả Miến Ðiện phải
thuần phục dưới hình thức phải nhận phong
hiệu và phải tiến cống nhà Nguyên.
Sau đó chính quyền Miến Ðiện bị ba
anh em Athinhcaya thuộc bộ tộc San ( Thái )
lũng đoạn. Năm 1298, Athinhcaya bắt vua
Miến Ðiện cầmtù rồi giết chết. Con rể và
con trai vua Miến Ðiện chạy trốn sang
Trung Quốc.
Lợi dụng sự rối ren ấy, năm 1300, vua
Nguyên lại xâm lược Miến Ðiện lần thứ tư.
Bị quân Nguyên bao vây, anh em
Athinhcaya đã đem nhiều vàng bạc đến đút
lót cho các tướng Nguyên lấy lí do trời
nóng, lam chướng phát sinh, quân khổ nhọc
nếu không về sợ bị tội vì tử thương. rồi lập
tức rút quân. Về đến nước, hai tướng Cao
Khánh và Sát Hãn Bất Hoa đều bị xử tử vì
tội ăn hối lọ làm thất bại cuộc chiến tranh
xâm lược.
Chiêm Thành cũng là mục tiêu xâm
lược của triều Nguyên. Năm 1279, Hốt Tất
Liệt sai sứ đi yêu cầu vua Chiêm Thành đến
chầu. Ðể tránh hiểm họa chiến tranh, Chiêm
Thànhtỏ ý thuần phục, nhưng không đồngý
để nhà Nguyên lập cơ quan hành tỉnh ở nước
mình. Vì vậy, năm 1283, quân Nguyên tấn
công kinh đô Chiêm Thành. Vua Chiêm
Thành đốt kho tàng tạm thời rút vào rừng.
Sau đó, vua Chiêm Thành giả vờ xin hàng
để nhử quân Nguyên vào trận địa bố trí sẳn.
Quân Nguyên phảiliều mình đánh mới thoát
về đồn cố thủ và dến đầu 1284 phải lặng lẽ
rút quân về nước.
Ðối với Ðại Việt, trước khi thành lập
triều Nguyên, đầu năm 1258, quân Nguyên
ở Vân Nam đã mở cuộc tấn công lần thứ
nhất nhằm mục đích đánh dẹp các xứ Man
Di chưa phụ thuộc , đồng thời để khép kín
vòng vây đối với Nam Tống. Thế nhưng chỉ
trong vòng nữa tháng, lần đầu tiên, quân
Nguyên bị đánh bại hoàn toàn. Hai cuộc
chiến tranh xâm lược của nhà Nguyên
( 1285, 1288 ) cũng đều thất bại hoàn toàn.
Ðối với Gia Va, năm 1292, Hốt Tất
Liệt sai Mạnh Kì đi yêu cầu nước này thuần
phục nhà Nguyên, nhưng bị vua Kritangara
(1268 - 1292 ) thuộc triều Xinggaxari thích
chử vào mặt đuổi về.
Vin vào cớ ấy, cuối năm 1292, nhà
Nguyên cử Sử Bật, Cao Hưng đem 2 vạn
quân với 1000 chiếc thuyền vượt biển tiến
xuống phía nam và đến đầu 1293 thì đến Gia
Va.
Vào lúc đó, Kitangara bị một chúa
phong kiến là Giayacatvang giết chết để
cướp ngôi. Người con rể của ông là Rajen
Vijaya giả vờ đầu hàng quân Nguyên để
mượn lực lượng quân xâm lược trả thù cho
nhạc phụ. Nhờ vậy quân Nguyên tạm thời
thu được thắng lợi, nhưng sau đó Rajen
Vijaya tổ chức phản công, quân Nguyên
thấtbại phải rút lui. Về đến nước, Sử Bật bị
phạt đánh 17 gậy và bị tịch thu 1/3 tài sản.
4 - phong trào khởi nghĩa cuối Nguyên
Dù đã Trung Quốc hóa, triều
Nguyên vẫn là triều đại của kẻ chinh phục
ngoại tộc, do đó trong thời kì này, xã hội
Trung Quốc tồn tại hai mâu thuẫn chủ yếu là
mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp.
Chính vì thế, trong suốt thời kì thống trị của
triều Nguyên, các phong trào đấu tranh của
nhân dân Trung Quốc diễn ra liên tiếp. Ðặt
biệt cuối đời Nguyên, tập đoàn thống trị
Mông Cổ ngày càng xa xỉ, trong khi đó đê
điều hỏng nặng không sửa chữa, các laọi
thiên tai thường xuyên xãy ra, dịch bệnh lan
tràn, do đó nhân dân càng khốn khổ. Trong
hoàn cảnh ấy, các hình thức tôn giáo như
đạo Di Lặc, đạo Bạch Liên và Minh giáo
đang âm ỉ lưu truyền rộng rãi trong nhân
dân, nhất là ở vùng lưu vực sông Hoàng Hà.
Năm 1351, đe Hoàng Hà sau
nhiều lần bị vở, nhà Nguyên bất đắt dĩ phải
điều 15 vạn dân phu đi đắp đê. Nhan cơ hội
ấy, giáo trưởng đạo Bạch Liên là Hnà Sơn
đồng cùng đồ đệ của mình là Lưu Phúc
Thông mưu tính viẹc khởi nghĩa. Ðể tranh
thủ sự đồngtình của quần chúng, Lưu Phúc
Thông phao tin rằng Hàn Sơn đồng là cháu 8
đời của Tống Huy Tông từ Nhật Bản đem
quân về đánh đổ triều Ngyuên. Nhưng trong
khi chuẩn bị khởi nghĩa thì kế hoạch bị bại
lộ. Hàn Sơn Ðồng bị bắt và bị giết chết. Tuy
vậy, Lưu Phúc Thông vẫn tiếp tục lãnh đạo
khởi nghĩa.
Ðược tin Lưu Phúc Thông dựng
cờ khởi nghĩa, nhân dân nhiều nơi nổi dậy
hưởng ứng, trong đó có những nhóm tương
đối lớn như lực lượng của Từ Thọ Huy ở Hồ
Bắc, Quách Tử Hưng ở An Huy. Quần
chúng khởi nghĩa đều chít khăn đỏ làm hiệu
nên gọi là quân Khăn đỏ ( Hồng Cân quân ).
Khẩu hiệu đấu tranh của họ là đánh đổ nhà
Nguyên, khôi phục nhà Tống.
Lúc đầu lực lượng khởi nghĩa
của Lưu Phúc Thông đã giành được thắng
lợi to lớn, đã tôn con Hàn Sơn Ðồng là Hàn
Lâm Nhi lên làm vua, và đặt tên nước là Ðại
Tống. Nhưng đến năm 1363, Lưu Phúc
Thông bị Trương Sĩ Thành, một thủ lĩnh
nông dân đã thuần phục nhà Nguyên, đánh
bại.
Khi quân khăn đỏ của Lưu Phúc
Thông đang tiến quân thuận lợi ở miền bắc
thì nghĩa quân do Từ Thọ Huy lãnh đạo
cũng thu được nhiều thắng lợi ở vùng lưu
vực Trường Giang. Năm 1360, Từ Thọ Huy
bị một viên tướng của mình là Trần Hữu
Lượng giết chết. Trần Hữu Lượng tự xưng
là vua, đặ tên nước là Hán. Năm 1362, một
tướng khác của Từ Thọ Huy là Minh Ngọc
Trân không phục Trần Hữu Lượng cũng
xưng vương ở vùng Tứ Xuyên Vân Nam,
đặt tên nước là Hạ.
Cũng trong thời kì này, lực
lượng quân khăn đỏ do Quách Tử Hưng lãnh
đạo không ngừng phát triển. Trong hàng ngũ
họ Quách có một nhân vật về sau trở nên rất
quan trọng, đó là Chu Nguyên Chương.
Chu Nguyên Chương xuất thân
từ một gia đình bần nông, đã từng làm sư
khất thực một thời gian. Năm 1352, ông
tham gia lực lượng khởi nghĩa của Quách
Tử Hưng. Năm 1355, Quách Tử Hưng
chết, Chu Nguyên Chương trở thành người
lãnh đạo chính của nghĩa quân.
Năm 1356, Chu Nguyên chương
thành lập chính quyền ở Kim Lăng ( Nam
Kinh ), tự xưng là Ngô quốc công, rồi đến
năm 1364 thì xưng làm Ngô vương. Sau khi
lần lượt đánh bại các tập đoàn quân phiệt
Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành... đến
năm 1367, Chu Nguyên Chương đã thâu
tóm hết miền Nam Trung Hoa rộng lớn.
Ngay năm đó, Chu Nguyên
Chương sai tướng đem quân đánh miền bắc,
đồng thời truyền hịch nói rõ mục đích của
việc tiến quân là để đánh đuổi giặc Hồ, khôi
phục Trung Hoa, lập lại cương kỉ cứu vớt
nhân dân, khôi phục uy nghi cho quan lại
người Hán..
Trong khi quân Bắc tiến không
ngừng thu được thắng lợi, năm 1368, Chu
Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế ở Kim
Lăng, đặt tên nước là Minh. Mùa thu năm
đó, quân đội của Chu Nguyên Chương tấn
công Ðại Ðô, triều đình nhà Nguyên vội
vàng chạy lên phía Bắc, ra khỏi Trường
Thành. Nền thống trị của nhà Nguyên ở
Trung Quốc kết thúc. Tiếp đó, Chu Nguyên
Chương tiêu diệt thế lực cát cứ của Minh
Ngọc Trân và các lực lượng còn lại của triều
Nguyên, đến năm 1387 thì hoàn toàn thống
nhất Trung Hoa.
VII. TRIỀU MINH ( 1368 - 1644 ) TOP
1. Thời kì cường thịnh của triều
Minh
Khi nhà Minh mới thành lập, do
hậu quả của chính sách cai trị của triều
Nguyên và gần 20 năm chiến tranh, nền kinh
tế Trung Quốc bị phá hoại nghiêm trọng, đời
sống nhân dân rất khốn khổ.
Trước tình hình ấy, mặc dầu từ lâu
không còn là đại biểu của giai cấp nông dân
nữa, nhưng Minh Thái tổ ( Chu Nguyên
Chương ) vẫn thông cảm được các nổi khổ
của nhân dân đồng thời cũng hiểu rỏ sức
mạnh của quần chúng. Vì vậy ông nói :
Thiên hạ mới định, tài lực trăm họ còn khó
khăn, giống như con chim mới tập bay,
không thể nhổ lông nó, như cây mới trồng
không thể lay gốc nó mà phải nâng niu nuôi
dưỡng.. Quán triệt tư tưởng đó, Minh Thái
tổ đã thi hành những chính sách sau đây:
- Trả tự do cho những người bị biến
thành nô tì trong thời gian loạn lạc, đồng
thời cấm cưỡng bức hoặc mua bán dân tự do
làm nô tì.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc
khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp
như kêu gọi nhân dân khai khẩn đất hoang,
cho họ có quyền sở hữu vĩnh viễn và không
đánh thuế; kêu gọi dân lưu tán trở về quê
quán, cấp cho họ ruộng hoang đồng thời cấp
bò cày, nông cụ, thóc giống, lương thực để
gíup họ vượt qua những khó khăn ban đầu.
Nhà nước còn chú ý đến vấn đề thủy lợi,
giảm nhẹ thuế khóa, cứu tế cho dân những
nơi bị mất mùa.
- Bỏ những hình phạt tàn khốc thời
Nguyên như thích chữ vào mặt, cắt
mũi, chặt chân, thiến...đồng thời dùng
nguyên tắc khoan hồng trong xét xử.
- Nghiêm trị bọn quan lại tham ôbằng
các cực hình như chém bêu đầu, tùng xẻo,
giết cả họ...Nhờ những chính sách nói trên,
trong vòng 30 năm đầu đời Minh, kinh tế
được khôi phục nhanh chóng và bước đầu
phát triển, tình hình chính trị được ổn định,
đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện.
Song một mặt khác, Minh Thái Tổ rất
quan tâm tới việc xây dựng chế độ quân chủ
chuyên chế tập quyền, vì vậy năm 1380, ông
quyết định bỏ chức thừa tướng để tập trung
quyền hành vào tay hoàng đế.
Năm 1398, Minh Thái Tổ chết. Vì
người con cả chết sớm nhưng cháu đích tôn
ông được lên nối ngôi, nhưng người con thứ
Yên vương Chu Ðệ đã từ miền bắcđem quân
tấn công Kim Lăng. Cuộc nội chiến giữa hai
chú cháu bùng nổ. Năm 1402, Chu Ðệ thắng
và giành được ngôi hoàng đế. Ðó là Minh
Thành Tổ, một ông vua nổi tiếng của triều
Minh.
Trong thời kì thịnh trị của mình, Minh
Thành tổ tiếp tục thi hành những chính sách
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp như tu sửa
vãây dựng các công trình thủy lợi, chỉnh đốn
thué khóa, cứu tế dân đói..
Ðối với bên ngoài, Minh Thành Tổ
tích cực xây dựng chính sách viễn giao cận
công , dĩ Di trị Di . Ông đã năm lần đem
quân đi đánh người Tác Ta và người Oi Rát,
hai chi nhánh của tộc Mông Cổ, mua chuộc
họ và xúi giục họ đánh lẫn nhau. Ông còn
hết sức lôi kéo sự thuần phục của tộc Nữ
Chân. Kết quả là có lúc thủ lĩnh các tộc tộc
Tác Ta, Oi Rát, Nữ Chân tạm thời quy phục,
nhưng quan hệ ấy không bền chặt, trái lại
sau đó đã trở thành mối đe dọa lớn đói
vởiTrung Quốc trong một thời gian dài.
Cũng chính để được thuận lợi hơn trong các
hoạt động quân sự ở phía bắc, nên năm
1421, Minh Thành tổ dời đo lên Bắc Kinh.
Ngoài ra Minh Thành tổ còn nhiều lần
cử sứ giả đến các nước Ðông Nam Á, Nam
Á, Tây Á để phô trương sự giàu mạnh của
Trung Quốc và loi kéo các nước ở vùng này
thuần phục nhà Minh. Trong những hoạt
động ngoại giao đó, rầm rộ nhất là chuyến đi
biển do viên Thái giám Trịnh Hòa dẫn
đẫuuống các nước ven biển phía Nam từ
năm 1405 đến năm 1433.
Ðối với Ðại Việt, Minh Thành Tổ đã
phát động cuộc chiến tranh xâm lược vào
năm 1406 và kéo dài chiến tranh cho đếnkhi
ông ta chết ( 1426 ) vẫn chưa kết
thúc.
Như vậy thời kì trị vì của Minh Thành
Tổ là thời kì cường thịnh nhất, nhưng ngắn
ngủi của triều Minh.
2. Sự suy yếu của triều Minh:
từ thập kỉ 30 của thế kỉ XV trở về sau,
triều Minh bát đầu suy sụp. Lúc bấy giờ vua
thường lên ngôi khi còn ít tuổi, chỉ biết ăn
chơi, mọi quyền hành đều bị các quan hoạn
lũng đoạn. Nhân đó, cả tập đoàn quan lại chỉ
lo vơ vét đầy túi tham, giai cấp địa chủ tìm
cách chiếm đoạt ruộng đất. Thêm vào đó,
Trung Quốc nhiều lần bị người Mông Cổ
xâm nhập, thậm chí trong cuộc tấn công
năm 1449, Minh Anh Tông đã biü bắt làm
tù binh. Do vậy, nhân dân hết sức đói khổ
phải rời bỏ quê hương đi tha phương cầu
thực. Nhiều nơi nhân dân nổi dậy khởi
nghĩa.
Trước tình hình đó, đến đời Gia Tĩnh (
1522-1566), nhà Minh phải thi hành một số
chính sách xoa dịu mâu thuẩn xã hội như :
giãm nhẹ tô thuế lao dịch, hạn chế sự lộng
quyền của các hoạn quan và việc chiếm
ruộng đất của giai cấp đi6a chủ, Nhưng
những cải cách ấy chẳng bao lâu do việc
tranh quyền đoạt vị trong triều dẫn đến sự
rối loạn về chính trị nên không thực hiện
được.
Sau mấy năm rối ren, đến thời Vạn
Lịch (1573-1619), tình hình được ổn định
trong vài mươi năm nhờ những cải cách về
kinh tế, chính trị, quân sự. Nhưng từ giữa
thời Vạn Lịch về sau, phái cải cách bị bài
trừ, phái quan hoạn lại thắng thế. Ðặc biệt
đến đầu thế kỷ XVII, triều đình nhà Minh bị
quan hoạn Ngụy Trung Hiền lũng đoạn,
thậm chí y có thể cách chức những quan đại
thần không ăn cánh.
Lúc bấy giờ, những quan lại bị gạt ra
khỏi triều đình lập thành một tổ chức chính
trị gọi là đảng Ðông Lâm nhằm chống lại
tập đoàn quan hoạn và phê phán nền thống
trị đen tối đương thời.
Dựa vào quyền thế của mình, Ngụy
Trung Hiền và vây cánh đã phản kích đảng
Ðông Lâm, giết hại một số thủ lĩnh quan
trọng của đảng nầy. Về sau, tuy Ngụy Trung
Hiền bị giết chết, nhưng cuộc đấu tranh giữa
tập đoàn quan hoạn và đảng Ðông Lâm vẫn
tiếp diễn cho đến khi nhà Minh diệt vong.
3. Phong trào chiến tranh nông dân
cuối triều Minh:
Ðến cuối triều Minh, tình hình chính
trị trở nên rối ren, giai cấp địa chủ phong
kiến lợi dụng tình hình đó chiếm đoạt nhiều
ruộng đất, làm cho phần lớn nhân dân Trung
Quốc không có ruộng.
Những nông dân còn giữ được ít
ruộng đất thì phải chịu xu cao thuế nặng,
nhiều người không thể nộp thuế buộc phải
cầm ruộng đất, rồi bán thân mình trở thành
tá điền, nô tì hoặc tha phương cầu thực.
Lúc bấy giờ nhân dân cả nước nói
chung đều khốn khổ, nhưng nghiêm trọng
nhất là vùng Thiểm Tây. Vì vậy, Thiểm Tây
trở thành nơi bùng nổ đầu tiên của phong
trào chiến tranh nông dân cuối triều Minh.
Năm 1627, nông dân Thiểm Tây nổi
dậy khởi nghĩa. Ðến năm 1631, các nhóm
khởi nghĩa riêng lẽ ấy tập hợp lại thành 36
doanh do các thủ lĩnh như Cao Nghênh
Tường, Trương Hiếu Trung, Lí Tự Thành...
cầm đầu. Số người tham gia lên đến 20 vạn,
quân khởi nghĩa vượt Hoàng Hà đến hoạt
động ở vùng Hà Nam, rồi từ Hà Nam nhanh
chóng tiến đến Phượng Dương ( An Huy ),
đốt lăng tẩm tổ tiên nhà Minh quyết lật đổ
nền thống trị của triều đại này.
Năm 1638, nhà Minh huy động quân
chủ lực tấn công quân nông dân, Lí Tự
Thành và Trương Hiếu Trung tạm thời phải
lánh đi, lực lượng hoàn toàn tan rã. Nhưng
chỉ vài năm sau, Lí Tự thành đã nhanh
chóng tập hợp quần chúng, xây dựng lực
lượng tiếp tục đấu tranh.
Nhờ khẩu hiệu Trọng hiền sĩ , chia
ruộng , miễn thuế ...nên quân khởi nghĩa
càng được nhân dân hoan nghênh, lực lượng
càng phát triển nhanh chóng, và từ đó liên
tiếp giành được thắng lợi.
Năm 1644, Lí Tự Thành lên ngôi
hoàng đế ở Tây An ( Thiểm Tây ), đặt tên
nước là Ðại Thuận, lập bộ máy quan lại mới,
khôi phục hệ thống tước vị quý tộc Công,
Hầu, Bá, Tử, Nam. Tiếp đó, Lí Tự Thành
tấn công và chiếm được Bắc Kinh. Vua
Sùng Trinh nhà Minh phải treo cổ tự tử.
Sau khi nghe tin nhà Minh sụp đổ,
Tổng binh nhà Minh là Ngô Tam Quế quyết
định đầu hàng Mãn Thanh để chống lại Lí
Tự Thành. Lí Tự Thành đem quân đánh Ngô
Tam Quế nhưng bị liên quân Ngô Tam Quế
và Mãn Thanh đánh bại, do đó phải rút khỏi
Bắc Kinh. Trên đường rút lui, quân Lí Tự
Thành nhiều lần bị quân Thanh truy kích,
thấy không thể thoát khỏi, nên Lí Tự Thành
đã thắt cổ tự tử.
Năm 1646, trong một trận chiến đấu
với quân Thanh, Trương Hiến Trung bị
thương rồi bị quân Thanh bắt và giết chết.
Như vậy, phong trào nông dân cuối Minh
đến đây về cơ bản bị thất bại.
VIII. TRIỀU THANH TOP
1. Sự hình thành đế quốc Thanh:
Năm 1644, ngay sau khi Lí Tự Thành
thất bại rút khỏi Bắc Kinh, vua Thanh chiếm
lấy kinh thành. Một triều đại phong kiến mới
ở Trung Quốc được hình thành. Triều
Thanh.
Sau khi thống trị Trung Quốc, triều
Thanh tiếp tục thực hiện kế hoạch thôn tính
miền Bắc và miền Tây Mông Cổ. Lúc bấy
giờ, chi tộc Mông Cổ cư trú ở miền Bắc gọi
là người Khan Kha, còn ở miền Tây, mạnh
nhất là tộc Junke. Do mâu thuẫn nội bộ và bị
tộc Junke tấn công, nên năm 1697, tộc Khan
Kha phải thần phục Thanh, còn Junke thì
đến năm 1757 cũng hoàn toàn bị đánh bại.
Về phía Ðông Nam, mục tiêu chinh
phục của Thanh là Tây Tạng. Năm 1718,
nhà Thanh đưa quân vào Tây Tạng, nhưng
bị Mông Cổ đánh bại. Mãi đến năm 1727,
Tây Tạng mới chính thức bị xáp nhập vào đế
quốc Thanh.
Ơí phía Tây Bắc, vùng Tân Cương
ngày nay là nơi cư trú của người Duy Ngô
Nhĩ ( Hồi Hột ). Ðầu đời Thanh, vùng này bị
người Mông Cổ Junke thống trị. Sau khi
đánh bại người Mông Cổ ở Tây Tạng, từ
năm 1758 đến 1759, Thanh đã tấn công và
chiếm được đất đai của người Duy Ngô Nhĩ
và đặt tên là Tân Cương.
Như vậy, trải qua một quá trình chiến
đấu lâu dài, đến giữa thế kỉ XVIII, triều
Thanh đã thôn tính được Mông Cổ, Tây
Tạng, Tân Cương, cùng với Mãn Châu và
đất đai của nước Minh cũ, lập thành một đế
quốc rộng lớn.
2. Những cuộc chiến tranh xâm lược
:
Năm 1766, viện lí do Miến Ðiện xâm
phạm biên giới, nhà Thanh sai Dương Ứng
Cư đem quân sang đánh. Vua Miến Ðiện giả
vờ đề nghị giảng hòa rồi tập trung đánh bại
quân Thanh. Dương Ứng Cư bị cách chức
và buộc phải tự xác.
Năm 1767, vua Càng Long cử con rể
của mình là Minh Thụy và tướng Ngạch Nhĩ
Cảnh Ni tấn công Miến Ðiện lần 2, Cảnh Ni
bị phục kích chết dọc đường nên Minh Thụy
phải rút lui.
Năm 1769, nhà Thanh lại cử Phó
Hằng cùng nhiều tướng lĩnh ào ạt tấn công
Miến Ðiện lần thứ ba. Lúc đầu quân Miến
điện bị thua, phải rút về cố thủ ở Ca Ung
Tôn. Ơí đây, quân nhà Thanh bị dịch bệnh
lan tràn, Phó Hằng cũng mắc bệnh tả, quân
Thanh hết sức bi quan, nên Càng Long ra
lệnh phải rút quân về nước.
Ðối với Ðại Việt, cuối năm 1788, dưói
chiêu bài giúp đở họ Lê khôi phục ngai
vàng, nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20
vạn quân sang xâm lược. Quân Thanh đã
tạm thời chiếm được Thăng Long, nhưng
trong trận đánh tết Kỉ Dậu ( 1789 ) nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung,
đã đánh bại 20 vạn quân Thanh.
Ðây là cuộc chiến tranh xâm lược có
quy mô lớn cuối cùng của triều Thanh.
3. Chính sách thống trị của Mãn
Thanh :
Trong quá trình chinh phục Trung
Quốc, quân Thanh bắt nhân dân Trung Quốc
phải theo một số phong tục tập quán của
người Mãn Châu mà trước hết là bắt cạo tóc
theo kiểu người Mãn.
Ðồng thời với quá trình chinh phục,
nhà Thanh ra sức củng cố bộ máy nhà nước
chuyên chế trung ương tập quyền và chính
sách áp bức dân tộc. Mặt khác, thi hành
chính sách mua chuộc giai cấp địa chủ
người Hán như bảo vệ quyền lợi ruộng đất
cho họ, thu hút nhiều trí thức Hán tộc vào bộ
máy quan lại, đề cao Nho học.
Do chính sách hai mặt đó, nên thời kì
đầu tuy xã hội có tồn tại mâu thuẫn giai cấp
và mâu thuẫn dân tộc, nhưng không gay gắt
bằng thời Nguyên. Nhưng từ cuối thế kỉ
XVIII về sau, giai cấp thống trị xa xỉ, quan
lại tham ô, ruộng đất tập trung vào tay giai
cấp địa chủ, nên nhân dân càng cực khổ.
Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân đã nổ
ra.
4. Sự xâm nhập của chủ nghĩa thực
dân phương Tây :
Bồ Ðào Nha là người phương Tây
sớm nhất đến Trung quốc (1517). Năm
1521, triều Minh ra lệnh buộc người Bồ rút
khỏi Trung quốc. Ð1ap lại mệnh lệnh ấy,
năm 1523,người Bồ gây chiến với Trung
quốc nhưng bị đánh bại. Nhân việc đó triều
Minh ra lệnh đóng cửa biển, cấm hẵn việc
buôn bán với nước ngoài. Năm 1553, nhân
việc thuyền gặp bão người Bồ xin được lên
Aïo môn phơi hàng hóa bị ướt. Nhờ đút lót
cho quan địa phương, họ được lên cư trú ở
Aïo môn và đến năm 1557, thì bắt đầu xây
dựng nhà cửa, pháo đài, thành quách, dần
dần biến mãnh đất nầy thành thuộc địa.
Năm 1570, người Tây Ban nha chiếm
được đảo Lozon (Philippine) và đê`1n năm
1557, họ đến buôn bán ở Ðàm châu.
Năm 1601, người Hà Lan xâm nhập
Bành hồ, nhưng ít lâu sau bị đánh đuổi. Năm
1624 họ chiếm đảo Ðài Loan, nhưng đến
năm 1662 thì bị Trịnh Thành Công đánh
đuổi.
Ðến đầu triều Thanh, nhà Thnanh
thi hành chính sách đóng cửa nghiêm
ngặt, cấm nhân dân Trung quốc đi ra ngoài
bằng đường biển, còn thương nhân Châu âu
thì chỉ được buôn bán ở Aïo Môn mà thôi.
Ðến đời Càng Long (1736-1795), do các
thương nhân phương Tây nhất là người Anh
đã có những hoạt động trái phép ở vùng ven
biển Trung quốc, nên năm 1757 nhà Thanh
ra lệnh chỉ cho các nhà buôn nước ngoài
được buôn bán ở Quảng Châu mà thôi.
Trong khi Trung quốc thi hành chính
sách đóng cửa, thì nền công nghiệp dệt Anh
phát triển nhanh chóng. Ðồng thời từ nủa
sau thế kỷ XVII, Anh thu và mua rẽ được rất
nhiều thuốc phiện ở Ấn độ. Ðể tiêu thụ
những thứ hàng đó, Anh chủ yếu nhằm vào
thị trường Trung quốc.
Năm 1792 và năm 1816, chính phủ
Anh hai lần cử sứ giả đến triều đình Trung
quốc yêu cầu đặt quan hệ thông thương
nhưng đều không thành công.Tuy vậy ,
thuyền buôn của Anh vẫn không ngừng chở
thuốc phiện đến bán ở Trung quốc. Việc đó
làm cho bạc trắng của Trung quốc chạy ra
ngoài rất nhiều, đồng thời làm cho người
Trung quốc suy nhược về thể chất lẫn tinh
thần. Do đó năm 1838, nhà Thanh cử Lâm
Tất Từ làm khâm sai đại thần đến Quảng
Châu để thực hiện triệt để lệnh cấm bán
thuốc phiện. Ðáp lại thái độ cứng rắn đó,
năm 1840 chính phủ Anh quyết định dùng
quân sự bắt Trung quốc phải mở các cửa
biển để buôn bán. Chiến tranh Trung - Anh
mà lịch sử gọi là Chiến tranh thuốc phiện
bùng nổ và kết qủa là triều Thanh phải
nhượng bộ. Sự kiện đó đánh dấu xã hội
Trung quốc bước vào giai đoạn mới - giai
đoạn nửa thuộc địa.

You might also like