Professional Documents
Culture Documents
I. PHÂN KỲ LỊCH SỬ
II. CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH CHẾ ĐỘ
PHONG KIẾN
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA CHẾ ĐỘ PHONG
KIẾN
KHÁI QUÁT :
Hậu kỳ trung đại là giai đoạn :
Chế độ phong kiến lâm váo tình trạng
khủng hoảng suy vong và quan hệ tư bản
nảy sinh.Giai đoạn nầy đưộc mở đầu bằng
các cuộc phát kiến lớn về địa lý. Bởi vì phát
kiến địa lý mở đường cho sự ra đời của
CNTB và mở đầu cho sự ra đời của chủ
nghĩa thực dân cận đại.
Ðây cũng là thời kỳ chính quyền quân
chủ chuyên chế được xây dựng ở một số
nước ( Anh , Pháp, Tây ban nha, Bồ đào
nha,....)
Lúc nầy là giai đoạn quá độ, khi mà các
đẳng cấp phong kiến cũ đã suy thóai và giai
cấp tư sản đã hình thành từ tầng lớp thị dân
trung đại, và khi mà giữa hai bên đối địch
nhau chưa bên nào thắng bên nào, lúc ấy
qúi tộc phong kiến bắt tay vời tư bản để tiêu
trừ phong kiến cát cứ và phong trào nông
dân đang lên mạnh.
Ðây cũng là thời kỳ bắt đầu những cuộc
cách mạng về tư tưởng và văn hóa sâu sắc
( đấu tranh giữa hai ý thức hệ tôn giáo phản
động và ý thức hệ tư sản tiến bộ), biểu hiện
qua các phong trào cải cách tôn giáo, văn
hóa phục hưng.
Trong giai đoạn nầy, do tác động của
những điều kiện kinh tế - xã hội và tư tưởng
mới, pnong trào của nông dân và thị dân nổ
ra rất mạnh mẽ, biến thành cuộc chiến tranh
nông dân thực sự, mang tính chất hoàn toàn
mới là thủ tiêu chế độ phong kiến và vương
quyền.
Tất cả những điều đó đã làm cho giai
đọan các thế kỷ XVI - XVII, trở thành một
giai đoạn đặc biệt trong lịch sử, khác về chất
với giai đoạn phong kiến phát triển trước đó
(thế kỷ XI-XV), cũng như với các thế kỷ
tiếp theo của chủ nghĩa tư bản công nghiệp (
thế kỷ XVIII - XIX ). Qui luật những quan
hệ sản xuất tất yếu phải phù hợp với tính
chất của lực lượng sản xuất đã biểu hiện rất
rõ ràng và đẩy nhanh sự tan rã của chế độ
phong kiến.
I- NHỮNG CUỘC PHÁT KIẾN
LỚN VỀ ÐỊA LÝ CỦA NGƯỜI
CHÂU ÂU
1- Những tiền đề của các Phát TOP
kiến lớn về địa lý
- Do nhu cầu phát triển của nền kinh tế
thương mại châu Âu.
- Cơn khát vàng đặc trưng của những
người tham gia các đoàn thám hiểm mạo
hiểm ở thế kỷ XV - XVI là tiền đề đặt
biệt quan trọng của những phát kiến địa
lý.
- Sự phát triển của chủ nghiã chuyên
chế ở Tây âu vào cuối thế kỷ XV cũng là
tiền đề căn bản cho các phát kiến địa lý
vĩ đại.
- Những mâu thuẩn của chế độ phong
kiến, cuộc khủng hoảng sâu sắc của nó
diễn ra trong thế kỷ XV, cũng là tiền đề
thật sự cho phát kiến địa lý.
- Cuối cùng, những tiến bộ của khoa
học và kỹ thuật ở châu Âu là tiền đề cần
thiết cho phát kiến địa lý. (Ngành đóng
tàu, La bàn, bản đồ,....)
2- Tiến trình phát kiến địa lý TOP
Cho đến trước thế kỷ XV, người châu
Âu chỉ biết có 3 đại lục : Âu, Á, Phi nối liền
nhau, chung quanh là biển. Nhưng đến thế
kỷ XV những hiểu biết của người châu Âu
được bổ sung bằng thuyết qủa đất hình tròn,
nhờ vậy mà họ biết rằng muốn sang Ấn độ
thì có thể đi bằng hai cách : Vòng châu Phi
hoặc vượt đại dương đi về phía Tây.
Ði đầu trong việc tiến hành những
cuộc thám hiểm vĩ đại vào thế kỷ XV là hai
quốc gia Bồ đào nha và Tây ban nha.
NHỮNG CHUYẾN ÐI CỦA NGƯỜI BỒ
ÐÀO NHA :
Ðặc điểm của người Bồ đào nha la đi theo
đường vòng châu Phi và khởi hành ở
Lisbonne .
#Các chuyến đi của HENRY :
Henry vừa là một hoàng tử ( con vua John
II) vừa là một nhà hàng hải, ông đã mở đầu
những chuyến đi của người Bồ đào nha.
Năm 1415, người Bồ đã chiếm được pháo
đài Ceuta trên bờ biến châu Phi, từ đó hầu
như năm nào họ cũng tổ chức những đoàn
thám hiểm đi về phía Nam dọc theo bờ biển
châu Phi.
Năm 1419, họ chiếm được hòn đảo Porto
Xanto do người Ý tìm ra trước kia và biến
đảo nấy thành thuộc địa.
Năm 1445, họ đến được Cap Vert (mũi
Xanh).
Năm 1472, họ đến Vịnh Guinée, và bắt đầu
khai thác những lớp đất có vàng, sau đó họ
biến nơi nầy thành nơi buôn bán ngà voi,
vàng , nô lệ và một phần gia vị. Họ đem áo
dài vải gai, hạt cườm vũ khí và rượu bán cho
người da đen ở đây. Khi đến vịnh Guinée,
họ tưởng đây là mõm cực nam của châu Phi,
nên năm 1482 họ cho xây dựng ở đây đồn
Mina để cướp bóc.
# Chuyến đi của BARTHOLEMEN DIAS :
Tháng 8 năm 1486, đợt thám hiểm lần
thứ hai được tiến hành do Bartholemen Dias
thực hiện. Ông đã đến được mũi nam Phi,
nhưng bị một cơn bão kéo dài 13 ngày đẩy
ra khơi, khi quay được trở lại theo hướng
Ðông-Bắc đoàn thám hiểm bất ngờ đi vòng
quanh mỏm cực Nam châu Phi và đặt tên
cho nó là mũi bảo táp. Họ trở về Lisbon năm
1487, Vua John II thấy có cơ sở để tiến xa
hơn nên đã đổi tên mũi bảo táp thành mủi
Hảo vọng .(Cap good of Hope)
# Chuyến đi của VASCO DA GAMA :
Ngày 8 tháng 7 năm 1497, đợt thám
hiểm lần thứ 3 do Vasco da Gama tiến hành.
Ðoàn lên đường với 4 tàu và 168 thủy thủ .
- Ngày 27 tháng 7 , đoàn đến các
đảo ở mũi Cap Vert.
- Ngày 22 tháng 11, các con tàu đi
vòng qua mũi Hảo vọng và đi vào Ấn
độ dương.
- Ngày 01 tháng 05 năm 1498, đoàn
đã đến các thành thị cực Nam của
người Arap ở châu Phi là
Mozambique, sau nhiều lần đụng độ
với người Arap, đoàn đã được một
người hoa tiêu biết đường dẫn tới Ấn
độ.
- Sau 23 ngày bơi trên Ấn độ
dương, cuối cùng ngày 20 tháng 05
năm 1498 đoàn đã đến thành phố
Calicut .
- Ngày 30 tháng 09 năm 1498, đoàn
rời khỏi Calicut. Trên đường đi người
Bồ đã đánh cướp các con tàu của dân
Ấn giáo mỗi khi gặp và giết hại thủy
thủ của nó, mãi đến ngày 01 tháng 01
năm 1499 đoàn mới đến châu Phi.
- Chuyến quay về qua Ấn độ dương
kéo dài trong 89 ngày, tất nhiều thủy
thủ bị chết vì bệnh hoại huyết, tàu Xan
Raphaen bị bốc cháy, đến ngày 10
tháng 3, đoàn đi vòng qua mũi Hảo
vọng.
- Cuối cùng ngày 18 tháng 09 năm
1499, Vasco Da Gama cùng 55 thủy
thủ đã cập bến Lisbon. Họ trở về chỉ
còn hai tàu với đầy ấp vàng, đồ gia
vị, lụa, ngọc, những chế phẩmbằng ngà
voi, đáng giá 60 lần phí tổn chuyến đi.
- Sau thắng lợi của Gama, người Bồ
đào nha còn tổ chức thêm nhiều
chuyến đi nữa. Trong đó có chuyến đi
của Cabral. Ngày 09 tháng 03 năm
1500, Cabral rời Lisbon với 13 tàu,
nhưng khi ra khơi, đoàn tàu đã bị dòng
hải lưu xích đạo đẩy xa về hướng Tây.
Ngày 22 tháng 4 đoàn đã Brasil. Như
vậy, Cabral định đi Ấn độ, nhưng lại
phát hiện ra Brasil và ông nhầm tưởng
đây là một hòn đảo.
NHỮNG CHUYẾN ÐI CỦA NGƯỜI
TÂY BAN NHA :
Ðặc điểm của người Tây ban nha là
vượt đại dương đi về hướng Tây.
# Chuyến đi của CHRISTOPHE
COLOMB :
- Colomb là nhà hàng hải người Ý,
từ thời trẻ đã tham gia những chuyến
đi biển đường dài, ông đã đến Cận
đông, Guinée, Anh và những nơi khác.
Là một người ham học, ông đã nghiên
cứu một cách cơ bản toán học, thiên
văn học và đồ bản, đồng thời nghiên
cứu kỹ càng những thành công của
các nhà thám hiểu Bồ đào
nha.. Khi đến Lisbon, ông đã đệ trình
kế hoạch vượt đại dương theo hường
Tây của mình cho vua Bồ là John II,
nhưng không được ủng hộ.
- Năm 1485, ông đến Tây ban nha,
sau nhiều lần tâu nghị kéo dài, ông
được vua Ferdinan và nữ hoàng
Iszabella phê chuẩn. Năm 1492, ông
thành lập đoàn thám hiểm, bản thân
ông đóng gớp 1/8 chi phí, vì thế được
phong tước đô đốc, được thế tập ở
những vùng đất mới phát hiện, và được
hưởng 1/10 số châu ngọc.
- Ngày 03 tháng 08 năm 1492,
Colomb rời cảng Palos với 3 tàu
( Xanta Maria 100 tấn, Pinta 50 tấn,
Ninia 40 tấn ) và 90 thủy thủ , họ tiến
về phía Tây ra khoảng rộng mênh
mông của Ðại tây dương.
Tiếp tục tiến về hướng Nam,
Colomb phát hiện một số đảo nhỏ và
đật tên Ferdinan, Isabella, Xanta
Maria, sau đó đoàn đã đến được đảo
lớn Cuba thuộc quần đảo Angti, tường
là mình đã đến được Nhật bản, nhưng
tại đây tàu chỉ huy Xanta Maria va
phải đá ngầm và bị vỡ, tàu Pinta tự ý
rời khỏi đoàn, nên ông buộc phải
quay về. Ngày 04 tháng 01 năm 1493 ,
ông trở về theo hướng Ðông-Bắc để
tránh gío ngược, sau đó tiến thẳng
theo hướng Ðông châu Mỹ .Ông chỉ
mang về một ít vàng và đường , không
có hương liệu..
Ngày 15 tháng 03 năm 1493,
đoàn thám hiểm về đến Palos. Giữa
tháng 4, Colomb được đón tiếp một
cách long trọng ở Barcelona.. Theo
định ước ông được nhận tước thủy sư
đô đốc, phó vương Ấn độ và danh hiệu
qúi tộc.
Sau đó từ năm 1493 đến năm
1498, Colomb lại tổ chức chuyến đi
lần thứ hai và đã. tìm ra các đảo
Trinidat, Hamaica, Puecto-Rico thuộc
vùng biển Cariepe. Năm 1502, trong
chuyến đi lần thứ 3 ông tìm ra đảo
Guanaha và mũi Hondurat .Ðến đây
ông tưởng lầm là mình đã đến được bờ
Ðông Ấn độ, nên đã gọi những thổ dân
ở đây là người Indian.
# Chuyến đi của AMERICA
VEPUCCI :
America Vepucci một nhà hàng
hải người Ý, đã từng tham gia những
đoàn thám hiểm của người Tây ban
nha từ năm 1499 ở miền Nam của lục
địa mới, và ông đã soạn lập ra những
bản đồ đầu tiên. Năm 1515, tấm bản
đồ đầu tiên về vùng đất mới do
Colomb phát hiện nhưng mang tên
America đã được in ra, nên người châu
Âu đã lấy tên ông đặt tên cho những
vùng đất mới là America, tức châu
Mỹ. (tuy nhiên cho đến nay quần đảo
Angti và các đảo Bagam vẫn còn được
gọi là Tây Ấn).
# Chuyến đi của MAGELLAN :
Tháng 09 năm 1519, Magellan
rời cửa sông Guadanquivira với 5 tàu
và 265 thủy thủ, vượt đại tây dương đi
men theo phía Ðông bờ biển Nam Mỹ.
Cuối tháng 10 năm 1520 đoàn đi vào
một eo biển hẹp ngăn lục địa với đảo
đất lửa (về sau gọi là eo Magellan).
Ðến ngày 28 tháng 11 năm 1520 đoàn
đã ra đến đại dương mênh mông,
Magellam gọi là Thái bình dương.
Ðoàn thám hiểu sau đó bôi trong
đại dương 3 tháng 20 ngày. Cuối cùng
đến đầu tháng 3 năm 1521, họ đến
được đảo Ladronexe ( đảo kẻ cướp) và
chẳng bao lâu họ đã thả neo ở
Philippines, lập một căn cứ trên đảo
Cebu. Sau đó trên đảo Mactan đã xãy
ra xung đột giữa những thủy thủ với
dân địa phương, Magellan can thiệp và
đã bị thổ dân ở đây giết chết ngày 27-
04- 1521.
Sau cái chết của Magellan,
những thủy thủ còn lại lên đường trở
về, họ đã tới đảo Boocneo, và đến
tháng 11 năm 1521 đến đảo Tidora
thuộc nhóm đảo Malucu. Tại đây họ
cướp lấy nhiều gia vị và chở đầy trên
con tàu nhỏ Victoria trở về Tây ban
nha.
Ngày 06 tháng 09 năm 1522, với
13 người còn sống sót và bị kiệt sức đã
về đến Tây ban nha.. Dù Magellan đã
không còn , nhưng những thủy thủ của
ông ta đã thực hiện thành công chuyến
đi vĩ đại, một cuộc vòng quanh thế giới
lần đầu tiên.
Tóm lại , những người phát hiện
ra châu Mỹ và đi vòng quanh thế giới
là những người có tấm gương sáng về
lòng dũng cảm và nghị lực phi thường.
Họ đã gớp một phần quan trọng trong
việc mở đường cho chủ nghiã tư bản
và là nhân tố cách mạng trong xã hội
phong kiến đang thời kỳ tan rã.
Bên cạnh những mặt tích cực ấy,
những pát kiến địa lý đã dẫn đến chính
sách thực dân của các nước chuyên đi
tìm nguồn tài nguyên mới. Marx và
Engels đã nhận định như sau : Việc
tìm ra châu mỹ và đường biển vòng
quanh châu Phi đã tão nên mãnh đất
hoạt động mới cho giai cấp tư sản
đang lên. Những thị trường Ðông ấn,
Trung quốc, công cuộc khẩn thực ở
châu Mỹ, việc trao đổi với thuộc địa,
sự gia tăng phương tiện trao đổi và
hàng hóa, nói chung đã thúc đẩy mạnh
chưa từng thấy nghề thương mại,
ngành hàng hài, công nghiệp và do đó
sẽ gây nên sự phát triển nhanh chóng
của nhân tố cách mạng trong xã hội
phong kiến đã tan rã.
II- SỰ RA ÐỜI CỦA CHỦ NGHIÃ TOP
THỰC DÂN
Sau cuộc thám hiểm của Colomb ( 1492)
đã nãy sinh ra vấn đề phân chia vùng sở hữu
bên kia đại dương giữa Bồ đào nha và Tây
ban nha. Ðể giải quyết Tây ban nha và Bồ
đào nha đã có những cuộc đàm phán ở
Barcelona và ở Lisbon, nhưng không thành.
Ngày 7 tháng 6 năm 1494, hiệp ước
Tordesillas được ký kêt có sự tham gia của
giáo hoàng Roma Alerxandro VI với tư
cách là người đảm bảo có uy quyền. Theo
hiệp ước, từ 17 độ kinh Tây đến 130 độ kinh
Ðông là thuộc quyền cai trị của Bồ Ðào
Nha, phần còn lại thuộc Tây Ban Nha.
Ðây là sự phân chia thế giới lần đầu tiên
của chủ nghiã thực dân.
1- Chính sách thực dân của TOP
BỒ ÐÀO NHA
Ðể thực hiện việc thống trị và cướp bóc
ở những vùng chiếm đóng, Vua bồ đào nha
đã cử Albuquerque làm phó vương ở Ấn độ,
thực tế y là người đặt nền mống cho chủ
nghiã thực dân của Bồ.
Những căn cứ có vị trí chiến lược quan
trọng của người Bồ là Aden và Goa.
@ Căn cứ Goa :
Ðược xem như một tiểu Lisbon,
Albuquerque cho xây dựng ở đó một pháo
đài và một đơn vị đồn trú mạnh. Ðây là nơi
buôn bán tấp nập, có nhiều đoàn lái buôn ra
vào.Theo lệnh của Albuquerque, tháng 11
năm 1510, một cuộc tàn sát đẩm máu người
Hồi giáo đã diễn ra ở đây kéo dài trong 3
ngày.
@ Căn cứ Aden
Là một cảng biển, được xem là căn cứ
hải quân quan trọng án ngữ ngõ Hồng hải
vào Ấn độ dương và là bàn đạp để tấn công
vào Mecca và Medina, nhằm biến lăng mộ
của Mohamet thành lăng mộ của Jesu, chắm
dứt cuộc tranh chấp hàng thề kỷ giữa người
thiến chúa giáo và Hồi giáo.
Ngoài hai căn cứ trên, từ năm 1517 Bồ
đã đặt quan hệ buôn bán với Trung quốc và
từ năm 1548 với Nhât bản. Nhờ thế mà sau
đó, năm 1557 Bồ đào nha đã lập một thương
điếm trên bán đảo Macao, để làm nơi buôn
bán với Trung quốc và Nhật bản
Như thế là vào thế kỷ XVI đế quốc thuộc
địa của người Bồ đào nha đã xuất hiện, mà
những người sáng lập ra nó là Vacco Da
Gama , Francoi dAlmeida, Albuquerque,
đã biến nước Bồ đào nha nhỏ bé chưa đầy 1
triệu dân trở thành một cường quốc thế giới
mà những thương điếm và các đồn lũy của
nó rãi ra trên bờ 3 lục địa (từ Madagatca
đến Brasil, Trung quốc và Nhât bản )
Mặc khác, do Bồ đào nha chưa tổ chức
được bộ máy cai trị địa phương, do đó
chúng chưa có cơ sở vững vàng ở vùng
chiếm đóng, vì dựa vào các căn cứ rãi rác
như các ốc đảo, hơn nữa giai cấp tư sản Bổ
còn yếu, dựa vào vương quyền ăn chơi xa xĩ,
nên vàng và hàng hóa dần dần rơi vào tay
Anh và Hà Lan (hàng hóa
cướp được chủ yếu bán cho Anh và Hà
Lan). Chính vì thế Bồ đào nha không giữ
được thực dân địa lâu dài, đến thê kỷ XVII,
phần lớn thuộc địa bị Hà lan chiếm.
2 - TÂY BAN NHA bóc lột TOP
thuộc địa CHÂU MỸ
Ở châu Mỹ trước khi bọn thực dân Tây
ban nha đến, đã từng có các tộc Maya,
Aztèques, Incas sinh sống và họ đã có được
một nền văn hóa lâu đời, đang đứng ở đỉnh
cao của công xã thị tộc ( ở Mexico người ta
đã biết làm tuộng, dẫn thủy và có quốc gia
riêng).
Năm 1519, Tây ban nha cử Cortès đem
300 quâm đổ bộ lên Mexico và sau 3 năm y
đã chiếm được xứ nầy Năm 1532, một tên
thực dân khác tên là Pizarro đem 300 quân
chiếm Peru (xứ sở của người Inca, họ đang
sống trong các công xã nông thôn, có chữ
viết) , dù Pizarro bị giết, nhưng bọn thực
dân cũng chiếm được vùng nầy và Trung
Mỹ.
# Chính sách thực dân của Tây ban
nha :
· Mua chuộc chia rẽ nội bộ dân địa
phương.
· Cướp đất đai và hầm mỏ
Họ chiếm được các địa phương vì : dân
địa phương thiếu thống nhất, chân thật, và
thần thánh hóa các phương tiện khoa học.
Ðể thực hiện việc chiếm đóng trên, bọn
thực dân TBN chủ trương chiếm từng miền ,
từng quốc gia để biến thành thuộc địa. Sau
đó tiến hành việc mua bán bằng cách đổi
chác , tiến hành cướp bóc, bắt dân địa
phương nộp sản vật, phá hoại tôn giáo. Của
cải vơ vét được, theo qui ước họ trích 1/5
nộp cho vua Tây ban nha, số còn lại chúng
chia nhau
3 - Việc khai thác bước đầu và TOP
sự ra đời của chế độ nô lệ da đen
# Khai thác bước đầu :
Bọn thực dân sau khi chiếm được những
vùng đất ở châu Mỹ, chúng đã tiến hành
khai thác quặng mỏ để vơ vét kim loại bản
xứ. Họ bắt dân địa phương làm việc trong
điều kiện vật chất thiếu thốn, khắc nghiệt và
cưỡng bức qúa sức lao động, chính vì thế
sau một thời gian khai thác, đã làm cho từ
1/2 đến 2/3 số lao động phải thiệt mạng
# Sự ra đời của chế độ nô lệ da đen:
Ðể bù vào số lao động hao hụt vì chết,
bọn thực dân Tây ban nha đã đặt mua nô lệ
da đen ở châu Phi, hoặc săn bắt họ (khiến
những người da đen châu Phi phải lẫn trốn
vào rừng và sống như thú vật). Chúng dùng
thuyền chở nô lệ sang châu Mỹ (.họ bị nhét
trong tàu hàng tháng trong cảnh thiếu ăn,
thiếu dưỡng khí, nên một số đã chết trên
đường đi, số còn lại chúng đưa vào các đồn
điền, hầm mỏ)
Nhờ sự kích thích trong khi vơ vét, bọn
thực dân đã đem gia đình theo sang châu
Mỹ, nhờ qúa trình tiếp xúc với dân bản xứ,
nên đã tạo thành nền văn hóa Mỹ - Latinh .
Ngoài ra để cai trị xứ sở mới, chúng đã đặt
chức Phó vương và lập Hội đồng các xứ Ấn
độ.
Trong bộ Tư bản, Marx viết : Việc tìm ra
các mỏ vàng, bạc ở châu Mỹ, sự tuyệt diệt,
nô dịch và chôn vùi những dân cư bản xứ
đang sống trong các hầm mỏ, những bước
đầu đi xâm chiếm và cướp bóc Ðông ấn,
việc biến châu Phi thành khu vườn cấm để
săn người da đen - đó là buổi bình minh của
thời đại sản xuất tư bản chủ nghiã.
4 - Hậu quả của các phát kiến TOP
địa lý
# Về kinh tế :
- Trước hết, phát kiến địa lý đã mở rộng
cơ sở lãnh thổ cho nền thương mại thế giới
và phạm vi kinh tế cho tư bản châu âu.
- Hậu qủa quan trọng nhất của phát
kiến địa lý là nó đã tạo nên cuộc cách mạng
giá cả, làm cho giá cả hàng hoá ở châu Âu
tăng vọt , mà nguyên nhân của nó là do
những kim loại qúi đổ vào châu Âu với số
lượng lớn chưa từng có.
Nhìn chung, cách mạng giá cả đã tăng
cường sức mạnh kinh tế của giai cấp tư sản
và cả những phần tử qúy tộc và tầng lớp
nông dân giàu mà phương thức kinh tế của
họ gần gủi với giai cấp tư sản, nhưng lại bất
lợi cho phong kiến, kẻ đã thu tô cố định như
cũ, đồng thời nó làm cho nông dân nghèo và
dân nghèo thành thị thêm bần cùng và biến
họ thành những công nhân làm thuê trong
các công trường thủ công đang phát triển.
# Về chính trị :
Do yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã
hội đã thúc đẩy nhanh qúa trình xây dựng
chính quyền trung ương tập quyền ( triều
Hapsbua ở TBN, Capet ở Pháp, Tudo ở
Anh ) bởi thương nhân và thị dân muốn
chấm dứt tình trạng phân tán, muốn phát
triển kinh tế thương mại.
Hệ tư tưởng phong kiến bị lung lay, chế
độ phong kiến đang trên đường tan rã (xuất
hiện cách mạng tảo kỳ ở Hà lan, chiến tranh
nông dân, cải cách tôn giáo, phong trào văn
hóa phục hưng,...)
Chủ nghiã thực dân phát triển ( ngoài
TBN và BÐN sau nầy có thêm Anh, Pháp,
Hà lan,..)
# Về xã hội :
Ngoài hai giai cấp cơ bản, xuất hiện giai
cấp tư sản và vô sản (giai cấp tư sản ra đời
đồng thời cũng xuất hiện giai cấp vô sản -
gcts hình thành do cách mạng giá cả, do rào
đất cướp ruộng,.. CNTB ra đời thúc đẩy các
nước thực dân đi xâm lược thuộc địa bằng
những phương pháp tàn bạo rất nhiều lần)
# Về khoa học kỹ thuật :
-Thúc đẩy sự phát triển về điạ lý, thiên
văn và công nghiệp.
- Tạo nên một sự giao lưu văn hóa Tây -
Ðông, mở rộng khả năng nghiên cứu khoa
học ( Dân tộc học, ngôn ngữ học, sinh vật
học,...)
III- SỰ NÃY SINH CHỦ NGHIÃ TƯ
BẢN TRONG LÒNG XÃ HỘI
PHONG KIẾN
1- Sự Phát Triển Của Sức Sản TOP
Xuất
a- Trong công nghiệp :
- Phát minh lò cao làm tăng khối
lượng gang thép (TK XV).
- Phát minh nhiều máy móc : Máy
bơm nước, bánh xe guồng nước, bánh
xe quay sợi, máy in,... phục vụ cho
nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa,...
- Kỹ nghệ chiến tranh cũng phát
triển : súng đại bác, súng cầm tay,
thuốc nổ,...
- Có sự phân công trong lao động
nên năng xuất cao.
b- Trong nông nghiệp :
- Xu hướng chuyên môn hóa xuất
hiện, làm cho hiệu xuất lao động tăng :
nuôi bò lấy sữa làm format ; nuôi cừu
lấy lông dệt dạ; trồng nho ép rượu,...
c- Trong thương nghiệp :
- Công nông nghiệp phát triển đã
thúc đẩy thương nghiệp phát triển,
quan hệ buôn bán ngày càng được đẩy
mạnh, làm xuất hiện mần mống tư bản
chủ nghiã.
2- Sự giải thể của chế độ TOP
phong kiến
· Vào thế kỷ XVI - XVII quan hệ
sản xuất phong kiến vẫn còn chiếm
địa vị thống trị. Tuy nhiên quan hệ
phong kiến bắt đầu giải thể .
Như vậy, từ sự phát triển của sức sản
xuất và sự giải thể của chế độ phong kiến đã
làm nãy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghiã. Mặc khác cũng do sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật và sự phát triển của kinh
tế hàng hóa, tuy nhiên bản thân nền kinh tế
hàng hoá không làm nãy sinh chủ nghiã tư
bản, mà chủ nghiã tư bản có điều kiện căn
bản là sự tích luỹ ban đầu.
3 - Sự tích lũy ban đầu của chủ TOP
nghiã tư bản
# Ðiều kiện để thực hiện TLTBNT :
@ Tư bản :
- Bằng sự phát triển buôn bán, của
cải tập trung trong tay một số ít người.
- Thuế má nặng nề đánh vào nông
dân, làm cho thị dân giàu lên.
- Cho Vua vay trước tiền thuế rồi
đứng ra bao thầu việc thu thuế
Tư bản ra đời đầm đìa những
máu và bùn nhơ
ở khắp mọi lổ chân lông của
nó [Marx].
@ Lực lượng lao động làm thuê :
Lực lượng lao động làm thuê có thể
có được là do chiến tranh, thuế má, cướp
đoạt ruộng đất,... làm cho người nông dân
bị phá sản, họ kéo lên thành thị ngày
càng đông, thợ thủ công ngày càng xuất
hiện nhiều, họ là một lực lượng lao động
làn thuê đáng kể.
Như vậy, việc cướp đoạt nông dân
là điều kiện chủ yếu vừa tạo nên tư bản,
vừa tạo nên lực lượng lao động làm thuê (
Anh là nước điển hình trong việc tích luỹ
TBNT).
Chủ nghiã tư bản ra đời là một
bước ngoặt lớn của lịch sử, một bước tiến
bộ rất dài so với chế độ phong kiến. Nó
đã sản sinh ra một khối lượng của cải lớn
hơn nhiều so với các xã hội trước và tạo
nên một nền văn hóa phát triển cao. Tuy
nhiên lịch sử vế sự tước đoạt họ (nông
dân) không phải là một vấn đề nghi vấn :
nó được ghi trong sử sách của nhân loại
bằng nghững chữ máu và lửa không bao
giờ phai [ K.Marx- Tư bàn, Q1, T3, Sự
thật, HN 1960, Tr 220].
4 - Sự ra đời của Công trường TOP
thủ công
Một đặc trưng cho sự ra đời của
chủ nghiã tư bản thời ấy là sự xuất hiện
của các công trường thủ công. Ðây là
hình thức kinh doanh công nghiệp đầu
tiêbn của CNTB. Vì CNTB ra đời bằng
sự phát triển của kinh tế hàng hóa,
thương mại, mậu dịch hàng hải, tổ chức
ngân hàng tín dụng và các công trường
thủ công .
# Khái niệm CTTC :
Công trường thủ công là một tổ
chức có phân công lao động và kỹ thuật
thủ công trong một qúa trình sản xuất, do
những người có vốn bỏ vốn ra mua
nguyên liệu và tập hợp những người lao
động làm thuê lại để sản xuất hàng hóa,
nhằm tạo ra nhiều gía trị thặng dư trong
bóc lột.
- Thế kỷ XV, những công trường
thủ công ở Châu âu bắt đầu hình thành.
Có hai loại công trường thủ công :
+ Công trường thủ công tập trung:
Loại công trường nầy được nhà tư bản
lập ra và tập hợp những người thợ thủ
công khác ngành nghề tại một xưởng
để sản xuất hàng hoá.
+ Công trường thủ công phân tán : Nhà
tư bản cho những người thợ thủ công
chuyên nghiệp nhận gnuyên liệu về
làm gia công.
Trong các công trường thủ công, căn bản
là sản xuất bằng tay, có một vài kiểu máy
móc thô sơ (khung cửi nửa tự động, lò cao
đơn giản,...) Tuy nhiên lúc nầy công trường
thủ công tập trung chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ
so với công trường phân tán.
Công trường thủ công xuất hiện
trước hết ở những ngành cổ truyền , gắn
với nhu cầu sinh hoạt của quần chúng
(như nghề làm len dạ) , sau đó xuất hiện
các công trường khai thác quặng, luyện
kim, đóng tàu, chế tạo vũ khí,...
Có thê nói, công trường thủ công ra
đời vào thời kỳ nầy đã gớp phần làm cải
tiến bộ mặt xã hội ( nhất là bộ mặt nông
thôn) , nhưng chưa cải tiến một cách triệt
để, việc nầy phải đợi đến nền đại công
ngiệp sử dụng nhiều máy móc mới làm
được.
5- Sự ra đời của giai cấp Tư TOP
sản và Vô sản
Thế kỷ XV, tầng lớp thương nhân
và chủ xưởng ra sức kinh doanh lập ra
nhiều công trường thủ công, bóc lột công
nhân làm thuê, làm phá sản thợ thủ công
và tước đoạt ruộng đất của nông dân, làm
những người lao dộng ấy mất đi hết tư
liệu sản xuất trở thành người vô sản. Nhờ
qúa trình ấy, giai cấp tư sản ra đời đồng
thời giai cấp vô sản cũng xuất hiện.
# Giai cấp tư sản :
- Thành phần xuất thân của giai cấp
tư sản rất phức tạp, gồm : thợ cả,
thương nhân, thị dân giàu, chủ nhà
buôn, chủ ngân hàng,... họ nắm trong
tay nhiều của cải, là lực lượng lãnh đạo
cách mạng tư sản (có một bộ phận
thân cận với triều đình, mua quan bán
tước, quyền lợi của họ gắn liền với
triều đình phong kiến gọi là tầng lớp
qúi tộc áo dài- tiêu biểu ở Pháp).
- Ngoài ra còn có bọn qúi tộc
mới , xuất thân từ nhiều thành phần
khác nhau, họ kinh doanh theo lối tư
bản chủ nghiã (rào đất, chuyên trồng
đồng cò để nuôi cừu)
Cả hai bộ phận nầy chưa ổn định về
thành phần, có nhiều quan hệ với xã hội
phong kiến, và bước đầu còn phục tùng và
ủng hộ triều đình, bằng nhiều hình thức bóc
lột khác nhau, nhưng đều nhằm chiếm lấy tư
liệu sản xuất và làm vô sản hóa nhân dân lao
động.
# Giai cấp vô sản :
Là những người bị tước đoạt mất tư liệu
sản xuất, trở thành những người làm thuê
(thợ thủ công, nông dân, dân nghèo thành
thị) . Vào thời kỳ nầy họ còn quan hệ nhiều
với nông thôn, đau khổ do chế độ phong
kiến gây ra, nên theo giai cấp tư sản để làm
cách mạng phản phong.
IV- PHONG TRÀO VĂN HOÁ TOP
PHỤC HƯNG
1- Sự ra đời :
Cùng với sự ra đời của CNTB, một nền
văn hóa mới cũng xuất hiện, đối lập gay gắt
với hệ tư tưởng văn hóa phong kiến : đó là
nền văn hoá phục hưng.
Văn hóa phục hưng là khôi phục lại và phát
triển nền văn hóa xán lạn của Hy lạp - La
mã bị xã hội phong kiến và giáo hội Thiên
chúa giáo vùi dập đi gần 10 thế kỷ.
Văn hóa phục hưng xuất hiện tương đối
sớm, vào thế kỷ XIV, XV ở các thành thị
của Bắv Ý, về sau phong trào lan ra Hà Lan,
Anh, Pháp, Ðức , Tây ban nha, Bồ đào
nha,.... phát triển rực rở nhất vào thế kỷ XVI
và ảnh hưởng của nó kéo dài đến thế kỷ
XVII.
Sự ra đời của nền văn hó a phục hưng
biểu hiện bằng sự phát triển phong phú của
các thể loại và hình thức (văn, kịch , nhạc,
hội họa,...) , nó còn biểu hiện ở sự nhảy vọt
của khoa học kỹ thuật , của khối lượng đồ sộ
các tác phẩm và những tài năng sáng tạo.
Giá trị chủ yếu của nền văn hóa nầy vẫn là ở
nội dung tư tưởng của nó.
2- Về nội dung :
Trong nền văn hóa thời phục hưng, chủ
nghiã nhân văn được thể hiện rõ ràng. Trước
hết ở sự phê phán xã hội phong kiến và lên
án giáo hội thiên chúa giáo, tinh thần đề cao
gía trị con người, đòi quyền tự do cá nhân,
tinh thần dân tộc nãy nở.
CHỦ NGHIÃ NHÂN VĂN : Theo V.P
Volgin : chủ nghiã nhân văn là một quan
điểm đạo đức và chính trị không phải xuất
phát từ những nguyên tắc nào đấy ở cỏi âm
hoang, ở bên ngoài đời sống thực tế của con
người, mà xuất phát từ con người tồn tại
thực tế, với những nhu cầu và năng lực thực
tế đòi hỏi phải được phát triển và thoả mãn
càng rộng càng đầy đủ càng tốt trong đời
sống thực tế.
Theo nghiã hẹp , chúng ta gọi trào lưu tư
tưởng nhất định thế kỷ XIV -XVI là chủ
nghiã nhân văn vì các đại biểu của nó biểu
hiện rõ ràng các khuynh hướng nói trên.
a- Tư tưởng phê phán xã hội phong
kiến Và lên án giáo hội Thiên chúa
giáo :
Người được coi là mở đầu và tiêu biểu
cho tư tưởng nầy là Alighieri Dante (1265 -
1321) tác giả của Hài kịch thần thánh .
Thông qua tác phẩm ông muốn tỏ rõ thái độ
của mình đối với bọn thống trị, bọn thầy tu
gian ác, bọn giáo hoàng.
Tác giả thứ hai là Fracois Rabelais
( 1494-1553). Ông là ngôi sao sáng của nền
văn hóa phục hưng, ông dã phê phán giáo
hội và chỉ trích sâu cay trật tự xã hội PK,
đánh thẳng vào bọn vua chúa, với tác phẩm
nổi tiếng Garganchuya và Pantaguyen “.
b- Tinh thần đề cao gía trị con người :
Ðược thể hiện sâu sắc trong tác phẩm
Don Quichotte nhà qúi tộc tài ba xứ
Manche của đại văn hào người Tây ban
nha Miguel de Cervantès (1547-1616).
c- Ý thức đòi quyền tự do cá nhân :
Ðòi giải phóng con người hỏi mọi qui
tắc, giáo điều và sự khổ hạnh do bọn tăng lữ
phong kiến đề ra. Ðòi được tự do yêu
thương.
d- Tinh thần dân tộc :
Văn thơ thời kỳ nầy nói lên lòng yêu quê
hương, sự gắn bó với dân tộc, tinh thần qúi
trọng tiếng nói của dân tộc . Tiêu biểu như
Dante, Joachim Du Belley (1522-1560).
Ngoài các nhà văn học ra, ta thấy chủ
nghiã nhân văn được tổng hợp, được nâng
tới cao độ và khép lại ở William Shakespear
(1564-1616), nhà viết kịch nổi tiếng người
Anh. Kịch của ông lên tiếng sự tàn bạo, lòng
tham lam ích kỷ và sự phản bội, bao gồm
hai loại kịch ;
· Hài kịch : gây tiếng cười sảng
khoái, toát lên từ những tấm lòng
yêu đời và chung thủy trong tình
yêu.
· Bi kịch : là những tiếng nói đanh
thép, kết tội thái độ thù địch phong
kiến, lên án những cuộc đổ máu vì
lòng ích kỷ, những âm mưu phản
trắc,... đồng thời là tiếng nói bênh
vực tình yêu chính đáng và trong
sạch, ca ngợi tấm lòng kiên trung.
3- Nền nghệ thuật thời Phục hưng :
a- Nghệ thuật tạo hình :
Lấy con người làm chủ đề sáng tác,
nên đã thoát khỏi những đường nét hạn
chế, những bộ mặt nghiêm nghị hay
thiểu não, những màu sắc sặc sỡ hay ảm
đạm của nghệ thuật phong kiến.
Tiêu biểu cho nghệ thuật hội họa là
Leonardo da Vinci (1452-1519) và
Michelangele Buonarrotti (1475-1564)
đều là người Ý.
· Leonardo da Vinci với tác
phẩm nổi tiếng là bức Lajocol vẽ
hình ảnh người thiếu phụ
Monnalida với nụ cười và đôi
mắt chứa chan hàm xúc.
· Michelangele, nhà họa sĩ điêu
khắc nổi tiếng với bức bích họa
có diện tích 221 mét vuông vẽ
trên trần nhà thờ Sittien ( Roma).
b- Kiến trúc :
Những công trình xây dựng thời kỳ
nầy đều mang những phong cách mới :
Kiểu trang trí đơn điệu, đường nét hạn
chế, gãy khúc, hình dáng nặng nề đã
nhường chổ cho những công trình có bề
mặt rộng rãi, khoáng đạt, sáng sủa, chắc
chắn và bề thế ( với những vòm lớn,
những dãy cột cao, cửa sổ có lấp kính
màu) vừa gắn với thiên nhiên, vừa gần
gũi với cuôc sống hơn.
c- Âm nhạc :
Có những tiến bộ, thoát khỏi những
khuôn khổ nhạc đệm cho những bài hát
trong nhà thờ. Ðặc biệt nhiều nhạc cụ
mới được cải tiến, biết tổ chức dàn nhạc
và dàn hợp xướng với 3-4 bè.