Professional Documents
Culture Documents
Chức năng
Chức năng nhận thức: nhận thức lịch sử để phục vụ việc cải tạo xã hội theo đúng
quy luật phát triển của xã hội Việt Nam như một quá trình lịch sử- tự nhiên; góp phần tích
cực tạo cơ sở lý luận để Đảng vạch ra đường lối, chủ trương, chính sách.
Chức năng giáo dục: giáo dục tư tưởng chính trị, tham gia vào giải quyết những
nhiệm vụ hiện tại. Trau dồi thế giới quan, phương pháp luận khoa học, xây dựng niềm tin
vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhiệm vụ
Làm sáng tỏ điều kiện lịch sử, quá trình ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam
- bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
Làm rõ quá trình trưởng thành, phát triển của Đảng gắn liền với hoạt động xây dựng
một chính đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trình bày quá trình hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, các
giai đoạn cách mạng trong những bối cảnh lịch sử cụ thể.
Trình bày các phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng tổ chức và lãnh đạo.
Tổng kết những kinh nghiệm lịch sử Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh
Phương pháp cụ thể
- Phương pháp lịch sử: là phương pháp chung nhất, nghiên cứu sự vật, hiện
tượng theo trình tự thời gian, quá trình diễn biến, đi từ phát sinh, phát triển đến hệ quả
của nó.
- Phương pháp logíc: nghiên cứu một cách tổng quát, nhằm tìm ra được cái bản chất
của sự vật, hiện tượng và khái quát thành lý luận.
- Ngoài ra, một số phương pháp khác như: phương pháp lịch đại, phương pháp đồng
đại, phương pháp so sánh … cũng được sử dụng để làm sáng tỏ những nội dung có liên
quan.
- Trong nghiên cứu lịch sử Đảng phải luôn luôn quán triệt nguyên tắc: tính khoa học
thống nhất với tính Đảng; quan điểm lịch sử cụ thể; tính thực tiễn.
4. Ý nghĩa thực tiễn
Giải đáp những vấn đề có liên quan đến tiền đồ và vận mệnh của cách mạng nước ta
như: con đường xây dựng đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn của
lịch sử; hơn 75 năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo duy nhất và cũng chỉ
cần một Đảng lãnh đạo mà thôi…
Tự bồi dưỡng cho mình truyền thống yêu nước, lòng tự hào đối với Đảng và dân
tộc, tự trang bị những kiến thức chính trị - xã hội cần thiết về cách mạng Việt Nam để thêm
tin tưởng vào tiền đồ cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bồi dưỡng ý chí chiến đấu cách mạng, biết noi gương những người đi trước, tiếp
tục cuộc chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của
chúng ta.
Kết luận
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cũng là lúc Việt Nam Quốc
dân Đảng tan rã, cùng với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp tư sản kết thúc. Ngọn cờ phản đế, phản phong được chuyển
sang tay giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản trở thành người nắm ngọn cờ lãnh
đạo cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm lịch sử của cuộc đấu tranh
dân tộc và giải quyết yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, là sản
phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam.
1. Đặc điểm nổi bật của thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ảnh
hưởng tới cách mạng Việt Nam?
2. Hậu quả của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam?
3. Thái độ chính trị và khả năng cách mạng của mỗi giai cấp trong xã hội Việt
Nam thuộc địa?
4. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến ở Việt Nam cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX?
5. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu
thế kỷ XX?
6. Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử của các phong trào yêu nước theo
khuynh hướng chính trị tư sản ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến đầu năm 1930?
7. Hệ thống quan điểm cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh trong thời
kỳ 1920 – 1930?
8. Quá trình hình thành các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam?
9. Quá trình Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng chính trị vô sản?
10. Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức cho
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào?
11. Điều kiện lịch sử, quá trình phát triển, đấu tranh và ý nghĩa của phong trào
công nhân Việt Nam?
12. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng?
13. Vai trò của Nguyễn ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng?
15. Các yếu tố hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa lịch sử của việc
thành lập Đảng?
2. Xây dựng chế độ Dân chủ cộng hoà và tổ chức kháng chiến ở miền Nam
a. Xây dựng chế độ dân chủ cộng hoà
Về chính trị
Củng cố chính quyền, xây dựng nền móng chế độ mới: Đã xây dựng được
nền móng cho một chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần
thiết. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông
bầu cử
Ngày 3-9- 1945, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng
hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.
Ngày 6-1-1946, tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu mốc
phát triển trong tiến trình xây dựng thể chế dân chủ đầu tiên trên đất nước Việt
Nam.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội khoá I họp kỳ đầu tiên, trao quyền cho Chủ tịch
Hồ Chí Minh lập Chính phủ chính thức - Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Ở các
địa phương, nhân dân bầu ra hội đồng nhân dân các cấp. Các hội đồng nhân dân
cử ra Uỷ ban hành chính các cấp.
Ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên
của nước ta. Hiến pháp ghi nhận quyền làm chủ nước nhà, quyền và nghĩa vụ của
mọi công dân.
Xây dựng khối đoàn kết:
Tháng 5-1946, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh Hội liên hiệp
Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập, nhằm đoàn kết tất cả các
lực lượng và cá nhân trước đây chưa có điều kiện tham gia Mặt trận Việt Minh.
Các đoàn thể quần chúng và các đảng phái dân chủ lần lượt ra đời: Tổng
liên đoàn Lao động Việt Nam (5-1946), Đảng Xã hội Việt Nam (7-1946), Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (10-1946).
Về kinh tế - tài chính
Biện pháp trước mắt: Nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ thóc gạo, cấm
nấu rượu. Bỏ luật hạn chế vận chuyển thóc gạo giữa các vùng do Pháp, Nhật đề ra.
Tổ chức lạc quyên, “hũ gạo cứu đói”, “ngày đồng tâm” và thực hiện khẩu hiệu “lá
lành đùm lá rách”, “nhường cơm sẻ áo”.
Biện pháp lâu dài: Để xoá hẳn nguy cơ đói chỉ có biện pháp tận gốc: tăng
gia sản xuất, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân: “Tăng gia sản xuất, tăng gia
sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa, đó là khẩu hiệu của ta ngày nay, đó là cách
thiết thực nhất để ta giữ vững quyền tự do, độc lập”; phát động phong trào thi đua
sản xuất: “tấc đất, tấc vàng”, “không bỏ phí một tấc đất hoang”.
Ngày 7-9-1945, Chính phủ ra sắc lệnh bãi bỏ những thứ thuế vô lý, giảm tô
25%; Chính phủ tổ chức khuyến khích khai hoang, phục hoá, sửa chữa đê điều;
tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc và việt gian chia cho nông dân nghèo.
Theo chủ trương của Đảng, Chính phủ cho mở lại các nhà máy do Nhật bỏ
lại, tiến hành khai thác các mỏ; cho tư nhân được góp vốn kinh doanh ở các xí
nghiệp, khuyến khích giới công thương lập hợp tác xã và hội cổ phần, tham gia
kiến thiết lại nước nhà.
Về tài chính, Đảng xác định xây dựng một nền tài chính độc lập. Do vậy,
Chính phủ lập Ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc Việt Nam trong cả nước
thay thế giấy bạc Đông Dương (23-11-1946), tổ chức “tuần lễ vàng”, lập ngân quỹ
toàn quốc, ngân quỹ các xứ và các tỉnh.
Về văn hoá-xã hội
Nhiệm vụ nặng nề là xoá nạn mù chữ, tấn công vào giặc dốt. Do vậy, Đảng
phát động phong trào xoá nạn mù chữ, thành lập Nha Bình dân học vụ.
Xây dựng một nền giáo dục mới từ tiểu học đến đại học với nội dung và
phương pháp đổi mới theo tinh thần dân tộc, dân chủ.
Đề cao vai trò ngôn ngữ Việt Nam. Tiếng Việt, chữ Việt được sử dụng
trong nhà trường, trong các văn bản.
Phát động xây dựng nếp sống văn hoá mới, bài trừ tệ nạn xã hội, xây dựng
đạo đức mới với nội dung “cần –kiệm- liêm- chính”.
An ninh- quốc phòng
Cuối năm 1946, lực lượng quân đội thường trực có 8 vạn quân, biên chế
cấp trung đoàn.
Xây dựng lực lượng công an nhân dân (19-8-1945).
Phát động phong trào luyện tập quân sự, vũ trang quần chúng cách mạng.
Quân sự hoá toàn dân được thực hiện rộng khắp; lực lượng quân tự vệ là “bức
tường sắt của Tổ quốc”.
Giải tán hai đảng phản động, tay sai (Đảng Đại Việt quốc gia xã hội Đảng
và Đại Việt quốc dân Đảng), lập toà án quân sự.
Kết quả
Những biện pháp trên đã xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền từ Trung
ương đến địa phương, tăng cường khối đoàn kết dân tộc. Nguy cơ nạn đói không
trầm trọng thêm, tình trạng căng thẳng lương thực đã giảm xuống, đời sống nhân
dân được cải thiện đáng kể. Ngân khố quốc gia đã có 370 kg vàng và 60 triệu tiền
Đông Dương. Việc đổi tiền đã làm cho ta giành được chủ quyền về tiền tệ, chúng
ta giải quyết được một phần chi tiêu của chính phủ, phục vụ sản xuất, đời sống,
bước đầu xây dựng nền tài chính độc lập của nước Việt Nam. Sau một năm 2,5
triệu dân biết đọc. Tệ nạn xã hội giảm đáng kể, tình hình an ninh trật tự được đảm
bảo.
Như vậy, về mọi mặt, nhân dân ta được hưởng những quyền dân sinh, dân
chủ, nó thể hiện rõ sự ưu việt của chế độ mới. Sức mạnh mới này giúp ta đấu tranh
một cách có hiệu quả trong việc bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.
b. Tổ chức kháng chiến ở miền Nam
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ bắt đầu ngày 23-9-1945.
Đảng và Chính phủ phát động phong trào “Nam tiến” để chi viện cho cuộc kháng
chiến của đồng bào Nam Bộ. Cuối tháng 10-1945, những đơn vị chi viện từ miền
Bắc, miền Trung đã vào đồng bằng Nam Bộ. Cuối năm 1945, Pháp đã mở rộng
chiến tranh xâm lược ra toàn Nam Bộ.
Ngày 25-10-1945, Hội nghị cán bộ Đảng bộ Nam Bộ họp ở Thiên Hộ - Cái
Bè - Mỹ Tho (Tiền Giang) đã chủ trương phát động chiến tranh du kích rộng khắp,
để tiêu hao sinh lực và chặn bước tiến giặc; xây dựng, củng cố cơ sở cách mạng
trong thành phố và các vùng địch đánh chiếm; xây dựng lực lượng vũ trang vững
mạnh, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và hệ thống tổ chức, chỉ huy thống nhất.
3. Thực hiện chính sách hoà hoãn, tranh thủ thời gian chuẩn bị kháng chiến
toàn quốc.
a. Thực hiện chính sách hoà hoãn Hoà với Tưởng ở miền Bắc, tập trung
chống thực dân Pháp ở miền Nam (9/1945 – 3/1946)
Lý do và mục đích hoà hoãn:
Ta không đủ khả năng để đối chọi với tất cả kẻ thù cùng một lúc và cần thời
gian hoà bình để củng cố đất nước và xây dựng lực lượng.
Quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa quân Đồng minh được hợp pháp
hoá, nếu chúng ta sử dụng các biện pháp bạo lực, thì sẽ tạo cớ cho chúng công
khai tấn công chính quyền cách mạng.
Ngoài ra, quân Tưởng khi vào Việt Nam đã chuẩn bị kế hoạch “Hoa quân
nhập Việt”, “Diệt cộng, cầm Hồ”, chuẩn bị một lực lượng tay sai người Việt để lập
chính phủ thân Tưởng. Hoà với Tưởng, chúng ta sẽ vô hiệu hoá kế hoạch trên.
Quân Tưởng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, chống phá Việt Minh, lật
đổ chính quyền cách mạng, song kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp
xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng.
Khả năng để hoà hoãn:
Nội bộ quân Tưởng có mâu thuẫn, ta triệt để lợi dụng điểm yếu này.
Quân Tưởng mặc dù có tham vọng lớn, nhưng thực lực có hạn, quân số
đông nhưng ô hợp, tổ chức kém và hậu cần khó khăn, nên phải trông vào hậu cần
tại chỗ. Trước sau gì quân Tưởng cũng phải rút quân về, để đối phó với Đảng
Cộng sản Trung Quốc và phong trào cách mạng đang lên ở trong nước.
Nguyên tắc hoà hoãn:
Đảm bảo giữ vững chính quyền cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng đối với
chính quyền cơ sở.
Kiên quyết trấn áp những hành động gây tội ác của Tưởng và bè lũ tay sai,
kiềm chế bớt sự can thiệp của quân Tưởng vào nội trị Việt Nam.
Không nhượng bộ về vấn đề độc lập của Việt Nam.
Biện pháp hoà hoãn:
Ngày 11-11-1945, Đảng tuyên bố tự giải tán, nhưng thực ra là rút vào hoạt
động bí mật để làm mất mục tiêu quấy rối của kẻ thù.
Nắm vững phương châm “thêm bạn bớt thù”, Chính quyền cách mạng hợp
tác tích cực với quân Tưởng trong việc giải giáp quân Nhật và tự kiềm chế trước
các hành động khiêu khích của Tưởng, tránh để xảy ra xung đột về quân sự với
chúng.
Chấp nhận cung cấp lương thực, thực phẩm, chỗ ăn ở cho 20 vạn quân
Tưởng. Chấp nhận tiêu tiền mất giá “quan kim”, “quốc tệ”. Về chính trị, ta mở
rộng thành phần Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời gồm 18
thành viên trong đó có Việt quốc và Việt cách. Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá I
(2-3-1946) thông qua chính phủ liên hiệp và chấp nhận 70 ghế Quốc hội của Việt
quốc và Việt cách không qua bầu cử, đưa tổng đại biểu quốc hội lên 403 đại biểu.
Kết quả:
Ta mềm dẻo về sách lược, nhưng giữ vững nguyên tắc: nắm chắc vai trò
lãnh đạo của Đảng, giữ vững chính quyền cách mạng, giữ vững mục tiêu độc lập,
thống nhất đất nước, không để kẻ thù nắm quần chúng; trừng trị nghiêm khắc
những tên đầu sỏ phản cách mạng.
Tranh thủ được thời gian để thực hiện chủ trương kháng chiến, kiến quốc.
Làm thất bại âm mưu của quân Tưởng, đảm bảo cho nhân dân ta tập trung
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam. Chính quyền được giữ
vững và củng cố về mọi mặt.
Tạm hòa hoãn với Pháp, đẩy nhanh quân Tưởng về nước (3-1946 - 12-
1946)
Lý do hòa hoãn:
Trong khi ta hòa với Tưởng, thì Tưởng- Pháp bắt tay nhau. Ngày 28-2-
1946, Hiệp ước Hoa – Pháp được ký kết, theo đó, Pháp nhân nhượng một số
quyền lợi kinh tế cho Chính quyền Tưởng trên đất Trung Hoa để Pháp được đưa
quân ra miền Bắc Việt Nam, còn Tưởng rút quân về nước đối phó với Quân giải
phóng nhân dân Trung Quốc.
Thực chất Hiệp ước này là một sự mua bán chính trị giữa các thế lực đế
quốc, nhằm hợp pháp hoá hành động xâm lược của đế quốc Pháp ở Đông Dương.
Tình thế đặt Đảng và đất nước trước hai sự lựa chọn: hoặc là cùng một lúc phải
đối đầu với nhiều kẻ thù; hoặc chấp nhận hoà với Pháp, tranh thủ thời gian để
chuẩn bị mọi mặt cho một cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ, mà Đảng dự báo
là không tránh khỏi.
Khả năng để hoà hoãn:
Cả Tưởng và Pháp đều phải tính đến sức mạnh của Việt Nam và dư luận
quốc tế, nên không thể không dàn xếp với Việt Nam về việc thay quân này.
Nếu ra Bắc bằng vũ lực, Pháp sẽ vấp phải sự kháng cự của nhân dân Việt
Nam và cuộc đối đầu quân sự này sẽ bị Tưởng lợi dụng để cản trở quân đội Pháp
ra Bắc, đòi thêm Pháp một số quyền lợi vật chất.
Nguyên tắc hoà hoãn: Độc lập về chính trị, nhưng nhân nhượng về kinh tế.
Độc lập nhưng liên minh. Không nhượng bộ sự thống nhất quốc gia và quyền tự
quyết dân tộc.
Biện pháp hoà hoãn:
Theo chủ trương mới, Chính phủ ta đã đàm phán và ký với đại diện Chính
phủ Pháp Hiệp định sơ bộ 6-3-1946. Hiệp định quy định: Chính phủ Pháp công
nhận Việt Nam là một quốc gia tự do có nghị viện, chính phủ, quân đội và tài
chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp; Việt Nam đồng
ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho quân Tưởng, sau 5 năm phải
rút hết về nước; hai bên đình chỉ xung đột ở miền Nam để mở cuộc đàm phán đi
đến ký hiệp định chính thức.
Ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hoà để tiến để nói
rõ hơn chủ trương hoà với Pháp.
Hai bản chỉ thị Tình hình và chủ trương và Chỉ thị Hoà để tiến là sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược hết sức đúng đắn, nhạy bén phù hợp với sự chuyển biến
của tình hình đất nước, ứng phó kịp thời và có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn mới
của kẻ thù.
- Đánh giá Hiệp định sơ bộ: chúng ta đã cân nhắc kỹ lợi hại, chọn cái ít hại
hơn mà làm. Do đó, ta tránh được tình thế mà kẻ thù muốn đẩy ta vào là cùng một
lúc phải đánh nhau với nhiều thế lực đối địch; tranh thủ được thời gian, bảo toàn
thực lực; đuổi được quân Tưởng và Việt quốc, Việt cách cuốn gói theo và “chọn
thương lượng thay vì đánh nhau, chính là một bằng chứng hiểu biết về chính trị”.
b. Tranh thủ thời gian, chuẩn bị kháng chiến toàn quốc
Sau Hiệp định Sơ bộ, ta đấu tranh đòi Pháp thi hành hiệp định, đồng thời
sẵn sàng đối phó với hành động phản bội của địch, chuẩn bị lực lượng cho cuộc
kháng chiến toàn quốc.
Ngày 19-4-1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt được tiến hành để chuẩn bị cho
cuộc đàm phán chính thức tại Pháp, song do phía Pháp ngoan cố giữ lập trường
thực dân nên Hội nghị đã bế tắc.
Cuộc đàm phán Việt - Pháp được mở ra ở Phôngtenơblô từ 6-7-1946 đến
10-9-1946, kết thúc mà không có kết quả gì.
Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm chính thức nước Pháp.
Ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước,
thoả thuận một số điều về kinh tế, văn hóa, đình chỉ xung đột quân sự ở miền Nam
và sẽ tiếp tục đàm phán vào tháng 1-1947.
Tranh thủ thời gian hoà hoãn, Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng và phát
triển lực lượng về mọi mặt:
Về chính trị: tiếp tục mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố vững
chắc chính quyền nhân dân.
Về kinh tế: tích cực đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, tích trữ lương
thực.
Về quân sự: phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng các chiến khu, chuẩn bị
hậu phương cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Về xây dựng Đảng: qua lãnh đạo đấu tranh và xây dựng, Đảng đã lớn mạnh
cả về chất lượng lẫn số lượng. Từ 5.000 đảng viên năm 1945, đến tháng 12-1946,
Đảng đã có 20.000 đảng viên. Nội bộ Đảng được củng cố, thống nhất; đội ngũ cán
bộ của Đảng được đào tạo và phát triển.
Sau khi ký Tạm ước 14-9, quân Pháp vẫn ráo riết tiến công quân ta và
khủng bố nhân dân ta ở Nam Bộ và Trung Bộ, tăng cường khiêu khích và lấn
chiếm ở miền Bắc nước ta. Đảng nhận định: “Tạm ước 14-9 là nhân nhượng cuối
cùng của Đảng và Chính phủ ta, nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất
nước, là hại đến quyền lợi cao trọng của dân tộc”.
Mặc dù thực dân Pháp bội ước, nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh tính
đúng đắn và cần thiết của các hiệp định này. Chúng ta hoà để từng bước củng cố
nền độc lập vừa mới giành được. Hiệp định sơ bộ 6-3 và bản Tạm ước 14-9 đã
phản ánh quan điểm giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Việc ký các thoả thuận này là đỉnh cao nghệ thuật nhân nhượng có nguyên tắc của
Hồ Chí Minh.
Như vậy, từ tháng 9-1945 đến 12-1946, Đảng đã đưa đất nước vượt qua
những khó khăn thử thách hiểm nghèo, củng cố và phát huy thành quả của cách
mạng tháng Tám, chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Thời kỳ này để lại cho Đảng ta nhiều kinh nghiệm quý báu về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc; về lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa
mũi nhọn vào kẻ thù chính, về sự nhân nhượng có nguyên tắc; về tận dụng khả
năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, sẵn sàng
ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước.
II. LÃNH ĐẠO TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (1946 - 1950)
1. Phát động toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng
a. Quyết định kháng chiến toàn quốc
Ngày 20-11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm Hải Phòng, Lạng
Sơn và Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh quy mô xâm lược toàn bộ đất nước và
toàn bộ Đông Dương.
Ngày 17 và 18-12-1946, tại Hà Nội, quân Pháp khiêu khích và tàn sát đồng
bào ở Phố Yên Ninh, Hàng Bún. Sau đó, chúng ngang nhiên chiếm Ngân hàng, trụ
sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông.
Ngày 18 và 19-12-1946, Pháp liên tiếp gửi tối hậu thư đòi Chính phủ ta
phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải giáp lực lượng vũ trang và đòi để chúng
kiểm soát, giữ gìn trật tự Hà Nội. Chúng tuyên bố sẽ hành động bằng sức mạnh
quân sự nếu ta không thực hiện các yêu sách đó. Tình hình vô cùng khẩn cấp đòi
ta phải đứng lên.
Ngày 18 và 19-12-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng họp tại Vạn
Phúc, Hà Đông (do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì) nhận định khả năng hoà hoãn
đã hết và chỉ thị cho các địa phương “tất cả hãy sẵn sàng”.
20 giờ ngày 19-12-1946, mệnh lệnh chiến đấu bắt đầu. Quân dân Thủ đô đã
nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc.
b. Đường lối kháng chiến của Đảng
Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng dần được hình thành từ
những nội dung cơ bản thể hiện trong các văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” ngày 19-12-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị “Toàn dân kháng
chiến” ngày 22-12-1946 của Ban thường vụ Trung ương Đảng, tác phẩm “Kháng
chiến nhất định thắng lợi” xuất bản năm 1947 của đồng chí Trường Chinh. Nội
dung của đường lối kháng chiến thể hiện qua các văn bản trên là:
- Cuộc kháng chiến nhằm vào kẻ thù chính là bọn thực dân phản động Pháp
đang dùng vũ lực cướp lại nước ta, giành độc lập tự do và thống nhất thực sự,
hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp là tiếp tục sự nghiệp của cuộc Cách mạng
Tháng Tám, nên nó có tính chất dân tộc giải phóng. Lúc này, nhiệm vụ giải phóng
là yêu cầu nóng bỏng và cấp bách nhất.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp còn mang tính chất dân chủ mới. Trong
quá trình kháng chiến, phải từng bước thực hiện cải cách dân chủ và thực chất của
vấn đề dân chủ lúc này là từng bước thực hiện “người cày có ruộng”.
- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc kháng chiến toàn dân,
toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính:
+ Toàn dân: là chiến lược quan trọng, cơ bản, cốt lõi nhất, xuyên suốt toàn
bộ cuộc kháng chiến, nhằm tạo ra sức mạnh to lớn đối trọng với bọn xâm lược
Pháp. Dùng sức mạnh toàn dân để tiến hành kháng chiến ở khắp mọi nơi, mọi lúc.
Chủ trương được đề ra dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin “cách mạng là
sự nghiệp của toàn dân”.
+ Toàn diện: phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân để đánh
giặc trên mọi phương diện:
Về chính trị, đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, dân nhất trí, động viên
nhân lực, vật lực, tài lực của cả nước; đoàn kết với hai dân tộc Lào, Campuchia
anh em, với nhân dân Pháp, với các nước châu á và các dân tộc bị áp bức, các dân
tộc yêu chuộng hoà bình, dân chủ trên thế giới, cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều
bầu bạn, củng cố chế độ cộng hoà dân chủ, lập ra Uỷ ban kháng chiến các cấp.
Về quân sự, cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự
và tổng phản công; triệt để dùng “du kích vận động chiến”, tiến công địch khắp
nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự.
Về kinh tế, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc, tự cấp, xây dựng kinh tế theo
hướng “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”; ra sức phá kinh tế địch, không cho
chúng lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.
Về văn hoá, đánh đổ văn hoá nô dịch, ngu dân xâm lược của thực dân Pháp,
xây dựng nền văn hoá mới, xoá nạn mù chữ; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính;
động viên các nhà văn hoá tham gia kháng chiến.
+ Đánh lâu dài: ta thực hiện chủ trương này để làm cho những chỗ yếu cơ
bản của địch ngày càng bộc lộ, chỗ mạnh của địch ngày một hạn chế; chỗ yếu của
ta từng bước được khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày một phát huy. Từng bước làm
thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
+ Dựa vào sức mình là chính: là dựa vào sức lực của toàn dân, vào đường
lối của Đảng, vào các điều kiện nhân hoà, địa lợi, thiên thời của đất nước ta, đồng
thời ra sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ thù.
- Triển vọng của cuộc kháng chiến: cuộc kháng chiến sẽ lâu dài, gian khổ,
song nhất định thắng lợi. Đường lối kháng chiến là niềm tin, động lực, sức mạnh
cho toàn thể nhân dân Việt Nam chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Trước phong trào đấu tranh dồn dập và có hiệu quả của nhân dân miền
Nam, đến cuối năm 1964, đầu năm 1965, ba chỗ dựa chủ yếu của Mỹ là nguỵ quân
nguỵ quyền, hệ thống “ấp chiến lược” và các đô thị bị lung lay tận gốc. Chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã hoàn
toàn phá sản.
Sự phá sản trong “chiến tranh đặc biệt” là một thất bại nặng nề của Mỹ
trong âm mưu dùng miền Nam làm nơi thí điểm loại hình chiến tranh mới. Đây là
một thắng lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược, tạo cơ sở vững chắc để cách mạng
miền Nam tiến lên.
III. Lãnh đạo cả nước kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975)
1. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng
a. Âm mưu của địch
Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, nhằm: đưa quân chiến
đấu Mỹ vào miền Nam. Tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân đối với miền Bắc. Chủ trương của Mỹ là vào nhanh, rút nhanh, giành thắng
lợi trong một thời gian ngắn.
Như vậy, tính chất và mục đích của cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành vẫn
là chiến tranh xâm lược, nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới, song cuộc
chiến tranh từ chỗ dựa vào lực lượng nguỵ quân, nguỵ quyền là chủ yếu đã chuyển
thành cuộc chiến tranh dựa vào hai lực lượng chiến lược mà quân đội Mỹ và quân
đội chính quyền Sài Gòn với hai hướng chủ yếu: tập trung lực lượng chủ yếu trên
chiến trường miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, tạo ra tình
hình cả nước có chiến tranh với mức độ khác nhau.
b. Chủ trương của ta
Đường lối chống Mỹ, cứu nước của Đảng được thể hiện qua nghị quyết Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 (3-1965) và 12 (12-1965):
Trung ương Đảng nhận định: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng
chục vạn quân viễn chinh, nhưng so sánh lực lượng giữa ta và địch không thay đổi
lớn. Cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc
chắn để giữ vững thế chủ động tiến công trên chiến trường.
Cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là cuộc
chiến tranh xâm lược thực dân mới. Cuộc chiến tranh đó được đề ra trong thế thua,
thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Mỹ
không thể nào cứu vãn được tình thế bế tắc của chúng ở miền Nam.
Từ đó, Trung ương Đảng khẳng định: chúng ta có đủ điều kiện và sức mạnh
để đánh Mỹ và thắng Mỹ, đồng thời nêu rõ quyết tâm chống Mỹ, chỉ ra con
đường, biện pháp chống Mỹ và nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền:
Ở miền Nam: động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào.
Tư tưởng chỉ đạo chiến lược: giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên
quyết tiến công và liên tục tiến công.
Phương châm chiến lược chung: đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính,
càng đánh càng mạnh.
Phương châm đấu tranh: tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân sự
với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công. Trong giai đoạn này,
đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng
quan trọng.
Ở miền Bắc: bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội
chủ nghĩa là thành quả chung của nhân dân cả nước, là hậu phương vững chắc
trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường sức mạnh mọi mặt của miền Bắc, nhất
là về kinh tế và quốc phòng. Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
nhằm phát huy vai trò của hậu phương lớn đối với tuyền tuyến lớn .Chuyển hướng
xây dựng kinh tế cho phù hợp điều kiện chiến tranh. Tăng cường lực lượng quốc
phòng cho kịp với tình hình cả nước có chiến tranh. Ra sức chi viện cho miền
Nam ở mức cao nhất. Kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với
tình hình mới. Làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng hai nước Lào,
Campuchia.
- Về mối quan hệ giữa nhiệm vụ cách mạng hai miền: miền Nam là tuyền
tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa bảo vệ
miền Bắc và giải phóng miền Nam. Do vậy, hai nhiệm vụ của hai miền không tách
rời nhau, mà mật thiết gắn bó với nhau.
Việc chuyển hướng nêu trên là một chủ trương đúng đắn của Đảng,
phản ánh quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân trong việc kiên trì con đường xã
hội chủ nghĩa, tiếp tục tăng cường sức mạnh của miền Bắc, xây dựng mọi điều
kiện, cơ sở vật chất, biến miền Bắc thành chỗ dựa vững chắc cho miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11, 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
III) có tầm quan trọng đặc biệt. Nghị quyết đã chỉ ra phương hướng cụ thể cho
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang ở vào giai đoạn khó khăn và quyết
liệt.
2. Chuyển hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện cho tiền
tuyến lớn miền Nam
a. Chuyển hướng xây dựng miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại
lần thứ nhất của không quân, hải quân Mỹ (1965-1968)
Trong 4 năm, Mỹ đã huy động một lực lượng không quân và hải quân lớn,
trút hơn 1 triệu tấn bom đạn, tàn phá, huỷ hoại nhiều thành phố, thị xã, xóm làng,
nhiều công trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi, nhiều bệnh viện, trường học,
nhà ở, giết hại nhiều dân thường, gây lên những tội ác tày trời với nhân dân ta.
Nhân dân miền Bắc cũng như nhân dân cả nước không hề nao núng. Ngày
17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước: “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng
và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết
không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”
Quân và dân miền Bắc đã đánh trả mãnh liệt không quân, hải quân Mỹ, bắn
hạ hàng nghìn máy bay, bắn cháy hàng chục tàu chiến Mỹ, tiêu diệt và bắt sống
nhiều giặc lái.
-Sau bốn năm thực hiện chuyển hướng kinh tế, miền Bắc đã đạt được
những thành tích đáng tự hào trên mọi lĩnh vực, chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn
miền Nam: Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục, làm cho miền Bắc
ngày càng vững mạnh, phát huy được tính ưu việt trong thời kỳ cả nước có chiến
tranh.
Trong nông nghiệp: sản xuất không những không giảm sút mà vẫn có bước
phát triển. Phong trào thâm canh, tăng vụ được đẩy mạnh ở nhiều địa phương.
Sản lượng lương thực hàng năm trong những năm 1965-1968 vẫn đạt xấp xỉ năm
1961; hàng nghìn hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn/ha. Nhu cầu thiết yếu về lương
thực, thực phẩm cho toàn xã hội được đảm bảo. Cơ sở vật chất-kỹ thuật trong
nông nghiệp được tăng cường hơn so với trước chiến tranh.
Đối với công nghiệp và thủ công nghiệp: sản xuất vẫn được duy trì, các nhà
máy đã được sơ tán, bảo vệ để tiếp tục sản xuất. Việc xây dựng và phát triển công
nghiệp địa phương tiếp tục được đặc biệt chú trọng và có bước phát triển mạnh.
Về văn hoá, giáo dục, đào tạo cán bộ y tế: có mức phát triển tốt. Công tác
nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, thăm dò tài nguyên được đẩy mạnh, vừa
phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp xây dựng kinh tế trước mắt, vừa chuẩn bị cho
nhiệm vụ lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, miền Bắc đã nỗ lực chi viện sức người, sức của cho cách mạng
miền Nam. Gần 89 vạn thanh niên miền Bắc được động viên vào lực lượng vũ
trang. Hơn nửa lực lượng bộ đội chủ lực và gần 80% vũ khí đạn dược được sử
dụng ở miền Nam là do Đảng, Nhà nước ta động viên từ miền Bắc đưa vào.
b. Khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến thắng chiến tranh phá hoại lần 1
của đế quốc Mỹ (1969-1971)
Từ ngày 1-11-1968, đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt không điều kiện việc
ném bom và bắn phá bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Chiến tranh
phá hoại đã gây ra thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế mới xây dựng ở miền Bắc. Cơ
sở kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, các tuyến giao thông đường sắt, đường bộ…
bị địch đánh phá nặng nề.
Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 15-3-1969 chủ trương: nhân dân ta phải tranh
thủ thời gian khôi phục và phát triển kinh tế, làm cho miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, đáp ứng những nhu cầu to lớn của tiền tuyến miền Nam. Đây là thời kỳ
khôi phục kinh tế theo kế hoạch ngắn hạn, từng năm, tăng cường thực lực miền
Bắc để đáp ứng nhu cầu chi viện cho chiến trường miền Nam đang đánh lớn.
Kết quả:
Trong nông nghiệp: năm 1969, diện tích các loại cây trồng đều vượt năm
1968, riêng diện tích và sản lượng lúa tăng khá nhanh, lúa xuân tăng hai lần so với
năm 1968, chăn nuôi cũng phát triển mạnh.
Trong công nghiệp: hầu hết các xí nghiệp, hệ thống đường giao thông, cầu
phà, bến bãi bị địch đánh phá được khôi phục, sửa chữa và xây dựng thêm.
Trong lĩnh vực giáo dục, y tế: phát triển tốt trong những năm có chiến tranh
phá hoại. Hệ thống giáo dục đại học gồm 36 trường và phân hiệu với tổng số 8 vạn
sinh viên.
c. Chuyển hướng khôi phục và xây dựng kinh tế sau khi đánh thắng chiến
tranh phá hoại lần thứ hai (1973-1975)
Tình hình và chủ trương của ta:
Từ ngày 16-4-1972, đế quốc Mỹ huy động ồ ạt không quân và hải quân vào
tham chiến ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại trở lại miền Bắc với quy
mô lớn, tập trung cường độ cao một cách tàn bạo chưa từng có, phong toả vịnh
Bắc Bộ và các vùng biển miền Bắc bằng mìn và thuỷ lôi.
Bộ Chính trị đã chỉ rõ nhiệm vụ của miền Bắc lúc này là kiên cường chiến
đấu, đánh bại mọi hành động chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời
chuyển hướng các hoạt động kinh tế, sản xuất cho phù hợp với hoàn cảnh chiến
tranh phá hoại ác liệt, ổn định đời sống nhân dân, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ của
hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn trong mọi tình huống.
Kết quả:
Về nông nghiệp: năm 1972 sản lượng lương thực tăng đồng đều ở các địa
phương, số huyện và hợp tác xã đạt 5 tấn/ha nhiều hơn trước.
Giao thông vận tải: vẫn bảo đảm thông suốt. Địch đánh phá, ta thực hiện
phòng không sơ tán tốt, bình tĩnh đối phó có hiệu quả với bom đạn địch. Các lực
lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu trừng trị thích đáng hành động dã man của đế
quốc Mỹ. Riêng 12 ngày đêm (18 đến 30-12-1972) đánh trả cuộc tập kích chiến
lược bằng máy bay B.52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng, quân và dân miền Bắc
đã bắn rơi 84 máy bay, trong đó có 34 máy bay B.52 và 5 máy bay F.111A.
Ngày 15-1-1973, Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động tiến
công miền Bắc nước ta.
Sau Hiệp định Pari (27-1-1973), nhân dân miền Bắc nhanh chóng khôi
phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và dồn
sức chi viện nhiều nhất cho cách mạng miền Nam đi tới thắng lợi hoàn toàn.
Ngày 22-1-1974, Hội nghị lần thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương
họp, ra nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế
miền Bắc trong hai năm 1974-1975, nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh,
ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, tiếp tục xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, ổn định đời sống nhân dân, củng cố quốc
phòng, chi viện cho miền Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn và xây dựng
các vùng đã được giải phóng.
d. Thành quả và ý nghĩa lịch sử của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc (1954-1975)
* Thành quả
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội mặc dù có nhiều khó khăn, nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã dành được nhiều thành tựu rất có ý
nghĩa: Một hình thái kinh tế - xã hội mới - hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa quá
độ buổi ban đầu được kiến lập, trong đó quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chiếm
vị trí chủ đạo. Chế độ người bóc lột người đã được xoá bỏ. Cơ cấu xã hội- giai cấp
đã có sự thay đổi lớn: các giai cấp bóc lột đã bị xoá bỏ; giai cấp công nhân đã
trưởng thành cả về số lượng và chất lượng; giai cấp nông dân đã trở thành giai cấp
nắm giữ quyền sở hữu tập thể tư liệu sản xuất chủ yếu- ruộng đất; khối liên minh
công- nông được củng cố trên cơ sở mới; tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa được
tăng cường. Xã hội miền Bắc đã trở thành xã hội của những người lao động bình
đẳng. Các thành phần dân tộc chung sống trên tinh thần đoàn kết, hoà hợp dân tộc
vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Sự nhất trí về chính trị và tinh
thần trong xã hội ngày càng được củng cố. Cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của
chủ nghĩa xã hội được xây dựng:
Đến năm 1975 trong khu vực sản xuất vật chất 99,7% tài sản cố định đã
thuộc về kinh tế xã hội chủ nghĩa, tăng 5,1 lần so với năm 1955.
Trong công nghiệp, đã có những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp
nặng quan trọng như điện, than, cơ khí, hoá chất, luyện kim.... Một số ngành công
nghiệp nhẹ đã được xây dựng.
Trong nông nghiệp, nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng, bảo đảm tưới,
tiêu cho hàng chục vạn hécta canh tác; quá nửa số hợp tác xã nông nghiệp đã được
trang bị máy móc nhỏ; bước đầu áp dụng một số thành tựu khoa học- kỹ thuật
mới. Vì vậy, nông nghiệp đã có những chuyển biến lớn như: tăng năng suất và
tăng vụ, bảo đảm lương thực, thực phẩm trong chiến tranh.
Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế phát triển nhanh: tính đến đầu năm 1975,
cứ ba người có một người đi học. Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và cán bộ
quản lý có trình độ trên đại học, đại học, trung học chuyên nghiệp hơn 43 vạn
người, tăng 19 lần so với năm 1960. Mạng lưới y tế được mở rộng. Số bác sĩ, y sĩ
tăng 13,4 lần so với năm 1960. Hoạt động văn hoá, nghệ thuật cũng phát triển trên
nhiều mặt với nội dung phong phú.
Trong những năm chiến tranh, sản xuất vẫn được duy trì, có mặt tiếp tục
phát triển: những nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân được đảm bảo. Đói rét,
dịch bệnh không xảy ra, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Tuy
mức sống còn thấp và có nhiều khó khăn, nhưng mọi người đều vững lòng tin
tưởng và tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Hoàn thành xuất sắc vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn: đứng
vững và đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng phương tiện hiện đại nhất
của đế quốc Mỹ, mà tiêu biểu là chiến công đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng
máy bay B52 của Mỹ cuối năm 1972; đóng góp sức người, sức của cùng nhân dân
miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ
quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.
Những thành tựu nêu trên tuy còn ở mức thấp so với mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, nhưng trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, thì nó là những biến đổi lớn trên
miền Bắc và tỏ rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa trước thử thách của
cuộc chiến tranh tàn khốc.
-Song, nền kinh tế miền Bắc cũng bộc lộ những khó khăn, hạn chế: sau hơn
20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế miền Bắc còn mang nặng tính chất
sản xuất nhỏ. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém, 80% lực lượng lao động xã
hội vẫn là lao động thủ công, năng suất lao động thấp...Nhịp độ tăng dân số nhanh.
Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân còn chưa đảm bảo được nhu cầu cơ bản của
đời sống nhân dân và nhu cầu tích luỹ cho xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nguyên nhân:
Về khách quan, miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
xuất phát điểm còn thấp, bị chính sách khai thác hàng trăm năm của thực dân Pháp
làm kiệt quệ. Mặt khác, chúng ta tiến hành xây dựng kinh tế trong điều kiện đất
nước có chiến tranh, phải tập trung sức người, sức của cho chiến tranh giải phóng
miền Nam và chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của giặc
Mỹ, bảo vệ miền Bắc.
Về chủ quan, Đảng và Nhà nước đã mắc một số sai lầm, bắt nguồn từ
những nhận thức còn giản đơn, duy ý chí, chưa nắm đúng quy luật vận động đi lên
chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nền sản xuất nhỏ mang
tính tự cấp tự túc...
Trong các thời kỳ tiếp theo, Đảng đã từng bước nhận thấy những sai lầm,
hạn chế trên đây và tiến hành đổi mới từng phần, rồi đổi mới toàn diện.
* Ý nghĩa lịch sử
Chủ trương đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội ngay sau khi miền Bắc
hoàn toàn giải phóng là phù hợp yêu cầu chung của cách mạng miền Bắc và yêu
cầu phát triển chung của cách mạng cả nước. Điều đó chứng minh tính đúng đắn,
sáng tạo của Đảng trong việc đề ra và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiên mục tiêu chung đánh thắng
đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trên cả nước, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Với tiềm lực của mình, miền Bắc đã xứng đáng là căn cứ địa của cách
mạng cả nước, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn
miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam.
Thực tiễn 20 năm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và bước đầu xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã để lại nhiều kinh nghiệm có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc cho công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
3. Lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam
a. Đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965-1968)
“Chiến tranh cục bộ” là một loại hình chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ
ở miền Nam Việt Nam, “chiến tranh cục bộ” được Mỹ tiến hành bằng lực lượng
quân viễn chinh Mỹ (giữ vai trò quan trọng và ngày càng tăng lên về số lượng và
trang bị, lúc cao nhất là trên nửa triệu), quân chư hầu và quân nguỵ tay sai. Mỹ đã
huy động một lực lượng quân đội và một khối lượng vũ khí, phương tiện chiến
tranh khổng lồ tại chiến trường miền Nam, với quy mô lớn nhất, mạnh nhất, kể từ
sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Âm mưu và thủ đoạn của Mỹ - Nguỵ
Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại
miền Bắc. Mục tiêu của Mỹ là: tiêu diệt cách mạng miền Nam, huỷ diệt miền Bắc;
buộc phía Việt Nam phải ngồi vào đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Mỹ muốn
giành thắng lợi trong một khoảng thời gian ngắn.
Chiến tranh cục bộ của Mỹ với kế hoạch ba giai đoạn:
1. Phá kế hoạch mùa mưa của ta, triển khai nhanh lực lượng.
2. Mở các cuộc phản công chiến lược “tìm diệt”, kiểm soát vùng nông thôn.
3. Hoàn thành tiêu diệt chủ lực của ta, tiếp tục bình định miền Nam, rút
quân Mỹ về nước vào cuối 1967.
Trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” Mỹ sử dụng chiến thuật hai gọng
kìm: tìm diệt và bình định.
Từ tháng 3-1965, quân Mỹ và quân chư hầu kéo vào miền Nam Việt
Nam, đến cuối năm 1965, số quân đã lên hơn 18 vạn. Đồng thời, từ tháng 6-1965,
Mỹ đưa Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ thành lập chính phủ quân sự để
thực hiện chiến lược mới của Mỹ.
Ở miền Bắc, từ đầu tháng 3-1965, không quân Mỹ bắt đầu ném bom, bắn
phá các đầu mối giao thông, kho tàng, thị xã, thị trấn từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến
20. Tiếp đó, chúng leo thang, mở rộng đánh phá bằng không quân và hải quân để
huỷ diệt miền Bắc, ngăn chặn sự viện trợ của miền Bắc cho miền Nam, làm suy
giảm ý chí chiến đấu của Đảng ta, của quân và dân ta. Hành động tàn phá ác liệt
của đế quốc Mỹ kéo dài đến năm 1968.
Chủ trương của ta
Tháng 3-1965, Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết
định: Chuyển miền Bắc sang thời chiến, vừa sản xuất vừa chiến đấu, tiếp tục xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, phát huy
vai trò của hậu phương lớn với tiền tuyến miền Nam; Thực hiện nghĩa vụ quốc tế
đối với cách mạng Lào và Campuchia.
Thực hiện Nghị quyết 11, ta đã đánh thắng những trận đầu khi quân viễn
chinh Mỹ đổ bộ vào miền Nam. Đó là trận Núi Thành (3-1965), Vạn Tường (8-
1965), Plâyme (11-1965), Đất Cuốc, Bầu Bàng (11-1965), theo phương hướng và
quyết tâm cứ đánh Mỹ thì sẽ tìm ra cách thắng Mỹ.
Từ thực tiễn đó, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-
1965) nhận định: mặc dù Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân, nhưng lực
lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Nhân dân ta vẫn giành thế
chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện tiếp tục chiến lược tiến công
đánh bại âm mưu của địch.
Từ mùa khô 1965-1966, Bộ Chính trị ra chỉ thị: “Dùng hình thức phản công
chiến dịch, phản công chiến đấu để tiêu diệt quân Mỹ và quân nguỵ”. Quân và dân
miền Nam đã đánh bại nhiều cuộc hành quân “tìm diệt” và tấn công vào hậu cứ
địch; đồng thời phá vỡ kế hoạch bình định của địch.
Thất bại trong mùa khô 1965-1966, Mỹ vẫn ngoan cố đưa thêm quân vào
miền Nam lên tới 38 vạn tên và tăng thêm quân nguỵ, nâng tổng số quân Mỹ-
Nguỵ lên 98 vạn tên, hòng giành thế chủ động trong mùa khô 1966-1967.
Mùa khô năm 1966-1967, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chủ trương
tăng cường hơn nữa chi viện cho cách mạng miền Nam. Kết quả: quân và dân
miền Nam loại khỏi vòng chiến đấu 175.000 tên địch 1.800 máy bay và 1.786 xe
quân sự bị phá huỷ, 100 tàu xuồng bị bắn cháy. Hệ thống ấp chiến lược, khu tập
trung bị thất bại về cơ bản. Ta vẫn giữ vùng giải phóng cũ và giải phóng thêm 390
ấp, chiến tranh du kích ngày càng phát triển về chất lượng.
Tổng tiến công và nổi dậy Mậu thân 1968
Tình hình chung: Cuối năm 1967, cuộc “chiến tranh cục bộ” của Mỹ đã
được đẩy lên đỉnh cao, số quân viễn chinh đổ vào miền Nam đã lên tới 48 vạn.
Mọi biện pháp và thủ đoạn chiến tranh đã được sử dụng, nhưng đế quốc Mỹ vẫn
không sao thực hiện được mục tiêu chính trị, quân sự đã đề ra. Mặt khác, thất bại ở
Việt Nam làm cho tình hình Mỹ ngày càng bất ổn, phong trào phản đối chiến
tranh, đòi rút quân về nước ngày càng lan rộng trong các tầng lớp nhân dân.
Về phía ta, qua hơn hai năm đương đầu với cuộc chiến tranh cục bộ, quân
và dân miền Nam đã phát huy mạnh mẽ chiến lược tiến công, từng bước bẻ gẫy
hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định”, làm thất bại các mục tiêu quân sự và chính
trị của Mỹ.
Như vậy, những thất bại và khó khăn của địch cùng với những thắng lợi to
lớn của ta vừa giành được trên các mặt chính trị, quân sự; chiến thuật, chiến lược
và sự phát triển vững mạnh cả về thế và lực của ta đã mở cho cuộc chiến tranh
cách mạng miền Nam những triển vọng to lớn.
Trước tình hình đó, tháng 12-1967, Bộ Chính trị họp, bàn chuyển cuộc
đấu tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi
quyết định. Muốn vậy, ta phải tạo ra một bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh,
phải giáng một đòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, làm thay đổi
cục diện chiến tranh. Bộ Chính trị đề ra chủ trương:
Tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, đưa chiến tranh về đô thị, nơi
được coi là căn cứ và hậu phương vững chắc của Mỹ- Nguỵ.
Mở những đòn tiến công quân sự dồn dập, kết hợp với nổi dậy đồng loạt
của quần chúng ngay tại địa bàn chiến lược này của chúng.
Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1968) đã nhất trí
thông qua chủ trương.
Chỉ đạo tiến công:
Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, thực hiện mệnh lệnh tổng công kích, tổng
khởi nghĩa đồng loạt trên các hướng trọng điểm đô thị mà tập trung là Sài Gòn -
Gia Định, quân và dân ta đã mở liên tiếp ba đợt tiến công vào các mục tiêu đã xác
định: 4 thành phố, 37 thị xã; hàng trăm thị trấn và đánh vào hầu hết các cơ quan
đầu não của Mỹ- Nguỵ. Ta làm chủ nhiều đô thị, trung tâm lớn ở dài ngày. Cùng
với những đợt tiến công tiếp theo trong tháng 5 và tháng 8-1968, ta tiêu diệt hàng
chục vạn tên địch, phá hủy nhiều phương diện chiến tranh, giải phóng thêm hàng
triệu đồng bào. Đây là cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa giáng cho địch những
đòn bất ngờ, làm chúng hoang mang, giao động mạnh.
Đây là cuộc tấn công có nhiều nét đặc sắc và sáng tạo:
Sáng tạo trong việc xác định hướng tấn công chủ yếu và tìm cách đánh
mới. Lần đầu tiên chúng ta đồng loạt tiến công vào hầu hết các đô thị: 4/6 thành
phố; 37 thị xã và hàng trăm thị trấn.
Sáng tạo trong nghệ thuật chọn thời cơ chiến lược nhằm tạo ra bước ngoặt
chiến lược cho cuộc chiến tranh. Năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ, thời
điểm rất nhạy cảm về chính trị
Sáng tạo trong chọn thời cơ tấn công, tấn công vào dịp tết Nguyên đán-
đúng giao thừa và cũng là thời điểm địch dễ chủ quan, sơ hở. Thực tế, khi ta tấn
công, địch hoàn toàn bị bất ngờ.
Tuy vậy, trong chỉ đạo chiến lược cuộc tập kích 1968, ta đã phạm phải
những sai lầm:
Chủ quan trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa sát với thực tế
lúc đó (đề ra tổng khởi nghĩa trong lúc quân đội địch còn mạnh). Nguyên nhân là
do chỉ đạo chưa sát của cấp trên, do báo cáo thiếu chân thực của cấp dưới.
Ta đánh giá thấp kẻ địch.
Sau cuộc tổng tiến công 1968, ta đã không kịp thời rút ra kinh nghiệm, đối
phó kịp thời, hòng hạn chế bớt tổn thất. Sau đợt một, khi hết yếu tố bất ngờ nhưng
ta vẫn tiếp tục tiến công vào đô thị, không chuyển hướng kịp thời chống âm mưu
bình định ở nông thôn, nên đã bị tổn thất lực lượng và mất đất, mất dân. Khuyết
điểm đó còn kéo dài trong năm 1969, tới năm 1970 ta mới chuyển hướng chỉ đạo.
Tuy nhiên, đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Với Tổng công kích
- tổng khởi nghĩa Mậu Thân 1968, ta đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ
phải tuyên bố hạn chế, rồi chấm dứt ném bom miền Bắc và chấp nhận đàm phán
với ta tại Pari; mở ra cục diện vừa đánh vừa đàm, kết hợp chặt chẽ ba mặt trận
quân sự - chính trị - ngoại giao để thắng Mỹ. Đến đây, chiến lược “chiến tranh cục
bộ” của đế quốc Mỹ bị phá sản hoàn toàn.
b. Đánh thắng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” (1969-1973)
“Việt Nam hoá chiến tranh” là một loại chiến tranh xâm lược của Mỹ tiến
hành ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1969-1973. Trong chiến lược này, Mỹ giảm
dần đến giảm hẳn sự tham gia trực tiếp trên chiến trường của quân viễn chinh và
quân chư hầu, thay bằng quân Nguỵ. Đây là chính sách rất thâm độc của Mỹ
nhằm dùng người Việt, đánh người Việt”. “Việt Nam hoá chiến tranh” là chiến
lược chiến tranh xâm lược cuối cùng của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Tình hình chung
-Thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ” đã ảnh hưởng trực tiếp tiếp
đến tình hình nước Mỹ: Ngân sách quốc gia thâm hụt lớn, lạm phát gia tăng (mỗi
năm Mỹ chi vào Việt Nam 80 tỷ USD). Xã hội Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, trong khi đó
con số thương vong của lính Mỹ lớn. + Trong khi Mỹ bị sa lầy trong chiến tranh,
các nước Tây Âu, Nhật Bản vượt lên về kinh tế, cạnh tranh
Tình hình đó bắt buộc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược. Đầu năm 1969,
Nichxơn trúng cử Tổng thống, cho ra đời học thuyết mang tên mình: "Học thuyết
Nichxơn", dựa trên ba nguyên tắc “trụ cột” là: cùng chia sẻ; sức mạnh của Mỹ và
sẵn sàng thương lượng. Có thể hiểu ba nguyên tắc này như sau:
+ Duy trì sức mạnh Mỹ để giữ thế cân bằng răn đe.
+ Đòi hỏi các nước đồng minh chia xẻ trách nhiệm với Mỹ cùng chống lại
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
+ Sẵn sàng thương lượng trên thế mạnh, lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước
xã hội chủ nghĩa để chia rẽ lôi kéo.
Học thuyết này được thực hiện thí điểm ở Việt Nam và Đông Dương. Được
vận dụng cụ thể trong chiến lược chiến tranh ở từng nước.
Chiến lược này được đề ra trên cơ sở điều chỉnh chủ trương phi Mỹ hoá
chiến tranh. Chúng giống nhau ở chỗ: rút đần quân Mỹ ra khỏi Đông Dương,
tránh những tổn thất lớn đối với quân viễn chính Mỹ, trong lúc vẫn bám giữ miền
Nam Việt Nam. Đây là cuộc chiến tranh giữa những người Việt Nam với nhau,
dùng người Việt, đánh người Việt, dùng người Đông Dương đánh người Đông
Dương, với bom đạn, đô la Mỹ, do Mỹ chỉ huy, vì lợi ích Mỹ.
Việt Nam hoá chiến tranh được thực hiện theo ba giai đoạn:
1. 1968-1970: kiểm soát vùng đông dân, tăng thêm lực lượng ngụy quân,
rút một phần lính Mỹ về nước.
2. Tháng 6-1970-1971: kiểm soát phần lớn vùng đông dân, quân nguỵ đảm
nhận chủ yếu trên bộ, rút đại bộ phận quân Mỹ về nước.
3. Tháng 6-1971- tháng 6-1972: cơ bản hoàn thành Việt Nam hoá chiến
tranh.
Âm mưu và thủ đoạn của địch
Rút dần quân Mỹ về nước, nhưng lại mở rộng chiến tranh sang Campuchia,
Lào, tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai. Thực chất, Mỹ- Nguỵ
phản công quyết liệt, huỷ diệt tàn khốc bằng sức mạnh toàn diện, hòng giành dân,
chiếm đất, giành thế tiến công trên chiến trường. Đồng thời, Mỹ lợi dụng mâu
thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc, thoả hiệp với Liên Xô, hoà hoãn với Trung
Quốc, nhằm cắt nguồn viện trợ chủ yếu của Việt Nam và dùng thủ đoạn lôi kéo
Liên Xô, Trung Quốc giải quyết vấn đề Việt Nam theo ý đồ của Mỹ.
Chủ trương của ta
Từ giữa năm 1968 đến đầu năm 1970, cách mạng miền Nam gặp rất nhiều
khó khăn và tổn thất.
Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1970) và Hội
nghị Bộ Chính trị (6-1970) kiểm điểm những khuyết điểm từ mùa xuân năm 1968
và chủ trương chuyển hướng tiến công, lấy nông thôn làm hướng chính, tập trung
ngăn chặn và đẩy lùi chương trình “bình định” của địch. Về mặt tác chiến, lưu ý
trong khi đẩy mạnh tác chiến chính quy của bộ đội chủ lực, phải kiên quyết thực
hiện cho kỳ được một chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào chiến tranh nhân
dân địa phương, phát triển mạnh mẽ 3 thứ quân, tăng cường các lực lượng vũ trang
tại chỗ.
Thực hiện chủ trương chỉ đạo trên, trong những năm 1970, 1971, cách
mạng miền Nam đã vượt khó khăn gian khổ, kiên trì xây dựng và phát triển lực
lượng, tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược, từng bước đánh bại chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh” của địch.
Thắng lợi đầu tiên là phối hợp với quân dân Campuchia đánh bại cuộc hành
quân quy mô lớn trên 10 vạn quân nguỵ do Mỹ chỉ huy đánh sang Campuchia
tháng 3-1970, giải phóng vùng Đông Bắc Campuchia và kiểm soát được nhiều
vùng nông thôn rộng lớn khác, buộc Mỹ phải tuyên bố rút quân vào tháng 6-1970.
Tại chiến trường Lào, trong một thời gian ngắn, các lực lượng vũ trang Lào
- Việt Nam giành thắng lợi giòn giã về quân sự tại Cánh đồng Chum - Xiêng
Khoảng, giải phóng hai tỉnh At-tô-pơ và Xa-ra-van.
Ở miền Nam, ta tiêu diệt và phá tan kế hoạch “bình định” của chúng có
nhiều thuận lợi, thu được kết quả quan trọng.
Năm 1971, quân và dân ta phối hợp với quân và dân Lào chủ động đánh bại
cuộc hành quân quy mô lớn “Lam Sơn 719” của Mỹ - Nguỵ đánh vào đường 9
Nam Lào, phá tan âm mưu cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh - con đường tiếp tế
quan trọng của miền Bắc đối với miền Nam và phong trào kháng chiến
Campuchia. Vào thời gian này, ta cũng cùng với quân dân Campuchia đánh tan
cuộc hành quân “Toàn thắng 1-1971” của Mỹ- nguỵ đánh vào vùng Đông- Bắc
Campuchia.
Những thắng lợi trên càng nâng cao thế và lực của ta, tạo điều kiện thuận
lợi cho ta mở cuộc tấn công chiến lược năm 1972. Chủ trương của ta là tiến công
tiêu diệt địch trên ba hướng chính là đường 9 - Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ, đồng bằng Khu V, đồng bằng sông Cửu Long. Địch bị tiến công
mạnh mẽ và bất ngờ, bị động đối phó và tan rã từng mảng lớn, sức phản kháng của
chúng bị giảm sút rõ rệt.
Hòng gỡ thế bị thất bại, đế quốc Mỹ tiến hành tập kích bằng máy bay B.52
vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều nơi khác trên miền Bắc, nhưng đã bị ta đánh bại.
Những thắng lợi to lớn của quân và dân hai miền đã buộc Mỹ phải ký kết
Hiệp định Pari (27-1-1973), cam kết công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam; quân Mỹ và quân chư hầu phải rút khỏi miền Nam
Việt Nam; cam kết chấm dứt mọi dính lứu quân sự vào miền Nam Việt Nam; quân
đội miền Bắc và lực lượng vũ trang cách mạng vẫn giữ nguyên tại miền Nam.
Với việc ký kết Hiệp định Pari, nhân dân ta đã đạt được mục tiêu hàng đầu
là đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh.
Đây là cơ hội to lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta tiến lên giành thắng
lợi hoàn toàn.
c. Giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975)
Tình hình chung
Một ngày sau khi Hiệp định Pari được ký kết (28-1-1973), Ban Chấp hành
Trung ương Đảng ra lời kêu gọi, nêu bật thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước và cho rằng kẻ thù vẫn chưa từ bỏ mưu đồ phá hoại hoà bình,
ngăn chặn nhân dân ta thực hiện nguyện vọng độc lập tự do.
Về phía địch, Mỹ vẫn tiếp tục viện trợ kinh tế và quân sự cho Chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu để tiến hành chiến tranh dưới một hình thức khác. Mục tiêu
hàng đầu của Mỹ - Thiệu là xoá bỏ thế “da báo”, lấn chiếm vùng giải phóng, vùng
chiến lược quan trọng, nâng chương trình “bình định” lên tầm quốc sách.
Chủ trương của ta
Tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khẳng định, dù tình hình phát triển như thế nào, con đường cách mạng miền Nam
vẫn là con đường cách mạng bạo lực; ta phải nắm vững thời cơ, giữ vững chiến
lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng tiến lên.
Quán triệt Nghị quyết, quân dân ta trên chiến trường miền Nam đã
chuyển hướng tiến công, phản công, làm cho âm mưu bình định lấn chiếm,
cướp thóc gạo của địch bị thất bại nặng nề.
Cuối năm 1973, trên toàn chiến trường miền Nam, quân ta đã làm chủ
8.590 ấp với số dân khoảng trên 4 triệu người và số dân vùng tranh chấp khoảng
12 triệu người.
Từ ngày 30-9-1974 đến ngày 8-10-1974, Bộ Chính trị họp và khẳng định,
lúc này chúng ta có thời cơ, đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta giải phóng
hoàn toàn miền Nam.
Ngày 6-1-1975, ta giải phóng hàng loạt chi khu quân sự và Phước Long, mà
Mỹ không có phản ứng quyết liệt. Điều đó càng khẳng định Mỹ khó đưa quân
quay trở lại Việt Nam.
Theo dõi sát sao tình hình chiến trường, Bộ Chính trị đã có những quyết
định quan trọng về giải phóng miền Nam:
Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974 quyết định giải phóng miền Nam
trong hai năm 1975-1976. Bộ Chính trị dự kiến nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối
năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân, dân ta đã diễn ra gần hai tháng
vào Mùa xuân 1975, với ba chiến dịch lớn: Tây Nguyên; Huế - Đà Nẵng; chiến
dịch Hồ Chí Minh đánh vào Sài Gòn.
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định lấy chiến trường Tây
Nguyên - Buôn Ma Thuột làm điểm mở đầu.
Ngày 10-3-1975 ta tiến đánh Buôn Ma Thuột. Sau 32 giờ chiến đấu, ta
đánh bại hoàn toàn quân địch trong một thị xã lớn là trung tâm chính trị và kinh tế
của địch ở Tây Nguyên. Đây là trận đánh then chốt đầu tiên, đánh trúng huyệt
quân địch. Địch hốt hoảng thực hiện rút lui, bỏ toàn bộ chiến trường Tây Nguyên,
hòng co cụm giữ các tỉnh ven biển Miền Trung.
Từ ngày 17 đến ngày 20-3, quân ta truy kích và tiêu diệt địch trên
đường rút chạy, giải phóng Tây Nguyên.
Trước chiến thắng như vũ bão và thắng lợi dồn dập của ta từ sau chiến
thắng Buôn Ma Thuột, chiến dịch Tây Nguyên, Trị Thiên và Khu V, giải phóng
ven biển miền Trung. Nguỵ quân, nguỵ quyền tan rã từng mảng, hoang mang và
hỗn loạn, lâm vào thế thất bại hoàn toàn không thể cứu vãn nổi. Nhanh nhậy nhận
định tình hình, Hội nghị ngày 25-3-1975 quyết định giải phóng miền Nam
trước mùa mưa 1975 và Hội nghị 31-3-1975 quyết định giải phóng miền Nam
trong tháng 4 năm 1975.
Ngày 14- 4-1975, Bộ Chính trị quyết định tiến hành chiến dịch Tổng tiến
công nổi dậy giải phóng Sài Gòn và toàn bộ miền Nam (chiến dịch Hồ Chí Minh).
Ngày 26-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh đánh vào Sài Gòn - Gia Định bắt đầu.
Tổng thống nguỵ quyền phải tuyên bố đầu hàng vào 11 giờ 30 phút ngày 30-4-
1975.
Ngày 1-5-1975, toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long và các hải đảo (trừ
Hoàng Sa) được giải phóng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng
lợi hoàn toàn.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy lịch sử Mùa xuân 1975, quân dân ta
đã đánh tan hơn 1 triệu quân Nguỵ, xoá bỏ hoàn toàn bộ máy chính quyền tay sai
của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
IV. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa và kinh nghiệm của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước
1. Nguyên nhân thắng lợi
Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng có đường lối
chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo.
Đây là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ, ngoan cường,
bền bỉ, anh dũng của quân và dân cả nước.
Là thắng lợi của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Miền
Bắc vừa hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, vừa đảm bảo chi viện
cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Có sự đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương, với sự giúp
đỡ to lớn, có hiệu quả của chính phủ và nhân dân Liên Xô và Trung Quốc cùng
các nước xã hội chủ nghĩa và sự ủng hộ mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân
tộc, các lực lượng cách mạng, dân chủ, hoà bình của loài người tiến bộ, trong đó
có nhân dân Mỹ.
2. Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước “mãi mãi được ghi
vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng
sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con
người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự
kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc''.
Qua 21 năm chiến đấu (1954- 1975), nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến
tranh xâm lược thực dân với quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt và dã man
nhất từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Âm mưu của đế quốc Mỹ biến miền
Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và chia cắt lâu dài nước ta đã bị đập tan.
Thắng lợi này kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ
quốc, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc (1858- 1975),
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà,
mở ra kỷ nguyên mới: hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với thế giới:
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt
Nam chứng minh trước toàn thế giới sự phá sản không thể tránh khỏi của chủ
nghĩa thực dân mới.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã đẩy lùi và làm suy yếu trận địa của
chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông
Nam á,
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội,
tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của ba dòng thác cách mạng của thời đại,
đem lại lòng tin và niềm phấn khởi của hàng triệu người dân trên trái đất đang đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Thất bại này làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, làm lung lay vị trí chính trị của Mỹ trên
trường quốc tế buộc đế quốc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu, chuyển sang
chiến lược “diễn biến hoà bình”, gây sức ép, nhằm phá hoại phong trào giải phóng
dân tộc, phá hoại Liên Xô, Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng
sản quốc tế.
3. Những kinh nghiệm
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng
thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở mỗi miền, hướng vào một
mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
thực hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hết sức coi trọng lực lượng cách mạng ở miền Nam, đồng thời ra sức tổ
chức, xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước (tổ chức Đảng, chính quyền
cách mạng, Mặt trận dân tộc, lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị quần
chúng....) Phải biết dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ mọi sự ủng hộ
giúp đỡ quốc tế.
Phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo (đó là sử dụng bạo
lực cách mạng tổng hợp, bao gồm lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ
trang nhân dân... ), nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời
biết tạo ra thời cơ và nắm vững thời cơ, mở những cuộc tiến công chiến lược làm
thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tiến công và nổi dậy đồng loạt,
giành thắng lợi hoàn toàn. Đây là chiến lược tổng hợp và nghệ thuật quân sự của
chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Xây dựng ba tầng mặt trận thống nhất chống Mỹ: ở trong nước, giữa ba
nước Đông Dương và trên thế giới.
Không ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong
chiến tranh. Đảng bỉết nâng cao trình độ lãnh đạo toàn diện, kiên định mục tiêu
cách mạng, đoàn kết, thống nhất, nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên phấn đấu, hy sinh vì thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân.
Chương V
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975-2006)
Mục đích:
Giúp sinh viên hiểu dược lịch sử Đảng thời kỳ 1975- 2006 là lịch sử quá
trình Đảng lãnh đạo cả nước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc;
nắm được những thắng lợi, hạn chế và kinh nghiệm của công cuộc đổi mới.
I. Lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1975-
1986)
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) và thực
hiện kế hoạch nhà nước năm năm (1976 – 1980)
a. Tình hình Việt Nam sau năm 1975 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng
Tình hình Việt Nam sau năm 1975
Những thuận lợi cơ bản:
Nước nhà hoàn toàn thống nhất, xây dựng đất nước trong hoà bình.
Khí thế cách mạng của một dân tộc vừa mới chiến thắng, thiết tha với độc
lập và chủ nghĩa xã hội. Nhân dân có tinh thần độc lập, tự lực, tự cường, lại cần
cù, thông minh, sáng tạo.
Đảng và nhân dân ta có kinh nghiệm (cả thành công và không thành công)
qua những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế, có điều kiện mở
rộng quan hệ quốc tế và tiếp thu những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại trên
thế giới.
Những khó khăn chủ yếu:
Các thế lực thù địch trong nước và trên thế giới luôn tìm mọi cơ hội để
chống phá cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, chính phủ Mỹ tăng cường mọi thủ
đoạn, thực hiện bao vây, cấm vận, cản trở công cuộc xây dựng hoà bình của nhân
dân ta.
Hệ thống chủ nghĩa xã hội đã bắt đầu bộc lộ những khó khăn và trì trệ trong
phát triển kinh tế - xã hội.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu, năng xuất lao động kém.
Hậu quả của chiến tranh rất nặng nề. Đế quốc Mỹ ném xuống Việt Nam
7,85 triệu tấn bom- tương đương với 640 quả bom nguyên tử ném xuống
Hirosima, giết hại hơn 2 triệu người, 2 triệu người tàn tật, hơn 2 triệu người bị
nhiễm độc, 5 vạn trẻ em bị dị dạng, phá huỷ nhiều cơ sở kỹ thuật, phúc lợi... Riêng
miền Nam, Mỹ rải gần 500.000 tấn chất độc hoá học, gấp 2,5 lần so với chiến
tranh thế giới thứ hai.
Trình độ phát triển kinh tế- xã hội không đồng đều ở hai miền, tàn dư thực
dân, phong kiến còn tồn tại nhiều ở miền Nam.
Ta phải chuyển nền kinh tế cả nước từ chỗ viện trợ không hoàn lại (với giá
trị khoảng một nửa tổng sản phẩm xã hội hàng năm), sang nền kinh tế chủ yếu dựa
vào sức mình.
Lãnh đạo hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước
Hội nghị TW lần thứ 24 (9-1975) nhấn mạnh: Một nước thống nhất không
thể có hai chính quyền, nên phải thực hiện thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước;
Thống nhất nhà nước bằng con đường hòa bình, là công việc của nhân dân, trên
cơ sở CNXH, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ 15 đến 21-11-1975, mở Hội nghị hiệp thương chính trị giữa Đoàn đại
biểu hai miền, tại Sài Gòn. Ngày 25-4-1976, cử tri cả nước đã đi bỏ phiếu bầu 492
đại biểu vào Quốc hội. Từ 24-6 đến 3-7-1976, Quốc hội nước Việt Nam thống
nhất (Quốc hội khoá VI) tiến hành kỳ họp thứ nhất tại Hà Nội, đặt tên nước: Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ, Thủ đô, Quốc ca, Quốc huy, Sài Gòn
được mang tên thành phố Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ IV của Đảng
Đại hội lần thứ IV của họp từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Hà Nội, đổi tên
Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Ban Chấp hành
Trung ương khóa IV có 101 uỷ viên chính thức, 32 dự khuyết. Lê Duẩn là Tổng
Bí thư.
Đại hội xác định về đường lối chung: "Nắm vững chuyên chính vô sản,
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,… góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội".
Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 1976- 1980: phát triển và cải tạo
kinh tế, văn hoá, phát triển khoa học, kỹ thuật; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và
văn hoá, xây dựng và phát triển nền văn hoá mới; tăng cường Nhà nước XHCN,
phát huy vai trò của các đoàn thể, làm tốt công tác quần chúng; tăng cường công
tác đối ngoại; nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Ý nghĩa: Là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên CNXH. Tuy
nhiên, Đại hội chưa tổng kết được kinh nghiệm xây dựng CNXH ở MB, chưa nhấn
mạnh việc khắc phục hậu quả chiến tranh, chưa xác định được nội dung của chặng
đường đầu tiên tiến lên CNXH, nóng vội "tả” khuynh trong việc cải tạo và xây
dựng CNXH.
b. Lãnh đạo thực hiện kế hoach 5 năm (1976-1980) và bảo vệ tổ quốc
Tháng 6-1977, Hội nghị TW lần thứ hai bàn về phát triển nông nghiệp; Hội
nghị TW lần thứ ba tháng 1-1978, Hội nghị TW lần thứ tư tháng 7-1978, Hội nghị
TW lần thứ năm tháng 12-1978 bàn về phương hướng, nhiệm vụ và chủ trương,
biện pháp thực hiện kế hoạch Nhà nước hằng năm.
Tháng 8-1979, Hội nghị TW lần thứ sáu chủ trương tháo gỡ từng bước
những ràng buộc của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở hướng cho sản xuất
"bung ra", kích thích lực lượng sản xuất phát triển, đáp ứng yêu cầu bức xúc của
đời sống. Hội nghị này là sự khởi đầu chuyển biến nhận thức về đường lối kinh tế
của Đảng.
Ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW Về cải tiến công tác
khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp
tác xã nông nghiệp. Ngày 21-1-1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định
25-CP, Quyết định 26-CP chủ trương phát huy quyền chủ động sản xuất kình
doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh, mở rộng hình
thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các
đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước...
Kết quả: Từ năm 1975 đến năm 1981 ta đã giành được những thắng lợi to
lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và đạt được những thành tựu bước đầu trong
công cuộc xây dựng lại đất nước. Song, đất nước gặp nhiều khó khăn chồng chất
và gay gắt về kinh tế và đời sống, cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội đã xuất hiện.
Nguyên nhân của tình trạng đó có cả khách quan, chủ quan, trong đó xét về mặt
lãnh đạo "trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý
là nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về
kinh tế và xã hội" trong những năm đó.
1.3- Lãnh đạo bảo vệ Tổ quốc thống nhất
Ở biên giới Tây Nam: Sau nhiều lần đề nghị đàm phán với Campuchia dân
chủ để giải quyết xung đột, nhưng bị khước từ, ta đã đánh trả mạnh mẽ và tiến
công đánh đuổi bọn xâm lược Pôn Pốt ra khỏi bờ cõi nước ta. Đồng thời quân tình
nguyện Việt Nam cùng quân dân Campuchia đã phối hợp tiến công quân diệt
chủng Pôn Pốt, giải phong Phnôm Pênh (7-1-1979), ký Hiệp ước hoà bình, hữu
nghị và hợp tác Việt Nam- Campuchia (18-2-1979).
Ở biên giới phía Bắc: Từ 1978, quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam xấu
đi rõ rệt, trên tuyến biên giới Trung - Việt liên tiếp diễn ra các vụ xung đột. Ngày
18-4-1979, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm phán để khôi phục hoà bình, an
ninh ở biên giới, giải quyết tranh chấp về biên giới lãnh thổ.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982), thực hiện
kế hoạch nhà nước 5 năm (1981- 1985)
2.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
Đại hội V của Đảng họp từ ngày 15 đến 31-3-1982 tại Hà Nội. Ban Chấp
hành TW Đảng khóa V có 116 uỷ viên chính thức và 36 uỷ viên dự khuyết. Lê
Duẩn được bầu lại giữ chức Tổng Bí thư.
Chủ trương của Đại hội:
Đại hội coi đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội IV đề ra là cho
cả thời kỳ quá độ nên tiếp tục thực hiện, song căn cứ vào thực tế 5 năm đã qua,
quyết định bổ sung vào đường lối chung quan điểm coi xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược, hai nhiệm vụ đó có quan hệ mật
thiết với nhau. Bổ sung vào đường lối kinh tế quan điểm tập trung sức phát triển
nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trên cơ sở phát triển nông
nghiệp mà đẩy mạnh công nghiệp hóa.
Mục tiêu tổng quát cho những năm 80 là: ổn định dần dần, tiến lên cải thiện
một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; Tiếp tục xây dựng cơ sở vật
chất- kỹ thuật của CNXH, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu
dùng và xuất khẩu; Hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN ở các tỉnh miền Nam,
hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất XHCN
trong cả nước; Đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc
phòng, giữ vững an ninh trật tự.
Đại hội thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, tăng cường
Nhà nước XHCN, chính sách đối ngoại, nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Ý nghĩa: Đại hội V đã có những tìm tòi bước đi trên con đường quá độ lên
CNXH, trước hết là về mặt kinh tế. Song, Đại hội chưa thấy được sự cần thiết phải
duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, chưa xác định
được những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, chưa có những
chính sách, giải pháp cụ thể, đồng bộ để giải phóng lực lượng sản xuất.
2.2- Lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985
Hội nghị TW lần thứ ba (12- 1982) xác định phương hướng nhiệm vụ kinh
tế - xã hội thời kỳ 1983-1985. Tháng 6-1983, Hội nghị TW lần thứ tư đề ra những
nhiệm vụ công tác tư tưởng và tổ chức cấp bách cần tập trung giải quyết. Tháng
12-1983, Hội nghị TW lần thứ năm tiếp tục khẳng định nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu. Tháng 12-1984, Hội nghị TW lần thứ bảy bàn về phương hướng kinh tế
- xã hội năm 1985 và xây dựng huyện, tăng cường cấp huyện...
Tháng 6-1985, Hội nghị TW lần thứ tám bàn về giá- lương- tiền, chủ
trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện đúng chế
độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN. Đây là một bước
đổi mới tư duy trên lĩnh vực lưu thông phân phối với nét nổi bật của nó là thừa
nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá.
Tháng 11-1986, Hội nghị TW lần thứ mười một đã thảo luận các văn kiện
dự thảo trình Đại hội lần thứ sáu của Đảng. Hội nghị lần thứ mười hai, họp đầu
tháng 12-1986 hoàn tất công việc chuẩn bị cho Đại hội VI.
Kết quả: Về kinh tế, đã chặn được đà giảm sút những năm trước. Thu nhập
quốc dân bình quân hàng năm tăng 6,4%. Văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể
thao... đã có những tiến bộ. Nhiệm vụ bảo vệ Tố quốc được bảo đảm, nghĩa vụ
quốc tế đối với nhân dân Lào và Campuchia được thực hiện tốt. Quan hệ với Liên
Xô và các nước XHCN thêm chặt chẽ.
Nhưng đất nước thời kỳ này phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế- xã
hội: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt
được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động
chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn.
Nhìn tổng quát, chưa thực hiện được mục tiêu hàng đầu là ổn định tình hình kinh
tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Nguyên nhân chủ quan là những sai lầm
nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện của Đảng và của Nhà nước...
Thực trạng của đất nước đặt ra một yêu cầu khách quan và bức thiết là phải
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn định tình
hình kinh tế - xã hội, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.
II. Lãnh đạo sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
(1986-2006)
I. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) và thực
hiện kế hoạch nhà nước năm năm (1986-1990)
a. Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng (12-1986)
Đại hội VI họp vào 12-1986 tại Hà Nội. BCH TW khóa VI gồm 124 uỷ
viên chính thức và 49 uỷ viên dự khuyết. Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí
thư của Đảng.
Đảng VI là Đại hội đổi mới của Đảng, thể hiện trên nhiều mặt:
Tinh thần làm việc, đã phát huy cao độ dân chủ nội bộ, nhìn thẳng vào sự
thật, nghiêm khắc với khuyết điểm, khẳng định thành tựu, kiên quyết đổi mới tư
duy về CNXH và con đường quá độ đi lên CNXH.
Tổng kết, rút ra bốn bài học lớn: Một là, trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc"; Hai là, sự lãnh đạo của
Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan; Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới; Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng XHCN
Tư duy, nhận thức con đường đi lên CNXH: Đại hội cho rằng quá độ tiến
lên CNXH ở nước ta là một quá trình gồm nhiều thời kỳ, giai đoạn phát triển kế
tiếp nhau, từ thấp đến cao, theo đúng quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
XHCN, trong đó mỗi thời kỳ, giai đoạn có mục tiêu, nhiệm vụ, bước đi, tốc độ
thích hợp, không được lẫn lộn, nóng vội đốt cháy giai đoạn.
Theo nhận thức đó, Đại hội xác định nước ta đang ở chặng đường đầu của
thời kỳ quá độ lên CNXH. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên này là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã
hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH XHCN
trong chặng đường tiếp theo.
Mục tiêu kinh tế- xã hội của những năm còn lại của chặng đương đầu tiên:
Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ; Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý,
trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực, thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hoá nội dung CNH trong
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ; Tiến hành cải tạo XHCN theo nguyên tắc
phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao
động, làm cho thành phần kinh tế XHCN giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả
năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo
của thành phần kinh tế XHCN; Tạo ra sự chuyển biến về mặt xã hội, việc làm,
công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương phép nước; Bảo
đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh...
Phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội: Bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, trước mắt trong kế hoạch năm năm 1986-1990 phải
thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu; Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng
và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế;
chuyển mạnh sang hạch toán kinh doanh XHCN, kết hợp kế hoạch hóa với thị
trường; Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học - kỹ thuật; Mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại...
Đối ngoại: Nhiệm vụ của chính sách đối ngoại là nhằm góp phần giữ vững
hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH, tăng cường
tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước XHCN; bình thường
hoá quan hệ với Trung Quốc…
Về huy động sức mạnh của quần chúng, Đại hội xác định phải phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện "dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra", tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Về xây dựng Đảng, để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực
hiện của Đảng, phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh
tế, đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công
tác.
Ý nghĩa: Với nội dung trên, thực chất đường lối đổi mới của Đảng là: Về
cải tạo XHCN: chuyển từ nền kinh tế hai thành phần sang nhiều thành phần; Về cơ
chế quản lý: từ kế hạch hóa tập trung sang kết hợp kế hoạch với thị trường, từ
hành chính bao cấp sang hạch toán kinh doanh XHCN; Về cơ cấu kinh tế: từ coi
công nghiệp là hàng đầu, ưu tiên công nghiệp nặng sang coi nông nghiệp là hàng
đầu, tập trung vào 3 chương trình kinh tế lớn; Về sản xuất hàng hóa: từ không
chấp nhận có sản xuất hàng hóa sang có sản xuất hàng hóa; Về lưu thông phân
phối là từ hai giá sang một giá, sát với thị trường theo quy luật cung cầu...
Đại hội VI của Đảng là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết để
tiến lên. Đường lối đổi mới của Đại hội VI đã mở đường cho đất nước thoát ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội, tiếp tục đi lên CNXH.
b. Lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm 1986-1990
Tháng 2-1987, Bộ Chính trị họp đề ra những biện pháp cấp bách
nhằm giải quyết vấn đề giá-lương- tiền; Hội nghị TW lần thứ hai (4-1987)
quyết định phương hướng thực hiện mục tiêu bốn giảm: giảm tỷ lệ bội chi ngân
sách; giảm nhịp độ tăng giá; giảm tốc độ lạm phát; giảm khó khăn về đời sống của
nhân dân lao động. Hội nghị TW lần thứ ba (8-1987) quyết định chuyển hoạt động
của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế. Hội nghị lần thứ tư (12-1987) quyết
định về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong ba năm tới, chủ
trương phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá.
Tháng 4-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10/NQ Về đổi mới quản lý kinh
tế nông nghiệp, đề ra cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm hộ và hộ xã
viên, đánh dấu sự phát triển của Đảng trong quá trình tìm tòi phương thức quản lý
mới nền nông nghiệp nước ta.
Tháng 6-1988, Hội nghị TW lần thứ năm ra Nghị quyết Về một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng. Tháng 8-1989 Hội nghị TW lần thứ bảy ra Nghị
quyết về Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng truớc tình hình trong nước
và quốc tế hiện nay. Hội nghị TW lần thứ tám (3-1990) thông qua Nghị quyết về
tình hình các nước XHCN, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp
bách của Đảng ta (Nghị quyết 8A), Nghị quyết Về tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng và dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh công cuộc đổi mới
(Nghị quyết 8B).
Tháng 8-1990, Hội nghị TW lần thứ chín bàn về một số vấn đề kinh tế - xã
hội cấp bách, với tư tưởng chỉ đạo là kiên quyết thực hiện đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với mở rộng quan hệ
quốc tế, xây dựng ý chí làm cho dân giàu, nước mạnh. Tháng 11- 1990, Hội nghị
TW lần thứ mười thông qua Nghị quyết Về phương hướng chỉ đạo kế hoạch phát
triển kinh tế' - xã hội năm 1991, cho ý kiến về dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chiến lược ổn định và phát triển hình tê - xã
hội đến năm 2000 và các văn kiện khác để trình Đại hội lần thứ VII của Đảng.
Kết quả: Đến tháng 6-1991, sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới ta
đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Thành tựu đó chứng tỏ
đường lối đổi mới của Đại hội VI đề ra là đúng, bước đi của công cuộc đổi mới về
cơ bản là phù hợp. Đó là cơ sở quan trọng dể chúng ta tiếp tục tiến lên trong
những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, đất nước còn nhiều yếu kém và khó khăn. Nhìn chung đất nước
chưa vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng
bỏng vẫn chưa được giải quyết, công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế.
Kinh nghiệm đổi mới của thời kỳ này là: Phải giữ vững định hướng XHCN
trong quá trình đổi mới. Đổi mới toàn diện và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình
thức và cách làm phù hợp. Phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi
với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước. Phải tiếp tục phát huy ngày càng sâu
rộng nền dân chủ XHCN có sự lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc phù hợp với
tình hình chính trị, xã hội. Phải quan tâm dự báo tình hình, kết hợp giải quyết đúng
những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định đường lối đổi mới, tăng cường
tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng
CNXH ở nước ta.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991) và thực
hiện kế hoạch nhà nước năm năm (1991-1996)
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991)
Đại hội VII của Đảng họp tháng 6-1991, tại Hà Nội với sự tham dự của
1.176 đại biểu thay mặt cho trên hai triệu đảng viên cả nước và 4 đoàn đại biểu
quốc tế. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000. BCH
TW khóa VII có 146 đồng chí. Bộ Chính trị có 13 đồng chí, Ban Bí thư gồm 9
đồng chí. Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư
Nội dung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội có 4 phần, 12 vấn đề lớn.
Khẳng định 4 thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đó là: thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám 1945, lập nên nước
Việt Nam CDCH; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
sau chiến dịch Điện Biên Phủ, giải phóng miền Bắc; thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước sau chiến dịch Hồ Chí Minh, thống nhất đất nước; và
thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới.
Rút ra năm bài học lớn, xuyên suốt là: Nắm vững hai ngọn cờ ĐLDT và
CNXH; Coi cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Luôn
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; Phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại; Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng, sự lãnh đạo đó phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan.
Nêu lên quan niệm của Đảng về CNXH mà nhân dân ta sẽ xây dựng là một
xã hội có 6 đặc trương cơ bản: Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hoá tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới.
Xác định mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây
dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về
chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước
XHCN phồn vinh.
Xác định các định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng- an
ninh, đối ngoại, về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng, nhấn mạnh
việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, xây dựng Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, khẳng định nền tảng tư tưởng
của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh…
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 là theo con
đường củng cố ĐLDT và xây dựng CNXH, là quá trình thực hiện dân giàu, nước
mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có
kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc. Mục tiêu tổng quát của chiến lược đến năm 2000 là ra khỏi
khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng
nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và
an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI.
Ý nghĩa: Với những nội dung như vậy, Đại hội VII của Đảng là "Đại hội
của trí tuệ - đổi mới – dân chủ - kỷ cương - đoàn kết". Đại hội đã hoạch định con
đường quá độ lên CNXH phù hợp với đặc điểm của VN và những giải pháp đưa
đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Thành công của Đại hội đã củng cố
thêm niềm tin tưởng của nhân dân đối với công cuộc đổi mới.
b. Chỉ đạo thực hiện kế hoạch 5 năm 1991-1995
Hội nghị TW lần thứ hai (11-1991) bàn về vấn đề ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội. Hội nghị TW lần thứ ba (6-1992) quyết định ba vấn đề quan trọng về:
tình hình thế giới và chính sách đối ngoại; củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh
quốc gia; đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Hội nghị TW lần thứ tư (1-1993) chủ trương
tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Hội nghị TW lần thứ năm (6-
1993) ra Nghị quyết Về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tê' - xã hội nông thôn.
Hội nghị TW lần thứ sáu (2-1993) đã thảo luận các văn kiện để trình Hội
nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng. Tháng 1-1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ của Đảng nêu lên 4 thách thức lớn cần phải đề phòng. Hội nghị TW lần
thứ bảy (7-1994) bàn về chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp, công
nghệ và xây dựng giai cấp công nhân. Hội nghị TW lần thứ tám (1-1995) ra nghị
quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam,
cải cách một bước nền hành chính nhà nước.
Kết quả: Đến đầu năm 1995, kế hoạch 5 năm lần thứ năm đã giành được
nhiều thắng lợi to lớn: Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức
nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch năm năm. Tạo được một số chuyển biến tích
cực về mặt xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh. Thực
hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị. Phát triển mạnh
mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời
sống cộng đồng quốc tế. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng
một số mặt còn chưa vững chắc, con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng
được xác định rõ hơn.
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng và thực hiện kế hoạch
nhà nước 5 năm (1996- 2000)
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996)
Đại hội VIII của Đảng họp 6-1996 tại Hà Nội với sự tham dự của 1.198 đại
biểu thay mặt cho 2,1 triệu đảng viên trong cả nước và 41 đoàn đại biểu quốc tế.
BCH TW khoá VIII gồm 170 uỷ viên, Bộ Chính trị gồm 19 uỷ viên, Thường vụ
Bộ chính trị có 5 ủy viên. Đỗ Mười được bầu là Tổng Bí thư.
Nội dung các văn kiện:
Kiểm điểm, đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và
tổng kết 10 năm đổi mới, rút ra sáu bài học chủ yếu của 10 năm đổi mới.
Mục tiêu chung: tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh CNH, HĐH, đến năm 2020, đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp.
Kế hoạch 5 năm lần thứ sáu (1996-2000) có 11 chương trình và lĩnh vực
phát triển kinh tế - xã hội lớn.
Ý nghĩa: Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ
mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ,
giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng XHCN, vì hạnh phúc của
nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
b. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm 1996-2000
Sự lãnh đạo, chỉ đạo:
Hội nghị TW lần thứ hai (12-1996) thông qua Nghị quyết Về định hướng
chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến
năm 2000, và Nghị quyết Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công
nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000.
Tháng 6-1997, Hội nghị TW lần thứ ba thông qua Nghị quyết về Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam trong sạch vững mạnh và Nghị quyết Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH. Hội nghị TW lần thứ tư (12-1997) bàn về các nhiệm vụ kinh tế và
một số vấn đề xã hội liên quan, về đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hội
nghị bầu Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư.
Tháng 7-1998, Hội nghị TW lần thứ năm ra nghị quyết Về xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết
nhấn mạnh việc xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Hội nghị TW lần thứ sáu lần 1 (10-1998) bàn về kinh tế- xã hội năm 1999 và lần 2
(1-1999) ra nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây
dựng Đảng hiện nay. Tháng 8-1999, Hội nghị TW lần thứ bảy ra Nghị quyết Một
số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị, về tiền lương, trợ cấp xã hội
thuộc ngân sách Nhà nước.
Hội nghị TW lần thứ tám (11-1999) bàn về kế hoạch năm 2000 và chuẩn bị
cho Đại hội IX.. Hội nghị TW lần thứ chín (4-2000) Hội nghị TW lần thứ mười
(6-2000) thảo luận về các văn kiện của Đại hội IX. Hội nghị TW lần thứ mười một
lần 1 (1-2001) và lần 2 (3-2001) hoàn thành các công việc chuẩn bị cho Đại hội IX
của Đảng.
Kết quả: Kế hoạch 5 năm lần thứ 6 (1996-2000) đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng: Kinh tế tăng trưởng khá: Tổng sản phẩm trong (GDP) tăng bình
quân hằng năm 7%, tổng sản phẩm trong năm 2000 tăng hơn gấp đôi so với năm
1990; Văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện;
giáo dục và đào tạo phát triển về quy mô và cơ sở vật chất; trình độ dân trí và chất
lượng nguồn nhân lực được nâng lên; Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn
định; quốc phòng và an ninh được tăng cường; Công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố; Quan hệ đối ngoại
không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và
đạt nhiều kết quả tốt...
Những thành tựu của năm năm 1996 - 2000 đã tăng cường sức mạnh tổng
hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững
chắc ĐLDT và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường
quốc tế.
Những yếu kém, khuyết điểm: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu
quả và sức cạnh tranh thấp, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong năm năm
(1996 - 2000) mà Đại hội VIII đề ra là 9-10% đã không đạt. Một số vấn đề văn
hoá- xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ chế, chính sách không
đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Tình trạng tham nhũng, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên là rất nghiêm trọng.
4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001). Thực hiện
kế hoạch nhà nước 5 năm 2001- 2006
a. Đại hội lần thứ IX của Đảng (4-2001)
Đại hội IX của Đảng họp 4-2001, tại Hà Nội. Chủ đề của Đại hội là: Phát
huy súc mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và
bảo vệ Tổ quôc Việt Nam XHCN. BCH TW Đảng khoá IX gồm 150 ủy viên.
Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư
Nội dung các văn kiện:
Đại hội đã nêu lên những chuyển biến to lớn của thế kỷ XX trên thế giới và
ở nước ta, khẳng định những thành tựu qua trọng của công cuộc đổi mới, rút ra
bốn bài học chủ yếu là: Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu
ĐLDT và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực
tiễn, luôn luôn sáng tạo. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới.
Phương hướng phát triển: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển
quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của QHSX và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học- công nghệ
để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều
thành phần giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Lợi ích giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là ĐLDT gắn liền với
CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của
các thành phần kinh tế của toàn xã hội.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Đường lối kinh tế: Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiến phát triển lực lượng sản
xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng
kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường quốc phòng - an ninh.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 nhằm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại… Đến năm 2010, tổng sản phẩm trong
nước (GDP) tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh
tế và cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn 50%.
Biện pháp: Phát triển kinh tế, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm. Phát
triển kinh tế nhiều thành phần gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá
thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao
hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội…
Ý nghĩa: Đại hội lần thứ IX của Đảng là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn
kết, đưa nước ta bước vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới.
b. Thực hiện kế hoạch 5 năm 2001- 2005
Sự lãnh đạo, chỉ đạo:
Hội nghị TW lần thứ hai (6-2001) bàn việc đưa Nghị quyết Đại hội IX vào
cuộc sống; Hội nghị TW lần thứ ba (8-2001) bàn về nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Hội nghị TW lần
thứ tư (11- 2001) bàn về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm năm (2001-
2005), về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Tháng 2-2002, Hội nghị TW lần thứ năm thông qua 3 nghị quyết: Về đẩy
nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001- 2010; Về đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách,
khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Hội nghị TW lần thứ sáu
(7-2002) bàn về vấn đề tiếp tục thực hiện phát triển giáo dục và đào tạo khoa học
và công nghệ đến năm 2005 và đến 2010, và về vấn đề tiếp tục thực hiện công tác
tổ chức và cán bộ.
Tháng 1-2003, Hội nghị TW lần thứ bảy (phần 2) thông qua Nghị quyết về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; Nghị quyết về công tác dân tộc;
Nghị quyết về công tác tôn giáo; Nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp
luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Hội nghị TW lần thứ
tám (7-2003) ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tháng 1-2004, Hội nghị TW lần thứ chín kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực
hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đồng thời nêu lên những nhiệm vụ giải pháp
để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội trong những năm tiếp theo. Hội nghị
TW lần thứ mười (7-2004) kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”.
Tháng 1-2005, Hội nghị TW lần thứ mười một chuẩn bị các văn kiện cho
Đại hội X của Đảng. Các Hội nghị TW lần thứ XII, XIII (cuối năm 2005), XIV và
XV (đầu năm 2006) tiếp tục xây dựng các văn kiện chuẩn bị cho Đại hội lần thứ X
của Đảng.
Kết quả: Đến đầu năm 2006, kế hoạch 5 năm 2001- 2005 đã đạt được nhiều
thành tựu mới to lớn. Đại hội X đánh giá là: “Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy
giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân
trong 5 năm (2001-2005) là 7,5% và phát triển tương đối toàn diện. Văn hóa và
xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn
đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xóa đói giảm nghèo; đời
sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng
và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Công
tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực”
Tuy nhiên, đến đầu 2006, chúng ta còn nhiều khuyết điểm và yếu kém:
“Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ chế,
chính sách về văn hóa- xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa
được giải quyết tốt. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt
hạn chế. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
chưa đạt yêu cầu”.
5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4-2006)
Đại hội X của Đảng họp từ ngày 18 đến ngày 25-4 -2006, tại Hà Nội. Dự
Đại hội có 1.176 đại biểu, thay mặt cho 3,1 triệu đảng viên trong cả nước.
Đại hội đã đánh giá các thành tựu, hạn chế của thời kỳ 2001-2005, rút ra 5
bài học của 20 năm đổi mới.
Đề ra phương hướng nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2006-2010:
Mục tiêu và phương hướng tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2006-2010
là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi
nguồn lực cho CNH, HĐH đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị- xã hội; sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đại hội đã nêu lên những chỉ tiêu định hướng về phát triển kinh tế- xã hội
chủ yếu trong 5 năm 2006-2010, trong đó, quan trọng nhất là: “Đến năm 2010,
tổng sản phẩm trong nước (GDP) gấp 2,1 lần so với năm 2000; mực tăng GDP
bình quân đạt 7,5- 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm. Cơ cấu ngành trong GDP:
khu vực nông nghiệp khoảng 15-16%; công nghiệp và xây dựng 43- 44%; dịch vụ
40- 41%. Tạo việc làm cho 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5%.
Tỷ lệ hộ nghèo (chuẩn mới) giảm xuống còn 10-11%”.
Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thực hiện các mục tiêu đã đề ra là:
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đinh hướng XHCN. Đẩy mạnh
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức; Giải quyết tốt các vấn đề xã
hội, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ; Tăng cường quốc phòng và an
ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế;
Phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN; Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng - Đại hội đã bầu BCH TW Đại hội
khóa X gồm 160 ủy viên chính thức và 21 ủy viên dự khuyết. Bộ chính trị có 14
đồng chí, Ban Bí thư có 8 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm
Tổng Bí thư.
Chương VI
TỔNG KẾT LỊCH SỬ ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG, THẮNG
LỢI VÀ BÀI HỌC
I. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng
1. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là kết quả tổng hợp của ba phong trào
cách mạng - ba cuộc tổng diễn tập 1930-1931, 1936-1939 và 1939-1945 do Đảng
tổ chức lãnh đạo cùng với việc chớp thời cơ nhanh chóng làm nên một cuộc tổng
khởi nghĩa lan rộng trong cả nước.
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh đã
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, khẳng định đường lối cách mạng
Việt Nam do Đảng ta đề ra trong cương lĩnh đầu tiên là hoàn toàn đúng đắn, khẳng
định trong thực tế sức mạnh to lớn của khối liên minh công- nông.
Cao trào cách mạng 1936-1939 đã làm cho ảnh hưởng của Đảng ăn sâu, lan
rộng trong quảng đại quần chúng. Đảng ta đã biết kết hợp các hình thức đấu tranh
công khai hợp pháp với các hình thức bán hợp pháp, bí mật trong cuộc đấu tranh ở
một nước thuộc địa. Đảng đã xây dựng được đội quân chính trị hùng hậu gồm
hàng triệu quần chúng công nông cùng đông đảo trí thức, tiểu tư sản và tầng lớp
trên. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng đối với quần chúng được nâng cao
Cao trào 1939 - 1945, Đảng chủ trương chuyển toàn bộ tổ chức vào hoạt
động bí mật và xác định cách mạng Việt Nam lúc này là cách mạng giải phóng
dân tộc, đánh đuổi Pháp – Nhật giành độc lập, tự do, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang
là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân ta. Khi thời cơ “ngàn năm có một”
xuất hiện, Đảng đã quyết định phát động Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.
Như vậy, thông qua 3 cuộc tổng diễn tập 1930-1931; 1936 -1939; 1939-
1945 Đảng và nhân dân ta đã làm nên một cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng vĩ
đại, đánh dấu biến đổi cực kỳ to lớn của dân tộc Việt Nam.
+ Thắng lợi này đã đập tan xiềng xích nô lệ của Thực dân Pháp hơn 80
năm, đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do và
CNXH.
+ Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, nước ta
từ một nước thuộc địa nửa phương kiến thành nước độc lập, nước dân chủ đầu tiên
ở Đông Nam Á.
+ Đảng ta từ hoạt động bí mật trở thành một Đảng lãnh đạo chính quyền
trong cả nước.
Cách mạng tháng Tám đã sáng tạo ra những kinh nghiệm quý báu, đóng
góp vào kho tàng lý luận cách mạng dân tộc, dân chủ ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến, tạo ra thế và lực mới cho 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ sau
này.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám chứng tỏ rằng trong thời đại ngày nay,
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa toàn dân nổi dậy dưới
sự lãnh đạo của một Đảng Mác – Lênin có đường lối đúng đắn có thể giành được
thắng lợi trước cả cách mạng vô sản ở chính quốc.
2. Thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc
thời kỳ 1945-1975
a. Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ
(1945 -1954)
- Cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ (1945-1954) là một cuộc chiến tranh nhân dân cách mạng vì độc
lập và thống nhất, vì nền dân chủ cộng hoà và gây mầm mống cho CNXH.
- Với ý chí “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không
chịu làm nô lệ”, nhân dân cả nước từ Nam đến Bắc đã nhất tề đứng dậy kháng
chiến với mọi thứ vũ khí, với tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng, thông
minh và sáng tạo, phát triển từ lực lượng nhỏ đến lớn, từ đánh du kích đến đánh
chính quy, tiến công và phản công chiến lược, giành thắng lợi từ nhỏ đến chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ vĩ đại – có ý nghĩa vang dội trên toàn thế giới. Buộc
chính phủ Pháp buộc phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Cămpuchia qua hiệp định Giơnevơ (21/7/1954).
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng
một nước thực dân hùng mạnh.
- Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ đã bảo
vệ và phát triển thành quả vĩ đại của cách mạng tháng Tám, giải phóng hoàn toàn
miền Bắc, chấm dứt hẳn ách đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách
mạng Việt Nam chuyển qua một giai đoạn mới – giai đoạn xây dựng miền Bắc
theo con đường XHCN và tiến hành cách mạng giải phóng ở miền Nam, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và thống nhất đất nước.
Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị nô dịch trên thế giới vùng
lên chống chủ nghĩa đế quốc thực dân vì độc lập dân tộc, hoà bình và tiến bộ xã
hội.
b. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975).
- Đánh giá về thắng lợi này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
(12-1976): “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp cách mạng cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử ta như một trong những
trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến
công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính
thời đại sâu sắc”.
- Với thắng lợi này, nhân dân Việt Nam đã chứng minh trước toàn thế giới
sự phá sản không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới. Cũng như trước đây,
thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, kháng chiến chống Pháp 1954 đã chứng
minh với thế giới sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa thực dân cũ.
+ Làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến
quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách
mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, lung lay vị trí của Mỹ trên
trường quốc tế.
+ Phát triển thêm sức mạnh, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi của hàng
triệu người dân trên trái đất đang đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
- Kháng chiến chống Mỹ thắng lợi đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc
Việt Nam- kỷ nguyên độc lập tự do, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là
một trong những thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử giữ nước và
dựng nước của dân tộc ta.
- 21 năm chiến tranh chống Mỹ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc,
bảo vệ tổ quốc đã chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế
độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước.
3. Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới (1986 đến nay)
Kế thừa những thành tựu và những kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc khi còn chiến tranh và trong những năm đầu sau khi nước nhà thống
nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện
đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Thắng lợi bước đầu trong 20 năm đổi mới có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Một là, chúng ta đã đẩy nhanh được nhịp độ phát triển kinh tế- xã hội. Hoạt
động khoa học công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội thích
nghi dần với cơ chế thị trường. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh.
Hai là, tạo được một số chuyển biến tốt về mặt xã hội.
- Đời sống vật chất phần lớn của người dân được cải thiện.
- Trình độ dân trí được nâng lên đáng kể, đời sống văn hoá của nhân dân có
cải thiện.Các hoạt động: giáo dục đào tạo, văn hoá, nghệ thuật, kế hoạch hóa gia
đình… có những mặt tiến bộ và phát triển.
- Lòng tin của nhân dân đối với đất nước, với sự lãnh đạo của Đảng, nhà
nước, với chế độ nâng lên rõ rệt.
Ba là, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo
vệ chế độ, giữ vững độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của đất nước.
Bốn là, thực hiện có kết quả nhiều đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
Năm là, phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cô lập,
tham gia tích cực vào đời sống của cộng đồng quốc tế.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, công cuộc đối mới của chúng ta còn
không ít khuyết điểm và những mặt yếu kém. Đó là:
- Nước ta còn nghèo nhưng chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết
kiệm trong tiêu dùng; tích luỹ từ nội bộ sản xuất còn quá thấp. So với các nước
trên thế giới, nước ta vẫn còn quá nghèo, trình độ phát triển sản xuất và năng suất
lao động thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, sử dụng nguồn nhân lực còn
kém hiệu quả.
- Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới vừa lúng túng, vừa có
tình trạng buông lỏng, chưa phát huy tốt nhiều tiềm năng, giải phóng mạnh mẽ
sức sản xuất.
- Cơ chế thị trường còn sơ khai, vai trò quản lý vĩ mô đối với nhà nước đối
với nền kinh tế còn yếu.
- Tình hình xã hội còn nhiều mặt tiêu cực, tệ tham nhũng, buôn lậu, lãng
phí của công chưa được ngăn chặn, thậm chí còn tiếp tục gia tăng. Tệ nạn xã hội
phát triển, trật tự an toàn xã hội chưa được đảm bảo tốt.
- Hệ thống chính trị có đổi mới nhưng còn nhiều nhược điểm.
=> Như vậy, bên cạnh những thành tựu quan trọng tạo tiền đề thuận lợi cho
bước phát triển tiếp theo vãn còn nhiều tồn tại. Nhưng nhìn chung con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ
thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội chủ nghĩa và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. con
đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
II. Những bài học lãnh đạo cách mạng của Đảng
1. Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cốt lõi tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự thể hiện rõ nét sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp.
Xét theo yêu cầu giải phóng con người, thì độc lập dân tộc mới chỉ là cấp
độ đầu tiên, đặt nền móng cho việc đảm bảo quyền con người. Mặc dù vô cùng
quan trọng, nhưng đó mới chỉ là giải phóng về mặt chính trị.
Độc lập chỉ là điều kiện cần để đi đến ấm no, hạnh phúc. Xoá bỏ ách áp bức
dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng áp bức và bóc lột giai cấp thì nhân dân lao
động vẫn chưa được giải phóng.
Cho nên, sau khi giành được độc lập dân tộc, phải xây dựng một chế độ xã
hội trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới xoá bỏ được tận gốc tình
trạng người bóc lột người; chỉ có thiết lập một nhà nước kiểu mới có bản chất là
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mới đảm bảo được quyền làm chủ của nhân
dân lao động, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân - xã hội; độc
lập dân tộc - tự do, hạnh phúc của con người.
Quá trình vận động tự nhiên của lịch sử tất yếu dẫn đến chủ nghĩa xã hội -
chế độ chính trị - xã hội tiến bộ nhất trong tiến trình phát triển của loài người, khắc
phục được những hạn chế của các chế độ chính trị - xã hội trước đó đối với việc
giải quyết vấn đề giải phóng con người.
Hồ Chí Minh nhận thức được điều đó từ rất sớm. Theo Người, sau khi thực
hiện nhiệm vụ “phản đế, phản phong”, con đường đúng đắn là tiếp tục đi lên chủ
nghĩa xã hội, xây dựng kinh tế, tạo ra nhiều của cải vật chất để có điều kiện nâng
cao mức sống cho nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tổng kết kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam
trong hơn nửa thế kỷ qua, nêu lên bài học giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Thực tế cách mạng Việt Nam
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1930-1954 (thời kỳ cả nước
thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân)
- Độc lập dân tộc:
Muốn xây dựng CNXH, trước hết phải giành được độc lập dân tộc. Chiến
lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có 2 nhiệm vụ cơ bản: chống đế quốc và
chống phong kiến, đây là hai nhiệm vụ có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng
nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến,
thực hiện cách mạng ruộng đất để phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc.
Do đó khi Đảng ta đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng Đảng đã đoàn
kết được lực lượng toàn dân.
- Chủ nghĩa xã hội :
Đảng không tiến hành cách mạng ruộng đất đồng thời với nhiệm vụ chống
đế quốc mà chỉ chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai chia cho nông
dân nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức. Ngoài ra, nhân dân còn được hưởng nhiều
quyền lợi như không phải đóng các thứ thuế vô lý, được chia ruộng công và hưởng
một số quyền lợi khác.
Tuy nhiên việc thực hiện ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ này
chưa rõ nét lắm.
Như vậy, ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1930 – 1954 là cả
nước tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề cần thiết cho
cách mạng XHCN. Lúc này, ngọn cờ độc lập dân tộc là trực tiếp, còn CNXH là
phương hướng, triển vọng tiến lên để bảo đảm cho cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đi đúng hướng và thực hiện được triệt để
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1954 – 1975
Thời kỳ này, Đảng chủ trương tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ
chiến lược cách mạng: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam. Miền Bắc XHCN giữ vai trò quyết định nhất trong
sự nghiệp của cả nước; miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh thắng đế
quốc Mỹ và tay sai, góp phần bảo vệ miền Bắc.
Ở miền Bắc:
Việc xây dựng CNXH không còn là định hướng nữa mà trở thành mục tiêu,
nhiệm vụ trực tiếp.
Nhưng vì cả nước ta đều có nhiệm vụ chống Mỹ nên CNXH ở miền Bắc
mang đặc điểm thời chiến. Xây dựng CNXH thời chiến không chỉ đảm bảo đời
sống nhân dân miền Bắc mà còn phải phát triển kinh tế phục vụ chiến đấu, là hậu
phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Lúc này “mỗi người làm việc bằng hai”
theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tháng 5/1964, tổng kết bước đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
Bộ chính trị đã khẳng định: “Xây dựng CNXH lúc này cũng là để đánh thắng giặc
Mỹ”.
Đại hội IV năm 1976 đã đánh giá vai trò của miền Bắc XHCN: “không thể
nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có
miền Bắc XHCN”; “thử thách cực kỳ nghiêm trọng của chiến tranh đã làm sáng
ngời tính ưu việt và sức mạnh của CNXH”
Ở miền Nam:
Từ xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang đến xây dựng chế độ
mới ở các vùng giải phóng, đặc biệt là xây dựng các cơ sở Đảng vững mạnh. Đảng
và nhà nước đều đã huy động lực lượng miền Bắc phục vụ miền Nam, gửi vào đó
hàng triệu thanh niên, hàng ngìn tấn vũ khí, đặc biệt là nhiều binh đoàn chủ lực.
Như vậy, sức mạnh của miền Nam là sức mạnh của chế độ mới, sức mạnh
tại chỗ và sức mạnh của cách mạng XHCN miền Bắc.
Dựa vào sức mạnh cả nước, Đảng phát động nhiều cuộc tiến công chiến
lược, lần lượt phá hoại và đánh tan các kế hoạch chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang. Thực tế, miền Nam đã thực hiện đầy đủ vai trò
quyết định trực tiếp đánh đổ đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành
cách mạng giải phóng dân tộc. Thực hiện nhiệm vụ “độc lập dân tộc”
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã khẳng định: “CNXH là
chỗ dựa của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào giải phóng dân tộc lớn
mạnh có tác dụng bảo vệ CNXH”.
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1954 – 1975 là sự kết hợp của 2
chiến lược CNXH ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước,
thực hiện thống nhất nước nhà đưa cả nước lên CNXH. Lúc này ngọn cờ CNXH
đã trở thành hiện thực trên một nửa đất nước và đang trở thành sức mạnh thật sự
cho cách mạng cả nước nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và thời
đại để xây dựng CNXH và đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1975 đến nay.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là một thời kỳ rất dài cần phải xác định đúng và
đề ra mục tiêu cho phù hợp với mỗi thời kỳ cách mạng. Cũng như giai đoạn cách
mạng trước đây, để kết hợp độc lập dân tộc và CNXH cùng với việc xác định
nhiệm vụ chiến lược đúng đắn, Đảng phải hoạch định nhiệm vụ chiến lược lâu dài
thành mục tiêu cụ thể, thích hợp với mỗi chặng đường.
+ Chặng đường đi lên CNXH được Đảng ta xác định một cách cụ thể tại
Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976 với mục tiêu là ổn định tình hình kinh tế – xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân nhưng sau nhiều năm phấn đấu chúng ta vẫn
không đạt được mục tiêu đề ra.
+ Từ Đại hội VI (1986) trở đi đường lối đổi mới và mục tiêu cụ thể được
xác định đúng đắn, Đảng và nhân dân ta đã giành được thắng lợi quan trọng.
Mỗi bước thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH đều làm tăng thêm sức
mạnh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Bảo vệ nền độc lập dân tộc lại tạo điều kiện
thuận lợi cho việc xây dựng CNXH.
Như vậy, ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thời kỳ 1975 đến nay là sự kết
hợp 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhằm mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Lúc này độc lập dân tộc và
CNXH nhập vào làm 1, sự kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH giờ đây trọn
vẹn và đầy đủ nhất nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại để
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
=> Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là một chân lý lớn của thời đại.
Chân lý ấy được Đảng Cộng sản tiếp thu và phát triển sáng tạo trong từng giai
đoạn lịch sử, phù hợp với nhiệm vụ cách mạng Việt Nam.
- Là nguồn gốc của mọi thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của cách
mạng Việt Nam, là ánh sáng chỉ đường cho dân tộc ta giành mọi thắng lợi trong
giai đoạn cách mạng hiện nay.
“Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho
độc lập dân tộc. Xây dựng CNXH, bảo vệ tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược
có quan hệ hữu cơ với nhau”.
2. Quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý:
“Gốc có vững cây mới bền
Xây lâu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Người cho rằng “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế
giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội
không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân”.
Trong “Đường kách mệnh”, người viết “Kách mệnh là việc của dân chúng,
chứ không phải việc của một hai người”. V.I.Lênin cũng chỉ rõ “Chỉ có độc một
mình đội tiên phong thôi thì không thể thắng nổi… đó không những là điều dại dột
mà còn là một tội ác nữa”.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đánh giá đúng vai trò
của nhân dân, coi dân là vốn quý nhất, sức mạnh của dân cũng là sức mạnh to lớn
nhất. Đi sâu phân tích hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ để thấy rõ
sức mạnh của chiến tranh nhân dân”.
Trong kháng chiến chống Pháp:
Ngày 29/10/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào Nam Bộ bền bỉ
kháng chiến. Người khẳng định: “không có quân đội nào, không khí giới nào có
thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn dân tộc”.
- Chiến tranh nhân dân là tính chất cơ bản và cũng là đặc điểm chủ
yếu nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bản chỉ thị lịch sử :“Toàn dân kháng
chiến” của trung ương Đảng ra ngày 12/12/1946 đã đặt cơ sở cho sự chỉ đạo,
nguyên tắc và đường lối của một cuộc chiến tranh nhân dân dựa trên truyền thống
lâu đời: “cả nước đánh giặc” của dân tộc kết hợp với những quan điểm chiến tranh
cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại mới.
- Ngày 25/11/1946, trung ương Đảng đã ra “Chỉ thị kháng chiến kiến
quốc”, cụ thể hoá đường lối cho cuộc kháng chiến và những chỉ đạo cụ thể.
- Ngày 19/12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân kháng
chiến: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu tổ quốc…”
- Trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, Trường Chinh đã
khẳng định: “Cuộc kháng chiến của chúng ta là một cuộc chiến tranh nhân dân
toàn dân, toàn diện…”.
Để thực hiện những chủ trương trên:
+ Phong trào Nam tiến được phát động đã động viên sâu sắc tinh thần yêu
nước của các tầng lớp nhân dân. Đó là biểu hiện sinh động về sức mạnh đoàn kết
toàn dân của Đảng và Chính phủ.
+ Đảng và Chính phủ tổ chức “Ngày kháng chiến” trong toàn quốc, kêu gọi
nhân dân bớt ăn, bớt mặc dành dụm, góp tiền của để ủng hộ đồng bào Nam Bộ
đánh Pháp.
+ Một thành tựu nổi bật của đường lối cách mạng toàn dân kháng chiến là
thu hút sự tham gia tích cực của các dân tộc- đa số cũng như thiểu số trên đất nước
Việt Nam.
Ngày 1/2/1947 trong thư gửi các chiến sĩ quân đội lên đường đi xây dựng cơ sở ở
miền Tây và Tây Bắc, đồng chí Võ Nguyên Giáp viết: “Mỗi một tấc đất miền Tây
là một tấc đất của nhân dân Việt Nam, chúng ta không thể để cho địch dễ dàng
dẫm lên được. Mỗi một đồng bào miền Tây là một người dân nước Việt, chúng ta
không thể không bảo vệ quyền lợi của đồng bào dân tộc thiểu số”.
Tất cả đã làm nên sức mạnh to lớn, sức mạnh của toàn thể nhân dân Việt
Nam chống thực dân Pháp xâm lược đó là chiến tranh nhân dân toàn dân đánh giặc
Trong kháng chiến chống Mỹ:
Kế thừa những thành quả và kinh nghiệm của kháng chiến chống Pháp,
chiến tranh nhân dân trên cả hai miền Nam - Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ cứu nước đã phát triển lên một tầm cao mới với nội dung và hình thức đấu
tranh hiệu quả và rất phong phú. Đó là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, nhằm
mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc và thống nhất đất nước.
- Lực lượng tiến hành chiến tranh là “toàn dân đánh giặc” gồm lực
lượng chính trị quần chúng, lực lượng vũ trang; lực lượng chính trị quần chúng
vừa là cơ sở để xây dựng phát triển lực lượng vũ trang, vừa là chỗ dựa vững chắc
để lực lượng vũ trang hoạt động tác chiến.
- Phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước không chỉ bó hẹp trong hoạt động đấu tranh vũ trang mà còn có phạm vi
rộng lớn hơn, tầm vóc cao hơn. Đó là “Cả nước tổ chức thành một mặt trận rộng
lớn, mỗi người dân yêu nước là một chiến sĩ, mỗi làng xã, đường phố là một là
một pháo đài, mỗi chi bộ Đảng là một bộ phận tham mưu…”
- Thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Nam hoàn toàn giải
phóng, đất nước thống nhất khẳng định sự nghiệp cách mạng đó là của nhân dân,
do nhân dân.
Như vậy, cách mạng chỉ có thể giành được thắng lợi nếu được quần chúng nhân
dân tham gia và chỉ có cách mạng do Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động mới mang lại quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội cho toàn thể nhân
dân. Khi đất nước độc lập và dân chủ thì lợi ích thuộc về nhân dân. Không có nhân
dân thì không có lực lượng, không có chính phủ thì không có người dẫn đường vì
vậy chính phủ và nhân dân phải đoàn kết thành một khối thống nhất. Đảng, Chính
phủ phải gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân, đồng thời, chính quyền
còn phải làm hết sức mình vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân đó là những nhân
tố quyết định sự vững mạnh của chính quyền nhà nước, của Đảng cầm quyền.
Trong thời kỳ đổi mới:
- Đại hội VI của Đảng nêu rõ: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng
phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc”.
- Tại đại hội VII (6/1991), Đảng đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất
nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xác định: “Toàn bộ hoạt động của Đảng
phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của
Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần
chúng sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất
nước”.
3. Không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới đại đoàn kết, vấn đề này được Người đề
cập nhiều nhất. Người nhấn mạnh “đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết, thành công,
thành công, đại thành công”.
Để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, Đảng phải luôn đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân, giai cấp tiêu biểu cho lợi ích của người lao động và
lợi ích của toàn dân tộc, không bao giờ được tách lợi ích chung của dân tộc với lợi
ích riêng của giai cấp mình. Đảng phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung và lợi
ích bộ phận của các giai cấp và tầng lớp xã hội, phải xác định đúng đắn chiến lược
và sách lược phù hợp với quan hệ giai cấp biến đổi ở mỗi thời kỳ.
Tổ chức tiêu biểu tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân là mặt
trận dân tộc thống nhất.
Trong thời kỳ 1930-1945.
Trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng
vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam, đồng thời xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong đó đội ngũ
tri thức có vai trò quan trọng. Kết quả đó được thể hiện ở sự đoàn kết giữa giai cấp
công nhân - nông dân trong phong trào đấu tranh chống chế độ thuộc địa ngay từ
khi Đảng cộng sản Việt Nam mới ra đời.
Sự mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó đội ngũ trí
thức được đặt ở vị trí xứng đáng, dựa trên cơ sở khối đại liên minh công – nông đã
tạo nên sức mạnh hùng hậu để tiến hành khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành
công.
Cách mạng tháng Tám thành công chủ yếu và trước hết là thắng lợi của đạo
quân chủ lực của cách mạng là công nhân và nông dân
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám còn là sự nổi dậy của toàn dân, bao
gồm các giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản cho đến các tầng lớp trên có
khả năng yêu nước nhất định là giai cấp tư sản dân tộc, những cá nhân yêu nước
và tiến bộ khác nằm trong mặt trận Việt Minh và ngoài mặt trận Việt Minh.
Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng thời kỳ này, không chỉ là biết tổ chức và
phát động đạo quân chủ lực mà còn biết lấy đó làm chỗ dựa để tập hợp hết thảy
các lực lượng yêu nước có thể tập hợp được, không bỏ sót một lực lượng nào.
Cách mạng tháng Tám là sự nổi dậy đồng loạt của nhân dân cả nước từ Bắc
đến Nam, từ rừng núi đến đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị, là sự nổi dậy của
cả các dân tộc thiểu số trên khắp cả nước. Chính nhờ sức mạnh đoàn kết đó nên dù
với một lực lượng vũ trang nhỏ bé (5000 người), cách mạng tháng Tám đã phát
huy sức mạnh áp đảo làm tê liệt sự phản kháng của quân đội Nhật, buộc quân tay
sai phải đầu hàng một cách nhanh gọn chỉ trong vòng nửa tháng trên cả nước
Thời kỳ 1945 – 1975
Sau cách mạng tháng Tám, trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế
độ mới và tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp có sự can thiệp của đế
quốc Mỹ, vai trò của liên minh công - nông và khối đại đoàn kết của công nhân –
nông dân – trí thức ngày càng được nâng cao và có những nội dung mới.
Trong kháng chiến chống Pháp:
Phong trào Nam Tiến là một biểu hiện sinh động của sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân. Phong trào đã động viên sâu sắc tinh thần yêu nước của các tầng lớp
nhân dân.
Một thành tựu nổi bật của tinh thần đoàn kết toàn dân là thu hút sự tham gia
tích cực của các dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam.
Để thực hiện toàn dân đánh giặc, cả nước ra trận, Đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh chú trọng xây dựng Quân đội nhân dân theo mô hình tổ chức 3 thứ quân: bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích mà chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận định: “đó là lực lượng của cả dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức
tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực
lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải ta rã”. Trên cơ sở hình thức 3
thứ quân sau này đã hình thành nhiều đại đoàn chủ lực, quân đoàn, tiểu
đoàn…
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Tinh thần đoàn kết toàn dân thể
hiện ở nhận thức chỉ đạo các hoạt động đấu tranh vũ trang của cuộc chiến tranh
nhân dân trên cả 2 miền Nam, Bắc của Đảng và Chính phủ ta- và thời kỳ này đã
được nâng lên tầm cao mới với nội dung, hình thức đấu tranh hiệu quả và rất
phong phú. Lực lượng tiến hành chiến tranh là: “toàn dân đánh giặc gồm lực lượng
chiến tranh nhân dân 3 thứ quân làm nòng cốt và lực lượng chính trị quần
chúng…”
Phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, động viên toàn dân đoàn kết
kháng chiến chống Mỹ là: “cả nước tổ chức thành một mặt trận rộng lớn, mỗi
người dân yêu nước là một chiến sĩ, mỗi làng, xã, đường phố là một pháo đài, mỗi
chi bộ Đảng là một bộ phận tham mưu, phát huy sức mạnh tổng hợp của sự kết
hợp đấu tranh chính trị và vũ trang trên cả 3 vùng chiến lược, bằng 3 mũi giáp
công: đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp tiến công quân sự với nổi
dậy của quần chúng….”
Thời kỳ này cùng với việc tiến công địch ở miền Nam đồng thời phải bảo
vệ miền Bắc, đánh thắng chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ trên
vùng trời và vùng biển miền Bắc Việt Nam với chiến trường hai nước bạn là Lào
và Cămpuchia bằng thế chiến lược tiến công. Chính sự tập hợp, động viên toàn
dân đánh giặc của Đảng và Chính phủ ta đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của nhân dân ta toàn thắng.
Thời kỳ 1975-1985, do chưa có nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của nền
kinh tế nhiều thành phần, chưa thấy được mặt tích cực của cơ chế thị trường, nên
ta đã có những chính sách không phù hợp trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, làm cho khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc có phần bị
giảm sút, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gặp khó khăn.
Từ năm 1986 tới nay, Đảng đã củng cố và tăng cường được một bước quan
trọng khối đại đoàn kết toàn dân đã đáp ứng được lợi ích của các giai cấp, các tầng
lớp trong xã hội, kể cả với đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài, làm cho khối
đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Nhờ vậy, nước ta không những vượt qua
được những khó khăn bên trong, đối phó được những tác động bất lợi của tình
hình quốc tế, mà còn đạt được nhiều thành tựu mới, to lớn trong công cuộc đổi
mới, tiềm lực của đất nước được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao.
Như vậy, thực tế lịch sử qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
và sự nghiệp đổi mới đất nước đã chứng tỏ rằng, đại đoàn kết toàn dân là một sức
mạnh to lớn để đánh thắng mọi thế lực xâm lược trong cách mạng giải phóng dân
tộc cũng như trong cách mạng XHCN.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế
Từ rất sớm, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về mối quan hệ giữa cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới: “Cách mạng An Nam cũng là một bộ phận trong
cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An
Nam cả”. Người còn nói: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc
dân chủ nhân dân phải phát triển thành cách mạng XHCN thì mới giành được
thắng lợi hoàn toàn”.
Như vậy, mục tiêu và con đường độc lập dân tộc và CNXH đã đưa cách
mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hoà nhập
vào trào lưu giải phóng của nhân loại, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải
phóng loài người. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta không tách rời mà gắn liền với
cuộc đấu tranh chung của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ
và tiến bộ xã hội. Một quy luật tất yếu của sự nghiệp cứu nước cũng như sự nghiệp
giữ nước và xây dựng đất nước mà Đảng ta phải nắm vững và vận dụng nhuần
nhuyễn là đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế,
phối hợp sự hoạt động của cách mạng nước ta với hoạt động của các lực lượng hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới để chống kẻ thù
chung.
Chính vì vậy, trong suốt chiều dài lịch sử, ngay từ khi ra đời trong Cương
lĩnh đầu tiên (năm 1930) cũng như Cương lĩnh xây dựng đất nước và đường lối
của các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ đoàn kết quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thành một nhiệm vụ chiến lược. Thực tiễn
lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo đã chứng minh đoàn kết quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nhân tố góp phần quan trọng
vào thắng lợi của cách mạng.
Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đồng thời là hành
trình tìm kiếm bạn đồng minh và thiết lập mối quan hệ đoàn kết hợp tác quốc tế
của cách mạng Việt Nam. Người đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với
phong trào cách mạng thế giới, đưa nhân dân ta đi theo con đường mà chính
Người đã trải qua từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân.
Cách mạng tháng Tám thành công có ý nghĩa lịch sử thời đại sâu sắc.
Thành công đó do nhiều yếu tố tạo nên, trong đó có sự kết hợp đúng đắn sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhạy
bén trước xu thế phát triển của chiến tranh thế giới II và phong trào cách mạng thế
giới, từng bước bổ sung, cụ thể hoá đường lối. Do đó đã tranh thủ phát huy được
những điều kiện khách quan thuận lợi, đó là sự giúp đỡ to lớn của quốc tế Cộng
sản, các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc và sự ủng hộ của phong trào Cộng
sản, cách mạng quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nước ta trong những năm đầu còn ở
trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc nên chưa có điều kiện tranh thủ sự giúp đỡ
của nhân dân thế giới. Khi đó, nhân dân ta tiến hành chống Pháp với tinh thần:
“Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ”. Sau 5 năm kháng chiến, thế và lực của cách mạng, của đất nước đã
có những bước phát triển mới, ngày
14/1/1950, chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình
đẳng, chủ quyền lãnh thổ…” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6/ Tr.6- 8)
Ngay sau đó, Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác đã lần luợt
thiết lập quan hệ ngoại giao với nước ta, gắn cách mạng Việt Nam nối liền với hậu
phương lớn XHCN, với phong trào độc lập dân tộc và phong trào hoà bình thế
giới. Từ đó nhân dân ta có sự ủng hộ, giúp đỡ về tinh thần và vật chất của nhân
dân thế giới, Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN và sự đồng tình ủng hộ của
nhân dân thế giới nhất là nhân dân Pháp. Hành động anh hùng của chị
Raymôngđiêng ngăn đoàn xe lửa chở vũ khí sang Việt Nam, anh Hăngri Mácđanh
đã vận động binh lính Pháp không sang Việt Nam tham chiến…. mãi là những
biểu tượng sáng ngời cho tinh thần đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam và
nhân dân Pháp.
Chiến thắng Điện Biên Phủ và việc ký kết hiệp định Giơnevơ tháng 7/1954
được nhân dân thế giới yêu chuộng hoà bình; nhân dân các nước thuộc địa và phụ
thuộc; nhân dân và Chính phủ các nước mới giành độc lập chào mừng thắng lợi -
thắng lợi mở đầu sự phá sản của hệ thống thực thuộc địa trên thế giới, thắng lợi
này không những chỉ có ý nghĩa dân tộc mà còn có ý nghĩa quốc tế to lớn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với đường lối đối ngoại độc
lập sáng tạo, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xử lý đúng đắn nhiều mối quan
hệ. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong việc động viên, đoàn kết, ủng hộ của quốc
tế đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
- Đảng ta đã kiên quyết và hạn chế phạm vi cuộc chiến tranh bằng cách đề
ra chủ trương, sách lược mềm dẻo ở miền Nam Việt Nam lúc đó là: “trung lập”
và không nhận quân tình nguyện quốc tế, không để chiến tranh biến thành xung
đột quốc tế.
Kết quả của đường lối đó là sự hình thành trên thực tế mặt trận nhân
dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ cứu nước, cùng với mặt trận Việt –Miên
- Lào và mặt trận đoàn kết trong nước kết thành 3 tầng mặt trận.
Có thể nói, nhìn lại lịch sử thế giới chưa có một cuộc chiến tranh của một
dân tộc nào được sự ủng hộ rộng rãi và mạnh mẽ của nhân dân thế giới như cuộc
kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, chưa bao giờ số phận của một dân
tộc nhỏ lại gắn chặt với số phận của nhân dân thế giới như vậy; cũng chưa từng có
trong lịch sử nước Mỹ một phong trào đấu tranh mạnh mẽ của tất cả binh lính Mỹ,
nhân dân đòi chính quyền
Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh bẩn thỉu, tàn bạo ở Việt Nam rộng rãi
và mạnh mẽ đến như vậy.
Trong những năm đổi mới, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại của Đảng
và nhà nước ta là giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời
phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của nước ta, phù hợp với đặc điểm mà đối tượng ta có quan hệ.
Tư tưởng chỉ đạo đó là thêm bạn bớt thù, tranh thủ sự đoàn kết và hợp tác
quốc tế; vì lợi ích độc lập dân tộc, thống nhất và CNXH của nhân dân ta; vì lợi ích
chung là hoà bình, độc lập và phát triển; kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước với cách mạng quốc tế của giai cấp công nhân. Do đó, Đảng, nhà nước và
nhân dân ta vẫn thực hiện nhất quán chủ trương đoàn kết, hợp tác với các nước
XHCN, phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào độc lập dân tộc,
phong trào không liên kết cùng các lực lượng hoà bình và tiến bộ khác góp phần
vào cuộc đấu tranh cho thắng lợi chung.
Ngày nay, nước ta đã thiết lập quan hệ với hơn 170 nước. Đó là điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục khó khăn để hội nhập kinh
tế quốc tế.
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam
Trước năm 1930, các cuộc đấu tranh của dân tộc ta dù đã diễn ra liên tục
anh dũng, song kết cục đều bị thất bại. Từ năm 1930 dưới sự lãnh đạo của Đảng,
phong trào dân tộc, dân chủ của nhân dân ta mới từng bước đi tới thắng lợi.
Những năm 1930 -1945, đường lối đúng đắn của Đảng đã được đề ra ngay
trong cương lĩnh cách mạng đầu tiên. Nhờ đó lực lượng cách mạng nước ta từng
bước được xây dựng, quần chúng cách mạng được tổ chức rèn luyện, mặt trận dân
tộc thống nhất và căn cứ địa được hình thành. Và khi thời cơ đến, Đảng đã phát
động tổ chức khởi nghĩa giành chính quyền thành công lập nên nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, các thế lực đế quốc và tay sai câu kết
với nhau, tái xâm lược Việt Nam. Trước tình thế đó Đảng đã kịp thời đưa ra bản
chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh chống giặc đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm, bảo vệ chính quyền cách mạng trong hoàn cảnh “ngàn
cân treo sợi tóc”.
Cuối năm 1946, khi thực dân Pháp mở rộng ách cai trị lên toàn cõi nước ta,
Đảng đã kịp thời phát động nhân dân toàn quốc nhất tề đứng lên toàn quốc kháng
chiến. Với đường lối đúng đắn, Đảng đã từng bước lãnh đạo tổ chức cuộc kháng
chiến tiến lên đi tới thắng lợi vẻ vang trong chiến lược Đông Xuân 1953-1954.
Những năm 1954-1975, để đánh bại mọi âm mưu xâm lược và thống trị
thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ, Đảng đã đưa ra đường lối chiến lược chung
sáng suốt là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng
khác nhau ở hai miền, nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cả nước là giải
phóng miền Nam, hoà bình thống nhất tổ quốc, nên đã tạo được sức mạnh tổng
hợp đưa cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc
tới thắng lợi vẻ vang vào mùa Xuân năm 1975.
Trong những năm 1975 – 1985, đường lối của Đảng mang tính chủ quan,
nóng vội nên kinh tế – xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng.
Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới được đề ra tại Đại hội lần thứ
VI, công cuộc xây dựng là bảo vệ đất nước có những biến chuyển rõ rệt, đạt được
những thành tựu mới, thế lực được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao, đưa
đất nước ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Để bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được đúng đắn, tiếp tục là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi cách mạng Việt Nam, Đảng chủ trương hết sức coi
trọng công công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đó là Đảng phải tự đổi mới, tự
chỉnh đốn về mọi mặt:
+ Đổi mới về tư duy lý luận, tư duy kinh tế, nâng cao năng lực trí tuệ, đề ra
cương lĩnh đường lối, chiến lược sách lược đúng đắn. Đây là yêu cầu cơ bản cốt
lõi nhất.
+ Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng.
+ Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, nhà nước và các đoàn
thể quần chúng trong hệ thống chính trị của nước ta hiện nay.
+ Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực, xây dựng
được một chiến lược cán bộ của thời kỳ mới.
+ Thường xuyên làm trong sạch đội ngũ đảng viên, đồng thời kết nạp
những người ưu tú vào Đảng. Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam- Đảng do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc,
luôn gắn bó với nhân dân, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc- là lực lượng duy nhất có khả
năng lãnh đạo, tổ chức bảo vệ vững chắc Tổ quốc và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Câu hỏi ôn tập
1. Tình hình Việt Nam sau năm 1975?
2. Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước
thời kyd 1975-1976?
3. Đại hội lần thứ IV của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1976-1980?
4. Đại hội lần thứ V của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1981-1986?
5. Đại hội lần thứ VI của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đổi
mới thời kỳ 1986-1990?
6. Đại hội lần thứ VII của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đổi
mới thời kỳ 1991-1996, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội?
7. Đại hội lần thứ VII của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1996-2000?
8. Đại hội lần thứ IX của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 2001-2005?
9. Đại hội X của Đảng và quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc 2006-1020?
Vấn đề thảo luận
1. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước thời kỳ 1976-
1980?
2. Quá trình hình thành đường lối đổi mới của Đảng và những biện pháp
thực hiện đổi mới ở Việt Nam?
3. Nhận thức về con đường đi lên CNXH của Đảng ta thời kỳ 1975-nay
4. Quá trình xây dựng Đảng qua các đại hội (1976-nay)
5. Quá trình bổ sung, phát triển đường lối đổi mới của Đảng qua các đại hội
lần thứ VII (1991), lần thứ VIII (1996), lần thứ IX (2001), lần thứ X (2006)?
6. Thành quả, thời cơ và thách thức của sự nghiệp đổi mới?