You are on page 1of 5

Chúng ta phải tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạora và tiềm năng lợi thế

của đất
nước để rút ngắn quá trình CNH,HĐH đất nướctheo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế
tri thức. Phải coi kinh tế trithức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH,HĐH

Thứ nhất, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, với những vấn đề cơ bản sau đây. 

- Hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái nhiệt đới đa dạng sản phẩm hàng hóa, tỷ
suất hàng hóa, chất lượng, năng suất và khả năng cạnh tranh cao, phù hợp với đặc điểm từng
vùng, từng địa phương. 

- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu lao động
ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động
làm công nghiệp và dịch vụ. 

- Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, phát triển
các khu nông nghiệp công nghệ cao, các vùng chuyên hóa tập trung. Ưu tiên đầu tư phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn. Thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn phù hợp
với điều kiện của từng vùng. 

- Xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và đổi mới
các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh. Xây dựng nông thôn mới theo hướng dân chủ,
công bằng, nông dân có cuộc sống no đủ, có đời sống văn hóa lành mạnh, có môi trường
sạch. 

Thứ hai, phát triển kinh tế vùng 

- Đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi tập trung phát triển trước hết một số vùng có khả năng tăng
trưởng mạnh nhất, tạo động lực lan tỏa đến các vùng khác trong nước. 

- Quy hoạch phát triển các vùng trọng điểm phải đặt trong quy hoạch phát triển tổng thể của cả
nước và tạo các mối liên kết kinh tế cơ bản giữa các vùng và trong nội bộ từng vùng trên cơ sở
phân công lao động, đưa vào lợi thế phát triển của mỗi vùng. 

- Cần đặc biệt quan tâm phát triển những vùng có thế mạnh tiềm năng tự nhiên cho phép tạo
nhiều việc làm, tăng thu nhập... Đồng thời, có cơ chế chính sách để tạo điều kiện cho các vùng
còn nhiều khó khăn phát huy được tiềm năng của mình để phát triển nhanh, đặc biệt là vùng
biên giới, hải đảo, các vùng Tây Nguyên Tây Nam và Tây Bắc. 

Thứ ba, phát triển nhanh hơn công nghiệp xây dựng và dịch vụ 

- Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế tác, công nghiệp phần
mềm, công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều
lao động. Phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các khu công
nghiệp, khu chế xuất. 
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh các ngành
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng
theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc
gia. 

- Trên cơ sở bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước
để xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với
công nghệ tiết kiệm năng lượng. Hoàn chỉnh một bước cơ bản mạng lưới giao thông, thủy lợi,
cấp thoát nước... Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính - viễn thông. 

- Phát triển vượt bậc các ngành dịch vụ. 

Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm năng còn rất lớn
của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới; tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế để
tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao
hơn tốc độ tăng GDP. 

Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng
và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, mở mang các dịch vụ mới, nhất là
những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Hiện
đại hóa và mở rộng các dịch vụ ngân hàng theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường tài chính,
tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế. 

Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ. 

Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển 

- Phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định triển vọng của quá trình CNH, HĐH rút ngắn.
Điều này thể hiện như sau: 

+ Khắc phục những yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực nước ta để đạt mục tiêu nâng cao
sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế thành công và củng cố các cơ sở tăng trưởng bền
vững. 

+ Đây là cách thức đúng đắn để đạt mục tiêu phát triển con người. 

+ Phát triển nguồn nhân lực chính là tạo lập cơ sở quan trọng để tiếp cận và phát triển kinh tế
tri thức. 

Bởi vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải được xác định là một nội dung trung tâm
của phát triển bền vững và của quá trình hiện đại hóa. 
Phát triển nguồn nhân lực cần được thực hiện theo hai hướng: Phát triển con người và hiện đại
hóa khâu giáo dục, đào tạo. Ở đây, phát triển con người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào
tạo là trung tâm. Ở nước ta hiện nay, giáo dục, đào tạo còn lạc hậu và chưa thích ứng với việc
hình thành nguồn nhân lực của quá trình hiện đại hóa. Do đó, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo
chứ không chỉ dừng ở cải cách là một vấn đề trọng tâm, mang tính tiên quyết của quá trình hiện
đại hóa. Gắn với quá trình hiện đại hóa giáo dục, đào tạo, việc đầu tư cho giáo dục đào tạo
trong mối quan hệ với hiện đại hóa nguồn nhân lực, được xem là đầu tư cho sản xuất, thuộc
“ngành công nghiệp nặng” và là đầu tư mang tính hiệu quả nhất. 

- Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học
và công nghệ. Chú ý đi ngay từ đầu vào công nghệ hiện đại đối với các lĩnh vực then chốt và
từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, chú trọng đúng mức việc phát triển công
nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm. 

Trong vấn đề này, có ba điểm nhấn quan trọng. 

a. Phát triển khoa học tự nhiên và công nghệ. Phát huy những năng lực nội sinh đi đôi với tiếp
thu, làm chủ, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ thế giới. Phát triển các công nghệ
cao, công nghệ thông tin, viễn thông, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa và sản xuất các dạng
năng lượng mới. Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về nhân lực và công nghệ. 

b. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo hướng Nhà nước đầu tư vào các
chương trình nghiên cứu quốc gia đạt trình độ khu vực và thế giới, xây dựng tiềm lực khoa học
và công nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm; xóa bỏ cơ chế hành chính bao cấp, thực hiện cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Huy động
các thành phần kinh tế, đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ. Đẩy
mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Nâng cao chất lượng và khả
năng thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ; đẩy mạnh việc đổi mới công nghệ
trong các doanh nghiệp. 

c. Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu
ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay
nghề cao. Có chính sách thu hút, trọng dụng các nhà khoa học, công nghệ tài giỏi ở trong nước
và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. 

3. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN để đẩy mạnh CNH, HĐH
gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay 

Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng có ghi “Trong 5 năm tới, chúng ta chủ trương tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức”. 

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN và đẩy mạnh CNH, HĐH gắn
với phát triển kinh tế tri thức là hai nội dung có quan hệ thống nhất, hữu cơ của quá trình phát
triển rút ngắn để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hưởng
hiện đại. 

Có thể khẳng định rằng: “Công cuộc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ toàn diện và đồng bộ hơn trong
những năm tới phải lấy việc hoàn thiện thế chế KTTT định hướng XHCN để phát huy tối đa nội
lực, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là nội dung
cơ bản. 

Việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, để thúc đẩy nhanh CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức, phải đảm bảo: 

Một là, thực hiện mục tiêu chiến lược của sự phát triển KTTT là “quá trình thực hiện dân giàu,
nước mạnh tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ
cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc”; “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. 

Muốn vậy, phải có tăng trưởng và phát triển kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
và quản lý có hiệu quả nền KTTT. 

Hai là, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. 

Các chủ thể chế kinh tế thuộc các thành phần kinh tế cấu thành bộ phận quan trọng của thể
chế kinh tể thị trường. Ở đây, các chủ thể kinh tế đóng vai trò “người chơi” trong nền kinh tế thị
trường. 

Tư duy nhất quán của Đảng ta là các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế không phân biệt
hình thức sở hữu đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật và Nhà nước phải tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi thành viên xã hội, mọi thành phần kinh tế phát huy cao độ tính năng
động, sáng tạo, kinh nghiệm quản lý và nhân tài, vật lực để tổ chức sản xuất kinh doanh, tạo ra
nhiều của cải cho xã hội, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”. 

Về phát triển mạnh các thành phần kinh tế

Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh:nghiệp nhà nước. 

Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Muốn thế cần
phải: 1/ thừa nhận và khẳng định rằng: Phát triển kinh tế tư nhân trong nền KTTT định hướng
XHCN là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Kinh tế tư nhân là một yếu tố cấu thành cơ
bản và bình đẳng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam . 2/ Cần có một môi trường vĩ mô
ổn định và thật sự mang tính khuyến khích phát triển đối với kinh tế tư nhân. 

Ba là, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quản vận hành các thị trường cơ bản, theo cơ chế
cạnh tranh tự do, lành mạnh. 
Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, các loại thị trường đang từng bước được hình
thành, còn thiếu nhiều yếu tố tiềm ẩn đan xen, thị trường chưa được hình thành một cách đồng
bộ. Do đó, phát triển đồng bộ hệ thống các loại thị trường cơ bản là một nội dung quan trọng
trong việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta. 

Để phù hợp với thể chế KTTT hiện đại, các loại thị trường: Hàng hóa và dịch vụ, sức lao động,
tài chính, bất động sản, khoa học và công nghệ... tất yếu phải được hình thành và phát triển
đồng bộ. Tính đồng bộ của các loại thị trường trong nền KTTT ở nước ta, bao gồm: 

a. Đồng bộ về các loại thị trường. 

b. Đồng bộ về các điều kiện để xây dựng và phát triển hệ thống thị trường hoàn chỉnh. 

c. Đồng bộ về trình độ phát triển. 

Để phát triển từng loại thị trường, cần có những giải pháp cụ thể, thích ứng với điều kiện của
một nền kinh tế có điểm xuất phát thấp và đang trong giai đoạn chuyển đổi. Trong điều kiện đó,
nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo lập các điều kiện môi trường cho các loại
thị trường nhanh chóng hình thành và phát triển. 

Bốn là, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước 

KTTT định hướng XHCN muốn phát triển có hiệu quả cần có sự quản lý của nhà nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam . Tuy nhiên, vai trò của Nhà nước trong nền KTTT phải
phù hợp với điều kiện của cơ chế thị trường, phải tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan,
nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và các công cụ chính sách vĩ mô để điều tiết kinh tế thị
trường. Vấn đề cơ bản là, đẩy mạnh cải cách bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng
tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý. 

Đổi mới và hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế là điều kiện tiên quyết nhằm không
ngừng nâng cao năng lực nhà nước, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà
nước về kinh tế. Muốn vậy, phải xây dựng một nhà nước hiện đại, theo hướng: 1. Xây dựng bộ
máy nhà nước với một cơ cấu hợp lý, gọn nhẹ có hiệu lực cao cả trong việc lập pháp, hành
pháp, tư pháp và có hệ thống hành chính hiện đại. 

2. Có đội ngũ cán bộ, công chức có đủ trình độ, năng lực và thích ứng với xu thế phát triển hiện
đại. 

3. Có trang thiết bị làm việc hiện đại và một hệ thống thông tin hiện đại... hình thành chính phủ
điện tử. 

4. Có nền tài chính mạnh.

You might also like