Professional Documents
Culture Documents
I).3 LÝ THUYẾT
Quang phổ học có thể được định nghĩa là nghiên cứu sự tương tác của ánh sáng với
chất cần xác định.
Khu vực của quang phổ cận hồng ngoại là một phần của phổ rung động và bao gồm
một phần quang phổ giữa hồng ngoại.
Quang phổ cận hồng ngoại là một kỹ thuật phân tích cho phép biết được thành phần
hóa học của thực phẩm và nguyên liệu nhanh hơn nhiều so với xét nghiệm sinh hóa
thông thường. phát triển hiện tại của kỹ thuật này đang di chuyển theo hướng trực tiếp
dự báo về giá trị dinh dưỡng của thực phẩm.
Quang phổ cận hồng ngoại được dựa trên sự rung động phân tử và kết hợp. quá trình
chuyển đổi như vậy bị loại bỏ bởi các quy tắc lựa chọn của cơ học lượng tử . Kết quả
là, các sự hấp thụ phân tử trong vùng cận hồng ngoại thường khá nhỏ.
Một lợi thế là NIR thường có khả năng đâm xuyên vào một mẫu hơn so với bức xạ
hong ngoại giữa.
Các rung động của phân tử và bước sóng kết hợp trong các cận hồng ngoại thường
rất rộng, dẫn đến phổ của nó phức tạp, nên khó để xác định các tính năng cụ thể các
Chúng ta tiếp tục giả định rằng liên kết theo định luật của Hooke, cho bởi:
f = - k (r - req)
Với: f : lực tác dụng lên hạt.
r: vị trí ban đầu
req: vị trí cân bằng.
Trong điều kiện này, đường cong năng lượng là parabol và đối xứng về vị trí
req cân bằng.
Năng lượng này được cho bởi:
E = k (r - req) 2 / 2
Các tần số dao động tự nhiên của liên kết được cho bởi phương trình:
n = (k / μ) 1 / 2 / 2π
với: μ khối lượng hao hụt: μ = m1m2 / (m1 + m2).
Phương trình này rất đơn giản có thể được sử dụng để tính toán vị trí gần đúng
một phổ cơ bản (trong giữa vùng hồng ngoại) khi biết k là lực liên tục giữa hai nguyên
tử.
I).3.1.2 dao động phi điều hòa:
Các liên kết nguyên tử không theo đúng định luật được mô tả bởi những giản đồ dao
động.
ví dụ: nếu liên kết là mạnh,nén thì năng lượng tăng theo định luật của Hooke.
Ngược lại, nếu lực liên kết được kéo dài, sức mạnh liên kết có xung hướng đến một
điểm, mà tại đó các phân tử phân ly, giải phóng các nguyên tử cấu thành của nó.
Năng lượng của mô hình phi điều hòa được cho bởi:
E =De [1 - exp(a (req - r))] 2
với De là năng lượng phân ly và có một hằng số đặc trưng cho liên kết giữa
nguyên tử.
mỗi chế độ tương ứng với tần số riêng và tần số cơ bản, một số khác liên kết với các
sóng âm.
Một phần của một chuỗi các chế độ rung động và những liên kết khác . Những kết quả
tương tác bởi sự xuất hiện của các sóng kết hợp. Các sóng như vậy xuất hiện ở tần số
mà chính nó là sự kết hợp tuyến tính cơ bản của một dải tần.
ánh sáng hấp thụ it mạnh trong NIR vào giữa hồng ngoại. tia sáng có khả năng đâm
xuyên vào vài milimet trong sản phẩm nghiên cứu, và mẫu không cần thiết phải pha
loãng khi sử dụng quang phổ.
Ngoài ra, các song cận hồng ngoại có đỉnh hấp thụ rất rộng (Hình 3) các bước sóng
không thay đổi đáng kể cường độ hấp thụ ánh sáng. Nó tiện ích cho các ứng dụng phân
tích dựa trên việc đo hấp thụ ánh sáng ở bước sóng dữ liệu.
Nguồn sáng:
Trong quang phổ cận hồng ngoại nguồn sáng thường là đèn Volfram-Halogen,
đèn LED.
Nguồn sáng volfram thường được gọi là nóng sáng, vì chúng phát ra ánh sáng
khi bị đun nóng bởi năng lượng điện. Dây tóc của các bóng đèn hiện đại thường làm
bằng volfram, một kim loại có hiệu suất phát sáng tương đối hiệu quả khi bị đun nóng
điện trở bằng dòng điện. Các đèn nóng sáng hiện đại có nguồn gốc từ đèn hồ quang
carbon
Nguồn sáng là một bóng đèn volfram-halogen. Có thể bao gồm 3-20 bộ lọc ánh
sáng. Phương pháp này được ứng dung nhều trong phân tích, các thiết bị ngày càng đa
dạng có thể tạo ra các bộ lọc phù hợp nhất đối với những phân tích cụ thể.
Ánh sáng từ các đèn volfram-halogen tạo thành một chùm tia song song chiếu
sáng vào mẫu.
Một phần chùm tia này được chia làm 2, một phần đi qua mẫu, phần còn lại đi
qua môi trường đo (dung môi).
Đèn volfram nóng sáng là vật bức xạ nhiệt phát ra phổ ánh sáng liên tục trải
rộng từ khoảng 300nm, trong vùng tử ngoại, tới gần 1400nm, trong vùng hồng ngoại
Nhiệt độ bề mặt của dây tóc volfram lúc hoạt động rất cao, thường trung bình
khoảng 2550 độ C. Dây tóc của đèn volfram-halogen thường là những sợi xoắn rất
chặt gắn trong một vỏ bao thủy tinh borosilicate-halide (thường gọi là thạch anh nấu
chảy).
Đèn LED (viết tắt của Light Emitting Diode, có nghĩa là điốt phát quang) là các
điốt có khả năng phát ra ánh sáng hay tia hồng ngoại.
Một cách khác để tạo ra ánh sáng trắng là dùng đèn LED xanh dương và sử
dụng phốt-pho để chuyển hóa thành ánh sáng trắng. Phốt-pho hấp thu ánh sáng từ đèn
LED và tạo ra ánh sáng phân bố đều ở mọi bước sóng. Thông thường, đèn LED không
phát xạ tia cực tím. Đèn LED không được chế tạo để phát tia hồng ngoại.
Đèn LED không chứa thủy ngân như đèn huỳnh quang và halogen, vì vậy hạn
chế nguy cơ thải những chất độc hại ra môi trường.
Bộ phận tách ánh sáng đơn sắc:
Chùm tia sáng từ nguồn thường là tia đa sắc cho nên phải qua bộ phận lọc tách
ánh sáng đơn sắc gồm những lăng kính được chế tạo từ các tinh thể muối làm vật
liệu như Lì, CaF2, NaCl, KBr….
Mỗi loại chỉ cho ánh sáng với khoảng bước sóng nhất định đi qua.
Tinh thể muối này dể chảy khi ẩm do đó phải bảo quản trong không khí khô.
Cách tử là những tấm thủy tinh trên đó vạch những đường song song với nhau
Hệ thống nhận tín hiệu:
Tia sáng sau khi đi qua mẫu đo, bị hấp thụ một phần, phần còn lại được truyền
sang bộ phận tín hiệu.
Các bức xạ cận hồng ngoại có cường độ năng lượng thấp nên thường được sử
dụng detector nhiệt dựa trên hiệu ứng nhiệt để phát hiện tất cả các vùng song cận hồng
ngoại. ở đây detector đã biến tín hiệu ánh sáng thành tín hiệu điện. dòng điện này có
cường độ rất nhỏ, đồng thời luôn thay đổi, phụ thuộc và cường độ tia sáng bị hấp thụ
nhiều hay ít mà dòng điện có cường độ mạnh hay yếu.
Trong hệ thống này, chùm ánh sáng có thể đi theo hai đường quang học khác
nhau tạo ra giao thoa. Ánh sáng trước tiên hướng đến một bộ chia, được thiết kế sao
cho một nửa của ánh sáng được phản xạ (đường đi A) và một nửa khác truyền qua
(đường đi B). Khoảng cách ứng với đường đi B sau đó đến một gương cố định, nó
được trả về để tách và cuối cùng đến các máy dò. Khoảng cách kết hợp với đường dẫn
A đến gương động sau đó được truyền tới máy dò thông qua các bộ chùm chia.
Người ta có thể thấy rằng di chuyển gương có thể thay đổi chiều dài đường dẫn
quang học A. Khi gương di chuyển đến một vị trí mà đo dài đường dãn quang A và
đường dẫn B bằng nhau.
Đối với một chùm tia đơn sắc bước song λ, với δ là bội số của λ là 2λ, 3λ...
Thay vào đó đối với các tia mà quãng đường A và B không bằng nhau khi δ = λ/2,
3λ/2, 5λ/2. Nếu di chuyển gương với một tốc độ không đổi, một chùm ánh sáng đơn
sắc được xác định thông qua việc phát hiện một hình sin tín hiệu điện. Tương tự như
vậy, cho một ánh sáng đa sắc, tín hiệu thu âm là tổng của các hàm sin.
Đối với δ = 0, tất cả các bước sóng ảnh hưởng tích cực, giá trị của nó cao nhất.
Ngược lại, khi các đường dẫn quang học δ khác biệt lớn, giá trị của nó gần với 0. Như
vậy, dao đông sóng là tổng của các hàm sin và biến đổi Fourier của nó cho cường độ
và tần số là quang phổ bình thường.
Ưu điểm chính của biến đổi Fourier quang phổ kế là các bước sóng được xác
định chính xác.
Một số thiết bị sử dụng tinh thể, cách thức của nó cũng như trong biến đổi
Fourier quang phổ kế, sóng ở đây thu được từ các tia ánh sáng theo hai đường dẫn
quang học có độ dài khác nhau. Trong một phân cực phổ kế tinh thể, ánh sáng đi qua
một tinh thể lưỡng chiết phân chia thành hai tia được gọi là "bình thường"và "bất
thường." Các chỉ số khúc xạ tương ứng với hai tia là khác nhau. Khi thay đổi độ dày
của tinh thể, nó cũng làm thay đổi sự khác biệt của hai đường dẫn quang học.
Fourier quang phổ kế bao gồm một loạt các bước sóng thường ghi lại sự hấp thu ánh
sáng của 1100 nm đến 2458 nm với sai lệch ± 2 nm, đôi khi nó cũng quét vùng ánh
sáng nhìn thấy được (400nm – 1100nm).
Dardenne và Féménias (1999) đã sử dụng phương pháp này để phân tích hàm lượng
chất khô của thức ăn thô, tươi sau thu hoạch, xác định chất khô được khoảng 1%.
Nguồn sáng:
Nguồn sáng cho quang phổ cận hồng ngoại biến đổi Fourier cũng là đèn volfram-
halogen và đèn LED.
Giao thoa kế:
Gồm một gương cố định, một gương di động và bộ tách quang. Bộ tách quang được
chế tạo từ một số vật liệu khác nhau, mỗi vật liệu được sử dụng cho một vùng giới hạn
bước sóng: Si thạch anh, Si/CaF2.
Detector:
Nguyên tắc cơ bản của detector là khi một photon đập vào mặt của một chất rắn sẽ làm
bật ra các electron, sau đó các electron này chuyển động và đập vào bề mặt chất rắn và
làm bật ra electron với số lượng lớn hơn nhiều lần, chất rắn đo phải là những chất bán
dẫn.
Một số chất bán dẫn làm detector: PbS(N2), Diod Si.
Xử lý dữ liệu :
Ghi nhận những thông tin tương ứng với bước sóng khác nhau. Các tín hiệu được ghi
lại bằng cách sử dụng một bộ phận cảm biến. Một hệ thống mã hóa được sử dụng để
Máy NIRQuest256:
Thiết bị quang phổ cận hồng ngoại SpectraStar cho kết quả có độ tin cậy cao.
Dễ sử dụng và sửa chữa.
Của sổ của SpectraStar linh hoạt để xử lý tổng số mẫu Mẫu cũng có thể được phân
tích thông qua một loạt các ống mẫu, đã Petri, cốc. Các hệ thống cửa sổ SpectraStar
được thiết lập sẵn cấu hình bước sóng trong vùng cận hông ngoại
SpectraStar có bước sóng từ 1100 lên đến 2500 nm.
I).6 NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI XỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGÀY
I).6.1 Ưu điểm:
Phương pháp này giúp kiểm soát chất lượng định kỳ.
Phân tích được hoàn thành trong 40 giây hoặc ít hơn.
Phương pháp này là thích hợp cho việc phân tích các mẫu lớn, vì ánh sáng cận hồng
ngoại có thể xuyên qua hơn so với ánh sáng hồng ngoại.
I).6.2 Nhược điểm:
Nó chỉ cho kết quả chính xác cao đối với các mẫu đồng nhất, các mẫu không đồng
nhất thường kết qủa có sai lệch khác nhau.
NIR thường cho kết quả đối với chất rắn, lỏng tốt hơn so với các chất phản xạ.
Ví dụ để xác định hàm lượng chất béo ta phải chuẩn bị mẫu trước, như xay nhuyễn
khối lượng mẫu cần phân tích để tại thành thể đồng nhất trước khi đem đi xác định. Ta
sẽ thu được kết quả chính xác cao.
PHẦN II: ỨNG DỤNG TRONG CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
quang phổ cận tia hồng ngoại (NIR) đã được xem là kỹ thuật phân tích được ứng dụng
nhiều trong phân tích nông nghiệp thực phẩm. Kỹ thuật này được coi là sạch và tôt vì
không sử dụng hoá chất, không có vấn đề về sức khoẻ và an toàn.
NIR phân tích dư lượng axit amin trong protein, đánh giá chất lượng của chất béo,
protein thành phần của các sản phẩm sữa và hạt. Phân biệt giữa bột cá, bột thịt, bột đậu
nành có trong mẫu. phân tích thành phần hóa học các sản phẩm thực phẩm như
phomat, ngũ cốc, bánh kẹo, thịt bò.
Phương pháp quang phổ NIR dễ dàng thực hiện và rất hữu ích trong việc loại bỏ các
nguyên liệu, sản phẩm thực phẩm mà ta nghĩ ngờ không đạt chất lượng.
II).1 PHÂN TÍCH THÀNH PHẦN CHÍNH
Phần lớn các ứng dụng của NIR bao gồm các phân tích các thành phần chính
như nước, protein, chất béo hoặc đường.
II).1.1 Nước:
Việc đo độ ẩm có thể là một trong những ứng dụng chính của pp NIR.