You are on page 1of 135

Bài mở đầu

NHẬP MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


Giúp sinh viên hiểu được đối tượng môn học, mục đích, yêu cầu, chức năng, nhiệm
vụ của môn học, phương pháp nghiên cứu, học tập và ý nghĩa khoa học và thực tiễn của
môn học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Đối tượng nghiên cứu
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với lịch sử dân tộc. Lịch sử Đảng là một
khoa học chuyên ngành của khoa học lịch sử và có quan hệ mật thiết với khoa học lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống tri thức về quá trình hoạt động đa
dạng và phong phú của Đảng trong mối quan hệ mật thiết với tiến trình lịch sử của dân tộc
và thời đại.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là một khoa học có đối tượng nghiên
cứu là tổ chức và hoạt động của Đảng và các phong trào cách mạng quần chúng diễn ra
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cung cấp các tri thức tin cậy về các
sự kiện thuộc về quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng của Đảng, khái quát thành quy
luật phổ biến và đặc thù. Vị trí trung tâm của môn khoa học này là tổng kết lý luận các quá
trình lịch sử.
2. Mục đích, chức năng, nhiệm vụ
Mục đích
Làm sáng tỏ toàn bộ quá trình hình thành, phát triển của tổ chức đảng và những hoạt
động toàn diện của Đảng
Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam; Làm rõ những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam góp
phần tổng kết những kinh nghiệm lịch sử phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời giáo dục niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường cách
mạng Hồ Chí Minh

Chức năng
Chức năng nhận thức: nhận thức lịch sử để phục vụ việc cải tạo xã hội theo đúng
quy luật phát triển của xã hội Việt Nam như một quá trình lịch sử- tự nhiên; góp phần tích
cực tạo cơ sở lý luận để Đảng vạch ra đường lối, chủ trương, chính sách.
Chức năng giáo dục: giáo dục tư tưởng chính trị, tham gia vào giải quyết những
nhiệm vụ hiện tại. Trau dồi thế giới quan, phương pháp luận khoa học, xây dựng niềm tin
vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhiệm vụ
Làm sáng tỏ điều kiện lịch sử, quá trình ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam
- bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
Làm rõ quá trình trưởng thành, phát triển của Đảng gắn liền với hoạt động xây dựng
một chính đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trình bày quá trình hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, các
giai đoạn cách mạng trong những bối cảnh lịch sử cụ thể.
Trình bày các phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng tổ chức và lãnh đạo.
Tổng kết những kinh nghiệm lịch sử Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh
Phương pháp cụ thể
- Phương pháp lịch sử: là phương pháp chung nhất, nghiên cứu sự vật, hiện
tượng theo trình tự thời gian, quá trình diễn biến, đi từ phát sinh, phát triển đến hệ quả
của nó.
- Phương pháp logíc: nghiên cứu một cách tổng quát, nhằm tìm ra được cái bản chất
của sự vật, hiện tượng và khái quát thành lý luận.
- Ngoài ra, một số phương pháp khác như: phương pháp lịch đại, phương pháp đồng
đại, phương pháp so sánh … cũng được sử dụng để làm sáng tỏ những nội dung có liên
quan.
- Trong nghiên cứu lịch sử Đảng phải luôn luôn quán triệt nguyên tắc: tính khoa học
thống nhất với tính Đảng; quan điểm lịch sử cụ thể; tính thực tiễn.
4. Ý nghĩa thực tiễn
Giải đáp những vấn đề có liên quan đến tiền đồ và vận mệnh của cách mạng nước ta
như: con đường xây dựng đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn của
lịch sử; hơn 75 năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo duy nhất và cũng chỉ
cần một Đảng lãnh đạo mà thôi…
Tự bồi dưỡng cho mình truyền thống yêu nước, lòng tự hào đối với Đảng và dân
tộc, tự trang bị những kiến thức chính trị - xã hội cần thiết về cách mạng Việt Nam để thêm
tin tưởng vào tiền đồ cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bồi dưỡng ý chí chiến đấu cách mạng, biết noi gương những người đi trước, tiếp
tục cuộc chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của
chúng ta.

Câu hỏi ôn tập, thảo luận


1. Sự giống và khác nhau về đối tượng nghiên cứu giữa lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc?
2. Chức năng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu môn lịch sử Đảng?
3. Mục đích, ý nghĩa của việc học tập nghiên cứu lịch sử Đảng?
Chương I
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (1920-1930)
I. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
1. Tình hình thế giới
Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền (đế quốc chủ nghĩa).
Nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh đặt ra nhu cầu bức thiết về thị trường, nguyên
liệu và nhân công, khiến các nước đế quốc cạnh tranh, giành giật thuộc địa và khu vực phụ
thuộc. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn tới cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong
kiến ở phương Đông và châu Phi. Đến năm 1914, các nước đế quốc đã thực hiện xong mục
đích đặt ách thống trị trên một bộ phận lớn của thế giới. Đám mây đen của chủ nghĩa đế
quốc đã bao trùm toàn thế giới.
Sự xâm chiếm, khai thác và nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đã dẫn tới mâu
thuẫn gay gắt giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc. Do đó, chống chủ nghĩa đế
quốc, giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa trở thành một nội dung lớn của phong trào
cách mạng thế giới, nhất là các nước châu Á, trong đó có Việt Nam.
Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917) thành công đã làm biến đổi căn bản tình
hình thế giới. Nó không chỉ tác động sâu sắc đến phong trào cách mạng vô sản ở các nước
tư bản, mà còn lan toả sâu rộng tới các nước thuộc địa, cổ vũ các dân tộc bị áp bức đứng
lên tự giải phóng mình. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác-Lênin
đã được truyền bá rộng rãi, dẫn đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ
nghĩa và thuộc địa (Đảng Cộng sản Pháp (1920), Đảng Cộng sản Anh (1920), Đảng Cộng
sản Trung Quốc (1921)…
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập và trở thành bộ tham mưu cho
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin được công bố tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản
(1920) đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng mình cho các dân tộc bị áp bức.
2. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam
a. Chính sách thống trị của thực dân Pháp
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Pháp thôn tính Việt Nam
vào đúng lúc chế độ phong kiến Việt Nam đang suy tàn. Mâu thuẫn giữa nông dân và
phong kiến đang gay gắt. Hàng loạt các cuộc nổi dậy của nhân dân chống lại triều đình
đang diễn ra.
Sự yếu kém về kinh tế, quân sự, sự nhu nhược của bộ máy quan lại triều đình đã dẫn
đến việc Việt nam rơi vào bàn tay người Pháp và trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành hai cuộc khai thác thuộc
địa (1897-1913; 1919-1929), với mục đích cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nguồn nhân
công rẻ mạt, biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hoá cho chính quốc, thu lợi
nhuận tối đa, phục vụ cho giới tư bản lũng đoạn Pháp. Nhằm thực hiện mục đích đó, thực
dân Pháp tiến hành chính sách cai trị trên mọi lĩnh vực.
Về chính trị
Thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế điển hình của chủ nghĩa thực dân
kiểu cũ:
- Chúng chia Việt Nam ra thành ba miền nhằm bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ
và đàn áp các phong trào yêu nước.
- Chúng biến bộ máy triều đình Nhà Nguyễn thành chỗ dựa và hệ thống tay sai đắc
lực giúp chúng áp bức, bóc lột nhân dân ta.
- Mọi quyền hành của đất nước đều nằm trong tay các viên quan cai trị người Pháp.
- Chúng sáp nhập ba nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia thành xứ Đông Dương, rồi
dùng chính sách chia rẽ dân tộc để dễ bề cai trị.
Về kinh tế
Thực dân Pháp kìm hãm nền kinh tế Việt Nam trong vòng lạc hậu, làm cho kinh tế
nước ta bị phụ thuộc và phát triển què quặt:
- Thực hiện chính sách độc quyền, đặc biệt trong các ngành kinh tế cho lợi nhuận
cao: độc quyền xuất nhập khẩu, khai thác dầu mỏ, giao thông, ngân hàng, cho vay nặng lãi,
muối, rượu, thuốc phiện…
- Một mặt duy trì phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu. Mặt khác, thiết lập một
cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, để dễ bề bóc lột, thu lợi nhuận siêu
ngạch.
- Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá cho tư bản chính quốc và biến nền kinh tế
Việt Nam phải phụ thuộc vào nền kinh tế ở chính quốc.
- Ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động bằng nhiều hình thức thuế khoá
nặng nề, vô lý.
Về văn hoá
- Kìm hãm, nô dịch về văn hoá, thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị:
- Khuyến khích văn hoá độc hại, xuyên tạc lịch sử và giá trị văn hoá Việt Nam, gây
tâm lý tự ti
- Bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng văn hoá tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam.
- Dùng rượu cồn, thuốc phiện… đầu độc các tầng lớp nhân dân, khuyến khích các
hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục.
Tóm lại, dưới danh nghĩa những người đi khai hoá văn minh, thực dân Pháp đã thực
hiện ở Việt Nam một chế độ cai trị hà khắc, nhằm nô dịch nhân dân ta về chính trị, văn hoá
và bóc lột về kinh tế. Mặc dù vậy, sự thống trị của người Pháp từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, về khách quan đã tạo nên sự chuyển biến xã hội, giai cấp của Việt Nam.
b. Hậu quả chính sách cai trị của thực dân Pháp đối với xã hội Việt Nam
Về kinh tế
- Nền kinh tế què quặt, bị kìm hãm nặng nề và tiến triển chậm chạp, mang tính tư
bản thực dân, song đồng thời mang tính chất phong kiến.
- Quan hệ kinh tế phong kiến ở nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị,
những trung tâm kinh tế và tụ điểm dân cư mới.
- Tạo nên những biến đổi trong cơ cấu kinh tế; sự ra đời những ngành kinh tế công
nghiệp, khai thác mỏ, giao thông vận tải, thương nghiệp; trong nông nghiệp xuất hiện kinh
tế đồn điền, kinh doanh theo lối tư bản.
Về xã hội
Bên cạnh giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân (hai giai cấp cũ), xuất
hiện những giai cấp, tầng lớp mới, với thái độ chính trị khác nhau:
Giai cấp địa chủ, phong kiến
Trước sau vẫn được thực dân Pháp dung dưỡng để làm chỗ dựa cho chính sách
thống trị. Dưới ảnh hưởng của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, giai cấp
địa chủ, phong kiến chia làm ba bộ phận: tiểu, trung và đại địa chủ. Một bộ phận không nhỏ
tiểu và trung địa chủ không chịu nỗi nhục mất nước, có mâu thuẫn với đế quốc về quyền lợi
dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân và bọn phản động tay sai.
Giai cấp nông dân
Là giai cấp đông đảo nhất, chiếm khoảng 90%, dân số. Họ bị bóc lột nặng nề, ruộng
đất bị tư bản thực dân chiếm đoạt và bị bần cùng hoá, nên mang mối thù sâu nặng với đế
quốc và phong kiến. Họ vừa có yêu cầu về độc lập dân tộc, vừa có yêu cầu về ruộng đất,
nhưng yêu cầu độc lập dân tộc là bức thiết nhất.
Tuy vậy, đây là giai cấp có phương thức sản xuất lạc hậu, manh mún, trình độ nhận
thức hạn chế, nên không thế tự vạch ra đường lối đúng đắn để tự giải phóng và không thể
lãnh đạo cách mạng . Nhưng họ là lực lượng đông đảo, không thể thiếu và cực kỳ quan
trọng, là động lực chủ yếu của cách mạng. Khi giai cấp nông dân được tổ chức lại và có sự
lãnh đạo của đội tiên phong cách mạng sẽ phát huy được sức mạnh tiềm tàng của mình.
Giai cấp tư sản
Ra đời từ các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (trước chiến tranh thế giới
thứ nhất chỉ là một bộ phận nhỏ, sau chiến tranh đã hình thành giai cấp rõ rệt). Số lượng tư
sản Việt Nam không nhiều, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối. Tư sản Việt
Nam phân hoá thành hai bộ phận:
Tư sản dân tộc: có khuynh hướng kinh doanh độc lập, tiềm lực kinh tế nhỏ, quyền
lợi kinh tế, chính trị mâu thuẫn với đế quốc; hoạt động trong các ngành thương nghiệp,
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hải sản…Bị đế quốc chèn ép, phong kiến căm
ghét, có mâu thuẫn về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và phong kiến, nên họ có tinh
thần chống đế quốc và phong kiến. Đây là một lực lượng của cách mạng.
Tư sản mại bản:
Bao gồm những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu những công
trình xây dựng lớn, hoặc sở hữu những đồn điền, ruộng đất lớn, cho phát canh, thu tô.
Là bộ phận có quyền lợi kinh tế, chính trị gắn chặt với thực dân, đế quốc,
nên chúng là kẻ thù của dân tộc.
Tầng lớp tiểu tư sản: Bao gồm trí thức, học sinh, sinh viên, tiểu thương,
tiểu chủ, thợ thủ công, viên chức, những người buôn làm nghề tự do. Họ có cuộc
sống bấp bênh, luôn bị thực dân chèn ép, bóc lột. Nhưng tiểu tư sản là tầng lớp có
sự nhạy bén về chính trị, dễ tiếp thu với cái mới, cái tiến bộ, hăng hái tham gia
cách mạng. Họ có tinh thần dân tộc cao, khát khao độc lập, tự do. Nhưng họ chỉ là
tầng lớp trung gian trong kết cấu xã hội mới; dao động trước khó khăn, kém bền
bỉ, dễ thoả hiệp, lập trường giai cấp không vững vàng, dễ thay đổi. Đây là lực
lượng quan trọng của cách mạng.
Giai cấp công nhân
Giai cấp này ra đời do chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
chỉ chiếm khoảng 1% dân số, phát triển nhanh sau chiến tranh thế giới thứ nhất
(năm 1914 có 10 vạn; năm 1929 có 22 vạn, trong đó 60% là công nhân mỏ than,
còn lại là công nhân đồn điền).
Ngoài đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới, đó là một lực lượng
xã hội tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức
kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế họ còn có
đặc điểm riêng, đặc trưng của giai cấp công nhân Việt Nam:
1. Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc nên nội bộ thuần nhất, thống nhất.
2. Chịu ba tầng áp bức (đế quốc, phong kiến, tư sản bản xứ).
3. Phần lớn xuất thân từ giai cấp nông dân, bị bần cùng hoá, bị cướp
ruộng đất, xô đẩy vào con đường không lối thoát, phải bán sức lao động nên họ có
quan hệ mật thiết, máu thịt với nông dân nên dễ hình thành liên minh công – nông.
4. Trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành
phố, các trung tâm công nghiệp và các đồn điền.
5. Sinh ra và lớn lên ở đất nước giàu truyền thống cách mạng, nên đã được
hun đúc chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam khi được tổ chức lại và hình thành được một
đảng tiên phong cách mạng, được vũ trang bằng một học thuyết cách mạng triệt để
là chủ nghĩa Mác-Lênin thì sẽ trở thành người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập
tự do của dân tộc.
Tóm lại, Việt Nam dưới chính sách thống trị và công cuộc khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp đã từ một xã hội phong kiến độc lập thuần tuý trở thành một
xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt nam có hai mâu thuẫn cơ bản:
1. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt nam với thực dân Pháp xâm lược.
2. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giữa nông dân với giai
cấp địa chủ phong kiến.
Hai mâu thuẫn đó gắn chặt với nhau, trong đó mâu thuẫn bao trùm, gay gắt,
có bản, chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp và tay sai.
Nó quy định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là chống đế quốc,
giành độc lập cho dân tộc; chống phong kiến, đưa lại ruộng đất cho dân cày. Trong
đó, nhiệm vụ chống đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu, vì nó giải quyết mâu thuẫn
chủ yếu – mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc.
II. CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC Ở VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX
ĐẦU THẾ KỶ XX
1. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản
Phong trào Cần Vương (1885-1896)
Tháng 1-1885, vua Hàm Nghi và Thượng thư bộ binh Tôn Thất Thuyết
phát động phong trào đánh vào trại lính và toàn khâm sứ Pháp cạnh kinh thành
Huế. Việc không thành, Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân đứng lên
kháng chiến.
Tháng 11-1885, Vua bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển.
Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892);
Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1886-1887); Hùng Lĩnh của
Tống Duy Tân và Cao Điền (1887-1992); Hương Khê của Phan Đình
Phùng và Cao Thắng (1885-1895).
Khởi nghĩa nông dân Yên Thế(1885-1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo
Mặc dù chiến đấu rất anh dũng, nhưng cuối cùng các phong trào đều bị dập
tắt. Sự thất bại này chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không thể giúp nhân dân ta
thoát khỏi kiếp nô lệ. Nó hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ của lịch sử đề ra.
Phan Bội Châu (1867-1940) chủ trương dựa vào sự giúp đỡ ở bên ngoài,
chủ yếu là Nhật Bản để đánh Pháp, giành độc lập dân tộc. Ông lập ra Hội Duy tân
(1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908), thành lập Việt Nam Quang
phục Hội (1912) tại Trung Quốc với tư tưởng võ trang bạo động đánh Pháp, nhưng
đều không thành công.
Phan Châu Trinh (1872-1926) chủ trương dùng cải cách văn hoá, mở mang
dân trí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa, buộc thực dân Pháp phải
trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Ở Bắc Kỳ có mở trường học tiêu biểu là
trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. Ở Trung Kỳ có phong trào Duy tân kết hợp
với phong trào đấu tranh chống thuế (1908).
Phong trào quốc gia cải lương (1919-1923)
Phong trào do một bộ phận của giai cấp tư sản và địa chủ lớp trên lãnh đạo.
Họ hăng hái bước lên vũ đài chính trị, bắt đầu từ mục tiêu kinh tế, vận động chấn
hưng hàng nội hoá, bài trừ ngoại hoá, chống độc quyền. Sau đó, phong trào tiến
dần đến những mục tiêu chính trị, nhưng theo xu thế cải lương. Thể hiện qua một
số phong trào tiêu biểu sau:
Năm 1919, phong trào tẩy chay Hoa kiều, bài trừ hàng hoá ngoại, chấn
hưng hàng nội hoá.
Năm 1923, phong trào chống độc quyền xuất khẩu gạo của Pháp ở cảng Sài
Gòn.
Cuộc đấu tranh của Đảng Lập hiến (1923) do Bùi Quang Chiêu đứng đầu,
tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên, đòi mở rộng các quyền tự do, dân chủ, tham gia
các hoạt động chính trị. Nhưng khi thực dân Pháp ban cho một số quyền lợi, thì
Đảng này đi vào con đường đầu hàng, thoả hiệp, rồi đi đến cộng tác với đế quốc.
Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925-1926)
Đây là phong trào của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra
nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam nghĩa hoà đoàn (1925), Phục Việt (1925),
Hưng Nam (1925), Thanh niên cao vọng (1926)
Họ xuất bản một số tờ báo tiến bộ như Chuông rạn, Người nhà quê, An
Nam trẻ… với một loạt các nhà xuất bản như: Nam đồng thư xã (Hà Nội), Cường
học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế)…
Thông qua sách báo để tuyên truyền tư tưởng yêu nước và lập trường chính
trị của mình, tiến hành những cuộc vận động văn hoá tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi
những tư tưởng tự do, dân chủ.
Phong trào này đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chính trị, gây tiếng vang
lớn như: đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang
Phan Châu Trinh, đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926)…
Nhưng càng về sau, do những thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào
ngày càng bị phân hoá, hoặc đi sâu hơn vào khuynh hướng chính trị tư sản
(Nam Đồng thư xã), hoặc chuyển dần sang quỹ đạo của cách mạng vô sản (Phục
Việt, Hưng Nam).
Phong trào cách mạng quốc gia tư sản (1927-1930)
Phong trào này gắn liền với sự ra đời của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-
1927), tiền thân là Nam đồng thư xã.
Lãnh tụ: Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc
Nhu.
Thành phần: công chức, hào lý, địa chủ, binh lính trong quân đội…
Tư tưởng chính mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn:
đánh đổ thực dân Pháp, phá bỏ ngôi vua, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ
có một đường lối chính trị rõ ràng, cụ thể.
Về tổ chức, chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng
trên thực tế tổ chức rất lỏng lẻo và chưa bao giờ có một tổ chức thống nhất.
Địa bàn hoạt động: đồng bằng, trung du Bắc Bộ.
Ngày 9-2-1930, Đảng tổ chức tiến hành ám sát trùm mộ phu Badanh sau đó
bị thực dân Pháp khủng bố. Họ đứng trước hai sự lựa chọn: hoặc đứng yên cho
thực dân Pháp đàn áp, hoặc khởi nghĩa. Họ chọn giải pháp thứ hai với khẩu hiệu
“Không thành công cũng thành nhân”. Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời
cơ, vì thế nó bị thực dân Pháp chìm trong biển máu. Vai trò của Việt Nam Quốc
dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam kết thúc.
Tóm lại, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã
diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với nhiều hình
thức đấu tranh phong phú song đều bị thất bại. Tuy nhiên phong trào đã góp phần
thức tỉnh và cổ vũ mạnh mẽ lòng yêu nước của nhân dân ta. Thúc đẩy những
người yêu nước tiến tới lựa chọn một con đường cứu nước giải phóng dân tộc mới
phù hợp với nhu cầu và xu thế mới của thời đại.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường giải phóng dân tộc và phong trào yêu nước
theo khuynh hướng vô sản
a. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước
Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19-5-1890 ở
làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình nhà
nho yêu nước, lớn lên trên mảnh đất có truyền thống bất khuất, giữa lúc nước mất
nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào, Nguyễn Ái Quốc đã sớm có
chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Ái Quốc quyết ra đi tìm đường cứu nước. Khác
với những người đi trước, Nguyễn Ái Quốc lên đường đi sang phương Tây, nơi có
khoa học - kỹ thuật phát triển, có những tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái,
xem họ làm thế nào để trở nên độc lập, hùng cường, rồi trở về để giúp đồng bào
đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã sang Pháp, đi qua nhiều nước thuộc địa của Pháp ở
châu Phi, sang Mỹ (1912) và qua nhiều nước ở châu Mỹ, đến nước Anh (1913) và
năm 1917 trở lại Phá. Người đã chứng kiến cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914-1918), quan sát, tìm hiểu về chủ nghĩa tư bản, đế quốc, chính sách thực dân
ở các thuộc địa, cuộc sống của nhân dân các thuộc địa. Bản thân tham gia lao động
và đấu tranh trong hàng ngũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc đủ các
màu da.
Đây là thời kỳ kết hợp nguyên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn trong hoạt
động của Nguyễn Ái Quốc. Người đã khảo sát một số cuộc cách mạng tiêu biểu đã
có trên thế giới như cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp. Qua đó, Người rút ra những
kết luận quan trọng trong nhận thức và hành động:
“Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người
bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình
hữu ái vô sản”.
Tìm ra hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc cách mạng
không giải phóng được công nông và quần chúng lao động. Cách mạng tư sản là
“những cuộc cách mạng không đến nơi”, không triệt để. Và như vậy, “chúng ta đã
hy sinh làm cách mệnh, thì làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều…Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân
chúng mới được hạnh phúc”.
Cuối năm 1917, Người trở lại Pháp. Tại đây, Người lập ra Hội những người
Việt Nam yêu nước với tờ báo Việt Nam hồn để tuyên truyền, giáo dục lòng yêu
nước cho Việt kiều ở Pháp. Trong lúc đó, Cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ.
Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt, Người hướng tới và chịu ảnh hưởng sâu sắc
của cuộc cách mạng vĩ đại đó.
Đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ
nhất ở Pháp lúc đó.
Tháng 6-1919, các nước thắng trận họp tại Hội nghị Vecxay (Pháp).
Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Bản yêu sách, đòi Chính phủ Pháp phải thực
hiện các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản yêu
sách đã không được Hội nghị quan tâm đến, nhưng đã gây được ảnh hưởng chính
trị vang dội. Người rút ra kết luận: những lời tuyên bố “dân tộc tự quyết” của bọn
đế quốc chỉ là trò bịp bợm; các dân tộc muốn được độc lập tự do thực sự phải
trông cậy trước hết vào lực lượng của bản thân mình, phải tự mình giải phóng
mình.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Qua Luận cương, Người đã tìm
thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Cũng từ đó, người hoàn toàn tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế III. Vì thế, tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp (12-
1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đã đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc
đời hoạt động của Người. Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản đầu tiên của
Việt Nam.
Như vậy, sau 10 năm tìm đường cứu nước, từ chủ nghĩa yêu nước, vượt qua
sự hạn chế của các nhà cách mạng đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học
thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và lựa chọn con đường cách mạng
vô sản, mở đường giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng dân tộc của Việt
Nam.
b. Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, từ năm 1921,
Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập chính Đảng cộng sản ở Việt Nam.
Từ đầu năm 1921 đến tháng 6-1923, tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia
sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria).
Cuối năm 1921, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn
Ái Quốc đã kiến nghị thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa trực thuộc Trung ương
Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa được thành lập và
Nguyễn Ái Quốc được cử làm trưởng Tiều ban nghiên cứu vấn đề Đông Dương.
Thời gian này, Người tích cực viết bài đăng các báo Người cùng khổ, Nhân đạo,
Đời sống công nhân… viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, xuất bản lần
đầu năm 1925 tại Pari.
Từ tháng 6-1923 đến cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu và hoạt
động ở Liên Xô, dự Hội nghị quốc tế nông dân (10-1923), Đại hội lần thứ V của
Quốc tế Cộng sản và nhiều đại hội quốc tế quan trọng khác. Người viết nhiều bài
đăng trên các báo của Liên Xô, của Quốc tế Cộng sản… Đây là những năm tháng
Người có dịp đi sâu nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười
Nga, nghiên cứu xây dựng lý luận và tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc đã hình thành về cơ bản.
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây,
Người tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên, hạt nhân là Cộng sản đoàn, xuất bản báo Thanh niên, huấn luyện cán bộ, viết
tác phẩm Đường cách mệnh (xuất bản năm 1927). Đây là bước chuẩn bị về mặt tổ
chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng và xây dựng hệ thống tổ
chức trong nước, chuẩn bị tích cực cho việc thành lập Đảng.
Hệ thống quan điểm và lý luận về cách mạng Việt Nam của Nguyễn Ái
Quốc được thể hiện khá hoàn chỉnh qua các tác phẩm, bài viết của Người trong
chặng đường hoạt động từ năm 1921 đến 1927. Nội dung hệ thống quan điểm đó
là:
Vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực dân. Từ đó xác định: chủ
nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn
thế giới, là kẻ thù trực tiếp của nhân dân các nước thuộc địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời đại –
cách mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở
các nước tư bản (“chính quốc”) có quan hệ khăng khít với nhau. Phải thực hiện
liên minh chiến đấu giữa các lực lượng cách mạng ở thuộc địa và “chính quốc”.
Cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc”, mà
có tính chủ động, độc lập và có thể thành công trước.
Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng: cách mạng ở thuộc địa trước
hết là giải phóng dân tộc, sau đó mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn nhân dân
lao động, giải phóng con người, tức là làm cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về lực lượng cách mạng: “công nông là người chủ cách mệnh”, “là gốc
cách mệnh”; công nhân là giai cấp lãnh đạo, tiểu tư sản trí thức là bạn đồng minh
của cách mạng.
Về phương pháp cách mạng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Quần
chúng cần được giác ngộ và tổ chức lại thành đội ngũ vững bền; hiểu biết tình thế,
có sách lược, “có mưu chước”, kế hoạch.
Về đoàn kết quốc tế: phải thực hiện liên minh, đoàn kết với các lực lượng
cách mạng quốc tế; phải nêu cao tính chủ động cách mạng, ý thức tự lực, tự
cường.
Về vai trò của Đảng: phải có đảng cách mạng lãnh đạo. Đảng muốn vững
phải có học thuyết cách mạng, đó là học thuyết Mác-Lênin; phải biết vận dụng
đúng đắn học thuyết đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Hệ thống quan điểm lý luận của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng ở thuộc địa
là sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị cho Đảng Cộng sản ra đời và định hướng cho
cách mạng Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo.
Người đã tiếp thu và vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin vào
hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, đặt nền móng hình thành chính đảng vô sản và
xây dựng một chiến lược giải phóng dân tộc đúng đắn.
c. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng trong nước, làm cho khuynh
hướng giải phóng dân tộc theo con đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc ngày
càng chiếm ưu thế.
Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thực hiện chủ
trương “vô sản hoá”, từng bước truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, tổ chức
và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Cùng với việc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tích cực xây
dựng lực lượng. Số hội viên của Hội tăng nhanh. Năm 1928 có 300 hội viên, năm
1929 có 1.700 hội viên.
Giai cấp công nhân đã tổ chức đấu tranh ngay từ khi ra đời. Trước chiến
tranh thế giới thứ nhất phong trào diễn ra với những hình thức sơ khai như bỏ trốn
tập thể, phá giao kèo, đốt lán trại, đánh cai ký, đưa đơn phản kháng rồi tiến dần lên
bãi công.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào đã có những bước phát triển
mới. Từ năm 1919-1925, đã nổ ra 25 cuộc bãi công, diễn ra trên quy mô lớn hơn
và dài hơn.
Từ năm 1926-1929, phong trào công nhân ngày càng phát triển với sự ra
đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong hai năm 1926-
1927, mỗi năm có hàng chục cuộc đấu tranh. Trong hai năm 1928-1929 nổ ra hơn
40 cuộc đấu tranh. Các cuộc đấu tranh đã kết hợp giữa khẩu hiệu kinh tế với khẩu
hiệu chính trị và vượt ra khỏi phạm vi của một nhà máy, đồn điền, thể hiện rõ rệt
tinh thần đoàn kết giai cấp, ý thức tổ chức của công nhân.
Tóm lại, phong trào công nhân đang phát triển mạnh mẽ, ngày càng quy tụ
và dẫn đầu phong trào yêu nước nói chung.
3. Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Trước sự phát triển của các phong trào yêu nước, đặc biệt là phong trào
công nhân cuối những năm 20 - thế kỷ XX, những người lãnh đạo trong kỳ bộ Bắc
Kỳ nhận ra sự cấp thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản thay cho Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, để tiếp tục đưa phong trào giải phóng dân tộc tiến lên. Yêu
cầu khách quan đó đã tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc đấu
tranh nội bộ và sự phân hoá tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam. Tháng 3-1929, một số phần tử tiên tiến họp ở số nhà
5Đ, phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên, gồm 7 đảng
viên, do Trần Văn Cung làm bí thư.
Tháng 9-1929, tại Đại hội I của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, đoàn
đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ (do Ngô Gia Tự dẫn đầu) đưa ra đề nghị giải tán tổ chức
Thanh niên và thành lập Đảng Cộng sản. Nhưng đề nghị đó không được chấp
nhận, nên Đoàn đã rút khỏi Đại hội về nước.
Đêm 17-6-1929, 20 đại biểu của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã họp tại 312 phố Khâm
Thiên tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Hội nghị đã thông qua
Tuyên ngôn, Điều lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận
của Đảng.
Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng bộ
Thanh niên và Kỳ bộ Nam kỳ đã quyết định thành lập An Nam Cộng sản đảng vào
tháng 8-1929, xuất bản báo Đỏ làm cơ quan ngôn luận của mình.
Tổ chức cộng sản thứ ba ra đời trên cơ sở của Tân Việt cách mạng Đảng.
Tân Việt cách mạng Đảng ra đời ngày 14-7-1928 là kết quả của sự phân hoá nội
bộ các nhóm tiểu tư sản yêu nước trong cuộc đấu tranh giữa hai đường lối cách
mạng vô sản và tư sản trong phong trào dân tộc Việt Nam. Tiền thân của Tân Việt
cách mạng Đảng là Hội Phục Việt (1925), đổi thành Hội Hưng Nam (1926), đổi
thành Việt Nam cách mạng Đảng (7-1926),
rồi Việt Nam cách mạng đồng chí Hội (7-1927). Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của lý
luận Mác-Lênin và tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, trong nội bộ Tân
Việt đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai xu hướng cách mạng và cải
lương. Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã
tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá trong Tân Việt. Các đảng viên tiên tiến của
Tân Việt đã tách ra, công bố Tuyên đạt thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn
(9-1929).
Tóm lại, sự ra đời nhanh chóng của các tổ chức đảng lúc bấy giờ phản ánh
xu thế tất yếu của phong trào cách mạng và ưu thế của hệ tư tưởng cộng sản trong
phong trào dân tộc ở Việt Nam. Song sự tồn tại ba đảng hoạt động biệt lập có nguy
cơ dẫn đến một sự chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là phải
có một đảng cộng sản thống nhất trong cả nước.
III. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN CỦA ĐẢNG
1. Hội nghị thành lập Đảng
Nhận được tin ở Đông Dương có nhiều tổ chức cộng sản, ngày 27-10-
1929, Quốc tế cộng sản gửi những người cộng sản ở Đông Dương tài liệu Về
việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương, trong đó chỉ rõ: “Nhiệm vụ quan
trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành
lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản… Đảng đó phải
chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương1.
Song tài liệu này chưa kịp đến tay những người cộng sản Việt Nam. Lúc đó
Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm đã nhận được tin Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
phân liệt. Nguyễn Ái Quốc lập tức rời Xiêm về Hương Cảng (Trung Quốc). Với tư
cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề
có liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Người chủ động triệu
tập đại biểu của hai nhóm Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản
Đảng.
Dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản đã họp ở bán đảo Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc) bắt đầu vào ngày 6-
1-19302. Hội nghị nhất trí với đề nghị của Nguyễn Ái Quốc hợp nhất các tổ chức
cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt
do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đó là Cương lĩnh và điều lệ đầu tiên của Đảng.
2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”.
- Nhiệm vụ cụ thể của cách mạng là:
+ Về chính trị: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “Dựng ra chính phủ công nông binh và tổ
chức quân đội công nông”.
+ Về kinh tế: Tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc để giao
cho chính phủ công nông binh quản lý; thu hết ruộng đất của đế quốc làm của
công và chia cho dân nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho
dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ.
+ Về văn hoá – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền,
phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
Những nhiệm vụ trên bao gồm hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế
quốc và chống phong kiến, trong đó nhiệm vụ dân tộc được đặt lên hàng đầu.
+ Lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các
lực lượng tiến bộ, các nhà yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai: Đảng
chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; đưa tiểu tư sản,
trí thức, trung nông đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa
chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng
Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Chủ trương tập hợp lực lượng trên đây thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Cương lĩnh không quên nhấn mạnh “không khi
nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường lối thoả hiệp”.
- Quan hệ quốc tế, cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận
của cách mạng vô sản thế giới, “liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần
chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp”.
- Người lãnh đạo cách mạng, đó là giai cấp công nhân thông qua
Đảng Cộng sản “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng”.
- Ý nghĩa của Cương lĩnh:
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là một
cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại mới.
+ Cương lĩnh đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn
quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn.
+ Đấu tranh vì độc lập, tự do, tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và
cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh
này.
3. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng
Sự ra đời của Đảng chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và
đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Từ đây giai cấp
công nhân thật sự trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất trong cả
nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách
mạng nước ta, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, là cơ sở dẫn
đến những thắng lợi và những bước nhảy vọt lớn trong lịch sử dân tộc những năm
sau này.
Với sự ra đời của Đảng, cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ phận của
cách mạng thế giới. Từ đây, giai cấp công nhân, nhân dân lao động Việt Nam
tham gia vào phong trào cách mạng thế giới một cách tự giác và có tổ chức.

Kết luận
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cũng là lúc Việt Nam Quốc
dân Đảng tan rã, cùng với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp tư sản kết thúc. Ngọn cờ phản đế, phản phong được chuyển
sang tay giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản trở thành người nắm ngọn cờ lãnh
đạo cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm lịch sử của cuộc đấu tranh
dân tộc và giải quyết yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, là sản
phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam.

Câu hỏi ôn tập

1. Đặc điểm nổi bật của thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ảnh
hưởng tới cách mạng Việt Nam?
2. Hậu quả của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam?
3. Thái độ chính trị và khả năng cách mạng của mỗi giai cấp trong xã hội Việt
Nam thuộc địa?
4. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến ở Việt Nam cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX?
5. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu
thế kỷ XX?
6. Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử của các phong trào yêu nước theo
khuynh hướng chính trị tư sản ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến đầu năm 1930?
7. Hệ thống quan điểm cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh trong thời
kỳ 1920 – 1930?
8. Quá trình hình thành các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam?
9. Quá trình Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng chính trị vô sản?
10. Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức cho
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào?
11. Điều kiện lịch sử, quá trình phát triển, đấu tranh và ý nghĩa của phong trào
công nhân Việt Nam?
12. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng?
13. Vai trò của Nguyễn ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng?
15. Các yếu tố hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa lịch sử của việc
thành lập Đảng?

Vấn đề thảo luận


1. Chứng minh rằng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là một tất yếu
lịch sử?
2. Phân tích những yếu tố dẫn đến sự ra đời của Đảng và mối quan hệ giữa các yếu
tố đó.
3. Những tư tưởng cơ bản về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc
những năm 20 của thế
4. Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo là đúng đắn và sáng tạo? Sáng tạo ở điểm nào?
5. Tại sao các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
đều thất bại và không tìm được lối thoát cho cách mạng Việt Nam?
CHƯƠNG III
ĐẢNG LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ
CAN THIỆP MỸ (1945 - 1954)
Mục đích:
Giúp sinh viên hiểu được lịch sử của Đảng ta thời kỳ 1945-1954 là giai
đoạn Đảng đề ra và chỉ đạo thực hiện thắng lợi chủ trương kháng chiến, kiến
quốc (1945-1946), đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính (1946-1954); nguyên nhân thắng lợi và ý
nghĩa, kinh nghiệm lịch sử của cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền, kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
I. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN, CHUẨN BỊ
KHÁNG CHIẾN TRONG CẢ NƯỚC (1945-1946)
1. Hoàn cảnh lịch sử nước ta sau cách mạng Tháng Tám và chủ trương kháng
chiến, kiến quốc của Đảng
a. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945
Thuận lợi:
Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ Cộng
hoà ra đời, Đảng ta đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước.
Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh kiên cường
bất khuất chống ngoại xâm. Truyền thống đó càng được phát huy khi nhân dân ta
đã thực sự trở thành người làm chủ đất nước, thực sự được hưởng thành quả do
cách mạng đem lại, nên có quyết tâm cao độ trong việc xây dựng và bảo vệ chế độ
mới.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống
thế giới, phong trào giải phóng dân tộc phát triển trở thành một dòng thác cách
mạng; phong trào dân chủ và hoà bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Về cơ bản
và lâu dài thì tình hình ấy có lợi cho cách mạng Việt Nam.
Khó khăn:
Chính quyền Nhà nước vừa ra đời còn non trẻ chưa được củng cố vững
chắc. Lực lượng vũ trang cách mạng đang trong thời kỳ hình thành, các công cụ
bạo lực khác chưa được xây dựng.
Nền kinh tế nước ta bị kiệt quệ sau nhiều năm chiến tranh. Tài chính, kho
bạc chỉ còn 1,2 triệu đồng Đông Dương (một nửa rách nát), ngân hàng Đông
Dương vẫn đang nằm trong tay tư bản Pháp. Bên cạnh đó, bọn Tưởng Giới Thạch
mang tiền quan kim và quốc tệ sang tiêu ở Việt Nam gây rối loạn thị trường.
Văn hoá: 95% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội mà chế độ cũ để lại còn
nặng nề.
Chính trị:
+ Ở miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 Đà Nẵng trở ra): Gần 20 vạn quân Tưởng lũ
lượt vào miền Bắc. Sau lưng chúng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thủ
tiêu chính quyền cách mạng, đưa bọn tay sai lập chính quyền bù nhìn và thực hiện
chính sách cứơp bóc nhân dân Việt Nam.
+ Ở Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào): Trên một vạn quân Anh cũng
mượn tiếng là vào tước vũ khí của Nhật, nhưng kỳ thực là chúng mở đường cho
thực dân Pháp cướp lại nước ta. Ngày 23/9/1945 dưới sự yểm trở của 2 sư đoàn
thiết giáp Anh, Pháp đã nổ súng tấn công Sài Gòn, chính thức xâm lược nước ta
lần thứ 2.
Trên đất nước ta lúc này còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ lệnh giải
giáp nhưng một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng với quân
Anh, dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam. Chưa bao
giờ, cùng một lúc cách mạng Việt Nam phải đối phó với nhiều kẻ thù như thời
điểm này. Chúng có thể mâu thuẫn với nhau về lợi ích kinh tế nhưng đều thống
nhất với nhau trong âm mưu chống cộng sản, thủ tiêu chính quyền cách mạng, xoá
bỏ thành quả mà cuộc CMT8 vừa giành được.
b. Chủ trương kháng chiến, kiến quốc của Đảng
Tình hình khó khăn trên đặt ra trước mắt Đảng và nhân dân ta những nhiệm
vụ nặng nề và cấp bách. Chúng ta vừa phải xây dựng và củng cố chính quyền cách
mạng ở các cấp, vừa phải khôi phục kinh tế, giải quyết nạn đói, nạn thất học, vừa
phải đấu tranh với các thế lực thù địch để bảo vệ chính quyền cách mạng và khẳng
định vị thế của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc làm
cấp bách nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại
xâm.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Bộ, Đảng ta phát động phong trào cả
nước ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam bộ.
Ngày 25-11-1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến
kiến quốc, vạch rõ những nhiệm vụ chiến lược và cần kíp. Chỉ thị xác định:
+ Về tính chất của cuộc cách mạng, Ban thưởng vụ Trung ương Đảng lúc
đó xách định: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân
tộc giải phóng”… Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì nước
ta chưa hoàn toàn độc lập.
+ Kẻ thù chính của cách mạng: trong hoàn cảnh hết sức rối ren của đất
nước, thù trong giặc ngoài, việc xác định đâu là kẻ thù chủ yếu cần chĩa mũi nhọn
đấu tranh là một vấn đề vô cùng quan trọng. Bản chỉ thị đã phân tích sâu sắc các
kẻ thù như sau:
Mỹ tuy miệng nói giữ thái độ trung lập trong vấn đề Đông Dương, nhưng
thực tế đã ngấm ngầm giúp Pháp bằng cách cho mượn tàu chở quân sang ta. Một
mặt, Mỹ muốn tranh giành quyền ở Đông Dương và Đông Nam Á với Anh-PHáp,
song mặt khác, Mỹ lại muốn hoà hoãn với Anh, Pháp để lập mặt trận bao vây Liên
Xô, vì thế Mỹ có thể tạm hi sinh quyền lợi bộ phận ở Đông Nam Á.
Anh giúp Pháp ở Đông Dương để dập tắt phong trào độc lập của các dân
tọc trên bán đảo này, vì sợ rằng, nếu phong trào ở đây thắng lợi sẽ “làm gương”
cho các thuộc địa của Anh ở Đông Nam Á. Nhưng Anh tưởng rằng giúp Pháp để
đánh nhanh thắng nhanh, không ngờ rằng PHáp bị quân dân Việt Nam giam chân,
không đánh rộng ra được bao nhiều. Kết quả chưa đem lạ cho Anh những điều lợi
thực tế gì, mà làm cho Anh mất tín nhiệm trên trường quốc tế bị phong trào nhân
dân ở Anh đòi phải rút ra khỏi Đông Dương.
Quân Tưởng định kéo sang ta với âm mưu lật đổ chính quyền Việt minh,
lập chính quyền bù nhìn tay sai của chúng, nhưng trước sức mạnh toàn dân đoàn
kết ủng hộ chính phủ cách mạng, nên chúng đành phải đặt quan hệ với chính phủ
ta. Hơn nữa, tuy rất ham miếng mồi Đông Dương nhưng chúng lại đang đứng
trước một mối đe doạ lớn là cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc đang phát
triển mạnh mẽ. Chúng còn sợ “Việt minh là cộng sản và sợ cộng sản Đông Dương
liên minh với cộng sản Trung Quốc xích hoá Hoa Nam” nên chúng có âm mưu
muốn cải tổ Chính phủ lâm thời, đưa tay chân của chúng vào.
Còn thực dân Pháp vốn đã thống trị nước ta, có nhiều quyền lợi ở Đông
Dương, cho nên chúng quyết tâm bám lấy Đông Dương và thực tế dã bắt đầu cuộc
ciến tranh xâm lược miền Nam.
Từ sự phân tích sáng suốt và khoa học tình hình chính trị nước ta lúc bấy
giờ, Trung ương xác định: “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm
lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
+ Nhiệm vụ cơ bản, trước mắt của toàn dân tộc ta là: củng cố chính quyền
cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống
nhân dân. Nhiệm vụ bao trùm là bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng.
+ Chỉ thị vạch ra những biện pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ trên:
Về nội chính, xúc tiến bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập
Hiến pháp, xử lý bọn phản động đối lập, củng cố chính quyền nhân dân.
Về quân sự, động viên và lãnh đạo lực lượng toàn dân tiến hành kháng
chiến trường kỳ.
Về ngoại giao, kiên trì nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, “thêm bạn, bớt
thù”. Đối với quân đội Tưởng, thực hiện khẩu hiệu “Hoa-Việt thân thiện”. Đối với
Pháp chủ trương “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”.
Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” của Ban thường vụ trung ương Đảng đã
giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chuyển hướng chiến lược và sách
lược cách mạng trong thời kỳ vừa mới giành được chính quyền, đưa đất nước vượt
qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

2. Xây dựng chế độ Dân chủ cộng hoà và tổ chức kháng chiến ở miền Nam
a. Xây dựng chế độ dân chủ cộng hoà
Về chính trị
Củng cố chính quyền, xây dựng nền móng chế độ mới: Đã xây dựng được
nền móng cho một chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần
thiết. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông
bầu cử
Ngày 3-9- 1945, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng
hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.
Ngày 6-1-1946, tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu mốc
phát triển trong tiến trình xây dựng thể chế dân chủ đầu tiên trên đất nước Việt
Nam.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội khoá I họp kỳ đầu tiên, trao quyền cho Chủ tịch
Hồ Chí Minh lập Chính phủ chính thức - Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Ở các
địa phương, nhân dân bầu ra hội đồng nhân dân các cấp. Các hội đồng nhân dân
cử ra Uỷ ban hành chính các cấp.
Ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên
của nước ta. Hiến pháp ghi nhận quyền làm chủ nước nhà, quyền và nghĩa vụ của
mọi công dân.
Xây dựng khối đoàn kết:
Tháng 5-1946, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh Hội liên hiệp
Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập, nhằm đoàn kết tất cả các
lực lượng và cá nhân trước đây chưa có điều kiện tham gia Mặt trận Việt Minh.
Các đoàn thể quần chúng và các đảng phái dân chủ lần lượt ra đời: Tổng
liên đoàn Lao động Việt Nam (5-1946), Đảng Xã hội Việt Nam (7-1946), Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (10-1946).
Về kinh tế - tài chính
Biện pháp trước mắt: Nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ thóc gạo, cấm
nấu rượu. Bỏ luật hạn chế vận chuyển thóc gạo giữa các vùng do Pháp, Nhật đề ra.
Tổ chức lạc quyên, “hũ gạo cứu đói”, “ngày đồng tâm” và thực hiện khẩu hiệu “lá
lành đùm lá rách”, “nhường cơm sẻ áo”.
Biện pháp lâu dài: Để xoá hẳn nguy cơ đói chỉ có biện pháp tận gốc: tăng
gia sản xuất, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân: “Tăng gia sản xuất, tăng gia
sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa, đó là khẩu hiệu của ta ngày nay, đó là cách
thiết thực nhất để ta giữ vững quyền tự do, độc lập”; phát động phong trào thi đua
sản xuất: “tấc đất, tấc vàng”, “không bỏ phí một tấc đất hoang”.
Ngày 7-9-1945, Chính phủ ra sắc lệnh bãi bỏ những thứ thuế vô lý, giảm tô
25%; Chính phủ tổ chức khuyến khích khai hoang, phục hoá, sửa chữa đê điều;
tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc và việt gian chia cho nông dân nghèo.
Theo chủ trương của Đảng, Chính phủ cho mở lại các nhà máy do Nhật bỏ
lại, tiến hành khai thác các mỏ; cho tư nhân được góp vốn kinh doanh ở các xí
nghiệp, khuyến khích giới công thương lập hợp tác xã và hội cổ phần, tham gia
kiến thiết lại nước nhà.
Về tài chính, Đảng xác định xây dựng một nền tài chính độc lập. Do vậy,
Chính phủ lập Ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc Việt Nam trong cả nước
thay thế giấy bạc Đông Dương (23-11-1946), tổ chức “tuần lễ vàng”, lập ngân quỹ
toàn quốc, ngân quỹ các xứ và các tỉnh.
Về văn hoá-xã hội
Nhiệm vụ nặng nề là xoá nạn mù chữ, tấn công vào giặc dốt. Do vậy, Đảng
phát động phong trào xoá nạn mù chữ, thành lập Nha Bình dân học vụ.
Xây dựng một nền giáo dục mới từ tiểu học đến đại học với nội dung và
phương pháp đổi mới theo tinh thần dân tộc, dân chủ.
Đề cao vai trò ngôn ngữ Việt Nam. Tiếng Việt, chữ Việt được sử dụng
trong nhà trường, trong các văn bản.
Phát động xây dựng nếp sống văn hoá mới, bài trừ tệ nạn xã hội, xây dựng
đạo đức mới với nội dung “cần –kiệm- liêm- chính”.
An ninh- quốc phòng
Cuối năm 1946, lực lượng quân đội thường trực có 8 vạn quân, biên chế
cấp trung đoàn.
Xây dựng lực lượng công an nhân dân (19-8-1945).
Phát động phong trào luyện tập quân sự, vũ trang quần chúng cách mạng.
Quân sự hoá toàn dân được thực hiện rộng khắp; lực lượng quân tự vệ là “bức
tường sắt của Tổ quốc”.
Giải tán hai đảng phản động, tay sai (Đảng Đại Việt quốc gia xã hội Đảng
và Đại Việt quốc dân Đảng), lập toà án quân sự.
Kết quả
Những biện pháp trên đã xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền từ Trung
ương đến địa phương, tăng cường khối đoàn kết dân tộc. Nguy cơ nạn đói không
trầm trọng thêm, tình trạng căng thẳng lương thực đã giảm xuống, đời sống nhân
dân được cải thiện đáng kể. Ngân khố quốc gia đã có 370 kg vàng và 60 triệu tiền
Đông Dương. Việc đổi tiền đã làm cho ta giành được chủ quyền về tiền tệ, chúng
ta giải quyết được một phần chi tiêu của chính phủ, phục vụ sản xuất, đời sống,
bước đầu xây dựng nền tài chính độc lập của nước Việt Nam. Sau một năm 2,5
triệu dân biết đọc. Tệ nạn xã hội giảm đáng kể, tình hình an ninh trật tự được đảm
bảo.
Như vậy, về mọi mặt, nhân dân ta được hưởng những quyền dân sinh, dân
chủ, nó thể hiện rõ sự ưu việt của chế độ mới. Sức mạnh mới này giúp ta đấu tranh
một cách có hiệu quả trong việc bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.
b. Tổ chức kháng chiến ở miền Nam
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ bắt đầu ngày 23-9-1945.
Đảng và Chính phủ phát động phong trào “Nam tiến” để chi viện cho cuộc kháng
chiến của đồng bào Nam Bộ. Cuối tháng 10-1945, những đơn vị chi viện từ miền
Bắc, miền Trung đã vào đồng bằng Nam Bộ. Cuối năm 1945, Pháp đã mở rộng
chiến tranh xâm lược ra toàn Nam Bộ.
Ngày 25-10-1945, Hội nghị cán bộ Đảng bộ Nam Bộ họp ở Thiên Hộ - Cái
Bè - Mỹ Tho (Tiền Giang) đã chủ trương phát động chiến tranh du kích rộng khắp,
để tiêu hao sinh lực và chặn bước tiến giặc; xây dựng, củng cố cơ sở cách mạng
trong thành phố và các vùng địch đánh chiếm; xây dựng lực lượng vũ trang vững
mạnh, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và hệ thống tổ chức, chỉ huy thống nhất.
3. Thực hiện chính sách hoà hoãn, tranh thủ thời gian chuẩn bị kháng chiến
toàn quốc.
a. Thực hiện chính sách hoà hoãn Hoà với Tưởng ở miền Bắc, tập trung
chống thực dân Pháp ở miền Nam (9/1945 – 3/1946)
Lý do và mục đích hoà hoãn:
Ta không đủ khả năng để đối chọi với tất cả kẻ thù cùng một lúc và cần thời
gian hoà bình để củng cố đất nước và xây dựng lực lượng.
Quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa quân Đồng minh được hợp pháp
hoá, nếu chúng ta sử dụng các biện pháp bạo lực, thì sẽ tạo cớ cho chúng công
khai tấn công chính quyền cách mạng.
Ngoài ra, quân Tưởng khi vào Việt Nam đã chuẩn bị kế hoạch “Hoa quân
nhập Việt”, “Diệt cộng, cầm Hồ”, chuẩn bị một lực lượng tay sai người Việt để lập
chính phủ thân Tưởng. Hoà với Tưởng, chúng ta sẽ vô hiệu hoá kế hoạch trên.
Quân Tưởng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, chống phá Việt Minh, lật
đổ chính quyền cách mạng, song kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp
xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng.
Khả năng để hoà hoãn:
Nội bộ quân Tưởng có mâu thuẫn, ta triệt để lợi dụng điểm yếu này.
Quân Tưởng mặc dù có tham vọng lớn, nhưng thực lực có hạn, quân số
đông nhưng ô hợp, tổ chức kém và hậu cần khó khăn, nên phải trông vào hậu cần
tại chỗ. Trước sau gì quân Tưởng cũng phải rút quân về, để đối phó với Đảng
Cộng sản Trung Quốc và phong trào cách mạng đang lên ở trong nước.
Nguyên tắc hoà hoãn:
Đảm bảo giữ vững chính quyền cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng đối với
chính quyền cơ sở.
Kiên quyết trấn áp những hành động gây tội ác của Tưởng và bè lũ tay sai,
kiềm chế bớt sự can thiệp của quân Tưởng vào nội trị Việt Nam.
Không nhượng bộ về vấn đề độc lập của Việt Nam.
Biện pháp hoà hoãn:
Ngày 11-11-1945, Đảng tuyên bố tự giải tán, nhưng thực ra là rút vào hoạt
động bí mật để làm mất mục tiêu quấy rối của kẻ thù.
Nắm vững phương châm “thêm bạn bớt thù”, Chính quyền cách mạng hợp
tác tích cực với quân Tưởng trong việc giải giáp quân Nhật và tự kiềm chế trước
các hành động khiêu khích của Tưởng, tránh để xảy ra xung đột về quân sự với
chúng.
Chấp nhận cung cấp lương thực, thực phẩm, chỗ ăn ở cho 20 vạn quân
Tưởng. Chấp nhận tiêu tiền mất giá “quan kim”, “quốc tệ”. Về chính trị, ta mở
rộng thành phần Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời gồm 18
thành viên trong đó có Việt quốc và Việt cách. Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá I
(2-3-1946) thông qua chính phủ liên hiệp và chấp nhận 70 ghế Quốc hội của Việt
quốc và Việt cách không qua bầu cử, đưa tổng đại biểu quốc hội lên 403 đại biểu.
Kết quả:
Ta mềm dẻo về sách lược, nhưng giữ vững nguyên tắc: nắm chắc vai trò
lãnh đạo của Đảng, giữ vững chính quyền cách mạng, giữ vững mục tiêu độc lập,
thống nhất đất nước, không để kẻ thù nắm quần chúng; trừng trị nghiêm khắc
những tên đầu sỏ phản cách mạng.
Tranh thủ được thời gian để thực hiện chủ trương kháng chiến, kiến quốc.
Làm thất bại âm mưu của quân Tưởng, đảm bảo cho nhân dân ta tập trung
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam. Chính quyền được giữ
vững và củng cố về mọi mặt.
Tạm hòa hoãn với Pháp, đẩy nhanh quân Tưởng về nước (3-1946 - 12-
1946)
Lý do hòa hoãn:
Trong khi ta hòa với Tưởng, thì Tưởng- Pháp bắt tay nhau. Ngày 28-2-
1946, Hiệp ước Hoa – Pháp được ký kết, theo đó, Pháp nhân nhượng một số
quyền lợi kinh tế cho Chính quyền Tưởng trên đất Trung Hoa để Pháp được đưa
quân ra miền Bắc Việt Nam, còn Tưởng rút quân về nước đối phó với Quân giải
phóng nhân dân Trung Quốc.
Thực chất Hiệp ước này là một sự mua bán chính trị giữa các thế lực đế
quốc, nhằm hợp pháp hoá hành động xâm lược của đế quốc Pháp ở Đông Dương.
Tình thế đặt Đảng và đất nước trước hai sự lựa chọn: hoặc là cùng một lúc phải
đối đầu với nhiều kẻ thù; hoặc chấp nhận hoà với Pháp, tranh thủ thời gian để
chuẩn bị mọi mặt cho một cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ, mà Đảng dự báo
là không tránh khỏi.
Khả năng để hoà hoãn:
Cả Tưởng và Pháp đều phải tính đến sức mạnh của Việt Nam và dư luận
quốc tế, nên không thể không dàn xếp với Việt Nam về việc thay quân này.
Nếu ra Bắc bằng vũ lực, Pháp sẽ vấp phải sự kháng cự của nhân dân Việt
Nam và cuộc đối đầu quân sự này sẽ bị Tưởng lợi dụng để cản trở quân đội Pháp
ra Bắc, đòi thêm Pháp một số quyền lợi vật chất.
Nguyên tắc hoà hoãn: Độc lập về chính trị, nhưng nhân nhượng về kinh tế.
Độc lập nhưng liên minh. Không nhượng bộ sự thống nhất quốc gia và quyền tự
quyết dân tộc.
Biện pháp hoà hoãn:
Theo chủ trương mới, Chính phủ ta đã đàm phán và ký với đại diện Chính
phủ Pháp Hiệp định sơ bộ 6-3-1946. Hiệp định quy định: Chính phủ Pháp công
nhận Việt Nam là một quốc gia tự do có nghị viện, chính phủ, quân đội và tài
chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp; Việt Nam đồng
ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho quân Tưởng, sau 5 năm phải
rút hết về nước; hai bên đình chỉ xung đột ở miền Nam để mở cuộc đàm phán đi
đến ký hiệp định chính thức.
Ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hoà để tiến để nói
rõ hơn chủ trương hoà với Pháp.
Hai bản chỉ thị Tình hình và chủ trương và Chỉ thị Hoà để tiến là sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược hết sức đúng đắn, nhạy bén phù hợp với sự chuyển biến
của tình hình đất nước, ứng phó kịp thời và có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn mới
của kẻ thù.
- Đánh giá Hiệp định sơ bộ: chúng ta đã cân nhắc kỹ lợi hại, chọn cái ít hại
hơn mà làm. Do đó, ta tránh được tình thế mà kẻ thù muốn đẩy ta vào là cùng một
lúc phải đánh nhau với nhiều thế lực đối địch; tranh thủ được thời gian, bảo toàn
thực lực; đuổi được quân Tưởng và Việt quốc, Việt cách cuốn gói theo và “chọn
thương lượng thay vì đánh nhau, chính là một bằng chứng hiểu biết về chính trị”.
b. Tranh thủ thời gian, chuẩn bị kháng chiến toàn quốc
Sau Hiệp định Sơ bộ, ta đấu tranh đòi Pháp thi hành hiệp định, đồng thời
sẵn sàng đối phó với hành động phản bội của địch, chuẩn bị lực lượng cho cuộc
kháng chiến toàn quốc.
Ngày 19-4-1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt được tiến hành để chuẩn bị cho
cuộc đàm phán chính thức tại Pháp, song do phía Pháp ngoan cố giữ lập trường
thực dân nên Hội nghị đã bế tắc.
Cuộc đàm phán Việt - Pháp được mở ra ở Phôngtenơblô từ 6-7-1946 đến
10-9-1946, kết thúc mà không có kết quả gì.
Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm chính thức nước Pháp.
Ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước,
thoả thuận một số điều về kinh tế, văn hóa, đình chỉ xung đột quân sự ở miền Nam
và sẽ tiếp tục đàm phán vào tháng 1-1947.
Tranh thủ thời gian hoà hoãn, Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng và phát
triển lực lượng về mọi mặt:
Về chính trị: tiếp tục mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố vững
chắc chính quyền nhân dân.
Về kinh tế: tích cực đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, tích trữ lương
thực.
Về quân sự: phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng các chiến khu, chuẩn bị
hậu phương cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Về xây dựng Đảng: qua lãnh đạo đấu tranh và xây dựng, Đảng đã lớn mạnh
cả về chất lượng lẫn số lượng. Từ 5.000 đảng viên năm 1945, đến tháng 12-1946,
Đảng đã có 20.000 đảng viên. Nội bộ Đảng được củng cố, thống nhất; đội ngũ cán
bộ của Đảng được đào tạo và phát triển.
Sau khi ký Tạm ước 14-9, quân Pháp vẫn ráo riết tiến công quân ta và
khủng bố nhân dân ta ở Nam Bộ và Trung Bộ, tăng cường khiêu khích và lấn
chiếm ở miền Bắc nước ta. Đảng nhận định: “Tạm ước 14-9 là nhân nhượng cuối
cùng của Đảng và Chính phủ ta, nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất
nước, là hại đến quyền lợi cao trọng của dân tộc”.
Mặc dù thực dân Pháp bội ước, nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh tính
đúng đắn và cần thiết của các hiệp định này. Chúng ta hoà để từng bước củng cố
nền độc lập vừa mới giành được. Hiệp định sơ bộ 6-3 và bản Tạm ước 14-9 đã
phản ánh quan điểm giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Việc ký các thoả thuận này là đỉnh cao nghệ thuật nhân nhượng có nguyên tắc của
Hồ Chí Minh.
Như vậy, từ tháng 9-1945 đến 12-1946, Đảng đã đưa đất nước vượt qua
những khó khăn thử thách hiểm nghèo, củng cố và phát huy thành quả của cách
mạng tháng Tám, chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Thời kỳ này để lại cho Đảng ta nhiều kinh nghiệm quý báu về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc; về lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa
mũi nhọn vào kẻ thù chính, về sự nhân nhượng có nguyên tắc; về tận dụng khả
năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, sẵn sàng
ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước.
II. LÃNH ĐẠO TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (1946 - 1950)
1. Phát động toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng
a. Quyết định kháng chiến toàn quốc
Ngày 20-11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm Hải Phòng, Lạng
Sơn và Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh quy mô xâm lược toàn bộ đất nước và
toàn bộ Đông Dương.
Ngày 17 và 18-12-1946, tại Hà Nội, quân Pháp khiêu khích và tàn sát đồng
bào ở Phố Yên Ninh, Hàng Bún. Sau đó, chúng ngang nhiên chiếm Ngân hàng, trụ
sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông.
Ngày 18 và 19-12-1946, Pháp liên tiếp gửi tối hậu thư đòi Chính phủ ta
phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải giáp lực lượng vũ trang và đòi để chúng
kiểm soát, giữ gìn trật tự Hà Nội. Chúng tuyên bố sẽ hành động bằng sức mạnh
quân sự nếu ta không thực hiện các yêu sách đó. Tình hình vô cùng khẩn cấp đòi
ta phải đứng lên.
Ngày 18 và 19-12-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng họp tại Vạn
Phúc, Hà Đông (do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì) nhận định khả năng hoà hoãn
đã hết và chỉ thị cho các địa phương “tất cả hãy sẵn sàng”.
20 giờ ngày 19-12-1946, mệnh lệnh chiến đấu bắt đầu. Quân dân Thủ đô đã
nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc.
b. Đường lối kháng chiến của Đảng
Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng dần được hình thành từ
những nội dung cơ bản thể hiện trong các văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” ngày 19-12-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị “Toàn dân kháng
chiến” ngày 22-12-1946 của Ban thường vụ Trung ương Đảng, tác phẩm “Kháng
chiến nhất định thắng lợi” xuất bản năm 1947 của đồng chí Trường Chinh. Nội
dung của đường lối kháng chiến thể hiện qua các văn bản trên là:
- Cuộc kháng chiến nhằm vào kẻ thù chính là bọn thực dân phản động Pháp
đang dùng vũ lực cướp lại nước ta, giành độc lập tự do và thống nhất thực sự,
hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp là tiếp tục sự nghiệp của cuộc Cách mạng
Tháng Tám, nên nó có tính chất dân tộc giải phóng. Lúc này, nhiệm vụ giải phóng
là yêu cầu nóng bỏng và cấp bách nhất.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp còn mang tính chất dân chủ mới. Trong
quá trình kháng chiến, phải từng bước thực hiện cải cách dân chủ và thực chất của
vấn đề dân chủ lúc này là từng bước thực hiện “người cày có ruộng”.
- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc kháng chiến toàn dân,
toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính:
+ Toàn dân: là chiến lược quan trọng, cơ bản, cốt lõi nhất, xuyên suốt toàn
bộ cuộc kháng chiến, nhằm tạo ra sức mạnh to lớn đối trọng với bọn xâm lược
Pháp. Dùng sức mạnh toàn dân để tiến hành kháng chiến ở khắp mọi nơi, mọi lúc.
Chủ trương được đề ra dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin “cách mạng là
sự nghiệp của toàn dân”.
+ Toàn diện: phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân để đánh
giặc trên mọi phương diện:
Về chính trị, đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, dân nhất trí, động viên
nhân lực, vật lực, tài lực của cả nước; đoàn kết với hai dân tộc Lào, Campuchia
anh em, với nhân dân Pháp, với các nước châu á và các dân tộc bị áp bức, các dân
tộc yêu chuộng hoà bình, dân chủ trên thế giới, cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều
bầu bạn, củng cố chế độ cộng hoà dân chủ, lập ra Uỷ ban kháng chiến các cấp.
Về quân sự, cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự
và tổng phản công; triệt để dùng “du kích vận động chiến”, tiến công địch khắp
nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự.
Về kinh tế, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc, tự cấp, xây dựng kinh tế theo
hướng “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”; ra sức phá kinh tế địch, không cho
chúng lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.
Về văn hoá, đánh đổ văn hoá nô dịch, ngu dân xâm lược của thực dân Pháp,
xây dựng nền văn hoá mới, xoá nạn mù chữ; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính;
động viên các nhà văn hoá tham gia kháng chiến.
+ Đánh lâu dài: ta thực hiện chủ trương này để làm cho những chỗ yếu cơ
bản của địch ngày càng bộc lộ, chỗ mạnh của địch ngày một hạn chế; chỗ yếu của
ta từng bước được khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày một phát huy. Từng bước làm
thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
+ Dựa vào sức mình là chính: là dựa vào sức lực của toàn dân, vào đường
lối của Đảng, vào các điều kiện nhân hoà, địa lợi, thiên thời của đất nước ta, đồng
thời ra sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ thù.
- Triển vọng của cuộc kháng chiến: cuộc kháng chiến sẽ lâu dài, gian khổ,
song nhất định thắng lợi. Đường lối kháng chiến là niềm tin, động lực, sức mạnh
cho toàn thể nhân dân Việt Nam chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

2. Tiến hành kháng chiến (1946-1950)


Đêm 19-12-1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của
nhân dân ta bùng nổ. Đất nước chuyển sang thời chiến và bắt đầu triển khai thế
trận chiến tranh nhân dân. Các cơ quan chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc. Tiêu biểu
là cuộc chiến đấu của quân dân Hà Nội trong vòng 2 tháng (từ 19-12-1946 đến 17-
2-1947), tiêu diệt 2.000 tên địch, bảo vệ an toàn các cơ quan lãnh đạo của Đảng và
nhân dân di tản ra vùng tự do.
Bị thiệt hại nhiều mà không tiêu diệt được quân chủ lực ta, tháng 5-1947,
quân Pháp tạm co về thành thị, lập Chính phủ bù nhìn Bảo Đại. Địch có ý đồ tổ
chức cuộc tấn công lớn, bất ngờ lên Việt Bắc, tiêu diệt cơ quan đầu não của kháng
chiến, nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh
Ngày 10-9-1947, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương – Bôla đọc diễn văn tại thị
xã Hà Đông tuyên bố lập trường của Pháp không công nhận nước Việt Nam độc
lập và thống nhất, không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là đại diện chính thức
của nước Việt Nam.
Ngày 15-9-1947, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Bôla nói gì, ta phải làm gì?”
nêu rõ nhiệm vụ của nhân dân ta chống âm mưu “dùng người Việt trị người Việt”
của thực dân Pháp.
Ngày 7-10-1947, thực dân Pháp huy động 12 ngàn quân tinh nhuệ mở cuộc
tấn công lên Việt Bắc. Cánh quân nhảy dù xuống Bắc Cạn, Chợ Mới đánh vào sau
lưng quân ta. Một binh đoàn bộ binh Pháp kéo từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, Bắc
Cạn bao vây phía đông và phía bắc Việt Bắc; một cánh quân theo đường thuỷ tiến
lên Phú Thọ, Tuyên Quang bao vây Việt Bắc ở phía Tây.
Ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Phải phá
cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Chỉ thị nhấn mạnh: “Giam chân địch tại
mấy căn cứ chúng vừa chiếm… bao vây những căn cứ đó…
Trung ương Đảng chỉ rõ: “Cuộc tấn công lần này của địch, tỏ ra chúng mạo
hiểm và khinh thường lực lượng chúng ta. Chúng ta phải trấn tĩnh đối phó, vẫn
phải giữ gìn chủ lực nhưng đồng thời cũng phài nhè những chỗ yếu của dịch mà
đánh những trận vang dội, những trận tiêu diệt để nâng cao tinh thần bộ đội và
củng cố lòng tin tưởng của nhân dân ở tiền đồ cuộc kháng chiến”
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, quân và dân các dân tộc Việt Nam
đã lập chiến công lớn với những trận đánh tiêu biểu ở Bình Ca, Thất Khê, Bông
Lau, Vũ Nhau, Chợ Đồn… Việt Bắc trở thành mồ chôn giặc Pháp.
Sau hai tháng tiến công, ngày 22-12-1947, một phần lớn quân Pháp buộc
phải rút khỏi Việt Bắc. Hơn 7.000 tên xâm lược bị chết, bị thương và bị bắt, 18
máy bay, 16 tàu chiến, hàng trăm xe và nhiều ca nô bị tiêu diệt, nhiều vũ khí rơi
vào tay quân ta. Chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp thất bại.
Quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng kịp thời chuyển sang phản công
thắng lợi. Bộ đội ta trưởng thành một bước về trình độ tác chiến. Đảng có thêm
kinh nghiệm về chỉ đạo chiến tranh. Nhân dân ta phấn khởi tin tưởng vào thắng lợi
của cuộc kháng chiến.
Đồng thời, Đảng chú trọng việc xây dựng thực lực kháng chiến về mọi mặt:
Tháng 7-1948, tổ chức Hội nghị văn hoá toàn quốc nhằm xây dựng nền văn hoá
mới - nền văn hoá dân tộc, khoa học, đại chúng. Năm 1950, đề ra cải cách giáo
dục theo đường lối giáo dục mới. Lực lượng vũ trang được chăm lo phát triển. Đến
năm 1947, bộ đội chủ lực đã phát triển từ 80.000 lên 120.000, lực lượng dân quân
tự vệ lên tới 1 triệu người. Ban Chấp hành Trung ương mở đợt phát triển đảng
viên “Lớp tháng Tám”. Cuối năm 1947, tổng số đảng viên có trên 70.000 người.
Đảng quan tâm công tác đối ngoại, tranh thủ sự đồng tình của nhân dân thế
giới với cuộc kháng chiến, đặt cơ quan đại diện ở Thái Lan, Miến Điện (Mianma),
cử đoàn đại biểu đi dự các hội nghị quốc tế. Đầu năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô
và các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu đã chính thức công nhận Nhà nước ta và
đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Từ năm 1948, thực dân Pháp phải chuyển từ chiến lược đánh nhanh, thắng
nhanh sang chiến lược đánh lâu dài, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người
Việt trị người Việt”. Chúng bình định vùng chiếm đóng, mở các cuộc hành quân
nhỏ, nhằm tiêu diệt lực lượng kháng chiến, mở rộng nguỵ quân.
Ngày 20-1-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng, đề ra
nhiệm vụ và các biện pháp về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, nhằm thúc đẩy
kháng chiến tiến lên giai đoạn mới.
Thực hiện chủ trương của Đảng, phong trào du kích chiến phát triển rộng
khắp ở hậu địch từ đồng bằng Bắc Bộ đến miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ đã
tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, bảo toàn và tăng cường bồi dưỡng lực lượng của
ta.
Ngày 21-1-1950, Hội nghị toàn quốc lần thứ ba đã quyết định chuẩn bị
chuyển mạnh sang tổng phản công.
Tháng 6-1950, Ban thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch
Biên giới. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực của
địch, giải phóng đất đai, mở thông con đường giao thông với các nước xã hội chủ
nghĩa, giành quyền chủ động chiến lược.
Ngày 16-9-1950, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định đánh Đông Khê (Cao
Bằng) để mở màn chiến dịch Biên giới. Qua 29 ngày đêm chiến đấu, ta tiêu diệt
hơn 8.000 địch, thu trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, giải phóng
một khu vực biên giới rộng lớn.
Ý nghĩa của chiến dịch Biên giới:
Ta đã đập tan tuyến phòng thủ mạnh của địch, giải phóng hoàn toàn khu
vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập, nối liền Việt Nam với các nước xã hội
chủ nghĩa. Thắng lợi của chiến dịch Biên giới, quân ta đã giành được quyền chủ
động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.
III. Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng. Đảng đẩy mạnh kháng chiến đến
thắng lợi (1951-1954)
1. Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2-1951) và Chính cương Đảng Lao
động Việt Nam
a. Hoàn cảnh diễn ra Đại hội
Liên Xô lớn mạnh vượt bậc, các nước dân chủ nhân dân châu Âu, châu Á
bước vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Nước cộng hoà
nhân dân Trung Hoa ra đời làm thay đổi so sánh lực lượng trên trường quốc tế có
lợi cho hoà bình và cách mạng.
Mỹ lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp để từng bước can thiệp
trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
Ở trong nước, nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi trong cuộc kháng
chiến. Uy tín của Đảng và Chính phủ được nâng cao trên trường quốc tế.
Điều kiện lịch sử đặt ra cho Đảng ta các yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh
đường lối cách mạng Việt Nam, có chính sách đưa cuộc kháng chiến đến thắng
lợi. Đặc biệt do nhu cầu kháng chiến, giai cấp công nhân và nhân dân mỗi nước
Việt Nam, Lào, Campuchia cần phải có một đảng riêng với yêu cầu Đảng phải ra
hoạt động công khai, lãnh đạo cách mạng với tư cách là một Đảng cầm quyền.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được tiến hành tại xã Vinh
Quang - Chiêm Hoá – Tuyên Quang từ 11 đến 19-2-1951. Dự Đại hội có 158 đại
biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên. Đại hội
nghe và thảo luận một số báo cáo: Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh
trình bày, báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam do Trường Chinh trình bày (nội
dung cơ bản của bản báo cáo này được phản ánh trong Chính cương Đảng Lao
động Việt Nam)…; thông qua Nghị quyết đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên
là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương và Điều lệ Đảng. Đại hội đã
bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới do Hồ Chí Minh làm chủ tịch Đảng và
đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư.
Đại hội lần thứ II là một mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của
Đảng về mọi mặt đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn để đưa cuộc kháng chiến
đến thắng lợi hoàn toàn. Hạn chế của Đại hội là chưa có điều kiện để nghiên cứu
sâu bước chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sang cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
b. Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
- Xác định tính chất của xã hội Việt Nam: xã hội Việt Nam có ba tính chất:
“dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến”. Các tính chất đó đang
đấu tranh lẫn nhau.
- Xác định mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam: nổi bật lên hai mâu
thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc xâm
lươc và mâu thuẫn giữa số đông nhân dân với số ít là địa chủ phong kiến. Ngoài ra
còn mâu thuẫn giữa công nhân và tư bản trong nước. Mâu thuẫn giữa đế quốc xâm
lược và dân tộc Việt Nam là chính
- Xác định kẻ thù: Chính cương xác định cách mạng Việt Nam có hai đối
tượng. Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là Pháp và
bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là bọn phong kiến, cụ thể lúc này là
bọn phong kiến phản động.
- Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam: đánh đuổi đế quốc xâm lược,
giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xoá bỏ những di tích phong kiến
và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân
dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau, song nhiệm vụ chính trước mắt là
hoàn thành giải phóng dân tộc. Lúc này phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng
chiến để quyết thắng quân xâm lược.
- Lực lượng của cách mạng: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp
tiểu tư sản và tư sản dân tộc, ngoài ra còn có thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ.
Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó hợp thành nhân dân. Nền tảng của nhân
dân là công, nông và lao động trí thức. Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công
nhân.
- Tính chất cách mạng: là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam nhất định tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta sẽ lâu dài, gồm nhiều giai đoạn. Đại
thể trải qua ba giai đoạn:
+ Giai đoạn thứ nhất: nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.
+ Giai đoạn thứ hai: nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến
và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn
chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.
+ Giai đoạn thứ ba: nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã
hội, tiến lên thực hiện xã hội chủ nghĩa.
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ và xen lẫn với
nhau; giữa ba giai đoạn “không có bức tường rào ngăn cách”, nhưng mỗi giai đoạn
có nhiệm vụ trung tâm.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam là mốc đánh dấu bước phát triển
mới trong lí luận cách mạng của Đảng.
2. Đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi
a. Đảng lãnh đạo xây dựng thực lực kháng chiến về mọi mặt
Xây dựng hệ thống chính trị
Đảng đề ra chủ trương tăng cường đoàn kết toàn dân và thực hiện bằng
cách: củng cố các tổ chức quần chúng và Mặt trận dân tộc thống nhất; thành lập
Mặt trận Liên Việt (3-1951) thông qua Đại hội thống nhất Việt Minh và Liên Việt;
thành lập khối Liên minh ba nước Việt -Lào- Campuchia, góp phần tăng khối đoàn
kết chiến đấu của ba nước Đông Dương; từng bước ổn định, củng cố bộ máy chính
quyền phù hợp với tình hình kháng chiến.
Xây dựng từng bước nền kinh tế kháng chiến
Mở cuộc vận động tham gia lao động, sản xuất, thực hành tiết kiệm, nhằm
giảm bớt căng thẳng về lương thực. Tịch thu tài sản của bọn phản động chia cho
dân nghèo. Phát triển sản xuất, nhất là sản xuất lương thực. Giảm tô, khuyến khích
đổi công, thí điểm xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Củng cố, phát triển tài chính,
thương nghiệp, ngân hàng. Ban hành thuế nông nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế
hàng hoá. Theo đường lối giai cấp của Đảng, thuế đánh nặng vào địa chủ, phú
nông, giảm nhẹ cho bần cố nông, ưu đãi quân nhân, gia đình liệt sĩ. Năm 1951,
Ngân hàng quốc gia Việt Nam và mậu dịch quốc doanh ra đời.
Thực hiện chính sách ruộng đất
Từ đầu, cách mạng đã khẳng định không tịch thu ruộng đất của địa chủ, mà
chỉ tịch thu ruộng đất và tài sản của đế quốc, Việt gian phản quốc chia cho dân
cày. Từ năm 1947-1953, thực hiện giảm tô 25%, chia ruộng đất cho nông dân.
1949-1953, ban hành chính sách thuế nông nghiệp, hoãn nợ, xoá nợ, nhằm
hạn chế sự bóc lột của bọn địa chủ. Đầu năm 1953, Đảng quyết định phải thực
hiện cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến ở vùng tự do. Tháng 12-1953,
Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất, tiến hành cải cách ruộng đất ở vùng
tự do, nhằm đẩy mạnh kháng chiến, đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Trong gần một năm (1953-1954), đã thực hiện 5 đợt giảm tô và đợt 1 cải
cách ruộng đất ở một số xã ở vùng tự do. Cải cách ruộng đất mới chỉ được làm thí
điểm, nhưng đã bộc lộ những khuyết điểm mang tính giáo điều, do chỉ đạo xử lý
không đúng một số trường hợp cụ thể trong thực hiện chính sách ruộng đất. Tuy
vậy, chính sách triệt để giảm tô và chia ruộng đất cho dân cày đã động viên tinh
thần của nhân dân hậu phương, góp phần vào thắng lợi của chiến cuộc Đông-Xuân
1953-1954 với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ.
Xây dựng lực lượng vũ trang
Đảng chủ trương vũ trang toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ
quân làm nòng cốt (dân quân du kích, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực). Chú
trọng chất lượng, nâng cao giác ngộ giai cấp trong lực lượng, nâng cao sự hiểu biết
về đường lối kháng chiến, trình độ kỹ thuật, chiến thuật. Quân đội được tăng
cường vũ khí, đạn dược, thuốc men. Cán bộ tinh binh, tinh cán.
Năm 1949, thành lập đại đoàn 308; giữa năm 1954 đã xây dựng được 6 đại
đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo, nhiều trung đoàn bộ binh độc lập và các Liên
khu vũ trang tập trung có khoảng 33 vạn người.
Xây dựng Đảng vững mạnh
Chủ trương thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong hai
năm 1952-1953 nhằm quán triệt đường lối cách mạng và quan điểm kháng chiến
được thực hiện rộng rãi. Chú trọng kết nạp và phát triển cơ sở đảng trong lực
lượng vũ trang, trong các làng xã, xí nghiệp. Từ 1948-1949, kết nạp hơn 50 vạn
đảng viên. Đến đầu năm 1951, số lượng đảng viên phát triển tới 76 vạn.
b. Quá trình phát triển của cuộc kháng chiến
Giai đoạn 1950-1953
Thất bại của chiến dịch Biên giới đã làm chính giới Pháp hoảng loạn, càng
phụ thuộc vào Mỹ. Tháng 12-1950, thực dân Pháp phái Đại tướng Đờlát
Đờtatxinhi sang Việt Nam và kế hoạch Đờlát Đờtatxinhi ra đời. Pháp tăng cường
bổ sung quân, xây dựng các binh đoàn cơ động mạnh, thành lập thêm 4 tiểu đoàn
dù và tuyển mộ hàng vạn binh lính nguỵ. Chúng liên tiếp mở 10 chiến dịch lớn.
Cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đặc biệt là đồng bằng Bắc Bộ và vùng sau lưng
địch trở lên cực kỳ ác liệt.
Về phía ta, sau chiến thắng của chiến dịch Biên giới đã xuất hiện tư tưởng
chủ quan, khinh địch, nôn nóng, muốn đánh lớn, sớm kết thúc chiến tranh. Ta liên
tiếp mở ba chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung đánh vào
vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ (từ 25-12-1950 đến 20-6-1951). Các chiến
dịch có hiệu quả chiến đấu còn thấp vì chúng ta đã lựa chọn phương hướng tác
chiến chưa thích hợp.
Tháng 12-1951, thực dân Pháp tập trung 20 tiểu đoàn cơ động tấn công ra
Hoà Bình, nhằm cắt đứt con đường tiếp tế từ Nam ra Bắc, giành lại thế chủ động.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định tiêu diệt địch ở Hoà Bình,
đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ lên quy mô cao hơn.
Với phương châm “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu”, ta đánh bao vây, chia cắt địch,
buộc chúng phải rút chạy khỏi Hoà Bình. Trong trận Hoà Bình, ta đã tiêu diệt hàng
vạn tên xâm lược, bức rút hàng nghìn đồn bốt, giải phóng đất đai và dân cư.
Sau chiến thắng Hoà Bình, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh quyết
định mở liên tiếp hai chiến dịch: Tây Bắc (14-10-1952 đến 30-12-1952) và
Thượng Lào (4-1953), nhằm thu hút lực lượng cơ động của địch, tiêu diệt chúng ở
hướng có lợi cho ta. Thắng lợi lớn ở hai chiến dịch, quân và dân ta đã làm chủ
chiến trường, chuyển sang tiến công địch, đánh bại âm mưu xâm lược của thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, kết thúc cuộc kháng
chiến
Qua 8 năm kháng chiến, so sánh lực lượng giữa ta và địch đã có thay đổi
lớn. Ta mở rộng vùng tự do (bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi rộng lớn ở Việt
Bắc, Tây Bắc và tỉnh Hoà bình). Hai vùng tự do rộng lớn gồm Thanh Hoá, Nghệ
An, Hà Tĩnh (Liên khu V) và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên (liên khu VI) không ngừng được củng cố. Vùng tạm chiếm của địch bị thu
hẹp. Tại Nam Bộ, các căn cứ địa kháng chiến được xây dựng.
Lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân của ta lớn mạnh cả về số lượng
và chất lượng. Lực lượng cơ động chiến lược của ta hơn hẳn lực lượng cơ động
chiến lược của địch.
Về phía địch, trước những khó khăn găy gắt ở Pháp và Đông Dương, Pháp
càng ngày càng lệ thuộc Mỹ. Mỹ can thiệp sâu và Đông Dương và chờ cơ hội hất
cẳng Pháp (chỉ riêng về ngân sách chiến tranh, viện trợ của Mỹ tăng dần từ 20%
năm 1950 lên 50% năm 1952 và tới 80% năm 1954).
- Âm mưu của địch:
Để cứu vãn tình thế, thực dân Pháp cử Đại tướng H.Nava sang Đông
Dương và lập ra Kế hoạch Nava gồm có hai bước: Một là, phòng ngự và tránh
giao chiến với quân đội Việt Nam ở Bắc Bộ trong Đông Xuân 1953-1954, tiến
công ở Trung Bộ và Nam Bộ, mở rộng nguỵ quân để xây dựng các lực lượng cơ
động mạnh ở Bắc Bộ. Hai là, Thu Đông 1954 tiến công miền Bắc, tạo ra một cục
diện quân sự có lợi cho thực dân Pháp để đưa ra một giải pháp chính trị có lợi cho
chúng.
- Chủ trương của Đảng:
Tháng 9-1953, Hội nghị Bộ Chính trị đã họp và tập trung thảo luận để tìm
ra quyết sách, nhằm phân tán lực lượng cơ động của địch đang tập trung ở đồng
bằng, chọn hướng chiến lược mà địch sơ hở và thuận lợi cho ta. Nguyên tắc chỉ
đạo tác chiến Đông- Xuân 1953-1954 là: đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu
diệt, đánh nơi địch sơ hở, giữ vững chủ động, buộc địch phải phân tán lực lượng,
tiêu diệt địch và bảo toàn lực lượng của ta. Phương châm tác chiến là “tích cực,
chủ động, cơ động, linh hoạt”. Phát động hậu phương chi viện cao nhất cho tiền
tuyến. Đồng thời, quân ta có sự phối hợp tác chiến với quân Pathet (giải phóng)
Lào.
- Diễn biến:
Từ tháng 11-1953 đến đầu năm 1954, ta mở chiến dịch trên chiến trường
Việt Nam- Lào, nhằm phân tán, kìm giữ lực lượng địch ở những nơi khó ứng cứu
cho nhau.
Mở hàng loạt chiến dịch ở chiến trường Đông Dương; tiến công địch ở Tây
Bắc, giải phóng Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ, tiến công địch ở Trung Lào.
Tiến công địch ở Hạ Lào về phía đông Campuchia, mở rộng xuống tây- bắc
Campuchia, tiến công địch ở Tây Nguyên.
Bị thất bại liên tiếp trên chiến trường Việt Nam, địch chọn Điện Biên Phủ
để làm khâu chính của kế hoạch Nava. Tháng 11-1953, địch điều 16.200 quân xây
dựng Điện Biên Phủ thành 49 cứ điểm với 8 vùng, 3 phân khu, 2 sân bay. Cả Pháp
và Mỹ đều coi đó là pháo đài bất khả chiến bại, là cứ điểm mạnh nhất.
Ngày 6-12-1953, trước những thắng lợi vững chắc trong chiến cuộc Đông-
Xuân, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.Đầu năm 1954, để
tiến tới trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, ta thực hiện các đòn tiến công
chiến lược thu được nhiều thắng lợi lớn trên các chiến trường ở Đông Dương
Ngày 13-3-1954, các lực lượng vũ trang nổ súng tiến đánh Điện Biên Phủ.
Cuộc tiến công diễn ra trong 56 ngày đêm. Đến ngày 7-5-1954, qua ba đợt, ta đã
tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay, thu rất nhiều vũ khí và
quân trang. Trong cả cuộc tiến công 1953-1954, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu
11.500 tên, 117 máy bay. Giải phóng nhiều vùng đất đai và hàng triệu dân.
Thắng lợi của ta trong chiến dịch Đông - Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là
Chiến dịch Điện Biên Phủ đã làm phá sản kế hoạch Nava của địch, giáng đòn
quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp. ý đồ xâm lược Việt Nam một
lần nữa bị đánh bại một bước quan trọng. Chúng buộc phải ngồi vào bàn Hội nghị
Giơnevơ. Chiến công đó được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một
Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một
chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự
sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Ngày 8-5-1954, Hội nghị về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông
Dương được khai mạc tại Giơnevơ. Tham dự Hội nghị có 9 nước. Lập trường của
Việt Nam là đình chiến trên bán đảo Đông Dương, đi đôi với một giải pháp về
chính trị cho Việt Nam, Lào, Campuchia, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ. Do lập trường mỗi bên khác nhau, mỗi nước lại có lợi ích
riêng, nên cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao ở Hội nghị diễn ra rất gay go và
quyết liệt. Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết.Mỹ ngoan cố chưa
chịu thừa nhận những điều khoản đã được các nước thoả thuận. Đây là bước đầu
trong mưu toan trở lại thay thế Phá ở Đông Dương của đế quốc Mỹ.
Hiệp định Giơnevơ đã thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân
Việt Nam, nhân dân Lào và Campuchia. Quy định ngừng bắn đồng thời trên toàn
Đông Dương. Thực dân Pháp phải rút quân về nước. Vĩ tuyến 17 là giới tuyến
quân sự tạm thời cho đến khi tổng tuyển cử vào năm 1956 đối với Việt Nam. ở
Lào, có một khu tập kết hai tỉnh cho lực lượng kháng chiến. ở Campuchia, lực
lượng kháng chiến phục viên tại chỗ.
Hiệp định Giơnevơ tuy chưa thực sự phản ánh đầy đủ thắng lợi của nhân
dân ba nước trên chiến trường, nhưng Việt Nam là một nước nhỏ, lại phải đương
đầu với các đế quốc xâm lược lớn trong bối cảnh quan hệ quốc tế vô cùng phức
tạp nên cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân ta là lâu dài,
gian khổ, quanh co để giành thắng lợi từng bước là một vấn đề có tính quy luật.
IV. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa và kinh nghiệm lịch sử
1. Nguyên nhân thắng lợi
Có sự lãnh đạo của Đảng với đường lối chính trị và quân sự đúng đắn, đoàn
kết nhất trí, liên hệ mật thiết với quần chúng. Các Đảng viên của Đảng đã gương
mẫu, dũng cảm đi đầu trong cuộc chiến đấu.
Có sự đoàn kết chiến đấu toàn dân được tổ chức, tập hợp trong Mặt trận
dân tộc rộng rãi - Mặt trận Liên Việt, dựa trên nền tảng của khối liên minh công
nhân, nông dân và trí thức.
Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh
giặc. Đây là lực lượng trực tiếp đóng vai trò quyết định tiêu diệt địch trên chiến
trường.
Chúng ta có chính quyền dân chủ nhân dân, một chính quyền do dân, vì
dân. Đây là một công cụ sắc bén của Đảng để tổ chức toàn dân kháng chiến và xây
dựng chế độ mới.
Có hậu phương ngày càng mở rộng và củng cố về mọi mặt, bảo đảm chi
viện càng nhiều sức người, sức của cho mặt trận.
Có sự liên minh chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia
chống kẻ thù chung và được sự đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa,
của các dân tộc bị áp bức và các lực lượng hoà bình tiến bộ trên thế giới.
2. Ý nghĩa lịch sử
Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã bảo vệ và phát triển thành quả của cách
mạng Tháng Tám 1945, chấm dứt ách thống trị của bọn thực dân Pháp trong gần
một thế kỷ trên đất nước ta, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, hoàn thành cách mạng
dân chủ nhân dân trên một nửa đất nước.
Thắng lợi đó, đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị nô dịch vùng lên chống chủ
nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân, vì độc lập tự do và dân chủ tiến bộ. Nó
đánh dấu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân cũ, báo hiệu sự sụp đổ từng mảng của
hệ thống thuộc địa, góp phần tích cực vào tiến trình phát triển của cách mạng thế
giới.
3. Những kinh nghiệm
Kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Nhiệm vụ
chống phong kiến phải tiến hành có kế hoạch, từng bước, để vừa phát triển lực
lượng cách mạng, vừa giữ vững khối đoàn kết dân tộc.
Xác định và quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân: toàn dân, toàn diện,
lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Đây là bí quyết thắng lợi của cuộc kháng
chiến.
Vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp với truyền
thống kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc.
Vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương vững
mạnh để đẩy mạnh kháng chiến.
Kiên quyết kháng chiến lâu dài, đi từ chiến tranh du kích lên chiến tranh
chính quy. Kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích.
Xây dựng Đảng vững mạnh và bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng,
với đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, với ý chí quyết chiến và quyết thắng
kẻ thù, có chủ trương và chính sách kháng chiến ngày càng hoàn chỉnh, có đội ngũ
đảng viên dũng cảm, kiên cường, là những chiến sĩ tiên phong trong chiến đấu.
Câu hỏi ôn tập
1. Hoàn cảnh lịch sử nước ta sau năm 1945?
2. Nội dung cơ bản của Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” (25/11/1945) của Ban
Thường vụ Trung ương Đảng?
3. Đảng đã thực hiện những biện pháp gì để đối phó với thù trong giặc ngoài thời
kỳ 1945-1946?
4. Đảng đã phát động Toàn quốc kháng chiến (12/1946) trong hoàn cảnh lịch sử
nào?
5. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng?
6. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến thời kỳ 1946-1950?
7. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến thời kỳ 1951-1954?
8. Hoàn cảnh lịch sử và nội dung cơ bản đường lối cách mạng Việt Nam đề ra
trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam tại đại hội lần thứ II của Đảng
(2/1951)
9. Từ năm 1951 đến năm 1954 Đảng đã lãnh đạo mở các chiến dịch để đi đến kết
thúc thắng lợi kháng chiến chống thực dân Pháp như thế nào?
10. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954)?

Vấn đề thảo luận


1. Trong chỉ thị "kháng chiến kiến quốc", Đảng đã đưa ra những biện pháp cụ thể
trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, ngoại giao…Bằng những sự
kiện lịch sử hãy làm rõ những biện pháp đó?
2. Phân tích và chứng minh Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng là nhân tố
quyết định thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
3. Nghệ thuật quân sự của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954).
4. Đảng ta đã kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao để kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ như thế nào?
CHƯƠNG IV
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA MIỀN BẮC VÀ
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 – 1975)
Mục đích
Giúp sinh viên hiểu được lịch sử của Đảng thời kỳ 1954-1975 là lịch sử
quá trình Đảng đề ra và chỉ đạo thực hiện thắng lợi đường lối tiến hành đồng thời
và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng, nhằm thực hiện mục tiêu chung của
cả nước là giải phóng miền Nam, hoà bình thống nhất Tổ quốc; nắm được nguyên
nhân thắng lợi và ý nghĩa, kinh nghiệm lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước.
I. Đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới
1. Đặc điểm nước ta sau tháng 7-1954
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, can thiệp Mỹ của quân và dân ta. Tháng 7-1954, tại Hội nghị
Giơnevơ “… các bên tham gia Hội nghị thừa nhận về nguyên tắc sự độc lập,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; việc hiệp thương giữa hai miền bắt
đầu từ 20-7-1955 và tổng tuyển cử tiến hành vào tháng 7-1956; quyết định lấy vĩ
tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam”. Nhưng với mưu đồ bá chủ
thế giới của đế quốc Mỹ, đại diện chính phủ Mỹ đã không ký Tuyên bố cuối cùng
của Hội nghị Giơnevơ, từng bước xé bỏ các điều khoản của Hiệp định, xúc tiến kế
hoạch xâm nhập vào miền Nam nước ta để thay thế thực dân Pháp.
Sau 9 năm liên tiếp thua trận, Pháp buộc phải chấp nhận con đường rút lui
khỏi Việt Nam, Lào, Campuchia. Song thực dân Pháp không tự nguyện rút nhanh
khỏi Đông Dương nêu Mỹ không có chủ trương dứt khoát gạt Pháp. Thất bại quân
sự của Pháp và việc rút quân của Pháp khiến Mỹ thất cần phải hành động nhanh
chóng để giữ lấy phần còn lại của Đông Dương, không để nhân dân Đông Dương
giành lại độc lập (Mỹ gọi là “không để rơi vào tay cộng sản”). Chính sách rút lui
của Mỹ đã tạo cơ hội hết sức thuận lợi cho Mỹ nhảy vào miền Nam.
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa đế quốc Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ
hai là bành trướng chủ nghĩa thực dân mới nhằm chống lại các phong trào cách
mạng, đàn áp và phá hoại phong trào độc lập dân tộc, thực hiện chính sách lũng
đoạn của tư bản độc quyền Mỹ và ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội,
tranh giành vị trí và ảnh hưởng với các đế quốc khác.
Mỹ đề ra Chiến lược toàn cầu phản cách mạng hết sức thâm độc: can thiệp
vào hầu hết các cuộc chiến tranh, xung đột trên thế giới, ngăn cản, bao vây, phá
hoại phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và điên cuồng chống phá hệ thống
chủ nghĩa xã hội. Mỹ coi Việt Nam là một mắt xích quan trọng trong chiến lược
toàn cầu của mình.
Thực hiện âm mưu trên, ngày 7-7-1954, đế quốc Mỹ đã đưa Ngô Đình
Diệm lên làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ và Quốc phòng của chính
quyền Bảo Đại ở miền Nam. Ngày 8-9-1954. Mỹ lôi kéo Pháp, Anh, Ôxtraylia,
Niu Dilân, Philippin, Thái Lan và Pakixtan lập ra khối “Liên minh quân sự Đông
Nam Á” (SEATO) và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam dưới sự “bảo trợ” của
khối này. Tháng 9-1954, chính phủ Mỹ trực tiếp viện trợ cho Ngô Đình Diệm.
Ngày 19-12-1954, Pháp ký hiệp ước trao quyền hành chính, chính trị cho Ngô
Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam.
Thông qua hệ thống cố vấn và viện trợ, Mỹ đã dung dưỡng chính quyền tay
sai Ngô Đình Diệm, ra sức phá hoại việc thực hiện Hiệp định Giơnevơ, đàn áp
khủng bố khốc liệt phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân miền Nam.
Âm mưu cơ bản của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam là: tiêu diệt bằng được
phong trào yêu nước và cách mạng, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước
ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ; lập phòng
tuyến ngăn chặn chặn chủ nghĩa xã hôi lan xuống Đông Nam châu Á, đồng thời
lấy miền Nam làm căn cứ tấn công miền Bắc, tiền đồn của hệ thống xã hội chủ
nghĩa ở Đông Nam Á, hòng đè bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao
vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa. Việt Nam, vì vậy trở thành nơi thử
thách sức mạnh và uy tín của đế quốc Hoa Ky như chính bản thân giới cầm quyền
Mỹ đã xác nhận. Chiến tranh xâm lược Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ. Mỹ đã chọn Việt Nam làm trong
điểm trong các đối tượng xâm lược của mình nhằm thực hiện học thuyết Đôminô,
Mỹ cho rằng mất Việt Nam thì có thể mất nhiều nơi trên thế giới, trước hết là
Đông Nam Á – nơi Mỹ có nhiều quyền lợi về chính trị, quân sự và kinh tế. Vì vậy,
Việt Nam trở thành nơi đụng đầu lịch sử quyết liệt giữa phong trào độc lập dân tộc
và chủ nghĩa đế quốc, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Dân tộc Việt Nam đứng trước thách thức nghiêm trọng: cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi, nhưng sự nghiệp thống nhất
nước nhà chưa thực hiện được. Đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ
chính trị khác nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giai phóng, bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, đất nước bị chiến tranh
tàn phá, đời sống nhân dân thiếu thốn mọi bề. Miền Nam, đế quốc Mỹ từng bước
thay chân Pháp, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta.
Vì vậy, nhân dân Việt Nam vừa phải tiến hành hàn gắn vết thương chiến tranh,
khôi phục kinh tế đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, vừa phải tiếp tục
đẩy mạnh cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm chống đế
quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất đất nước, tạo
điều kiện đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tình hình đó đặt ra cho Đảng ta một yêu cầu cấp bách là phải vạch ra được
một đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng tiến lên phù hợp với thực
tiễn, giải quyết những yêu cầu cơ bản của cách mạng Việt Nam, đồng thời phù hợp
với những mục tiêu và xu thế chung của cách mạng thế giới.
2. Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục thực hiện
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Đại hội đại biểu lần thứ III của
Đàng (9-1960)
Đường lối chiến lược ở mỗi miền từng bước được hình thành và đến Đại
hội toàn quốc lần thứ III (9- 1960) được nhất trí thông qua.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
Đại hội họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960.
Sau 30 năm hoạt động trong điều kiện không hợp pháp và chiến tranh, lần
đầu tiên đại hội Đảng họp giữa Thủ đô giải phóng. Tham dự đại hội có 525 đại
biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả
nước. Nhiều đoàn đại biểu anh em trên thế giới tới dự: ĐCS Liên Xô, Trung Quốc,
Bungari, Anbani, Indonexia, Nhật Bản…Đến dự đại hội còn có đại biểu của Đảng
Xã hội, Đảng Dân chủ và các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đảng xác định cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này có hai chiến lược
cách mạng khác nhau, tiến hành đồng thời ở cả hai miền: Một là, tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh
của cách mạng cả nước. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,
nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực
hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Vị trí của mỗi chiến lược: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam
và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò
“quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà, hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”.
Mối quan hệ giữa hai chiến lược:
Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy khác nhau về nội dung và tính chất nhưng
lại cùng giải quyết một mục tiêu chung là giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Hai nhiệm vụ chiến lược của hai miền có mối quan hệ khăng khít với nhau,
tác động qua lại và thúc đẩy cùng nhau phát triển.
Về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
Đại hội đã vạch ra đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội:
Nhiệm vụ của cách mạng miền Bắc: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc. Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội, nhằm xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc
thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Đồng thời cải tạo
xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, tác động qua lại và thúc đẩy nhau cùng phát triển, trong đó cải tạo
xã hội chủ nghĩa cần phải đi trước một bước để mở đường.
- Biện pháp và con đường thực hiện:
Sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên
chính vô sản để tổ chức và thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và
công thương nghiệp tư bản tư doanh và đồng thời phát triển thành phần kinh tế
quốc doanh. Tiến hành cải tạo các thành phần kinh tế đi theo chủ nghĩa xã hội, dựa
trên hai hình thức sở hữu: toàn dân và tập thể. Thực hiện công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng
thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đẩy mạnh cách mạng xã
hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật.
Yêu cần cần đạt tới: biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công
nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.
Nội dung cơ bản của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã
chỉ ra những định hướng và nguyên tắc cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Nhưng đường lối còn chung chung, chưa cụ thể hoá thành những mục tiêu
cụ thể, chưa có dự kiến về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Mặc dầu vậy, đường lối trên đã định hướng con đường mà dân tộc sẽ đi,
hướng tới một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Ý nghĩa: Lịch sử đã chứng minh rằng, đường lối cách mạng của Đại hội đã
phản ánh đúng quy luật vận động của cách mạng ở từng miền và chung của cả
nước trong giai đoạn 1954-1975. Nó thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của Đảng ta
trong việc tìm ra một đường lối phù hợp với hoàn cảnh mới, tìm đáp số đúng cho
một thực tế chưa có tiền lệ trong lịch sử.
Như vậy, một Đảng thống nhất lãnh đạo một đất nước tạm thời bị chia cắt,
tiến hành đồng thời hai chiến lược khác nhau. Đây là nét độc đáo và đặc điểm lớn
nhất của cách mạng nước ta trong giai đoạn 1954-1975.
II. Lãnh đạo thực hiện các kế hoạch Nhà nước ở miền Bắc và đấu tranh
chống Mỹ ở miền Nam (1954-1965)
1. Thực hiện các kế hoạch Nhà nước ở miền Bắc
a. Khôi phục kinh tế và bước đầu củng cố miền Bắc thời kỳ 1954-1957
Tình hình miền Bắc và nhiệm vụ trước mắt
Miền Bắc bước vào khôi phục kinh tế trong điều kiện có nhiều khó khăn:
143000 ha ruộng đất bị bỏ hoang, hàng trăm ngàn gia đình không có nhà ở, hàng
chục vạn người không có việc làm, nhiều tệ nạn do xã hội cũ để lại còn hoành
hành, phần lớn xí nghiệp ngừng hoạt động, hàng hoá khan hiếm.
Nhiệm vụ trước mắt là tiếp quản những vùng giải phóng theo quy định của
Hiệp định Giơnevơ. Nhân dân ta đã làm chủ hoàn toàn Thủ đô từ ngày 10-10-
1954.
Hướng đấu tranh chủ yếu của nhân dân ta thời kỳ này là chống âm mưu của
địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào ta di cư vào Nam. Tuy nhiên, do chậm phát hiện và
chưa thấy hết âm mưu thâm độc của Mỹ - Pháp, nên gần một triệu người miền Bắc
đã bị cưỡng ép di cư vào Nam.
Chủ trương của Đảng
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền
Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là
phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân
dân, tăng cường và mở rộng quan hệ quốc tế, nhằm đưa miền Bắc trở lại bình
thường sau chiến tranh.
Hội nghị lần thứ 7 (3-1955) và lần thứ 8 (8-1955) của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá II) đã nhận định: muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, thực
hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra
sức củng cố miền Bắc. Hội nghị chỉ ra biện pháp củng cố miền Bắc:
Trước hết cần hoàn thành cải cách ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân,
xoá bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ. Đưa miền Bắc tiến dần từng
bước lên chủ nghĩa xã hội. Kiện toàn lãnh đạo các cấp và củng cố Mặt trận Dân
tộc thống nhất.
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-1957) đã đề ra
nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong giai đoạn mới.
Quá trình thực hiện
Tháng 7-1956, đợt 5 cải cách ruộng đất kết thúc ở vùng đồng bằng, trung
du và 280 xã miền núi. Chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến ở miền Bắc nước
ta đến đây bị xoá bỏ hoàn toàn. 9 triệu người trong hơn 2 triệu hộ lao động đã
được chia hơn 810.000 ha ruộng đất. Sức sản xuất to lớn ở nông thôn được giải
phóng, quan hệ sản xuất ở nông thôn đang đổi mới, sản xuất nông nghiệp được
đẩy mạnh, đời sống nông dân bước đầu được cải thiện, miền Bắc được củng cố.
Tuy nhiên, trong quá trình cải cách ruộng đất, ta đã phạm những sai lầm nghiêm
trọng, phổ biến và kéo dài như: vi phạm đường lối giai cấp ở nông thôn: xâm
phạm lợi ích trung nông, không liên hiệp phú nông, không phân biệt đối đãi các
loại địa chủ, không chiếu cố địa chủ kháng chiến; cường điệu việc trấn áp phản
cách mạng; không giao cho tổ chức Đảng địa phương lãnh đạo cải cách ruộng đất,
mắc chủ nghĩa thành phần và khuynh hướng trừng phạt; lạm dụng các biện pháp
phát động quần chúng, nặng đấu tố, nhẹ giáo dục; không kết hợp biện pháp hành
chính với phát động quần chúng. Sai lầm nghiêm trọng nhất là trong việc chỉnh
đốn tổ chức.
Nguyên nhân của những sai lầm:
Không nắm vững những biến đổi ở nông thôn miền Bắc sau Cách mạng
Tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp (nhất là những thay đổi quan trọng
về quan hệ giai cấp, xã hội). Dập khuôn một cách máy móc kinh nghiệm của nước
ngoài.
Hội nghị lần thứ 10 (9-1956) chủ trương: kiên quyết sửa chữa sai lầm trong
cải cách ruộng đất; chỉnh đốn tổ chức, phát huy những kết quả và thắng lợi đã thu
được, đẩy mạnh sản xuất. Do vậy, sai lầm được hạn chế bớt.
Cuối năm 1957, công cuộc khôi phục kinh tế đã vượt chỉ tiêu đặt ra: Các xí
nghiệp quan trọng được phục hồi và tăng thêm thiết bị; một số xí nghiệp mới được
xây dựng. Mọi hoạt động kinh tế ở miền Bắc ổn định. Các lĩnh vực văn hoá, giáo
dục, y tế phát triển nhanh. Nông nghiệp đã vượt mức năm 1939 (cuối năm 1957,
sản lượng lương thực đạt 4 triệu tấn/năm so với mức 2,4 triệu tấn/ năm 1939). Hệ
thống đoàn thể từ Trung ương đến địa phương được củng cố và xây dựng (9-1955,
Mặt trận dân tộc thống nhất được đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).
Tóm lại, đến năm 1957, nhiệm vụ khôi phục kinh tế căn bản hoàn thành.
Nông nghiệp vượt hẳn mức trước chiến tranh. Công nghiệp đạt nhiều thành tựu.
An ninh trật tự được giữ vững, quốc phòng được củng cố.
b. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa thời kỳ 1958-1960.
Chủ trương của Đảng
Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương (11-1958) của Đảng đã đề
ra kế hoạch ba năm phát triển kinh tế, văn hoá và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân (1958-1960).
Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II - tháng 4-
1959) thông qua hai nghị quyết quan trọng: Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa
nông nghiệp; Nghị quyết về vấn đề cải tạo công thương tư bản tư doanh
Về kinh tế, thực hiện chính sách chuộc lại những tư liệu sản xuất chủ yếu
của các nhà tư sản, biến sở hữu tư bản chủ nghĩa thành hình thức công tư hợp
doanh.
Về chính trị, tiếp tục coi các nhà tư sản dân tộc là những thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, làm họ càng hiểu rõ: “Tính dân tộc của tư sản dân tộc
là hướng về chủ nghĩa xã hội, không thể có con đường nào khác. Dân tộc là yêu
nước và yêu chủ nghĩa xã hội”.
Quá trình thực hiện
Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh: đến tháng 11-1960, đã cải tạo
2.097 cơ sở công thương nghiệp tư bản với tổng số vốn 25 triệu đồng, có 1.732 tư
sản và 500 người trong gia đình họ được sắp xếp việc làm. Các xí nghiệp được sắp
xếp lại, hợp nhất các xí nghiệp nhỏ thành các xí nghiệp quy mô vừa. Với quan hệ
sản xuất mới, công nhân lao động phát huy nhiệt tình sản xuất, năng xuất lao động
tăng, giá thành sản phẩm hạ. Đảng chủ trương phát triển mạnh thành phần kinh tế
nhà nước, nhất là công nghiệp quốc doanh. Từ năm 1958-1960, Nhà nước đã đầu
tư xây dựng cơ bản 1481 triệu đồng, tăng 2,3 lần thời kỳ 1955-1957; đã xây dựng
130 công trình công nghiệp trên hạng ngạch và đưa 86 nhà máy vào sản xuất.
Tổng số công nhân tăng 5,9 lần so với năm 1955. Giá trị sản lượng công nghiệp
năm 1960 tăng 4,8 lần so với năm 1955, đạt 850 triệu đồng.
Cải tạo nông nghiệp: tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp và Đảng coi đây là
khâu chính của công tác cải tạo các thành phần kinh tế. Phương châm hợp tác hoá:
“Tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ và bước đi phải từ thấp đến cao” và “…
từ hình thức thấp như tổ đổi công tiến lên hợp tác xã bậc cao. Quy mô cũng phải
từ nhỏ tiến lên lớn”. Thực hiện chủ trương trên, trong năm 1958, phong trào hợp
tác hoá phát triển mạnh và nhanh chóng trở thành cao trào. Sau hơn 2 năm (1958-
1959), hợp tác hoá nông nghiệp được coi như hoàn thành cơ bản. Quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa ở nông thôn miền Bắc đã được xác lập dưới hình thức hợp tác xã.
Đến tháng 11-1960, số hợp tác xã lên tới 41.401 với 86% số hộ nông dân và 76%
diện tích canh tác, trong đó có 12% số hộ nông dân vào hợp tác xã bậc cao.
Trong 3 năm (1958-1960), sản xuất nông nghiệp đạt nhiều kết quả, tăng
trưỏng trung bình mỗi năm 5,6%. Năm 1959 đạt tổng sản lượng cao về lương thực
là 5,15 triệu tấn. Song, bên cạnh đó, nhiều hợp tác xã còn gặp khó khăn, sản xuất
sút kém, một số cán bộ hợp tác xã tham ô, lạm dụng của công…. Các nguyên tắc
và phương châm cải tạo tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp của Đảng không được
tuân thủ đúng đắn, có những sai phạm và còn gò ép, áp đặt, chạy theo thành tích...
làm cho nông dân thiếu tin tưởng, một số xã viên xin ra khỏi hợp tác xã. Phong
trào hợp tác hoá phát triển nhanh, nhưng không vững. Nguyên nhân là ở chỗ
phong trào hợp tác hoá còn nóng vội, vi phạm nguyên tắc tự nguyện và cùng có
lợi, không nắm vững phương châm: tốt, vững, gọn, chưa tìm ra hình thức quản lý
hợp tác xã thích hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cải tạo tiểu thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ: Đảng và Nhà
nước chỉ đạo tiến hành theo các hình thức tổ chức hợp tác khác nhau. Sau hai
năm, ngành thủ công nghiệp đã xây dựng được 45.000 hợp tác xã, thu hút 75% thợ
thủ công ở thành thị và nông thôn, bước đầu tăng thêm đầu tư thiết bị, cải tiến kỹ
thuật. Đã có 60% tổng số người buôn bán nhỏ tham gia hợp tác xã hoặc tổ mua
bán. Tuy nhiên, ở đây cũng có thể nhận thấy tình trạng tương tự như trong phong
trào hợp tác hoá.
Phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân:
Đảng rất coi trọng lãnh đạo phát triển văn hóa, giáo dục, và y tế. Năm 1960, cứ
100 người dân có 18 người đi học (năm 1939 chỉ có 3 người), số giường bệnh tăng
lên 2 lần.
Tóm lại, kết quả của ba năm phát triển kinh tế, văn hoá và cải tạo xã hội
chủ nghĩa (1958-1960) là đã tạo nên những chuyển biến quan trọng trong nền kinh
tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố, từng bước đi lên chủ
nghĩa xã hội, trở thành hậu phương ổn định, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng miền Nam.
Như vậy, thành tựu lớn nhất của thời kỳ này là xoá bỏ áp bức, bóc lột. Các
giai cấp bóc lột đã bị thủ tiêu về mặt giai cấp. Nền sản xuất nhỏ, manh mún đã
được hợp tác hoá.
c. Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)
Đại hội III (9-1960) thông qua phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch 5
năm lần thứ nhất (1961- 1965):
Xây dựng bước đầu cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Hoàn
thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa; củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất
mới được xác lập. Thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Mục đích: đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội. Đảng tiếp tục hoàn thiện những chủ trương trên thông qua một loạt
các hội nghị:
Trong nông nghiệp: Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá III- tháng 1-1961) thông qua những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch nhà
nước năm 1961, chú trọng củng cố và phát triển hợp tác xã nông nghiệp. Hội nghị
lần thứ 5 (7-1961) chủ trương đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, giải
quyết vấn đề lương thực là chính. Tháng 11-1961, Bộ Chính trị chủ trương mở
cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển nông
nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc.
Trong công nghiệp: Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
7 (mở rộng- tháng 6-1962) bàn về xây dựng và phát triển công nghiệp.
Tháng 7-1963, Bộ Chính trị mở cuộc vận động “nâng cao ý thức trách
nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng
phí, quan liêu” (gọi tắt là “ba xây, ba chống”).
Trong nông nghiệp:
+ Thành tựu:
Năm 1961, sản lượng lương thực trên miền Bắc đạt 5,8 triệu tấn, tăng 8,8%
so với năm 1960.
Đến năm 1965, 88,8% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp, trong
đó có 71,7% số hộ lên hợp tác xã bậc cao.
Nông nghiệp miền Bắc đã phát triển tương đối toàn diện, bảo đảm cho miền
Bắc ổn định về kinh tế -xã hội, phát huy vai trò hậu phương lớn với tiền tuyến lớn.
+ Hạn chế:
Việc hợp nhất và đưa ồ ạt các hợp tác xã lên bậc cao là chủ quan, nóng vội.
Tổ chức sản xuất trong nông nghiệp và trình độ quản lý của cán bộ chưa đáp ứng
được yêu cầu, cơ sở vật chất nghèo nàn, nông cụ chủ yếu là thô sơ. Tỉ lệ xã viên
xin ra khỏi hợp tác xã cao.
Trong công nghiệp:
+ Thành tựu:
Công nghiệp quốc doanh phát triển với nhịp độ tăng cao, là lực lượng lãnh
đạo nền kinh tế quốc dân phát triển có kế hoạch. Xây dựng và phát triển nhiều nhà
máy, xí nghiệp quy mô lớn. Các ngành công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim,
hoá chất...được xây dựng và đi vào sản xuất. So với năm 1955, sản lượng điện
năm 1965 tăng gần 10 lần, cơ khí tăng bình quân hàng năm 30%. Đến năm 1965
có 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh đã được xây dựng. Công nghiệp nhẹ
và mạng lưới công nghiệp địa phương phát triển khá.
+ Hạn chế:
Còn chưa hướng vào mục tiêu trung tâm phục vụ sản xuất nông nghiệp và
hàng tiêu dùng. Quan niệm về công nghiệp hoá còn giản đơn, giáo điều, đồng nhất
công nghiệp hoá với việc xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
quá nhấn mạnh đến việc phát triển công nghiệp nặng, đầu tư quá nhiều vào xây
dựng cơ bản trong điều kiện có chiến tranh phá hoại.
Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội:
+ Thành tựu:
Trình độ văn hoá, kỹ thuật của cán bộ và nhân dân được tăng lên rõ rệt. Bảo
vệ sức khỏe và chăm sóc y tế được đảm bảo. Các tệ nạn xã hội giảm mạnh. Số
lượng học sinh, sinh viên tăng lên đáng kể. Năm 1965, miền Bắc có 4,5 triệu
người đi học (trong 16 triệu dân), có 10.290 trường phổ thông các cấp (năm 1960
có 7.066 trường), có 18 trường đại học và cao đẳng với 34.000 sinh viên (năm
1960 có 9 trường và 8000 sinh viên)…
-Trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh:
+ Thành tựu: lực lượng ba thứ quân đã nâng cao một bước sức mạnh chiến
đấu, 30% ngân sách quốc phòng được đầu tư xây dựng các công trình quân sự.
Đường Trường Sơn hoàn thành tốt việc chi viện cho chiến trường miền Nam.
+ Hạn chế: chưa nhận thức được mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và
phát triển quốc phòng.
Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước:
Đã nâng cao địa vị quốc tế của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, tranh thủ
sự đồng tình và giúp đỡ của các nước anh em và nhân dân thế giới đối với cuộc
đấu tranh giải phóng miền Nam.
Tóm lại, kế hoạch được thực hiện được 4 năm thì ta phải đối phó với chiến
tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Nhưng kế hoạch được đánh giá là
hoàn thành trên các mục tiêu chủ yếu và giành được những thắng lợi quan
trọng. Miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc của cả nước.
2. Nhân dân miền Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai
a. Từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công, đánh bại chiến tranh
đơn phương của đế quốc Mỹ (1954-1960)
Giữ gìn lực lượng cách mạng (1954-1957)
Về phía địch
Thời kỳ này, Mỹ thực hiện “chiến tranh đơn phương” - chiến lược can thiệp
và xâm lược (về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá) ở miền Nam Việt Nam.
Trong chiến lược này, Mỹ không đưa quân đội trực tiếp thực hiện, mà thực hiện sự
thống trị bằng hệ thống “cố vấn” Mỹ.
Âm mưu của Mỹ- Nguỵ: áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam,
biến miền Nam thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống thuộc địa của Mỹ.
Tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam và chuẩn bị tiến công ra miền Bắc. Lập
phòng tuyến ngăn ngừa không cho chủ nghĩa cộng sản lan xuống Đông Nam á,
bao vây, uy hiếp chủ nghĩa cộng sản từ phía Đông Nam Á.
Thủ đoạn:
Về chính trị, Mỹ tích cực xây dựng bộ máy nguỵ quyền đứng đầu là Ngô
Đình Diệm; hệ thống cố vấn Mỹ được cắm sâu từ trung ương đến cơ sở; chúng bắt
bớ, trả thù những người yêu nước, kháng chiến cũ, đàn áp thẳng tay phong trào
đấu tranh của quần chúng đòi hiệp thương với miền Bắc, gây nên các cuộc tàn sát
đẫm máu ở miền Nam.
Về quân sự, chúng xây dựng quân đội nguỵ (gần nửa triệu, trong đó có 20
vạn quân chính quy), do cố vấn Mỹ trực tiếp huấn luyện, trang bị và chỉ huy.
Về kinh tế, biến kinh tế miền Nam phụ thuộc vào kinh tế Mỹ; dùng chiêu
bài viện trợ, biến miền Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hoá ế thừa và bóc lột
tài nguyên, nhân công.
Về văn hoá - xã hội, chúng du nhập lối sống Mỹ, đề cao tư tưởng tự do tư
sản, khuyến khích văn hoá độc hại...
Như vậy, âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ rất xảo quyệt, thâm độc và
tinh vi, đặt dân tộc ta và cách mạng miền Nam đứng trước một kẻ thù mới, có tiềm
lực về kinh tế, quân sự. Điều đó báo hiệu cuộc đấu tranh của nhân dân ta là rất khó
khăn, gian khổ, lâu dài và phức tạp.
Về phía ta
So sánh lực lượng: ta có ưu thế về chính trị và lực lượng quần chúng nhân
dân đông đảo. Nhưng, thực hiện Hiệp định Giơnevơ, ta tiến hành chuyển quân
ra Bắc, nên so sánh lực lượng có nhiều bất lợi. Ta không còn lực lượng vũ trang,
không còn chính quyền. Đây là một trong những thời kỳ khó khăn nhất của
cách mạng miền Nam.
Chủ trương và biện pháp của Đảng:
Trong những năm 1954-1956, xuất phát tương quan lực lượng giữa ta và
địch, Đảng quyết định thay đổi phương thức đấu tranh quân sự sang đấu tranh
chính trị. Đảng chủ trương thực hiện ở miền Nam thế giữ gìn lực lượng và sử dụng
các hình thức đấu tranh thích hợp, nhằm hạn chế tổn thất và duy trì cho được
phong trào cách mạng.
Đảng phát động một phong trào đấu tranh chính trị rộng lớn đòi đối phương
phải thi hành hiệp định đình chiến, đòi tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử với
miền Bắc, đòi thực hiện các quyền dân sinh, dân chủ, chống mọi hành động khủng
bố, đàn áp những người kháng chiến cũ.
Để giữ gìn lực lượng và duy trì hoạt động trong điều kiện quân thù khủng
bố dã man, các đảng bộ ở miền Nam đã sắp xếp lại tổ chức và rút vào hoạt động bí
mật.
Kịp thời chuyển hướng nội dung và phương thức đấu tranh là một giải pháp
tình thế đúng đắn. Nhưng do chính sách tàn bạo của Mỹ - Diệm, lực lượng cách
mạng bị tổn thất lớn.
Cuối 1956 - đầu 1957, Đảng vẫn xác định mục tiêu trước mắt là kiên trì
phát động quần chúng đấu tranh chính trị, tiếp tục thế giữ gìn lực lượng. Tuy
nhiên, cũng đã có chủ trương xây dựng, củng cố các lực lượng vũ trang và nửa
vũ trang, lập các khu căn cứ, đi đôi với việc đẩy mạnh xây dựng cơ sở chính trị
trong quần chúng làm chỗ dựa để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị
khả năng đưa cách mạng miền Nam chuyển sang thời kỳ đấu tranh mới với
phương thức mới.
Từ năm 1957, cùng với phong trào đấu tranh chính trị rộng lớn, xuất hiện
hình thức đấu tranh vũ trang hỗ trợ diệt tề, trừ gian. Hàng loạt chiến khu đã ra đời
hoặc được xây dựng lại.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (1-1959) và phong trào “Đồng khởi”
Từ năm 1958, Mỹ- Diệm đẩy mạnh khủng bố, liên tiếp mở các cuộc hành
quân càn quét, dồn dân quy mô lớn vào các trại tập trung.
Mỹ - Diệm đẩy mạnh chính sách phát xít hoá, đàn áp cách mạng miền
Nam: đầu độc 5.000 người tại trại giam Phú Lợi tháng 12-1958; ra Luật phát-
xít 10/59 vào ngày 6-5-1959; đến năm 1959 miền Nam có 466.000 người bị
bắt, 400.000 bị tù, 68.000 bị giết hại.
Trước chính sách phát xít hoá nguy hiểm của kẻ thù và sự chuyển biến mới
của phong trào đấu tranh cách mạng của đồng bào miền Nam, Đảng ta không còn
có thể chờ đợi thêm nữa, mà phải có quyết định mới, dứt khoát.
Tháng 1-1959, Hội nghị lần thứ 15 (khoá II) của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã thông qua đường lối cách mạng miền Nam. Đây là bước nhảy vọt
trong tư tưởng chỉ đạo của Đảng. Nghị quyết có những nội dung cơ bản:
Xác định mâu thuẫn cơ bản của xã hội miền Nam: mâu thuẫn giữa một bên
là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ phong kiến, tư bản miền Nam và
toàn thể nhân dân miền Nam.
Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam:
1. Nhiệm vụ cơ bản: giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc
và phong kiến; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, xây dựng nước Việt Nam hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh.
2. Nhiệm vụ trước mắt: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế
quốc xâm lược; đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, thành lập một chính
quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam.
Phương pháp cách mạng: con đường cơ bản của cách mạng miền Nam
là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Dựa vào lực lượng chính trị của
quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị
của đế quốc và phong kiến. Hội nghị dự báo: cuộc khởi nghĩa có khả năng
chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài.
Về lực lượng cách mạng: gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân
tộc và nhân sĩ yêu nước.
Động lực cách mạng: công nhân, nông dân, tiểu tư sản.
Về mặt trận đoàn kết lực lượng: chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất
riêng với tính chất, nhiệm vụ và thành phần thích hợp, nhằm tập hợp rộng rãi tất cả
các lực lượng chống đế quốc và tay sai.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam: Hội nghị chỉ rõ, sự tồn tại và
trưởng thành của Đảng bộ miền Nam dưới chế độ độc tài là một yếu tố quyết định
thắng lợi của phong trào cách mạng miền Nam.
Ý nghĩa của Nghị quyết 15
Đây là nghị quyết có tính chất mở đường cho cách mạng miền Nam chuyển
từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Nghị quyết như “một ngọn đuốc ném
vào đống cỏ khô”, vì nó đã đáp ứng được yêu cầu bức bách của nhân dân miền
Nam.
Nghị quyết mở đầu cho hành động của Đảng ta trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
Nghị quyết đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, xoay chuyển
tình thế, dẫn đến cuộc “Đồng khởi” oanh liệt của toàn miền Nam năm 1960.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15, từ năm 1959
đến năm 1960, cách mạng miền Nam có sự phát triển nhảy vọt:
Đầu năm 1959, một số thôn ấp thuộc các huyện Bắc ái, Vĩnh Thạnh, An
Khê, Hoài Nhơn (thuộc Liên khu V) đã phá vỡ ách kìm kẹp của địch, giành quyền
làm chủ với những mức độ khác nhau.
Tháng 8-1959, đồng bào các dân tộc ở huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) nổi
dậy khởi nghĩa, quét sạch bộ máy nguỵ quyền ở hầu hết các xã trong huyện.
Cuối năm 1959, ở Nam Bộ, cục diện cách mạng chuyển biến rất mau lẹ.
Cuộc khởi nghĩa bắt đầu ở huyện Mỏ Cày, sau lan tới huyện Minh Tân, Thạch Phú
thuộc tỉnh Bến Tre, rồi mở rộng ra khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Tây
Nguyên và một số nơi thuộc các tỉnh Trung Trung Bộ. Hệ thống kìm kẹp của địch
ở xã, ấp bị tan vỡ từng mảng lớn.
Sang năm 1960, khởi nghĩa đã phát triển thành một cao trào “Đồng khởi”
trong toàn miền. Vùng giải phóng ra đời trên phạm vi rộng lớn, nối liền từ Tây
Nguyên đến miền Đông, miền Tây Nam Bộ và đồng bằng Liên khu V.
Ngày 20-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
Cách mạng miền Nam đã có một tổ chức chính trị đoàn kết rộng rãi toàn dân đấu
tranh chống Mỹ và tay sai.
Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” là bước nhảy vọt có ý nghĩa lịch sử
của cách mạng miền Nam. Phong trào “Đồng khởi” trên thực tế đã chuyển cách
mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Phong trào đồng
khởi và thắng lợi của nó đã phá vỡ từng mảng lớn của chính quyền địch ở nông
thôn, làm thất bại hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới ở miền
Nam. "Chiến tranh đơn phương" của Mỹ bị thất bại, đẩy Chính quyền Mỹ vào tình
thế bế tắc, mở ra bước ngoặt của cách mạng miền Nam, góp phần củng cố miền
Bắc.
b. Đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ (1961-1965)
Sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới và phong trào giải phóng
dân tộc đã làm thay đổi so sánh lực lượng bất lợi cho Mỹ. Đầu năm 1961, khi
bước chân vào nhà trắng, Tổng thống Mỹ Kenơdi đã điều chỉnh chiến lược trả đũa
ồ ạt, dựa vào vũ khí hạt nhân sang chiến lược "Phản ứng linh hoạt"- có thể răn đe
đánh trả các cuộc tiến công "phi hạt nhân", giành lại thế chủ động chiến lược, tiếp
tục thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.
Về chiến lược chiến tranh, Mỹ xây dựng ba mô hình, ba mức độ: chiến
tranh đặc biệt; chiến tranh cục bộ; chiến tranh tổng lực.
Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" là chiến lược đầu tiên trong ba loại chiến
tranh của chiến lược quân sự toàn cầu ”phản ứng linh hoạt”. Đây là một loại chiến
tranh xâm lược thực dân mới, còn được xem là “chiến tranh hạn chế” về mục tiêu,
thời gian, không gian và phương tiện chiến tranh. “Chiến tranh đặc biệt” được sử
dụng chủ yếu đối với phong trào giải phóng dân tộc.
Kenơdi chọn miền Nam Việt Nam làm nơi thí điểm chiến lược mới, nhằm
đối phó với phong trào nổi dậy ở miền Nam và qua đó rút ra kinh nghiệm để đàn
áp phong trào giải phóng dân tộc.
Về phía địch
Âm mưu của Mỹ- Nguỵ: Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở
miền Nam, nhằm chống lại chiến tranh du kích, chiến tranh giải phóng của nhân
dân ta, không có chiến tuyến cố định, ít huy động binh đoàn lớn.
Thủ đoạn: Công cụ tiến hành chiến tranh là lực lượng người bản xứ (quân
đội Nguỵ), do Mỹ trang bị vũ khí và chỉ huy. Tăng cường Nguỵ quân và khả năng
cơ động với các phương tiện chiến tranh hiện đại. Đẩy mạnh lập ấp chiến lược,
dồn dân trên quy mô lớn. Đây được coi là “quốc sách” và là “xương sống” của
chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Ra sức củng cố chính quyền các cấp, đẩy mạnh
các hoạt động chiến tranh phá hoại chống lại miền Bắc.
Những nội dung trên được thực hiện qua kế hoạch Xtalây - Taylo với mục
đích bình định miền Nam trong vòng 18 tháng và Giônxơn- Macnamara- tiếp tục
bình định miền Nam trong vòng hai năm 1963-1964. Viện trợ quân sự của Mỹ
tăng gấp hai lần, quân chính quy Nguỵ từ 15 vạn, tăng lên tới 30 vạn. Lực lượng
yểm trợ và cố vấn của Mỹ tăng từ 2.000 tên năm 1960, lên gần 1,2 vạn tên vào
năm 1962. Chúng đề ra mục đích đưa 10 triệu dân ở nông thôn vào 16.000 ấp
chiến lược.
Về phía ta
Chủ trương của Đảng (thể hiện qua nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị tháng
1-1960 và tháng 2-1962): Cách mạng miền Nam sẽ phát triển từ khởi nghĩa từng
phần lên chiến tranh cách mạng. Tiếp tục giữ vững tư tưởng chiến lược tiến công,
đưa đấu tranh vũ trang phát triển lên song song với đấu tranh chính trị. Tiến công
địch trên cả ba vùng chiến lược: đô thị, nông thôn đồng bằng và nông thôn rừng
núi, thực hiện phương châm đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị
và binh vận.
Do đặc điểm phát triển không đều của cách mạng miền Nam, tương quan
lực lượng ở mỗi vùng khác nhau, nên phương châm đấu tranh phải linh hoạt, thích
hợp với từng vùng cụ thể. Vùng rừng núi: Lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu. Vùng
nông thôn đồng bằng: Kết hợp hai hình thức đấu tranh vũ trang và chính trị. Vùng
đô thị: Lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu.
Kết quả: Các hoạt động vũ trang được đẩy mạnh và thu nhiều thắng lợi
vang dội: Mở đầu là chiến thắng ấp Bắc (1/1963). Lần đầu tiên tại vùng đồng
bằng, lực lượng vũ trang cỡ tiểu đoàn đã đánh thắng cuộc càn quét của Mỹ - Nguỵ,
có số quân đông gấp 10 lần và được chi viện mạnh mẽ về mặt hoả lực, có sức cơ
động cao. Chiến thắng này đánh dấu bước chuyển về chất của cách mạng miền
Nam, nó báo hiệu khả năng đánh thắng các chiến thuật cơ động bằng máy bay lên
thẳng và thiết giáp của Mỹ - Nguỵ. Trong năm 1964-1965: hàng loạt chiến thắng
lớn: Bình Giã (1964), Ba Gia, Đồng Xoài (1965)… đã tiêu diệt một bộ phận lớn
nguỵ quân, nguỵ quyền Sau đó, Mỹ buộc phải thay ngựa giữa dòng, giết chết anh
em Ngô Đình Diệm (11-1963). Phong trào phá “ấp chiến lược” trong những năm
1964-1965 cũng phát triển rộng lớn. Hệ thống ấp chiến lược của Mỹ bị phá trên
85%. Khủng hoảng chính trị trong bộ máy nguỵ quyền diễn ra triền miên. Phong
trào đấu tranh chính trị ở các đô thị cũng phát triển sôi động, mạnh mẽ từ giữa
năm 1963 trở đi.

Trước phong trào đấu tranh dồn dập và có hiệu quả của nhân dân miền
Nam, đến cuối năm 1964, đầu năm 1965, ba chỗ dựa chủ yếu của Mỹ là nguỵ quân
nguỵ quyền, hệ thống “ấp chiến lược” và các đô thị bị lung lay tận gốc. Chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã hoàn
toàn phá sản.
Sự phá sản trong “chiến tranh đặc biệt” là một thất bại nặng nề của Mỹ
trong âm mưu dùng miền Nam làm nơi thí điểm loại hình chiến tranh mới. Đây là
một thắng lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược, tạo cơ sở vững chắc để cách mạng
miền Nam tiến lên.
III. Lãnh đạo cả nước kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975)
1. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng
a. Âm mưu của địch
Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, nhằm: đưa quân chiến
đấu Mỹ vào miền Nam. Tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân đối với miền Bắc. Chủ trương của Mỹ là vào nhanh, rút nhanh, giành thắng
lợi trong một thời gian ngắn.
Như vậy, tính chất và mục đích của cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành vẫn
là chiến tranh xâm lược, nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới, song cuộc
chiến tranh từ chỗ dựa vào lực lượng nguỵ quân, nguỵ quyền là chủ yếu đã chuyển
thành cuộc chiến tranh dựa vào hai lực lượng chiến lược mà quân đội Mỹ và quân
đội chính quyền Sài Gòn với hai hướng chủ yếu: tập trung lực lượng chủ yếu trên
chiến trường miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, tạo ra tình
hình cả nước có chiến tranh với mức độ khác nhau.
b. Chủ trương của ta
Đường lối chống Mỹ, cứu nước của Đảng được thể hiện qua nghị quyết Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 (3-1965) và 12 (12-1965):
Trung ương Đảng nhận định: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng
chục vạn quân viễn chinh, nhưng so sánh lực lượng giữa ta và địch không thay đổi
lớn. Cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc
chắn để giữ vững thế chủ động tiến công trên chiến trường.
Cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là cuộc
chiến tranh xâm lược thực dân mới. Cuộc chiến tranh đó được đề ra trong thế thua,
thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Mỹ
không thể nào cứu vãn được tình thế bế tắc của chúng ở miền Nam.
Từ đó, Trung ương Đảng khẳng định: chúng ta có đủ điều kiện và sức mạnh
để đánh Mỹ và thắng Mỹ, đồng thời nêu rõ quyết tâm chống Mỹ, chỉ ra con
đường, biện pháp chống Mỹ và nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền:
Ở miền Nam: động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào.
Tư tưởng chỉ đạo chiến lược: giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên
quyết tiến công và liên tục tiến công.
Phương châm chiến lược chung: đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính,
càng đánh càng mạnh.
Phương châm đấu tranh: tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân sự
với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công. Trong giai đoạn này,
đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng
quan trọng.
Ở miền Bắc: bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội
chủ nghĩa là thành quả chung của nhân dân cả nước, là hậu phương vững chắc
trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường sức mạnh mọi mặt của miền Bắc, nhất
là về kinh tế và quốc phòng. Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
nhằm phát huy vai trò của hậu phương lớn đối với tuyền tuyến lớn .Chuyển hướng
xây dựng kinh tế cho phù hợp điều kiện chiến tranh. Tăng cường lực lượng quốc
phòng cho kịp với tình hình cả nước có chiến tranh. Ra sức chi viện cho miền
Nam ở mức cao nhất. Kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với
tình hình mới. Làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng hai nước Lào,
Campuchia.
- Về mối quan hệ giữa nhiệm vụ cách mạng hai miền: miền Nam là tuyền
tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa bảo vệ
miền Bắc và giải phóng miền Nam. Do vậy, hai nhiệm vụ của hai miền không tách
rời nhau, mà mật thiết gắn bó với nhau.
Việc chuyển hướng nêu trên là một chủ trương đúng đắn của Đảng,
phản ánh quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân trong việc kiên trì con đường xã
hội chủ nghĩa, tiếp tục tăng cường sức mạnh của miền Bắc, xây dựng mọi điều
kiện, cơ sở vật chất, biến miền Bắc thành chỗ dựa vững chắc cho miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11, 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
III) có tầm quan trọng đặc biệt. Nghị quyết đã chỉ ra phương hướng cụ thể cho
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang ở vào giai đoạn khó khăn và quyết
liệt.
2. Chuyển hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện cho tiền
tuyến lớn miền Nam
a. Chuyển hướng xây dựng miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại
lần thứ nhất của không quân, hải quân Mỹ (1965-1968)
Trong 4 năm, Mỹ đã huy động một lực lượng không quân và hải quân lớn,
trút hơn 1 triệu tấn bom đạn, tàn phá, huỷ hoại nhiều thành phố, thị xã, xóm làng,
nhiều công trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi, nhiều bệnh viện, trường học,
nhà ở, giết hại nhiều dân thường, gây lên những tội ác tày trời với nhân dân ta.
Nhân dân miền Bắc cũng như nhân dân cả nước không hề nao núng. Ngày
17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước: “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng
và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết
không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”
Quân và dân miền Bắc đã đánh trả mãnh liệt không quân, hải quân Mỹ, bắn
hạ hàng nghìn máy bay, bắn cháy hàng chục tàu chiến Mỹ, tiêu diệt và bắt sống
nhiều giặc lái.
-Sau bốn năm thực hiện chuyển hướng kinh tế, miền Bắc đã đạt được
những thành tích đáng tự hào trên mọi lĩnh vực, chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn
miền Nam: Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục, làm cho miền Bắc
ngày càng vững mạnh, phát huy được tính ưu việt trong thời kỳ cả nước có chiến
tranh.
Trong nông nghiệp: sản xuất không những không giảm sút mà vẫn có bước
phát triển. Phong trào thâm canh, tăng vụ được đẩy mạnh ở nhiều địa phương.
Sản lượng lương thực hàng năm trong những năm 1965-1968 vẫn đạt xấp xỉ năm
1961; hàng nghìn hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn/ha. Nhu cầu thiết yếu về lương
thực, thực phẩm cho toàn xã hội được đảm bảo. Cơ sở vật chất-kỹ thuật trong
nông nghiệp được tăng cường hơn so với trước chiến tranh.
Đối với công nghiệp và thủ công nghiệp: sản xuất vẫn được duy trì, các nhà
máy đã được sơ tán, bảo vệ để tiếp tục sản xuất. Việc xây dựng và phát triển công
nghiệp địa phương tiếp tục được đặc biệt chú trọng và có bước phát triển mạnh.
Về văn hoá, giáo dục, đào tạo cán bộ y tế: có mức phát triển tốt. Công tác
nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, thăm dò tài nguyên được đẩy mạnh, vừa
phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp xây dựng kinh tế trước mắt, vừa chuẩn bị cho
nhiệm vụ lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, miền Bắc đã nỗ lực chi viện sức người, sức của cho cách mạng
miền Nam. Gần 89 vạn thanh niên miền Bắc được động viên vào lực lượng vũ
trang. Hơn nửa lực lượng bộ đội chủ lực và gần 80% vũ khí đạn dược được sử
dụng ở miền Nam là do Đảng, Nhà nước ta động viên từ miền Bắc đưa vào.
b. Khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến thắng chiến tranh phá hoại lần 1
của đế quốc Mỹ (1969-1971)
Từ ngày 1-11-1968, đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt không điều kiện việc
ném bom và bắn phá bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Chiến tranh
phá hoại đã gây ra thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế mới xây dựng ở miền Bắc. Cơ
sở kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, các tuyến giao thông đường sắt, đường bộ…
bị địch đánh phá nặng nề.
Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 15-3-1969 chủ trương: nhân dân ta phải tranh
thủ thời gian khôi phục và phát triển kinh tế, làm cho miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, đáp ứng những nhu cầu to lớn của tiền tuyến miền Nam. Đây là thời kỳ
khôi phục kinh tế theo kế hoạch ngắn hạn, từng năm, tăng cường thực lực miền
Bắc để đáp ứng nhu cầu chi viện cho chiến trường miền Nam đang đánh lớn.
Kết quả:
Trong nông nghiệp: năm 1969, diện tích các loại cây trồng đều vượt năm
1968, riêng diện tích và sản lượng lúa tăng khá nhanh, lúa xuân tăng hai lần so với
năm 1968, chăn nuôi cũng phát triển mạnh.
Trong công nghiệp: hầu hết các xí nghiệp, hệ thống đường giao thông, cầu
phà, bến bãi bị địch đánh phá được khôi phục, sửa chữa và xây dựng thêm.
Trong lĩnh vực giáo dục, y tế: phát triển tốt trong những năm có chiến tranh
phá hoại. Hệ thống giáo dục đại học gồm 36 trường và phân hiệu với tổng số 8 vạn
sinh viên.
c. Chuyển hướng khôi phục và xây dựng kinh tế sau khi đánh thắng chiến
tranh phá hoại lần thứ hai (1973-1975)
Tình hình và chủ trương của ta:
Từ ngày 16-4-1972, đế quốc Mỹ huy động ồ ạt không quân và hải quân vào
tham chiến ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại trở lại miền Bắc với quy
mô lớn, tập trung cường độ cao một cách tàn bạo chưa từng có, phong toả vịnh
Bắc Bộ và các vùng biển miền Bắc bằng mìn và thuỷ lôi.
Bộ Chính trị đã chỉ rõ nhiệm vụ của miền Bắc lúc này là kiên cường chiến
đấu, đánh bại mọi hành động chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời
chuyển hướng các hoạt động kinh tế, sản xuất cho phù hợp với hoàn cảnh chiến
tranh phá hoại ác liệt, ổn định đời sống nhân dân, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ của
hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn trong mọi tình huống.
Kết quả:
Về nông nghiệp: năm 1972 sản lượng lương thực tăng đồng đều ở các địa
phương, số huyện và hợp tác xã đạt 5 tấn/ha nhiều hơn trước.
Giao thông vận tải: vẫn bảo đảm thông suốt. Địch đánh phá, ta thực hiện
phòng không sơ tán tốt, bình tĩnh đối phó có hiệu quả với bom đạn địch. Các lực
lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu trừng trị thích đáng hành động dã man của đế
quốc Mỹ. Riêng 12 ngày đêm (18 đến 30-12-1972) đánh trả cuộc tập kích chiến
lược bằng máy bay B.52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng, quân và dân miền Bắc
đã bắn rơi 84 máy bay, trong đó có 34 máy bay B.52 và 5 máy bay F.111A.
Ngày 15-1-1973, Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động tiến
công miền Bắc nước ta.
Sau Hiệp định Pari (27-1-1973), nhân dân miền Bắc nhanh chóng khôi
phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và dồn
sức chi viện nhiều nhất cho cách mạng miền Nam đi tới thắng lợi hoàn toàn.
Ngày 22-1-1974, Hội nghị lần thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương
họp, ra nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế
miền Bắc trong hai năm 1974-1975, nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh,
ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, tiếp tục xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, ổn định đời sống nhân dân, củng cố quốc
phòng, chi viện cho miền Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn và xây dựng
các vùng đã được giải phóng.
d. Thành quả và ý nghĩa lịch sử của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc (1954-1975)
* Thành quả
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội mặc dù có nhiều khó khăn, nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã dành được nhiều thành tựu rất có ý
nghĩa: Một hình thái kinh tế - xã hội mới - hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa quá
độ buổi ban đầu được kiến lập, trong đó quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chiếm
vị trí chủ đạo. Chế độ người bóc lột người đã được xoá bỏ. Cơ cấu xã hội- giai cấp
đã có sự thay đổi lớn: các giai cấp bóc lột đã bị xoá bỏ; giai cấp công nhân đã
trưởng thành cả về số lượng và chất lượng; giai cấp nông dân đã trở thành giai cấp
nắm giữ quyền sở hữu tập thể tư liệu sản xuất chủ yếu- ruộng đất; khối liên minh
công- nông được củng cố trên cơ sở mới; tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa được
tăng cường. Xã hội miền Bắc đã trở thành xã hội của những người lao động bình
đẳng. Các thành phần dân tộc chung sống trên tinh thần đoàn kết, hoà hợp dân tộc
vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Sự nhất trí về chính trị và tinh
thần trong xã hội ngày càng được củng cố. Cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của
chủ nghĩa xã hội được xây dựng:
Đến năm 1975 trong khu vực sản xuất vật chất 99,7% tài sản cố định đã
thuộc về kinh tế xã hội chủ nghĩa, tăng 5,1 lần so với năm 1955.
Trong công nghiệp, đã có những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp
nặng quan trọng như điện, than, cơ khí, hoá chất, luyện kim.... Một số ngành công
nghiệp nhẹ đã được xây dựng.
Trong nông nghiệp, nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng, bảo đảm tưới,
tiêu cho hàng chục vạn hécta canh tác; quá nửa số hợp tác xã nông nghiệp đã được
trang bị máy móc nhỏ; bước đầu áp dụng một số thành tựu khoa học- kỹ thuật
mới. Vì vậy, nông nghiệp đã có những chuyển biến lớn như: tăng năng suất và
tăng vụ, bảo đảm lương thực, thực phẩm trong chiến tranh.
Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế phát triển nhanh: tính đến đầu năm 1975,
cứ ba người có một người đi học. Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và cán bộ
quản lý có trình độ trên đại học, đại học, trung học chuyên nghiệp hơn 43 vạn
người, tăng 19 lần so với năm 1960. Mạng lưới y tế được mở rộng. Số bác sĩ, y sĩ
tăng 13,4 lần so với năm 1960. Hoạt động văn hoá, nghệ thuật cũng phát triển trên
nhiều mặt với nội dung phong phú.
Trong những năm chiến tranh, sản xuất vẫn được duy trì, có mặt tiếp tục
phát triển: những nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân được đảm bảo. Đói rét,
dịch bệnh không xảy ra, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Tuy
mức sống còn thấp và có nhiều khó khăn, nhưng mọi người đều vững lòng tin
tưởng và tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Hoàn thành xuất sắc vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn: đứng
vững và đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng phương tiện hiện đại nhất
của đế quốc Mỹ, mà tiêu biểu là chiến công đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng
máy bay B52 của Mỹ cuối năm 1972; đóng góp sức người, sức của cùng nhân dân
miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ
quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.
Những thành tựu nêu trên tuy còn ở mức thấp so với mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, nhưng trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, thì nó là những biến đổi lớn trên
miền Bắc và tỏ rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa trước thử thách của
cuộc chiến tranh tàn khốc.
-Song, nền kinh tế miền Bắc cũng bộc lộ những khó khăn, hạn chế: sau hơn
20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế miền Bắc còn mang nặng tính chất
sản xuất nhỏ. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém, 80% lực lượng lao động xã
hội vẫn là lao động thủ công, năng suất lao động thấp...Nhịp độ tăng dân số nhanh.
Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân còn chưa đảm bảo được nhu cầu cơ bản của
đời sống nhân dân và nhu cầu tích luỹ cho xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nguyên nhân:
Về khách quan, miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
xuất phát điểm còn thấp, bị chính sách khai thác hàng trăm năm của thực dân Pháp
làm kiệt quệ. Mặt khác, chúng ta tiến hành xây dựng kinh tế trong điều kiện đất
nước có chiến tranh, phải tập trung sức người, sức của cho chiến tranh giải phóng
miền Nam và chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của giặc
Mỹ, bảo vệ miền Bắc.
Về chủ quan, Đảng và Nhà nước đã mắc một số sai lầm, bắt nguồn từ
những nhận thức còn giản đơn, duy ý chí, chưa nắm đúng quy luật vận động đi lên
chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nền sản xuất nhỏ mang
tính tự cấp tự túc...
Trong các thời kỳ tiếp theo, Đảng đã từng bước nhận thấy những sai lầm,
hạn chế trên đây và tiến hành đổi mới từng phần, rồi đổi mới toàn diện.
* Ý nghĩa lịch sử
Chủ trương đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội ngay sau khi miền Bắc
hoàn toàn giải phóng là phù hợp yêu cầu chung của cách mạng miền Bắc và yêu
cầu phát triển chung của cách mạng cả nước. Điều đó chứng minh tính đúng đắn,
sáng tạo của Đảng trong việc đề ra và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiên mục tiêu chung đánh thắng
đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trên cả nước, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Với tiềm lực của mình, miền Bắc đã xứng đáng là căn cứ địa của cách
mạng cả nước, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn
miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam.
Thực tiễn 20 năm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và bước đầu xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã để lại nhiều kinh nghiệm có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc cho công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
3. Lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam
a. Đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965-1968)
“Chiến tranh cục bộ” là một loại hình chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ
ở miền Nam Việt Nam, “chiến tranh cục bộ” được Mỹ tiến hành bằng lực lượng
quân viễn chinh Mỹ (giữ vai trò quan trọng và ngày càng tăng lên về số lượng và
trang bị, lúc cao nhất là trên nửa triệu), quân chư hầu và quân nguỵ tay sai. Mỹ đã
huy động một lực lượng quân đội và một khối lượng vũ khí, phương tiện chiến
tranh khổng lồ tại chiến trường miền Nam, với quy mô lớn nhất, mạnh nhất, kể từ
sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Âm mưu và thủ đoạn của Mỹ - Nguỵ
Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại
miền Bắc. Mục tiêu của Mỹ là: tiêu diệt cách mạng miền Nam, huỷ diệt miền Bắc;
buộc phía Việt Nam phải ngồi vào đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Mỹ muốn
giành thắng lợi trong một khoảng thời gian ngắn.
Chiến tranh cục bộ của Mỹ với kế hoạch ba giai đoạn:
1. Phá kế hoạch mùa mưa của ta, triển khai nhanh lực lượng.
2. Mở các cuộc phản công chiến lược “tìm diệt”, kiểm soát vùng nông thôn.
3. Hoàn thành tiêu diệt chủ lực của ta, tiếp tục bình định miền Nam, rút
quân Mỹ về nước vào cuối 1967.
Trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” Mỹ sử dụng chiến thuật hai gọng
kìm: tìm diệt và bình định.
Từ tháng 3-1965, quân Mỹ và quân chư hầu kéo vào miền Nam Việt
Nam, đến cuối năm 1965, số quân đã lên hơn 18 vạn. Đồng thời, từ tháng 6-1965,
Mỹ đưa Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ thành lập chính phủ quân sự để
thực hiện chiến lược mới của Mỹ.
Ở miền Bắc, từ đầu tháng 3-1965, không quân Mỹ bắt đầu ném bom, bắn
phá các đầu mối giao thông, kho tàng, thị xã, thị trấn từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến
20. Tiếp đó, chúng leo thang, mở rộng đánh phá bằng không quân và hải quân để
huỷ diệt miền Bắc, ngăn chặn sự viện trợ của miền Bắc cho miền Nam, làm suy
giảm ý chí chiến đấu của Đảng ta, của quân và dân ta. Hành động tàn phá ác liệt
của đế quốc Mỹ kéo dài đến năm 1968.
Chủ trương của ta
Tháng 3-1965, Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết
định: Chuyển miền Bắc sang thời chiến, vừa sản xuất vừa chiến đấu, tiếp tục xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, phát huy
vai trò của hậu phương lớn với tiền tuyến miền Nam; Thực hiện nghĩa vụ quốc tế
đối với cách mạng Lào và Campuchia.
Thực hiện Nghị quyết 11, ta đã đánh thắng những trận đầu khi quân viễn
chinh Mỹ đổ bộ vào miền Nam. Đó là trận Núi Thành (3-1965), Vạn Tường (8-
1965), Plâyme (11-1965), Đất Cuốc, Bầu Bàng (11-1965), theo phương hướng và
quyết tâm cứ đánh Mỹ thì sẽ tìm ra cách thắng Mỹ.
Từ thực tiễn đó, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-
1965) nhận định: mặc dù Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân, nhưng lực
lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Nhân dân ta vẫn giành thế
chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện tiếp tục chiến lược tiến công
đánh bại âm mưu của địch.
Từ mùa khô 1965-1966, Bộ Chính trị ra chỉ thị: “Dùng hình thức phản công
chiến dịch, phản công chiến đấu để tiêu diệt quân Mỹ và quân nguỵ”. Quân và dân
miền Nam đã đánh bại nhiều cuộc hành quân “tìm diệt” và tấn công vào hậu cứ
địch; đồng thời phá vỡ kế hoạch bình định của địch.
Thất bại trong mùa khô 1965-1966, Mỹ vẫn ngoan cố đưa thêm quân vào
miền Nam lên tới 38 vạn tên và tăng thêm quân nguỵ, nâng tổng số quân Mỹ-
Nguỵ lên 98 vạn tên, hòng giành thế chủ động trong mùa khô 1966-1967.
Mùa khô năm 1966-1967, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chủ trương
tăng cường hơn nữa chi viện cho cách mạng miền Nam. Kết quả: quân và dân
miền Nam loại khỏi vòng chiến đấu 175.000 tên địch 1.800 máy bay và 1.786 xe
quân sự bị phá huỷ, 100 tàu xuồng bị bắn cháy. Hệ thống ấp chiến lược, khu tập
trung bị thất bại về cơ bản. Ta vẫn giữ vùng giải phóng cũ và giải phóng thêm 390
ấp, chiến tranh du kích ngày càng phát triển về chất lượng.
Tổng tiến công và nổi dậy Mậu thân 1968
Tình hình chung: Cuối năm 1967, cuộc “chiến tranh cục bộ” của Mỹ đã
được đẩy lên đỉnh cao, số quân viễn chinh đổ vào miền Nam đã lên tới 48 vạn.
Mọi biện pháp và thủ đoạn chiến tranh đã được sử dụng, nhưng đế quốc Mỹ vẫn
không sao thực hiện được mục tiêu chính trị, quân sự đã đề ra. Mặt khác, thất bại ở
Việt Nam làm cho tình hình Mỹ ngày càng bất ổn, phong trào phản đối chiến
tranh, đòi rút quân về nước ngày càng lan rộng trong các tầng lớp nhân dân.
Về phía ta, qua hơn hai năm đương đầu với cuộc chiến tranh cục bộ, quân
và dân miền Nam đã phát huy mạnh mẽ chiến lược tiến công, từng bước bẻ gẫy
hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định”, làm thất bại các mục tiêu quân sự và chính
trị của Mỹ.
Như vậy, những thất bại và khó khăn của địch cùng với những thắng lợi to
lớn của ta vừa giành được trên các mặt chính trị, quân sự; chiến thuật, chiến lược
và sự phát triển vững mạnh cả về thế và lực của ta đã mở cho cuộc chiến tranh
cách mạng miền Nam những triển vọng to lớn.
Trước tình hình đó, tháng 12-1967, Bộ Chính trị họp, bàn chuyển cuộc
đấu tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi
quyết định. Muốn vậy, ta phải tạo ra một bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh,
phải giáng một đòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, làm thay đổi
cục diện chiến tranh. Bộ Chính trị đề ra chủ trương:
Tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, đưa chiến tranh về đô thị, nơi
được coi là căn cứ và hậu phương vững chắc của Mỹ- Nguỵ.
Mở những đòn tiến công quân sự dồn dập, kết hợp với nổi dậy đồng loạt
của quần chúng ngay tại địa bàn chiến lược này của chúng.
Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1968) đã nhất trí
thông qua chủ trương.
Chỉ đạo tiến công:
Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, thực hiện mệnh lệnh tổng công kích, tổng
khởi nghĩa đồng loạt trên các hướng trọng điểm đô thị mà tập trung là Sài Gòn -
Gia Định, quân và dân ta đã mở liên tiếp ba đợt tiến công vào các mục tiêu đã xác
định: 4 thành phố, 37 thị xã; hàng trăm thị trấn và đánh vào hầu hết các cơ quan
đầu não của Mỹ- Nguỵ. Ta làm chủ nhiều đô thị, trung tâm lớn ở dài ngày. Cùng
với những đợt tiến công tiếp theo trong tháng 5 và tháng 8-1968, ta tiêu diệt hàng
chục vạn tên địch, phá hủy nhiều phương diện chiến tranh, giải phóng thêm hàng
triệu đồng bào. Đây là cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa giáng cho địch những
đòn bất ngờ, làm chúng hoang mang, giao động mạnh.
Đây là cuộc tấn công có nhiều nét đặc sắc và sáng tạo:
Sáng tạo trong việc xác định hướng tấn công chủ yếu và tìm cách đánh
mới. Lần đầu tiên chúng ta đồng loạt tiến công vào hầu hết các đô thị: 4/6 thành
phố; 37 thị xã và hàng trăm thị trấn.
Sáng tạo trong nghệ thuật chọn thời cơ chiến lược nhằm tạo ra bước ngoặt
chiến lược cho cuộc chiến tranh. Năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ, thời
điểm rất nhạy cảm về chính trị
Sáng tạo trong chọn thời cơ tấn công, tấn công vào dịp tết Nguyên đán-
đúng giao thừa và cũng là thời điểm địch dễ chủ quan, sơ hở. Thực tế, khi ta tấn
công, địch hoàn toàn bị bất ngờ.
Tuy vậy, trong chỉ đạo chiến lược cuộc tập kích 1968, ta đã phạm phải
những sai lầm:
Chủ quan trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa sát với thực tế
lúc đó (đề ra tổng khởi nghĩa trong lúc quân đội địch còn mạnh). Nguyên nhân là
do chỉ đạo chưa sát của cấp trên, do báo cáo thiếu chân thực của cấp dưới.
Ta đánh giá thấp kẻ địch.
Sau cuộc tổng tiến công 1968, ta đã không kịp thời rút ra kinh nghiệm, đối
phó kịp thời, hòng hạn chế bớt tổn thất. Sau đợt một, khi hết yếu tố bất ngờ nhưng
ta vẫn tiếp tục tiến công vào đô thị, không chuyển hướng kịp thời chống âm mưu
bình định ở nông thôn, nên đã bị tổn thất lực lượng và mất đất, mất dân. Khuyết
điểm đó còn kéo dài trong năm 1969, tới năm 1970 ta mới chuyển hướng chỉ đạo.
Tuy nhiên, đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Với Tổng công kích
- tổng khởi nghĩa Mậu Thân 1968, ta đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ
phải tuyên bố hạn chế, rồi chấm dứt ném bom miền Bắc và chấp nhận đàm phán
với ta tại Pari; mở ra cục diện vừa đánh vừa đàm, kết hợp chặt chẽ ba mặt trận
quân sự - chính trị - ngoại giao để thắng Mỹ. Đến đây, chiến lược “chiến tranh cục
bộ” của đế quốc Mỹ bị phá sản hoàn toàn.
b. Đánh thắng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” (1969-1973)
“Việt Nam hoá chiến tranh” là một loại chiến tranh xâm lược của Mỹ tiến
hành ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1969-1973. Trong chiến lược này, Mỹ giảm
dần đến giảm hẳn sự tham gia trực tiếp trên chiến trường của quân viễn chinh và
quân chư hầu, thay bằng quân Nguỵ. Đây là chính sách rất thâm độc của Mỹ
nhằm dùng người Việt, đánh người Việt”. “Việt Nam hoá chiến tranh” là chiến
lược chiến tranh xâm lược cuối cùng của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Tình hình chung
-Thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ” đã ảnh hưởng trực tiếp tiếp
đến tình hình nước Mỹ: Ngân sách quốc gia thâm hụt lớn, lạm phát gia tăng (mỗi
năm Mỹ chi vào Việt Nam 80 tỷ USD). Xã hội Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, trong khi đó
con số thương vong của lính Mỹ lớn. + Trong khi Mỹ bị sa lầy trong chiến tranh,
các nước Tây Âu, Nhật Bản vượt lên về kinh tế, cạnh tranh
Tình hình đó bắt buộc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược. Đầu năm 1969,
Nichxơn trúng cử Tổng thống, cho ra đời học thuyết mang tên mình: "Học thuyết
Nichxơn", dựa trên ba nguyên tắc “trụ cột” là: cùng chia sẻ; sức mạnh của Mỹ và
sẵn sàng thương lượng. Có thể hiểu ba nguyên tắc này như sau:
+ Duy trì sức mạnh Mỹ để giữ thế cân bằng răn đe.
+ Đòi hỏi các nước đồng minh chia xẻ trách nhiệm với Mỹ cùng chống lại
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
+ Sẵn sàng thương lượng trên thế mạnh, lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước
xã hội chủ nghĩa để chia rẽ lôi kéo.
Học thuyết này được thực hiện thí điểm ở Việt Nam và Đông Dương. Được
vận dụng cụ thể trong chiến lược chiến tranh ở từng nước.
Chiến lược này được đề ra trên cơ sở điều chỉnh chủ trương phi Mỹ hoá
chiến tranh. Chúng giống nhau ở chỗ: rút đần quân Mỹ ra khỏi Đông Dương,
tránh những tổn thất lớn đối với quân viễn chính Mỹ, trong lúc vẫn bám giữ miền
Nam Việt Nam. Đây là cuộc chiến tranh giữa những người Việt Nam với nhau,
dùng người Việt, đánh người Việt, dùng người Đông Dương đánh người Đông
Dương, với bom đạn, đô la Mỹ, do Mỹ chỉ huy, vì lợi ích Mỹ.
Việt Nam hoá chiến tranh được thực hiện theo ba giai đoạn:
1. 1968-1970: kiểm soát vùng đông dân, tăng thêm lực lượng ngụy quân,
rút một phần lính Mỹ về nước.
2. Tháng 6-1970-1971: kiểm soát phần lớn vùng đông dân, quân nguỵ đảm
nhận chủ yếu trên bộ, rút đại bộ phận quân Mỹ về nước.
3. Tháng 6-1971- tháng 6-1972: cơ bản hoàn thành Việt Nam hoá chiến
tranh.
Âm mưu và thủ đoạn của địch
Rút dần quân Mỹ về nước, nhưng lại mở rộng chiến tranh sang Campuchia,
Lào, tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai. Thực chất, Mỹ- Nguỵ
phản công quyết liệt, huỷ diệt tàn khốc bằng sức mạnh toàn diện, hòng giành dân,
chiếm đất, giành thế tiến công trên chiến trường. Đồng thời, Mỹ lợi dụng mâu
thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc, thoả hiệp với Liên Xô, hoà hoãn với Trung
Quốc, nhằm cắt nguồn viện trợ chủ yếu của Việt Nam và dùng thủ đoạn lôi kéo
Liên Xô, Trung Quốc giải quyết vấn đề Việt Nam theo ý đồ của Mỹ.
Chủ trương của ta
Từ giữa năm 1968 đến đầu năm 1970, cách mạng miền Nam gặp rất nhiều
khó khăn và tổn thất.
Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1970) và Hội
nghị Bộ Chính trị (6-1970) kiểm điểm những khuyết điểm từ mùa xuân năm 1968
và chủ trương chuyển hướng tiến công, lấy nông thôn làm hướng chính, tập trung
ngăn chặn và đẩy lùi chương trình “bình định” của địch. Về mặt tác chiến, lưu ý
trong khi đẩy mạnh tác chiến chính quy của bộ đội chủ lực, phải kiên quyết thực
hiện cho kỳ được một chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào chiến tranh nhân
dân địa phương, phát triển mạnh mẽ 3 thứ quân, tăng cường các lực lượng vũ trang
tại chỗ.
Thực hiện chủ trương chỉ đạo trên, trong những năm 1970, 1971, cách
mạng miền Nam đã vượt khó khăn gian khổ, kiên trì xây dựng và phát triển lực
lượng, tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược, từng bước đánh bại chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh” của địch.
Thắng lợi đầu tiên là phối hợp với quân dân Campuchia đánh bại cuộc hành
quân quy mô lớn trên 10 vạn quân nguỵ do Mỹ chỉ huy đánh sang Campuchia
tháng 3-1970, giải phóng vùng Đông Bắc Campuchia và kiểm soát được nhiều
vùng nông thôn rộng lớn khác, buộc Mỹ phải tuyên bố rút quân vào tháng 6-1970.
Tại chiến trường Lào, trong một thời gian ngắn, các lực lượng vũ trang Lào
- Việt Nam giành thắng lợi giòn giã về quân sự tại Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng, giải phóng hai tỉnh At-tô-pơ và Xa-ra-van.
Ở miền Nam, ta tiêu diệt và phá tan kế hoạch “bình định” của chúng có
nhiều thuận lợi, thu được kết quả quan trọng.
Năm 1971, quân và dân ta phối hợp với quân và dân Lào chủ động đánh bại
cuộc hành quân quy mô lớn “Lam Sơn 719” của Mỹ - Nguỵ đánh vào đường 9
Nam Lào, phá tan âm mưu cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh - con đường tiếp tế
quan trọng của miền Bắc đối với miền Nam và phong trào kháng chiến
Campuchia. Vào thời gian này, ta cũng cùng với quân dân Campuchia đánh tan
cuộc hành quân “Toàn thắng 1-1971” của Mỹ- nguỵ đánh vào vùng Đông- Bắc
Campuchia.
Những thắng lợi trên càng nâng cao thế và lực của ta, tạo điều kiện thuận
lợi cho ta mở cuộc tấn công chiến lược năm 1972. Chủ trương của ta là tiến công
tiêu diệt địch trên ba hướng chính là đường 9 - Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ, đồng bằng Khu V, đồng bằng sông Cửu Long. Địch bị tiến công
mạnh mẽ và bất ngờ, bị động đối phó và tan rã từng mảng lớn, sức phản kháng của
chúng bị giảm sút rõ rệt.
Hòng gỡ thế bị thất bại, đế quốc Mỹ tiến hành tập kích bằng máy bay B.52
vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều nơi khác trên miền Bắc, nhưng đã bị ta đánh bại.
Những thắng lợi to lớn của quân và dân hai miền đã buộc Mỹ phải ký kết
Hiệp định Pari (27-1-1973), cam kết công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam; quân Mỹ và quân chư hầu phải rút khỏi miền Nam
Việt Nam; cam kết chấm dứt mọi dính lứu quân sự vào miền Nam Việt Nam; quân
đội miền Bắc và lực lượng vũ trang cách mạng vẫn giữ nguyên tại miền Nam.
Với việc ký kết Hiệp định Pari, nhân dân ta đã đạt được mục tiêu hàng đầu
là đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh.
Đây là cơ hội to lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta tiến lên giành thắng
lợi hoàn toàn.
c. Giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975)
Tình hình chung
Một ngày sau khi Hiệp định Pari được ký kết (28-1-1973), Ban Chấp hành
Trung ương Đảng ra lời kêu gọi, nêu bật thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước và cho rằng kẻ thù vẫn chưa từ bỏ mưu đồ phá hoại hoà bình,
ngăn chặn nhân dân ta thực hiện nguyện vọng độc lập tự do.
Về phía địch, Mỹ vẫn tiếp tục viện trợ kinh tế và quân sự cho Chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu để tiến hành chiến tranh dưới một hình thức khác. Mục tiêu
hàng đầu của Mỹ - Thiệu là xoá bỏ thế “da báo”, lấn chiếm vùng giải phóng, vùng
chiến lược quan trọng, nâng chương trình “bình định” lên tầm quốc sách.
Chủ trương của ta
Tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khẳng định, dù tình hình phát triển như thế nào, con đường cách mạng miền Nam
vẫn là con đường cách mạng bạo lực; ta phải nắm vững thời cơ, giữ vững chiến
lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng tiến lên.
Quán triệt Nghị quyết, quân dân ta trên chiến trường miền Nam đã
chuyển hướng tiến công, phản công, làm cho âm mưu bình định lấn chiếm,
cướp thóc gạo của địch bị thất bại nặng nề.
Cuối năm 1973, trên toàn chiến trường miền Nam, quân ta đã làm chủ
8.590 ấp với số dân khoảng trên 4 triệu người và số dân vùng tranh chấp khoảng
12 triệu người.
Từ ngày 30-9-1974 đến ngày 8-10-1974, Bộ Chính trị họp và khẳng định,
lúc này chúng ta có thời cơ, đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta giải phóng
hoàn toàn miền Nam.
Ngày 6-1-1975, ta giải phóng hàng loạt chi khu quân sự và Phước Long, mà
Mỹ không có phản ứng quyết liệt. Điều đó càng khẳng định Mỹ khó đưa quân
quay trở lại Việt Nam.
Theo dõi sát sao tình hình chiến trường, Bộ Chính trị đã có những quyết
định quan trọng về giải phóng miền Nam:
Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974 quyết định giải phóng miền Nam
trong hai năm 1975-1976. Bộ Chính trị dự kiến nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối
năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân, dân ta đã diễn ra gần hai tháng
vào Mùa xuân 1975, với ba chiến dịch lớn: Tây Nguyên; Huế - Đà Nẵng; chiến
dịch Hồ Chí Minh đánh vào Sài Gòn.
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định lấy chiến trường Tây
Nguyên - Buôn Ma Thuột làm điểm mở đầu.
Ngày 10-3-1975 ta tiến đánh Buôn Ma Thuột. Sau 32 giờ chiến đấu, ta
đánh bại hoàn toàn quân địch trong một thị xã lớn là trung tâm chính trị và kinh tế
của địch ở Tây Nguyên. Đây là trận đánh then chốt đầu tiên, đánh trúng huyệt
quân địch. Địch hốt hoảng thực hiện rút lui, bỏ toàn bộ chiến trường Tây Nguyên,
hòng co cụm giữ các tỉnh ven biển Miền Trung.
Từ ngày 17 đến ngày 20-3, quân ta truy kích và tiêu diệt địch trên
đường rút chạy, giải phóng Tây Nguyên.
Trước chiến thắng như vũ bão và thắng lợi dồn dập của ta từ sau chiến
thắng Buôn Ma Thuột, chiến dịch Tây Nguyên, Trị Thiên và Khu V, giải phóng
ven biển miền Trung. Nguỵ quân, nguỵ quyền tan rã từng mảng, hoang mang và
hỗn loạn, lâm vào thế thất bại hoàn toàn không thể cứu vãn nổi. Nhanh nhậy nhận
định tình hình, Hội nghị ngày 25-3-1975 quyết định giải phóng miền Nam
trước mùa mưa 1975 và Hội nghị 31-3-1975 quyết định giải phóng miền Nam
trong tháng 4 năm 1975.
Ngày 14- 4-1975, Bộ Chính trị quyết định tiến hành chiến dịch Tổng tiến
công nổi dậy giải phóng Sài Gòn và toàn bộ miền Nam (chiến dịch Hồ Chí Minh).
Ngày 26-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh đánh vào Sài Gòn - Gia Định bắt đầu.
Tổng thống nguỵ quyền phải tuyên bố đầu hàng vào 11 giờ 30 phút ngày 30-4-
1975.
Ngày 1-5-1975, toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long và các hải đảo (trừ
Hoàng Sa) được giải phóng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng
lợi hoàn toàn.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy lịch sử Mùa xuân 1975, quân dân ta
đã đánh tan hơn 1 triệu quân Nguỵ, xoá bỏ hoàn toàn bộ máy chính quyền tay sai
của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
IV. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa và kinh nghiệm của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước
1. Nguyên nhân thắng lợi
Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng có đường lối
chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo.
Đây là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ, ngoan cường,
bền bỉ, anh dũng của quân và dân cả nước.
Là thắng lợi của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Miền
Bắc vừa hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, vừa đảm bảo chi viện
cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Có sự đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương, với sự giúp
đỡ to lớn, có hiệu quả của chính phủ và nhân dân Liên Xô và Trung Quốc cùng
các nước xã hội chủ nghĩa và sự ủng hộ mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân
tộc, các lực lượng cách mạng, dân chủ, hoà bình của loài người tiến bộ, trong đó
có nhân dân Mỹ.
2. Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước “mãi mãi được ghi
vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng
sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con
người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự
kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc''.
Qua 21 năm chiến đấu (1954- 1975), nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến
tranh xâm lược thực dân với quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt và dã man
nhất từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Âm mưu của đế quốc Mỹ biến miền
Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và chia cắt lâu dài nước ta đã bị đập tan.
Thắng lợi này kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ
quốc, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc (1858- 1975),
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà,
mở ra kỷ nguyên mới: hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với thế giới:
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt
Nam chứng minh trước toàn thế giới sự phá sản không thể tránh khỏi của chủ
nghĩa thực dân mới.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã đẩy lùi và làm suy yếu trận địa của
chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông
Nam á,
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội,
tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của ba dòng thác cách mạng của thời đại,
đem lại lòng tin và niềm phấn khởi của hàng triệu người dân trên trái đất đang đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Thất bại này làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, làm lung lay vị trí chính trị của Mỹ trên
trường quốc tế buộc đế quốc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu, chuyển sang
chiến lược “diễn biến hoà bình”, gây sức ép, nhằm phá hoại phong trào giải phóng
dân tộc, phá hoại Liên Xô, Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng
sản quốc tế.
3. Những kinh nghiệm
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng
thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở mỗi miền, hướng vào một
mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
thực hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hết sức coi trọng lực lượng cách mạng ở miền Nam, đồng thời ra sức tổ
chức, xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước (tổ chức Đảng, chính quyền
cách mạng, Mặt trận dân tộc, lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị quần
chúng....) Phải biết dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ mọi sự ủng hộ
giúp đỡ quốc tế.
Phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo (đó là sử dụng bạo
lực cách mạng tổng hợp, bao gồm lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ
trang nhân dân... ), nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời
biết tạo ra thời cơ và nắm vững thời cơ, mở những cuộc tiến công chiến lược làm
thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tiến công và nổi dậy đồng loạt,
giành thắng lợi hoàn toàn. Đây là chiến lược tổng hợp và nghệ thuật quân sự của
chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Xây dựng ba tầng mặt trận thống nhất chống Mỹ: ở trong nước, giữa ba
nước Đông Dương và trên thế giới.
Không ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong
chiến tranh. Đảng bỉết nâng cao trình độ lãnh đạo toàn diện, kiên định mục tiêu
cách mạng, đoàn kết, thống nhất, nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên phấn đấu, hy sinh vì thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân.
Chương V
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975-2006)
Mục đích:
Giúp sinh viên hiểu dược lịch sử Đảng thời kỳ 1975- 2006 là lịch sử quá
trình Đảng lãnh đạo cả nước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc;
nắm được những thắng lợi, hạn chế và kinh nghiệm của công cuộc đổi mới.
I. Lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1975-
1986)
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) và thực
hiện kế hoạch nhà nước năm năm (1976 – 1980)
a. Tình hình Việt Nam sau năm 1975 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng
Tình hình Việt Nam sau năm 1975
Những thuận lợi cơ bản:
Nước nhà hoàn toàn thống nhất, xây dựng đất nước trong hoà bình.
Khí thế cách mạng của một dân tộc vừa mới chiến thắng, thiết tha với độc
lập và chủ nghĩa xã hội. Nhân dân có tinh thần độc lập, tự lực, tự cường, lại cần
cù, thông minh, sáng tạo.
Đảng và nhân dân ta có kinh nghiệm (cả thành công và không thành công)
qua những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế, có điều kiện mở
rộng quan hệ quốc tế và tiếp thu những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại trên
thế giới.
Những khó khăn chủ yếu:
Các thế lực thù địch trong nước và trên thế giới luôn tìm mọi cơ hội để
chống phá cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, chính phủ Mỹ tăng cường mọi thủ
đoạn, thực hiện bao vây, cấm vận, cản trở công cuộc xây dựng hoà bình của nhân
dân ta.
Hệ thống chủ nghĩa xã hội đã bắt đầu bộc lộ những khó khăn và trì trệ trong
phát triển kinh tế - xã hội.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu, năng xuất lao động kém.
Hậu quả của chiến tranh rất nặng nề. Đế quốc Mỹ ném xuống Việt Nam
7,85 triệu tấn bom- tương đương với 640 quả bom nguyên tử ném xuống
Hirosima, giết hại hơn 2 triệu người, 2 triệu người tàn tật, hơn 2 triệu người bị
nhiễm độc, 5 vạn trẻ em bị dị dạng, phá huỷ nhiều cơ sở kỹ thuật, phúc lợi... Riêng
miền Nam, Mỹ rải gần 500.000 tấn chất độc hoá học, gấp 2,5 lần so với chiến
tranh thế giới thứ hai.
Trình độ phát triển kinh tế- xã hội không đồng đều ở hai miền, tàn dư thực
dân, phong kiến còn tồn tại nhiều ở miền Nam.
Ta phải chuyển nền kinh tế cả nước từ chỗ viện trợ không hoàn lại (với giá
trị khoảng một nửa tổng sản phẩm xã hội hàng năm), sang nền kinh tế chủ yếu dựa
vào sức mình.
Lãnh đạo hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước
Hội nghị TW lần thứ 24 (9-1975) nhấn mạnh: Một nước thống nhất không
thể có hai chính quyền, nên phải thực hiện thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước;
Thống nhất nhà nước bằng con đường hòa bình, là công việc của nhân dân, trên
cơ sở CNXH, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ 15 đến 21-11-1975, mở Hội nghị hiệp thương chính trị giữa Đoàn đại
biểu hai miền, tại Sài Gòn. Ngày 25-4-1976, cử tri cả nước đã đi bỏ phiếu bầu 492
đại biểu vào Quốc hội. Từ 24-6 đến 3-7-1976, Quốc hội nước Việt Nam thống
nhất (Quốc hội khoá VI) tiến hành kỳ họp thứ nhất tại Hà Nội, đặt tên nước: Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ, Thủ đô, Quốc ca, Quốc huy, Sài Gòn
được mang tên thành phố Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ IV của Đảng
Đại hội lần thứ IV của họp từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Hà Nội, đổi tên
Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Ban Chấp hành
Trung ương khóa IV có 101 uỷ viên chính thức, 32 dự khuyết. Lê Duẩn là Tổng
Bí thư.
Đại hội xác định về đường lối chung: "Nắm vững chuyên chính vô sản,
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,… góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội".
Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 1976- 1980: phát triển và cải tạo
kinh tế, văn hoá, phát triển khoa học, kỹ thuật; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và
văn hoá, xây dựng và phát triển nền văn hoá mới; tăng cường Nhà nước XHCN,
phát huy vai trò của các đoàn thể, làm tốt công tác quần chúng; tăng cường công
tác đối ngoại; nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Ý nghĩa: Là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên CNXH. Tuy
nhiên, Đại hội chưa tổng kết được kinh nghiệm xây dựng CNXH ở MB, chưa nhấn
mạnh việc khắc phục hậu quả chiến tranh, chưa xác định được nội dung của chặng
đường đầu tiên tiến lên CNXH, nóng vội "tả” khuynh trong việc cải tạo và xây
dựng CNXH.
b. Lãnh đạo thực hiện kế hoach 5 năm (1976-1980) và bảo vệ tổ quốc
Tháng 6-1977, Hội nghị TW lần thứ hai bàn về phát triển nông nghiệp; Hội
nghị TW lần thứ ba tháng 1-1978, Hội nghị TW lần thứ tư tháng 7-1978, Hội nghị
TW lần thứ năm tháng 12-1978 bàn về phương hướng, nhiệm vụ và chủ trương,
biện pháp thực hiện kế hoạch Nhà nước hằng năm.
Tháng 8-1979, Hội nghị TW lần thứ sáu chủ trương tháo gỡ từng bước
những ràng buộc của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở hướng cho sản xuất
"bung ra", kích thích lực lượng sản xuất phát triển, đáp ứng yêu cầu bức xúc của
đời sống. Hội nghị này là sự khởi đầu chuyển biến nhận thức về đường lối kinh tế
của Đảng.
Ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW Về cải tiến công tác
khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp
tác xã nông nghiệp. Ngày 21-1-1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định
25-CP, Quyết định 26-CP chủ trương phát huy quyền chủ động sản xuất kình
doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh, mở rộng hình
thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các
đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước...
Kết quả: Từ năm 1975 đến năm 1981 ta đã giành được những thắng lợi to
lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và đạt được những thành tựu bước đầu trong
công cuộc xây dựng lại đất nước. Song, đất nước gặp nhiều khó khăn chồng chất
và gay gắt về kinh tế và đời sống, cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội đã xuất hiện.
Nguyên nhân của tình trạng đó có cả khách quan, chủ quan, trong đó xét về mặt
lãnh đạo "trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý
là nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về
kinh tế và xã hội" trong những năm đó.
1.3- Lãnh đạo bảo vệ Tổ quốc thống nhất
Ở biên giới Tây Nam: Sau nhiều lần đề nghị đàm phán với Campuchia dân
chủ để giải quyết xung đột, nhưng bị khước từ, ta đã đánh trả mạnh mẽ và tiến
công đánh đuổi bọn xâm lược Pôn Pốt ra khỏi bờ cõi nước ta. Đồng thời quân tình
nguyện Việt Nam cùng quân dân Campuchia đã phối hợp tiến công quân diệt
chủng Pôn Pốt, giải phong Phnôm Pênh (7-1-1979), ký Hiệp ước hoà bình, hữu
nghị và hợp tác Việt Nam- Campuchia (18-2-1979).
Ở biên giới phía Bắc: Từ 1978, quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam xấu
đi rõ rệt, trên tuyến biên giới Trung - Việt liên tiếp diễn ra các vụ xung đột. Ngày
18-4-1979, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm phán để khôi phục hoà bình, an
ninh ở biên giới, giải quyết tranh chấp về biên giới lãnh thổ.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982), thực hiện
kế hoạch nhà nước 5 năm (1981- 1985)
2.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
Đại hội V của Đảng họp từ ngày 15 đến 31-3-1982 tại Hà Nội. Ban Chấp
hành TW Đảng khóa V có 116 uỷ viên chính thức và 36 uỷ viên dự khuyết. Lê
Duẩn được bầu lại giữ chức Tổng Bí thư.
Chủ trương của Đại hội:
Đại hội coi đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội IV đề ra là cho
cả thời kỳ quá độ nên tiếp tục thực hiện, song căn cứ vào thực tế 5 năm đã qua,
quyết định bổ sung vào đường lối chung quan điểm coi xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược, hai nhiệm vụ đó có quan hệ mật
thiết với nhau. Bổ sung vào đường lối kinh tế quan điểm tập trung sức phát triển
nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trên cơ sở phát triển nông
nghiệp mà đẩy mạnh công nghiệp hóa.
Mục tiêu tổng quát cho những năm 80 là: ổn định dần dần, tiến lên cải thiện
một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; Tiếp tục xây dựng cơ sở vật
chất- kỹ thuật của CNXH, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu
dùng và xuất khẩu; Hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN ở các tỉnh miền Nam,
hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất XHCN
trong cả nước; Đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc
phòng, giữ vững an ninh trật tự.
Đại hội thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, tăng cường
Nhà nước XHCN, chính sách đối ngoại, nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Ý nghĩa: Đại hội V đã có những tìm tòi bước đi trên con đường quá độ lên
CNXH, trước hết là về mặt kinh tế. Song, Đại hội chưa thấy được sự cần thiết phải
duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, chưa xác định
được những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, chưa có những
chính sách, giải pháp cụ thể, đồng bộ để giải phóng lực lượng sản xuất.
2.2- Lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985
Hội nghị TW lần thứ ba (12- 1982) xác định phương hướng nhiệm vụ kinh
tế - xã hội thời kỳ 1983-1985. Tháng 6-1983, Hội nghị TW lần thứ tư đề ra những
nhiệm vụ công tác tư tưởng và tổ chức cấp bách cần tập trung giải quyết. Tháng
12-1983, Hội nghị TW lần thứ năm tiếp tục khẳng định nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu. Tháng 12-1984, Hội nghị TW lần thứ bảy bàn về phương hướng kinh tế
- xã hội năm 1985 và xây dựng huyện, tăng cường cấp huyện...
Tháng 6-1985, Hội nghị TW lần thứ tám bàn về giá- lương- tiền, chủ
trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện đúng chế
độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN. Đây là một bước
đổi mới tư duy trên lĩnh vực lưu thông phân phối với nét nổi bật của nó là thừa
nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá.
Tháng 11-1986, Hội nghị TW lần thứ mười một đã thảo luận các văn kiện
dự thảo trình Đại hội lần thứ sáu của Đảng. Hội nghị lần thứ mười hai, họp đầu
tháng 12-1986 hoàn tất công việc chuẩn bị cho Đại hội VI.
Kết quả: Về kinh tế, đã chặn được đà giảm sút những năm trước. Thu nhập
quốc dân bình quân hàng năm tăng 6,4%. Văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể
thao... đã có những tiến bộ. Nhiệm vụ bảo vệ Tố quốc được bảo đảm, nghĩa vụ
quốc tế đối với nhân dân Lào và Campuchia được thực hiện tốt. Quan hệ với Liên
Xô và các nước XHCN thêm chặt chẽ.
Nhưng đất nước thời kỳ này phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế- xã
hội: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt
được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động
chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn.
Nhìn tổng quát, chưa thực hiện được mục tiêu hàng đầu là ổn định tình hình kinh
tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Nguyên nhân chủ quan là những sai lầm
nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện của Đảng và của Nhà nước...
Thực trạng của đất nước đặt ra một yêu cầu khách quan và bức thiết là phải
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn định tình
hình kinh tế - xã hội, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.
II. Lãnh đạo sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
(1986-2006)
I. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) và thực
hiện kế hoạch nhà nước năm năm (1986-1990)
a. Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng (12-1986)
Đại hội VI họp vào 12-1986 tại Hà Nội. BCH TW khóa VI gồm 124 uỷ
viên chính thức và 49 uỷ viên dự khuyết. Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí
thư của Đảng.
Đảng VI là Đại hội đổi mới của Đảng, thể hiện trên nhiều mặt:
Tinh thần làm việc, đã phát huy cao độ dân chủ nội bộ, nhìn thẳng vào sự
thật, nghiêm khắc với khuyết điểm, khẳng định thành tựu, kiên quyết đổi mới tư
duy về CNXH và con đường quá độ đi lên CNXH.
Tổng kết, rút ra bốn bài học lớn: Một là, trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc"; Hai là, sự lãnh đạo của
Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan; Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới; Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng XHCN
Tư duy, nhận thức con đường đi lên CNXH: Đại hội cho rằng quá độ tiến
lên CNXH ở nước ta là một quá trình gồm nhiều thời kỳ, giai đoạn phát triển kế
tiếp nhau, từ thấp đến cao, theo đúng quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
XHCN, trong đó mỗi thời kỳ, giai đoạn có mục tiêu, nhiệm vụ, bước đi, tốc độ
thích hợp, không được lẫn lộn, nóng vội đốt cháy giai đoạn.
Theo nhận thức đó, Đại hội xác định nước ta đang ở chặng đường đầu của
thời kỳ quá độ lên CNXH. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên này là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã
hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH XHCN
trong chặng đường tiếp theo.
Mục tiêu kinh tế- xã hội của những năm còn lại của chặng đương đầu tiên:
Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ; Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý,
trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực, thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hoá nội dung CNH trong
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ; Tiến hành cải tạo XHCN theo nguyên tắc
phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao
động, làm cho thành phần kinh tế XHCN giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả
năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo
của thành phần kinh tế XHCN; Tạo ra sự chuyển biến về mặt xã hội, việc làm,
công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương phép nước; Bảo
đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh...
Phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội: Bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, trước mắt trong kế hoạch năm năm 1986-1990 phải
thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu; Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng
và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế;
chuyển mạnh sang hạch toán kinh doanh XHCN, kết hợp kế hoạch hóa với thị
trường; Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học - kỹ thuật; Mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại...
Đối ngoại: Nhiệm vụ của chính sách đối ngoại là nhằm góp phần giữ vững
hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH, tăng cường
tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước XHCN; bình thường
hoá quan hệ với Trung Quốc…
Về huy động sức mạnh của quần chúng, Đại hội xác định phải phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện "dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra", tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Về xây dựng Đảng, để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực
hiện của Đảng, phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh
tế, đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công
tác.
Ý nghĩa: Với nội dung trên, thực chất đường lối đổi mới của Đảng là: Về
cải tạo XHCN: chuyển từ nền kinh tế hai thành phần sang nhiều thành phần; Về cơ
chế quản lý: từ kế hạch hóa tập trung sang kết hợp kế hoạch với thị trường, từ
hành chính bao cấp sang hạch toán kinh doanh XHCN; Về cơ cấu kinh tế: từ coi
công nghiệp là hàng đầu, ưu tiên công nghiệp nặng sang coi nông nghiệp là hàng
đầu, tập trung vào 3 chương trình kinh tế lớn; Về sản xuất hàng hóa: từ không
chấp nhận có sản xuất hàng hóa sang có sản xuất hàng hóa; Về lưu thông phân
phối là từ hai giá sang một giá, sát với thị trường theo quy luật cung cầu...
Đại hội VI của Đảng là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết để
tiến lên. Đường lối đổi mới của Đại hội VI đã mở đường cho đất nước thoát ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội, tiếp tục đi lên CNXH.
b. Lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm 1986-1990
Tháng 2-1987, Bộ Chính trị họp đề ra những biện pháp cấp bách
nhằm giải quyết vấn đề giá-lương- tiền; Hội nghị TW lần thứ hai (4-1987)
quyết định phương hướng thực hiện mục tiêu bốn giảm: giảm tỷ lệ bội chi ngân
sách; giảm nhịp độ tăng giá; giảm tốc độ lạm phát; giảm khó khăn về đời sống của
nhân dân lao động. Hội nghị TW lần thứ ba (8-1987) quyết định chuyển hoạt động
của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế. Hội nghị lần thứ tư (12-1987) quyết
định về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong ba năm tới, chủ
trương phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá.
Tháng 4-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10/NQ Về đổi mới quản lý kinh
tế nông nghiệp, đề ra cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm hộ và hộ xã
viên, đánh dấu sự phát triển của Đảng trong quá trình tìm tòi phương thức quản lý
mới nền nông nghiệp nước ta.
Tháng 6-1988, Hội nghị TW lần thứ năm ra Nghị quyết Về một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng. Tháng 8-1989 Hội nghị TW lần thứ bảy ra Nghị
quyết về Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng truớc tình hình trong nước
và quốc tế hiện nay. Hội nghị TW lần thứ tám (3-1990) thông qua Nghị quyết về
tình hình các nước XHCN, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp
bách của Đảng ta (Nghị quyết 8A), Nghị quyết Về tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng và dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh công cuộc đổi mới
(Nghị quyết 8B).
Tháng 8-1990, Hội nghị TW lần thứ chín bàn về một số vấn đề kinh tế - xã
hội cấp bách, với tư tưởng chỉ đạo là kiên quyết thực hiện đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với mở rộng quan hệ
quốc tế, xây dựng ý chí làm cho dân giàu, nước mạnh. Tháng 11- 1990, Hội nghị
TW lần thứ mười thông qua Nghị quyết Về phương hướng chỉ đạo kế hoạch phát
triển kinh tế' - xã hội năm 1991, cho ý kiến về dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chiến lược ổn định và phát triển hình tê - xã
hội đến năm 2000 và các văn kiện khác để trình Đại hội lần thứ VII của Đảng.
Kết quả: Đến tháng 6-1991, sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới ta
đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Thành tựu đó chứng tỏ
đường lối đổi mới của Đại hội VI đề ra là đúng, bước đi của công cuộc đổi mới về
cơ bản là phù hợp. Đó là cơ sở quan trọng dể chúng ta tiếp tục tiến lên trong
những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, đất nước còn nhiều yếu kém và khó khăn. Nhìn chung đất nước
chưa vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng
bỏng vẫn chưa được giải quyết, công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế.
Kinh nghiệm đổi mới của thời kỳ này là: Phải giữ vững định hướng XHCN
trong quá trình đổi mới. Đổi mới toàn diện và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình
thức và cách làm phù hợp. Phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi
với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước. Phải tiếp tục phát huy ngày càng sâu
rộng nền dân chủ XHCN có sự lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc phù hợp với
tình hình chính trị, xã hội. Phải quan tâm dự báo tình hình, kết hợp giải quyết đúng
những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định đường lối đổi mới, tăng cường
tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng
CNXH ở nước ta.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991) và thực
hiện kế hoạch nhà nước năm năm (1991-1996)
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991)
Đại hội VII của Đảng họp tháng 6-1991, tại Hà Nội với sự tham dự của
1.176 đại biểu thay mặt cho trên hai triệu đảng viên cả nước và 4 đoàn đại biểu
quốc tế. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000. BCH
TW khóa VII có 146 đồng chí. Bộ Chính trị có 13 đồng chí, Ban Bí thư gồm 9
đồng chí. Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư
Nội dung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội có 4 phần, 12 vấn đề lớn.
Khẳng định 4 thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đó là: thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám 1945, lập nên nước
Việt Nam CDCH; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
sau chiến dịch Điện Biên Phủ, giải phóng miền Bắc; thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước sau chiến dịch Hồ Chí Minh, thống nhất đất nước; và
thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới.
Rút ra năm bài học lớn, xuyên suốt là: Nắm vững hai ngọn cờ ĐLDT và
CNXH; Coi cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Luôn
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; Phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại; Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng, sự lãnh đạo đó phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan.
Nêu lên quan niệm của Đảng về CNXH mà nhân dân ta sẽ xây dựng là một
xã hội có 6 đặc trương cơ bản: Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hoá tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới.
Xác định mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây
dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về
chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước
XHCN phồn vinh.
Xác định các định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng- an
ninh, đối ngoại, về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng, nhấn mạnh
việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, xây dựng Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, khẳng định nền tảng tư tưởng
của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh…
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 là theo con
đường củng cố ĐLDT và xây dựng CNXH, là quá trình thực hiện dân giàu, nước
mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có
kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc. Mục tiêu tổng quát của chiến lược đến năm 2000 là ra khỏi
khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng
nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và
an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI.
Ý nghĩa: Với những nội dung như vậy, Đại hội VII của Đảng là "Đại hội
của trí tuệ - đổi mới – dân chủ - kỷ cương - đoàn kết". Đại hội đã hoạch định con
đường quá độ lên CNXH phù hợp với đặc điểm của VN và những giải pháp đưa
đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Thành công của Đại hội đã củng cố
thêm niềm tin tưởng của nhân dân đối với công cuộc đổi mới.
b. Chỉ đạo thực hiện kế hoạch 5 năm 1991-1995
Hội nghị TW lần thứ hai (11-1991) bàn về vấn đề ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội. Hội nghị TW lần thứ ba (6-1992) quyết định ba vấn đề quan trọng về:
tình hình thế giới và chính sách đối ngoại; củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh
quốc gia; đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Hội nghị TW lần thứ tư (1-1993) chủ trương
tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Hội nghị TW lần thứ năm (6-
1993) ra Nghị quyết Về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tê' - xã hội nông thôn.
Hội nghị TW lần thứ sáu (2-1993) đã thảo luận các văn kiện để trình Hội
nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng. Tháng 1-1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ của Đảng nêu lên 4 thách thức lớn cần phải đề phòng. Hội nghị TW lần
thứ bảy (7-1994) bàn về chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp, công
nghệ và xây dựng giai cấp công nhân. Hội nghị TW lần thứ tám (1-1995) ra nghị
quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam,
cải cách một bước nền hành chính nhà nước.
Kết quả: Đến đầu năm 1995, kế hoạch 5 năm lần thứ năm đã giành được
nhiều thắng lợi to lớn: Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức
nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch năm năm. Tạo được một số chuyển biến tích
cực về mặt xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh. Thực
hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị. Phát triển mạnh
mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời
sống cộng đồng quốc tế. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng
một số mặt còn chưa vững chắc, con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng
được xác định rõ hơn.
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng và thực hiện kế hoạch
nhà nước 5 năm (1996- 2000)
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996)
Đại hội VIII của Đảng họp 6-1996 tại Hà Nội với sự tham dự của 1.198 đại
biểu thay mặt cho 2,1 triệu đảng viên trong cả nước và 41 đoàn đại biểu quốc tế.
BCH TW khoá VIII gồm 170 uỷ viên, Bộ Chính trị gồm 19 uỷ viên, Thường vụ
Bộ chính trị có 5 ủy viên. Đỗ Mười được bầu là Tổng Bí thư.
Nội dung các văn kiện:
Kiểm điểm, đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và
tổng kết 10 năm đổi mới, rút ra sáu bài học chủ yếu của 10 năm đổi mới.
Mục tiêu chung: tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh CNH, HĐH, đến năm 2020, đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp.
Kế hoạch 5 năm lần thứ sáu (1996-2000) có 11 chương trình và lĩnh vực
phát triển kinh tế - xã hội lớn.
Ý nghĩa: Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ
mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ,
giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng XHCN, vì hạnh phúc của
nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
b. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm 1996-2000
Sự lãnh đạo, chỉ đạo:
Hội nghị TW lần thứ hai (12-1996) thông qua Nghị quyết Về định hướng
chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến
năm 2000, và Nghị quyết Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công
nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000.
Tháng 6-1997, Hội nghị TW lần thứ ba thông qua Nghị quyết về Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam trong sạch vững mạnh và Nghị quyết Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH. Hội nghị TW lần thứ tư (12-1997) bàn về các nhiệm vụ kinh tế và
một số vấn đề xã hội liên quan, về đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hội
nghị bầu Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư.
Tháng 7-1998, Hội nghị TW lần thứ năm ra nghị quyết Về xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết
nhấn mạnh việc xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Hội nghị TW lần thứ sáu lần 1 (10-1998) bàn về kinh tế- xã hội năm 1999 và lần 2
(1-1999) ra nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây
dựng Đảng hiện nay. Tháng 8-1999, Hội nghị TW lần thứ bảy ra Nghị quyết Một
số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị, về tiền lương, trợ cấp xã hội
thuộc ngân sách Nhà nước.
Hội nghị TW lần thứ tám (11-1999) bàn về kế hoạch năm 2000 và chuẩn bị
cho Đại hội IX.. Hội nghị TW lần thứ chín (4-2000) Hội nghị TW lần thứ mười
(6-2000) thảo luận về các văn kiện của Đại hội IX. Hội nghị TW lần thứ mười một
lần 1 (1-2001) và lần 2 (3-2001) hoàn thành các công việc chuẩn bị cho Đại hội IX
của Đảng.
Kết quả: Kế hoạch 5 năm lần thứ 6 (1996-2000) đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng: Kinh tế tăng trưởng khá: Tổng sản phẩm trong (GDP) tăng bình
quân hằng năm 7%, tổng sản phẩm trong năm 2000 tăng hơn gấp đôi so với năm
1990; Văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện;
giáo dục và đào tạo phát triển về quy mô và cơ sở vật chất; trình độ dân trí và chất
lượng nguồn nhân lực được nâng lên; Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn
định; quốc phòng và an ninh được tăng cường; Công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố; Quan hệ đối ngoại
không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và
đạt nhiều kết quả tốt...
Những thành tựu của năm năm 1996 - 2000 đã tăng cường sức mạnh tổng
hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững
chắc ĐLDT và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường
quốc tế.
Những yếu kém, khuyết điểm: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu
quả và sức cạnh tranh thấp, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong năm năm
(1996 - 2000) mà Đại hội VIII đề ra là 9-10% đã không đạt. Một số vấn đề văn
hoá- xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ chế, chính sách không
đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Tình trạng tham nhũng, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên là rất nghiêm trọng.
4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001). Thực hiện
kế hoạch nhà nước 5 năm 2001- 2006
a. Đại hội lần thứ IX của Đảng (4-2001)
Đại hội IX của Đảng họp 4-2001, tại Hà Nội. Chủ đề của Đại hội là: Phát
huy súc mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và
bảo vệ Tổ quôc Việt Nam XHCN. BCH TW Đảng khoá IX gồm 150 ủy viên.
Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư
Nội dung các văn kiện:
Đại hội đã nêu lên những chuyển biến to lớn của thế kỷ XX trên thế giới và
ở nước ta, khẳng định những thành tựu qua trọng của công cuộc đổi mới, rút ra
bốn bài học chủ yếu là: Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu
ĐLDT và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực
tiễn, luôn luôn sáng tạo. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới.
Phương hướng phát triển: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển
quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của QHSX và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học- công nghệ
để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều
thành phần giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Lợi ích giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là ĐLDT gắn liền với
CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của
các thành phần kinh tế của toàn xã hội.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Đường lối kinh tế: Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiến phát triển lực lượng sản
xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng
kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường quốc phòng - an ninh.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 nhằm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại… Đến năm 2010, tổng sản phẩm trong
nước (GDP) tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh
tế và cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn 50%.
Biện pháp: Phát triển kinh tế, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm. Phát
triển kinh tế nhiều thành phần gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá
thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao
hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội…
Ý nghĩa: Đại hội lần thứ IX của Đảng là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn
kết, đưa nước ta bước vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới.
b. Thực hiện kế hoạch 5 năm 2001- 2005
Sự lãnh đạo, chỉ đạo:
Hội nghị TW lần thứ hai (6-2001) bàn việc đưa Nghị quyết Đại hội IX vào
cuộc sống; Hội nghị TW lần thứ ba (8-2001) bàn về nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Hội nghị TW lần
thứ tư (11- 2001) bàn về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm năm (2001-
2005), về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Tháng 2-2002, Hội nghị TW lần thứ năm thông qua 3 nghị quyết: Về đẩy
nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001- 2010; Về đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách,
khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Hội nghị TW lần thứ sáu
(7-2002) bàn về vấn đề tiếp tục thực hiện phát triển giáo dục và đào tạo khoa học
và công nghệ đến năm 2005 và đến 2010, và về vấn đề tiếp tục thực hiện công tác
tổ chức và cán bộ.
Tháng 1-2003, Hội nghị TW lần thứ bảy (phần 2) thông qua Nghị quyết về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; Nghị quyết về công tác dân tộc;
Nghị quyết về công tác tôn giáo; Nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp
luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Hội nghị TW lần thứ
tám (7-2003) ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tháng 1-2004, Hội nghị TW lần thứ chín kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực
hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đồng thời nêu lên những nhiệm vụ giải pháp
để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội trong những năm tiếp theo. Hội nghị
TW lần thứ mười (7-2004) kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”.
Tháng 1-2005, Hội nghị TW lần thứ mười một chuẩn bị các văn kiện cho
Đại hội X của Đảng. Các Hội nghị TW lần thứ XII, XIII (cuối năm 2005), XIV và
XV (đầu năm 2006) tiếp tục xây dựng các văn kiện chuẩn bị cho Đại hội lần thứ X
của Đảng.
Kết quả: Đến đầu năm 2006, kế hoạch 5 năm 2001- 2005 đã đạt được nhiều
thành tựu mới to lớn. Đại hội X đánh giá là: “Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy
giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân
trong 5 năm (2001-2005) là 7,5% và phát triển tương đối toàn diện. Văn hóa và
xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn
đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xóa đói giảm nghèo; đời
sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng
và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Công
tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực”
Tuy nhiên, đến đầu 2006, chúng ta còn nhiều khuyết điểm và yếu kém:
“Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ chế,
chính sách về văn hóa- xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa
được giải quyết tốt. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt
hạn chế. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
chưa đạt yêu cầu”.
5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4-2006)
Đại hội X của Đảng họp từ ngày 18 đến ngày 25-4 -2006, tại Hà Nội. Dự
Đại hội có 1.176 đại biểu, thay mặt cho 3,1 triệu đảng viên trong cả nước.
Đại hội đã đánh giá các thành tựu, hạn chế của thời kỳ 2001-2005, rút ra 5
bài học của 20 năm đổi mới.
Đề ra phương hướng nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2006-2010:
Mục tiêu và phương hướng tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2006-2010
là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi
nguồn lực cho CNH, HĐH đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị- xã hội; sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đại hội đã nêu lên những chỉ tiêu định hướng về phát triển kinh tế- xã hội
chủ yếu trong 5 năm 2006-2010, trong đó, quan trọng nhất là: “Đến năm 2010,
tổng sản phẩm trong nước (GDP) gấp 2,1 lần so với năm 2000; mực tăng GDP
bình quân đạt 7,5- 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm. Cơ cấu ngành trong GDP:
khu vực nông nghiệp khoảng 15-16%; công nghiệp và xây dựng 43- 44%; dịch vụ
40- 41%. Tạo việc làm cho 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5%.
Tỷ lệ hộ nghèo (chuẩn mới) giảm xuống còn 10-11%”.
Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thực hiện các mục tiêu đã đề ra là:
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đinh hướng XHCN. Đẩy mạnh
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức; Giải quyết tốt các vấn đề xã
hội, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ; Tăng cường quốc phòng và an
ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế;
Phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN; Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng - Đại hội đã bầu BCH TW Đại hội
khóa X gồm 160 ủy viên chính thức và 21 ủy viên dự khuyết. Bộ chính trị có 14
đồng chí, Ban Bí thư có 8 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm
Tổng Bí thư.

Chương VI
TỔNG KẾT LỊCH SỬ ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG, THẮNG
LỢI VÀ BÀI HỌC
I. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng
1. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là kết quả tổng hợp của ba phong trào
cách mạng - ba cuộc tổng diễn tập 1930-1931, 1936-1939 và 1939-1945 do Đảng
tổ chức lãnh đạo cùng với việc chớp thời cơ nhanh chóng làm nên một cuộc tổng
khởi nghĩa lan rộng trong cả nước.
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh đã
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, khẳng định đường lối cách mạng
Việt Nam do Đảng ta đề ra trong cương lĩnh đầu tiên là hoàn toàn đúng đắn, khẳng
định trong thực tế sức mạnh to lớn của khối liên minh công- nông.
Cao trào cách mạng 1936-1939 đã làm cho ảnh hưởng của Đảng ăn sâu, lan
rộng trong quảng đại quần chúng. Đảng ta đã biết kết hợp các hình thức đấu tranh
công khai hợp pháp với các hình thức bán hợp pháp, bí mật trong cuộc đấu tranh ở
một nước thuộc địa. Đảng đã xây dựng được đội quân chính trị hùng hậu gồm
hàng triệu quần chúng công nông cùng đông đảo trí thức, tiểu tư sản và tầng lớp
trên. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng đối với quần chúng được nâng cao
Cao trào 1939 - 1945, Đảng chủ trương chuyển toàn bộ tổ chức vào hoạt
động bí mật và xác định cách mạng Việt Nam lúc này là cách mạng giải phóng
dân tộc, đánh đuổi Pháp – Nhật giành độc lập, tự do, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang
là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân ta. Khi thời cơ “ngàn năm có một”
xuất hiện, Đảng đã quyết định phát động Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.
Như vậy, thông qua 3 cuộc tổng diễn tập 1930-1931; 1936 -1939; 1939-
1945 Đảng và nhân dân ta đã làm nên một cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng vĩ
đại, đánh dấu biến đổi cực kỳ to lớn của dân tộc Việt Nam.
+ Thắng lợi này đã đập tan xiềng xích nô lệ của Thực dân Pháp hơn 80
năm, đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do và
CNXH.
+ Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, nước ta
từ một nước thuộc địa nửa phương kiến thành nước độc lập, nước dân chủ đầu tiên
ở Đông Nam Á.
+ Đảng ta từ hoạt động bí mật trở thành một Đảng lãnh đạo chính quyền
trong cả nước.
Cách mạng tháng Tám đã sáng tạo ra những kinh nghiệm quý báu, đóng
góp vào kho tàng lý luận cách mạng dân tộc, dân chủ ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến, tạo ra thế và lực mới cho 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ sau
này.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám chứng tỏ rằng trong thời đại ngày nay,
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa toàn dân nổi dậy dưới
sự lãnh đạo của một Đảng Mác – Lênin có đường lối đúng đắn có thể giành được
thắng lợi trước cả cách mạng vô sản ở chính quốc.
2. Thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc
thời kỳ 1945-1975
a. Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ
(1945 -1954)
- Cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ (1945-1954) là một cuộc chiến tranh nhân dân cách mạng vì độc
lập và thống nhất, vì nền dân chủ cộng hoà và gây mầm mống cho CNXH.
- Với ý chí “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không
chịu làm nô lệ”, nhân dân cả nước từ Nam đến Bắc đã nhất tề đứng dậy kháng
chiến với mọi thứ vũ khí, với tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng, thông
minh và sáng tạo, phát triển từ lực lượng nhỏ đến lớn, từ đánh du kích đến đánh
chính quy, tiến công và phản công chiến lược, giành thắng lợi từ nhỏ đến chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ vĩ đại – có ý nghĩa vang dội trên toàn thế giới. Buộc
chính phủ Pháp buộc phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Cămpuchia qua hiệp định Giơnevơ (21/7/1954).
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng
một nước thực dân hùng mạnh.
- Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ đã bảo
vệ và phát triển thành quả vĩ đại của cách mạng tháng Tám, giải phóng hoàn toàn
miền Bắc, chấm dứt hẳn ách đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách
mạng Việt Nam chuyển qua một giai đoạn mới – giai đoạn xây dựng miền Bắc
theo con đường XHCN và tiến hành cách mạng giải phóng ở miền Nam, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và thống nhất đất nước.
Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị nô dịch trên thế giới vùng
lên chống chủ nghĩa đế quốc thực dân vì độc lập dân tộc, hoà bình và tiến bộ xã
hội.
b. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975).
- Đánh giá về thắng lợi này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
(12-1976): “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp cách mạng cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử ta như một trong những
trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến
công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính
thời đại sâu sắc”.
- Với thắng lợi này, nhân dân Việt Nam đã chứng minh trước toàn thế giới
sự phá sản không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới. Cũng như trước đây,
thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, kháng chiến chống Pháp 1954 đã chứng
minh với thế giới sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa thực dân cũ.
+ Làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến
quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách
mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, lung lay vị trí của Mỹ trên
trường quốc tế.
+ Phát triển thêm sức mạnh, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi của hàng
triệu người dân trên trái đất đang đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
- Kháng chiến chống Mỹ thắng lợi đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc
Việt Nam- kỷ nguyên độc lập tự do, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là
một trong những thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử giữ nước và
dựng nước của dân tộc ta.
- 21 năm chiến tranh chống Mỹ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc,
bảo vệ tổ quốc đã chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế
độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước.
3. Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới (1986 đến nay)
Kế thừa những thành tựu và những kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc khi còn chiến tranh và trong những năm đầu sau khi nước nhà thống
nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện
đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Thắng lợi bước đầu trong 20 năm đổi mới có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Một là, chúng ta đã đẩy nhanh được nhịp độ phát triển kinh tế- xã hội. Hoạt
động khoa học công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội thích
nghi dần với cơ chế thị trường. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh.
Hai là, tạo được một số chuyển biến tốt về mặt xã hội.
- Đời sống vật chất phần lớn của người dân được cải thiện.
- Trình độ dân trí được nâng lên đáng kể, đời sống văn hoá của nhân dân có
cải thiện.Các hoạt động: giáo dục đào tạo, văn hoá, nghệ thuật, kế hoạch hóa gia
đình… có những mặt tiến bộ và phát triển.
- Lòng tin của nhân dân đối với đất nước, với sự lãnh đạo của Đảng, nhà
nước, với chế độ nâng lên rõ rệt.
Ba là, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo
vệ chế độ, giữ vững độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của đất nước.
Bốn là, thực hiện có kết quả nhiều đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
Năm là, phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cô lập,
tham gia tích cực vào đời sống của cộng đồng quốc tế.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, công cuộc đối mới của chúng ta còn
không ít khuyết điểm và những mặt yếu kém. Đó là:
- Nước ta còn nghèo nhưng chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết
kiệm trong tiêu dùng; tích luỹ từ nội bộ sản xuất còn quá thấp. So với các nước
trên thế giới, nước ta vẫn còn quá nghèo, trình độ phát triển sản xuất và năng suất
lao động thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, sử dụng nguồn nhân lực còn
kém hiệu quả.
- Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới vừa lúng túng, vừa có
tình trạng buông lỏng, chưa phát huy tốt nhiều tiềm năng, giải phóng mạnh mẽ
sức sản xuất.
- Cơ chế thị trường còn sơ khai, vai trò quản lý vĩ mô đối với nhà nước đối
với nền kinh tế còn yếu.
- Tình hình xã hội còn nhiều mặt tiêu cực, tệ tham nhũng, buôn lậu, lãng
phí của công chưa được ngăn chặn, thậm chí còn tiếp tục gia tăng. Tệ nạn xã hội
phát triển, trật tự an toàn xã hội chưa được đảm bảo tốt.
- Hệ thống chính trị có đổi mới nhưng còn nhiều nhược điểm.
=> Như vậy, bên cạnh những thành tựu quan trọng tạo tiền đề thuận lợi cho
bước phát triển tiếp theo vãn còn nhiều tồn tại. Nhưng nhìn chung con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ
thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội chủ nghĩa và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. con
đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
II. Những bài học lãnh đạo cách mạng của Đảng
1. Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cốt lõi tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự thể hiện rõ nét sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp.
Xét theo yêu cầu giải phóng con người, thì độc lập dân tộc mới chỉ là cấp
độ đầu tiên, đặt nền móng cho việc đảm bảo quyền con người. Mặc dù vô cùng
quan trọng, nhưng đó mới chỉ là giải phóng về mặt chính trị.
Độc lập chỉ là điều kiện cần để đi đến ấm no, hạnh phúc. Xoá bỏ ách áp bức
dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng áp bức và bóc lột giai cấp thì nhân dân lao
động vẫn chưa được giải phóng.
Cho nên, sau khi giành được độc lập dân tộc, phải xây dựng một chế độ xã
hội trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới xoá bỏ được tận gốc tình
trạng người bóc lột người; chỉ có thiết lập một nhà nước kiểu mới có bản chất là
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mới đảm bảo được quyền làm chủ của nhân
dân lao động, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân - xã hội; độc
lập dân tộc - tự do, hạnh phúc của con người.
Quá trình vận động tự nhiên của lịch sử tất yếu dẫn đến chủ nghĩa xã hội -
chế độ chính trị - xã hội tiến bộ nhất trong tiến trình phát triển của loài người, khắc
phục được những hạn chế của các chế độ chính trị - xã hội trước đó đối với việc
giải quyết vấn đề giải phóng con người.
Hồ Chí Minh nhận thức được điều đó từ rất sớm. Theo Người, sau khi thực
hiện nhiệm vụ “phản đế, phản phong”, con đường đúng đắn là tiếp tục đi lên chủ
nghĩa xã hội, xây dựng kinh tế, tạo ra nhiều của cải vật chất để có điều kiện nâng
cao mức sống cho nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tổng kết kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam
trong hơn nửa thế kỷ qua, nêu lên bài học giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Thực tế cách mạng Việt Nam
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1930-1954 (thời kỳ cả nước
thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân)
- Độc lập dân tộc:
Muốn xây dựng CNXH, trước hết phải giành được độc lập dân tộc. Chiến
lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có 2 nhiệm vụ cơ bản: chống đế quốc và
chống phong kiến, đây là hai nhiệm vụ có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng
nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến,
thực hiện cách mạng ruộng đất để phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc.
Do đó khi Đảng ta đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng Đảng đã đoàn
kết được lực lượng toàn dân.
- Chủ nghĩa xã hội :
Đảng không tiến hành cách mạng ruộng đất đồng thời với nhiệm vụ chống
đế quốc mà chỉ chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai chia cho nông
dân nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức. Ngoài ra, nhân dân còn được hưởng nhiều
quyền lợi như không phải đóng các thứ thuế vô lý, được chia ruộng công và hưởng
một số quyền lợi khác.
Tuy nhiên việc thực hiện ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ này
chưa rõ nét lắm.
Như vậy, ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1930 – 1954 là cả
nước tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề cần thiết cho
cách mạng XHCN. Lúc này, ngọn cờ độc lập dân tộc là trực tiếp, còn CNXH là
phương hướng, triển vọng tiến lên để bảo đảm cho cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đi đúng hướng và thực hiện được triệt để
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1954 – 1975
Thời kỳ này, Đảng chủ trương tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ
chiến lược cách mạng: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam. Miền Bắc XHCN giữ vai trò quyết định nhất trong
sự nghiệp của cả nước; miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh thắng đế
quốc Mỹ và tay sai, góp phần bảo vệ miền Bắc.
Ở miền Bắc:
Việc xây dựng CNXH không còn là định hướng nữa mà trở thành mục tiêu,
nhiệm vụ trực tiếp.
Nhưng vì cả nước ta đều có nhiệm vụ chống Mỹ nên CNXH ở miền Bắc
mang đặc điểm thời chiến. Xây dựng CNXH thời chiến không chỉ đảm bảo đời
sống nhân dân miền Bắc mà còn phải phát triển kinh tế phục vụ chiến đấu, là hậu
phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Lúc này “mỗi người làm việc bằng hai”
theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tháng 5/1964, tổng kết bước đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
Bộ chính trị đã khẳng định: “Xây dựng CNXH lúc này cũng là để đánh thắng giặc
Mỹ”.
Đại hội IV năm 1976 đã đánh giá vai trò của miền Bắc XHCN: “không thể
nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có
miền Bắc XHCN”; “thử thách cực kỳ nghiêm trọng của chiến tranh đã làm sáng
ngời tính ưu việt và sức mạnh của CNXH”
Ở miền Nam:
Từ xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang đến xây dựng chế độ
mới ở các vùng giải phóng, đặc biệt là xây dựng các cơ sở Đảng vững mạnh. Đảng
và nhà nước đều đã huy động lực lượng miền Bắc phục vụ miền Nam, gửi vào đó
hàng triệu thanh niên, hàng ngìn tấn vũ khí, đặc biệt là nhiều binh đoàn chủ lực.
Như vậy, sức mạnh của miền Nam là sức mạnh của chế độ mới, sức mạnh
tại chỗ và sức mạnh của cách mạng XHCN miền Bắc.
Dựa vào sức mạnh cả nước, Đảng phát động nhiều cuộc tiến công chiến
lược, lần lượt phá hoại và đánh tan các kế hoạch chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang. Thực tế, miền Nam đã thực hiện đầy đủ vai trò
quyết định trực tiếp đánh đổ đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành
cách mạng giải phóng dân tộc. Thực hiện nhiệm vụ “độc lập dân tộc”
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã khẳng định: “CNXH là
chỗ dựa của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào giải phóng dân tộc lớn
mạnh có tác dụng bảo vệ CNXH”.
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1954 – 1975 là sự kết hợp của 2
chiến lược CNXH ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước,
thực hiện thống nhất nước nhà đưa cả nước lên CNXH. Lúc này ngọn cờ CNXH
đã trở thành hiện thực trên một nửa đất nước và đang trở thành sức mạnh thật sự
cho cách mạng cả nước nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và thời
đại để xây dựng CNXH và đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1975 đến nay.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là một thời kỳ rất dài cần phải xác định đúng và
đề ra mục tiêu cho phù hợp với mỗi thời kỳ cách mạng. Cũng như giai đoạn cách
mạng trước đây, để kết hợp độc lập dân tộc và CNXH cùng với việc xác định
nhiệm vụ chiến lược đúng đắn, Đảng phải hoạch định nhiệm vụ chiến lược lâu dài
thành mục tiêu cụ thể, thích hợp với mỗi chặng đường.
+ Chặng đường đi lên CNXH được Đảng ta xác định một cách cụ thể tại
Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976 với mục tiêu là ổn định tình hình kinh tế – xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân nhưng sau nhiều năm phấn đấu chúng ta vẫn
không đạt được mục tiêu đề ra.
+ Từ Đại hội VI (1986) trở đi đường lối đổi mới và mục tiêu cụ thể được
xác định đúng đắn, Đảng và nhân dân ta đã giành được thắng lợi quan trọng.
Mỗi bước thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH đều làm tăng thêm sức
mạnh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Bảo vệ nền độc lập dân tộc lại tạo điều kiện
thuận lợi cho việc xây dựng CNXH.
Như vậy, ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1975 đến nay là sự kết
hợp 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhằm mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Lúc này độc lập dân tộc và
CNXH nhập vào làm 1, sự kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH giờ đây trọn
vẹn và đầy đủ nhất nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại để
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
=> Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là một chân lý lớn của thời đại.
Chân lý ấy được Đảng Cộng sản tiếp thu và phát triển sáng tạo trong từng giai
đoạn lịch sử, phù hợp với nhiệm vụ cách mạng Việt Nam.
- Là nguồn gốc của mọi thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của cách
mạng Việt Nam, là ánh sáng chỉ đường cho dân tộc ta giành mọi thắng lợi trong
giai đoạn cách mạng hiện nay.
“Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho
độc lập dân tộc. Xây dựng CNXH, bảo vệ tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược
có quan hệ hữu cơ với nhau”.
2. Quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý:
“Gốc có vững cây mới bền
Xây lâu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Người cho rằng “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế
giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội
không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân”.
Trong “Đường kách mệnh”, người viết “Kách mệnh là việc của dân chúng,
chứ không phải việc của một hai người”. V.I.Lênin cũng chỉ rõ “Chỉ có độc một
mình đội tiên phong thôi thì không thể thắng nổi… đó không những là điều dại dột
mà còn là một tội ác nữa”.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đánh giá đúng vai trò
của nhân dân, coi dân là vốn quý nhất, sức mạnh của dân cũng là sức mạnh to lớn
nhất. Đi sâu phân tích hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ để thấy rõ
sức mạnh của chiến tranh nhân dân”.
Trong kháng chiến chống Pháp:
Ngày 29/10/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào Nam Bộ bền bỉ
kháng chiến. Người khẳng định: “không có quân đội nào, không khí giới nào có
thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn dân tộc”.
- Chiến tranh nhân dân là tính chất cơ bản và cũng là đặc điểm chủ
yếu nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bản chỉ thị lịch sử :“Toàn dân kháng
chiến” của trung ương Đảng ra ngày 12/12/1946 đã đặt cơ sở cho sự chỉ đạo,
nguyên tắc và đường lối của một cuộc chiến tranh nhân dân dựa trên truyền thống
lâu đời: “cả nước đánh giặc” của dân tộc kết hợp với những quan điểm chiến tranh
cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại mới.
- Ngày 25/11/1946, trung ương Đảng đã ra “Chỉ thị kháng chiến kiến
quốc”, cụ thể hoá đường lối cho cuộc kháng chiến và những chỉ đạo cụ thể.
- Ngày 19/12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân kháng
chiến: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu tổ quốc…”
- Trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, Trường Chinh đã
khẳng định: “Cuộc kháng chiến của chúng ta là một cuộc chiến tranh nhân dân
toàn dân, toàn diện…”.
Để thực hiện những chủ trương trên:
+ Phong trào Nam tiến được phát động đã động viên sâu sắc tinh thần yêu
nước của các tầng lớp nhân dân. Đó là biểu hiện sinh động về sức mạnh đoàn kết
toàn dân của Đảng và Chính phủ.
+ Đảng và Chính phủ tổ chức “Ngày kháng chiến” trong toàn quốc, kêu gọi
nhân dân bớt ăn, bớt mặc dành dụm, góp tiền của để ủng hộ đồng bào Nam Bộ
đánh Pháp.
+ Một thành tựu nổi bật của đường lối cách mạng toàn dân kháng chiến là
thu hút sự tham gia tích cực của các dân tộc- đa số cũng như thiểu số trên đất nước
Việt Nam.
Ngày 1/2/1947 trong thư gửi các chiến sĩ quân đội lên đường đi xây dựng cơ sở ở
miền Tây và Tây Bắc, đồng chí Võ Nguyên Giáp viết: “Mỗi một tấc đất miền Tây
là một tấc đất của nhân dân Việt Nam, chúng ta không thể để cho địch dễ dàng
dẫm lên được. Mỗi một đồng bào miền Tây là một người dân nước Việt, chúng ta
không thể không bảo vệ quyền lợi của đồng bào dân tộc thiểu số”.
Tất cả đã làm nên sức mạnh to lớn, sức mạnh của toàn thể nhân dân Việt
Nam chống thực dân Pháp xâm lược đó là chiến tranh nhân dân toàn dân đánh giặc
Trong kháng chiến chống Mỹ:
Kế thừa những thành quả và kinh nghiệm của kháng chiến chống Pháp,
chiến tranh nhân dân trên cả hai miền Nam - Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ cứu nước đã phát triển lên một tầm cao mới với nội dung và hình thức đấu
tranh hiệu quả và rất phong phú. Đó là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, nhằm
mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc và thống nhất đất nước.
- Lực lượng tiến hành chiến tranh là “toàn dân đánh giặc” gồm lực
lượng chính trị quần chúng, lực lượng vũ trang; lực lượng chính trị quần chúng
vừa là cơ sở để xây dựng phát triển lực lượng vũ trang, vừa là chỗ dựa vững chắc
để lực lượng vũ trang hoạt động tác chiến.
- Phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước không chỉ bó hẹp trong hoạt động đấu tranh vũ trang mà còn có phạm vi
rộng lớn hơn, tầm vóc cao hơn. Đó là “Cả nước tổ chức thành một mặt trận rộng
lớn, mỗi người dân yêu nước là một chiến sĩ, mỗi làng xã, đường phố là một là
một pháo đài, mỗi chi bộ Đảng là một bộ phận tham mưu…”
- Thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Nam hoàn toàn giải
phóng, đất nước thống nhất khẳng định sự nghiệp cách mạng đó là của nhân dân,
do nhân dân.
Như vậy, cách mạng chỉ có thể giành được thắng lợi nếu được quần chúng nhân
dân tham gia và chỉ có cách mạng do Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động mới mang lại quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội cho toàn thể nhân
dân. Khi đất nước độc lập và dân chủ thì lợi ích thuộc về nhân dân. Không có nhân
dân thì không có lực lượng, không có chính phủ thì không có người dẫn đường vì
vậy chính phủ và nhân dân phải đoàn kết thành một khối thống nhất. Đảng, Chính
phủ phải gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân, đồng thời, chính quyền
còn phải làm hết sức mình vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân đó là những nhân
tố quyết định sự vững mạnh của chính quyền nhà nước, của Đảng cầm quyền.
Trong thời kỳ đổi mới:
- Đại hội VI của Đảng nêu rõ: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng
phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc”.
- Tại đại hội VII (6/1991), Đảng đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất
nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xác định: “Toàn bộ hoạt động của Đảng
phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của
Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần
chúng sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất
nước”.
3. Không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới đại đoàn kết, vấn đề này được Người đề
cập nhiều nhất. Người nhấn mạnh “đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết, thành công,
thành công, đại thành công”.
Để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, Đảng phải luôn đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân, giai cấp tiêu biểu cho lợi ích của người lao động và
lợi ích của toàn dân tộc, không bao giờ được tách lợi ích chung của dân tộc với lợi
ích riêng của giai cấp mình. Đảng phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung và lợi
ích bộ phận của các giai cấp và tầng lớp xã hội, phải xác định đúng đắn chiến lược
và sách lược phù hợp với quan hệ giai cấp biến đổi ở mỗi thời kỳ.
Tổ chức tiêu biểu tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân là mặt
trận dân tộc thống nhất.
Trong thời kỳ 1930-1945.
Trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng
vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam, đồng thời xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong đó đội ngũ
tri thức có vai trò quan trọng. Kết quả đó được thể hiện ở sự đoàn kết giữa giai cấp
công nhân - nông dân trong phong trào đấu tranh chống chế độ thuộc địa ngay từ
khi Đảng cộng sản Việt Nam mới ra đời.
Sự mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó đội ngũ trí
thức được đặt ở vị trí xứng đáng, dựa trên cơ sở khối đại liên minh công – nông đã
tạo nên sức mạnh hùng hậu để tiến hành khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành
công.
Cách mạng tháng Tám thành công chủ yếu và trước hết là thắng lợi của đạo
quân chủ lực của cách mạng là công nhân và nông dân
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám còn là sự nổi dậy của toàn dân, bao
gồm các giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản cho đến các tầng lớp trên có
khả năng yêu nước nhất định là giai cấp tư sản dân tộc, những cá nhân yêu nước
và tiến bộ khác nằm trong mặt trận Việt Minh và ngoài mặt trận Việt Minh.
Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng thời kỳ này, không chỉ là biết tổ chức và
phát động đạo quân chủ lực mà còn biết lấy đó làm chỗ dựa để tập hợp hết thảy
các lực lượng yêu nước có thể tập hợp được, không bỏ sót một lực lượng nào.
Cách mạng tháng Tám là sự nổi dậy đồng loạt của nhân dân cả nước từ Bắc
đến Nam, từ rừng núi đến đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị, là sự nổi dậy của
cả các dân tộc thiểu số trên khắp cả nước. Chính nhờ sức mạnh đoàn kết đó nên dù
với một lực lượng vũ trang nhỏ bé (5000 người), cách mạng tháng Tám đã phát
huy sức mạnh áp đảo làm tê liệt sự phản kháng của quân đội Nhật, buộc quân tay
sai phải đầu hàng một cách nhanh gọn chỉ trong vòng nửa tháng trên cả nước
Thời kỳ 1945 – 1975
Sau cách mạng tháng Tám, trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế
độ mới và tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp có sự can thiệp của đế
quốc Mỹ, vai trò của liên minh công - nông và khối đại đoàn kết của công nhân –
nông dân – trí thức ngày càng được nâng cao và có những nội dung mới.
Trong kháng chiến chống Pháp:
Phong trào Nam Tiến là một biểu hiện sinh động của sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân. Phong trào đã động viên sâu sắc tinh thần yêu nước của các tầng lớp
nhân dân.
Một thành tựu nổi bật của tinh thần đoàn kết toàn dân là thu hút sự tham gia
tích cực của các dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam.
Để thực hiện toàn dân đánh giặc, cả nước ra trận, Đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh chú trọng xây dựng Quân đội nhân dân theo mô hình tổ chức 3 thứ quân: bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích mà chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận định: “đó là lực lượng của cả dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức
tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực
lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải ta rã”. Trên cơ sở hình thức 3
thứ quân sau này đã hình thành nhiều đại đoàn chủ lực, quân đoàn, tiểu
đoàn…
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Tinh thần đoàn kết toàn dân thể
hiện ở nhận thức chỉ đạo các hoạt động đấu tranh vũ trang của cuộc chiến tranh
nhân dân trên cả 2 miền Nam, Bắc của Đảng và Chính phủ ta- và thời kỳ này đã
được nâng lên tầm cao mới với nội dung, hình thức đấu tranh hiệu quả và rất
phong phú. Lực lượng tiến hành chiến tranh là: “toàn dân đánh giặc gồm lực lượng
chiến tranh nhân dân 3 thứ quân làm nòng cốt và lực lượng chính trị quần
chúng…”
Phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, động viên toàn dân đoàn kết
kháng chiến chống Mỹ là: “cả nước tổ chức thành một mặt trận rộng lớn, mỗi
người dân yêu nước là một chiến sĩ, mỗi làng, xã, đường phố là một pháo đài, mỗi
chi bộ Đảng là một bộ phận tham mưu, phát huy sức mạnh tổng hợp của sự kết
hợp đấu tranh chính trị và vũ trang trên cả 3 vùng chiến lược, bằng 3 mũi giáp
công: đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp tiến công quân sự với nổi
dậy của quần chúng….”
Thời kỳ này cùng với việc tiến công địch ở miền Nam đồng thời phải bảo
vệ miền Bắc, đánh thắng chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ trên
vùng trời và vùng biển miền Bắc Việt Nam với chiến trường hai nước bạn là Lào
và Cămpuchia bằng thế chiến lược tiến công. Chính sự tập hợp, động viên toàn
dân đánh giặc của Đảng và Chính phủ ta đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của nhân dân ta toàn thắng.
Thời kỳ 1975-1985, do chưa có nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của nền
kinh tế nhiều thành phần, chưa thấy được mặt tích cực của cơ chế thị trường, nên
ta đã có những chính sách không phù hợp trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, làm cho khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc có phần bị
giảm sút, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gặp khó khăn.
Từ năm 1986 tới nay, Đảng đã củng cố và tăng cường được một bước quan
trọng khối đại đoàn kết toàn dân đã đáp ứng được lợi ích của các giai cấp, các tầng
lớp trong xã hội, kể cả với đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài, làm cho khối
đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Nhờ vậy, nước ta không những vượt qua
được những khó khăn bên trong, đối phó được những tác động bất lợi của tình
hình quốc tế, mà còn đạt được nhiều thành tựu mới, to lớn trong công cuộc đổi
mới, tiềm lực của đất nước được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao.
Như vậy, thực tế lịch sử qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
và sự nghiệp đổi mới đất nước đã chứng tỏ rằng, đại đoàn kết toàn dân là một sức
mạnh to lớn để đánh thắng mọi thế lực xâm lược trong cách mạng giải phóng dân
tộc cũng như trong cách mạng XHCN.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế
Từ rất sớm, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về mối quan hệ giữa cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới: “Cách mạng An Nam cũng là một bộ phận trong
cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An
Nam cả”. Người còn nói: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc
dân chủ nhân dân phải phát triển thành cách mạng XHCN thì mới giành được
thắng lợi hoàn toàn”.
Như vậy, mục tiêu và con đường độc lập dân tộc và CNXH đã đưa cách
mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hoà nhập
vào trào lưu giải phóng của nhân loại, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải
phóng loài người. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta không tách rời mà gắn liền với
cuộc đấu tranh chung của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ
và tiến bộ xã hội. Một quy luật tất yếu của sự nghiệp cứu nước cũng như sự nghiệp
giữ nước và xây dựng đất nước mà Đảng ta phải nắm vững và vận dụng nhuần
nhuyễn là đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế,
phối hợp sự hoạt động của cách mạng nước ta với hoạt động của các lực lượng hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới để chống kẻ thù
chung.
Chính vì vậy, trong suốt chiều dài lịch sử, ngay từ khi ra đời trong Cương
lĩnh đầu tiên (năm 1930) cũng như Cương lĩnh xây dựng đất nước và đường lối
của các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ đoàn kết quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thành một nhiệm vụ chiến lược. Thực tiễn
lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo đã chứng minh đoàn kết quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nhân tố góp phần quan trọng
vào thắng lợi của cách mạng.
Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đồng thời là hành
trình tìm kiếm bạn đồng minh và thiết lập mối quan hệ đoàn kết hợp tác quốc tế
của cách mạng Việt Nam. Người đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với
phong trào cách mạng thế giới, đưa nhân dân ta đi theo con đường mà chính
Người đã trải qua từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân.
Cách mạng tháng Tám thành công có ý nghĩa lịch sử thời đại sâu sắc.
Thành công đó do nhiều yếu tố tạo nên, trong đó có sự kết hợp đúng đắn sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhạy
bén trước xu thế phát triển của chiến tranh thế giới II và phong trào cách mạng thế
giới, từng bước bổ sung, cụ thể hoá đường lối. Do đó đã tranh thủ phát huy được
những điều kiện khách quan thuận lợi, đó là sự giúp đỡ to lớn của quốc tế Cộng
sản, các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc và sự ủng hộ của phong trào Cộng
sản, cách mạng quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nước ta trong những năm đầu còn ở
trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc nên chưa có điều kiện tranh thủ sự giúp đỡ
của nhân dân thế giới. Khi đó, nhân dân ta tiến hành chống Pháp với tinh thần:
“Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ”. Sau 5 năm kháng chiến, thế và lực của cách mạng, của đất nước đã
có những bước phát triển mới, ngày
14/1/1950, chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình
đẳng, chủ quyền lãnh thổ…” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6/ Tr.6- 8)
Ngay sau đó, Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác đã lần luợt
thiết lập quan hệ ngoại giao với nước ta, gắn cách mạng Việt Nam nối liền với hậu
phương lớn XHCN, với phong trào độc lập dân tộc và phong trào hoà bình thế
giới. Từ đó nhân dân ta có sự ủng hộ, giúp đỡ về tinh thần và vật chất của nhân
dân thế giới, Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN và sự đồng tình ủng hộ của
nhân dân thế giới nhất là nhân dân Pháp. Hành động anh hùng của chị
Raymôngđiêng ngăn đoàn xe lửa chở vũ khí sang Việt Nam, anh Hăngri Mácđanh
đã vận động binh lính Pháp không sang Việt Nam tham chiến…. mãi là những
biểu tượng sáng ngời cho tinh thần đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam và
nhân dân Pháp.
Chiến thắng Điện Biên Phủ và việc ký kết hiệp định Giơnevơ tháng 7/1954
được nhân dân thế giới yêu chuộng hoà bình; nhân dân các nước thuộc địa và phụ
thuộc; nhân dân và Chính phủ các nước mới giành độc lập chào mừng thắng lợi -
thắng lợi mở đầu sự phá sản của hệ thống thực thuộc địa trên thế giới, thắng lợi
này không những chỉ có ý nghĩa dân tộc mà còn có ý nghĩa quốc tế to lớn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với đường lối đối ngoại độc
lập sáng tạo, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xử lý đúng đắn nhiều mối quan
hệ. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong việc động viên, đoàn kết, ủng hộ của quốc
tế đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
- Đảng ta đã kiên quyết và hạn chế phạm vi cuộc chiến tranh bằng cách đề
ra chủ trương, sách lược mềm dẻo ở miền Nam Việt Nam lúc đó là: “trung lập”
và không nhận quân tình nguyện quốc tế, không để chiến tranh biến thành xung
đột quốc tế.
Kết quả của đường lối đó là sự hình thành trên thực tế mặt trận nhân
dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ cứu nước, cùng với mặt trận Việt –Miên
- Lào và mặt trận đoàn kết trong nước kết thành 3 tầng mặt trận.
Có thể nói, nhìn lại lịch sử thế giới chưa có một cuộc chiến tranh của một
dân tộc nào được sự ủng hộ rộng rãi và mạnh mẽ của nhân dân thế giới như cuộc
kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, chưa bao giờ số phận của một dân
tộc nhỏ lại gắn chặt với số phận của nhân dân thế giới như vậy; cũng chưa từng có
trong lịch sử nước Mỹ một phong trào đấu tranh mạnh mẽ của tất cả binh lính Mỹ,
nhân dân đòi chính quyền
Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh bẩn thỉu, tàn bạo ở Việt Nam rộng rãi
và mạnh mẽ đến như vậy.
Trong những năm đổi mới, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại của Đảng
và nhà nước ta là giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời
phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của nước ta, phù hợp với đặc điểm mà đối tượng ta có quan hệ.
Tư tưởng chỉ đạo đó là thêm bạn bớt thù, tranh thủ sự đoàn kết và hợp tác
quốc tế; vì lợi ích độc lập dân tộc, thống nhất và CNXH của nhân dân ta; vì lợi ích
chung là hoà bình, độc lập và phát triển; kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước với cách mạng quốc tế của giai cấp công nhân. Do đó, Đảng, nhà nước và
nhân dân ta vẫn thực hiện nhất quán chủ trương đoàn kết, hợp tác với các nước
XHCN, phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào độc lập dân tộc,
phong trào không liên kết cùng các lực lượng hoà bình và tiến bộ khác góp phần
vào cuộc đấu tranh cho thắng lợi chung.
Ngày nay, nước ta đã thiết lập quan hệ với hơn 170 nước. Đó là điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục khó khăn để hội nhập kinh
tế quốc tế.

5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam
Trước năm 1930, các cuộc đấu tranh của dân tộc ta dù đã diễn ra liên tục
anh dũng, song kết cục đều bị thất bại. Từ năm 1930 dưới sự lãnh đạo của Đảng,
phong trào dân tộc, dân chủ của nhân dân ta mới từng bước đi tới thắng lợi.
Những năm 1930 -1945, đường lối đúng đắn của Đảng đã được đề ra ngay
trong cương lĩnh cách mạng đầu tiên. Nhờ đó lực lượng cách mạng nước ta từng
bước được xây dựng, quần chúng cách mạng được tổ chức rèn luyện, mặt trận dân
tộc thống nhất và căn cứ địa được hình thành. Và khi thời cơ đến, Đảng đã phát
động tổ chức khởi nghĩa giành chính quyền thành công lập nên nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, các thế lực đế quốc và tay sai câu kết
với nhau, tái xâm lược Việt Nam. Trước tình thế đó Đảng đã kịp thời đưa ra bản
chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh chống giặc đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm, bảo vệ chính quyền cách mạng trong hoàn cảnh “ngàn
cân treo sợi tóc”.
Cuối năm 1946, khi thực dân Pháp mở rộng ách cai trị lên toàn cõi nước ta,
Đảng đã kịp thời phát động nhân dân toàn quốc nhất tề đứng lên toàn quốc kháng
chiến. Với đường lối đúng đắn, Đảng đã từng bước lãnh đạo tổ chức cuộc kháng
chiến tiến lên đi tới thắng lợi vẻ vang trong chiến lược Đông Xuân 1953-1954.
Những năm 1954-1975, để đánh bại mọi âm mưu xâm lược và thống trị
thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ, Đảng đã đưa ra đường lối chiến lược chung
sáng suốt là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng
khác nhau ở hai miền, nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cả nước là giải
phóng miền Nam, hoà bình thống nhất tổ quốc, nên đã tạo được sức mạnh tổng
hợp đưa cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc
tới thắng lợi vẻ vang vào mùa Xuân năm 1975.
Trong những năm 1975 – 1985, đường lối của Đảng mang tính chủ quan,
nóng vội nên kinh tế – xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng.
Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới được đề ra tại Đại hội lần thứ
VI, công cuộc xây dựng là bảo vệ đất nước có những biến chuyển rõ rệt, đạt được
những thành tựu mới, thế lực được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao, đưa
đất nước ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Để bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được đúng đắn, tiếp tục là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi cách mạng Việt Nam, Đảng chủ trương hết sức coi
trọng công công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đó là Đảng phải tự đổi mới, tự
chỉnh đốn về mọi mặt:
+ Đổi mới về tư duy lý luận, tư duy kinh tế, nâng cao năng lực trí tuệ, đề ra
cương lĩnh đường lối, chiến lược sách lược đúng đắn. Đây là yêu cầu cơ bản cốt
lõi nhất.
+ Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng.
+ Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, nhà nước và các đoàn
thể quần chúng trong hệ thống chính trị của nước ta hiện nay.
+ Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực, xây dựng
được một chiến lược cán bộ của thời kỳ mới.
+ Thường xuyên làm trong sạch đội ngũ đảng viên, đồng thời kết nạp
những người ưu tú vào Đảng. Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam- Đảng do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc,
luôn gắn bó với nhân dân, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc- là lực lượng duy nhất có khả
năng lãnh đạo, tổ chức bảo vệ vững chắc Tổ quốc và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Câu hỏi ôn tập
1. Tình hình Việt Nam sau năm 1975?
2. Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước
thời kyd 1975-1976?
3. Đại hội lần thứ IV của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1976-1980?
4. Đại hội lần thứ V của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1981-1986?
5. Đại hội lần thứ VI của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đổi
mới thời kỳ 1986-1990?
6. Đại hội lần thứ VII của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đổi
mới thời kỳ 1991-1996, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội?
7. Đại hội lần thứ VII của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1996-2000?
8. Đại hội lần thứ IX của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 2001-2005?
9. Đại hội X của Đảng và quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc 2006-1020?
Vấn đề thảo luận
1. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước thời kỳ 1976-
1980?
2. Quá trình hình thành đường lối đổi mới của Đảng và những biện pháp
thực hiện đổi mới ở Việt Nam?
3. Nhận thức về con đường đi lên CNXH của Đảng ta thời kỳ 1975-nay
4. Quá trình xây dựng Đảng qua các đại hội (1976-nay)
5. Quá trình bổ sung, phát triển đường lối đổi mới của Đảng qua các đại hội
lần thứ VII (1991), lần thứ VIII (1996), lần thứ IX (2001), lần thứ X (2006)?
6. Thành quả, thời cơ và thách thức của sự nghiệp đổi mới?

You might also like