You are on page 1of 101

PHẦN MỘT:NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP

LUẬT

CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC

I.NGUỒN GỐC NHÀ NƯỚC


Nhà nước là một hiện tượng chính trị - xã hội đa dạng và phức tạp, có
liên quan đến lợi ích của các giai cấp, tầng lớp dân cư, các quốc gia và có tác
động trực tiếp đến cuộc sống của tất cả mọi người trong xã hội. Do vậy, để
nhận thức đúng đắn bản chất cũng như quy luật phát triển của Nhà nước,
trước hết cần phải làm sáng tỏ nguyên nhân và giải thích quá trình phát sinh
của Nhà nước.
Vì thế, từ thời kỳ cổ, trung đại đã có nhiều nhà tư tưởng tiếp cận và
đưa ra những khái niệm khác nhau về nguồn gốc của Nhà nước. Nhìn nhận
một cách khái quát, chúng ta có thể phân chia những học thuyết về nguồn
gốc của Nhà nước thành hai loại:
- Học thuyết Mác - Lênin về nguồn gốc Nhà nước.
- Học thuyết khác về nguồn gốc Nhà nước (Các học thuyết phi Mác
xít)
1.Các học thuyết phi Mácxít bàn về nguồn gốc Nhà nước
a. Thuyết thần học:
Các nhà tư tưởng theo thuyết này cho rằng: “Thượng đế là người sắp
đặt trật tự xã hội, Nhà nước là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự
chung, do vậy Nhà nước là một lực lượng siêu nhiên và đương nhiên quyền
lực Nhà nước là vĩnh cửu và sự phục tùng quyền lực Nhà nước là cần thiết
và tất yếu”. Do có sự giải thích khác nhau về quan hệ giữa Nhà nước và giáo
hội nên những người theo thuyết thần học phân hóa thành nhiều phái.
- Phái giáo quyền thừa nhận sự lệ thuộc của Nhà nước vào giáo hội và
cho rằng Thượng đế sáng tạo ra nhân loại, thống trị nhân loại cả về thể xác
và linh hồn, sau đó đem trao quyền đó cho giáo hội; nhưng rồi giáo hoàng
chỉ giữ lại quyền lực về tinh thần còn quyền thống trị về thể xác giáo hoàng
trao lại cho vua. tinh thần chi phối thể xác nên giáo hoàng chi phối nhà vua,
ở bên trên nhà vua.
- Phái quân chủ cho rằng: vua nhận trực tiếp từ thượng đế quyền
thống trị dân chúng và phải chịu trách nhiệm trước thượng đế; nhân dân phải
phục tùng tuyệt đối nhà vua (đại diện phái này có Luther, Bossuet, Stahl...)
- Phái dân quyền cho rằng: Thượng đế trao cho nhân dân quyền lực
rồi nhân dân ủy thác cho nhà vua, cùng vua cam kết rằng vua phải trị vì một
cách công minh và chỉ như vây nhân dân mới phục tùng nhà vua; nếu vua thi

1
hành quyền lực một cách bạo ngược thì nhân dân có quyền vùng dậy và
phản kháng lại (đại biểu phái này có CalvIn, Langnet, Althisius...)
b. Thuyết gia trưởng:
Các nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng lại cố gắng chứng minh rằng:
“Nhà nước ra đời là kết quả phát triển của gia đình và quyền gia trưởng; là
hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người, vì vậy cũng như gia
đình, Nhà nước tồn tại trong mọi xã hội, quyền lực Nhà nước về bản chất
giống như quyền lực gia trưởng của người đứng đầu gia đình” (đại biểu của
thuyết này có Aristote, Bodin, More...)
c. Thuyết khế ước xã hội:
Đến khoảng thế kỷ 16, 17,18 đã xuất hiện hàng loạt quan niệm mới về
nguồn gốc Nhà nước. Nhằm chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của Nhà
nước phong kiến, đòi hỏi sự bình đẳng của giai cấp tư sản trongviệc tham
gia nắm giữ quyền lực Nhà nước, nên đa số các học giả tư sản đều tán thành
quan điểm cho rằng sự ra đời của Nhà nước là sản phẩm của một khế ước
(hợp đồng) được ký kết, trước hết là giữa những con người sống trong trạng
thái tự nhiên không có Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước phản ánh lợi ích của các
thành viên trong xã hội và mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu Nhà nước
phục vụ họ, bảo vệ lợi ích của họ. Nguồn gốc của Nhà nước là khế ước xã
hội nên chủ quyền Nhà nước thuộc về nhân dân. Trong trường hợp Nhà
nước không giữ được vai trò của mình, các quyền tự nhiên bị vi phạm thì
khế ước sẽ mất hiệu lực và nhân dân có quyền lật đổ Nhà nước và ký kết khế
ước mới.
Sự xuất hiện thuyết khế ước xã hội về nguồn gốc Nhà nước đánh dấu
bước phát triển nhận thức của con người về nguồn gốc Nhà nước. Về mặt
lịch sử, thuyết khế ước xã hội phủ nhận thuyết thần quyền về sự ra đời của
Nhà nước, đồng thời coi quyền lực Nhà nước là sản phẩm hoạt động của con
người. Vì vậy, thuyết khế ước xã hội thực sự trở thành cơ sở cho thuyết dân
chủ cách mạng và cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản, lật đổ ách thống trị
phong kiến. Với ý nghĩa đó, nó có tính cách mạng và giá trị lịch sử to lớn.
Nhưng học thuyết này vẫn còn hạn chế căn bản vì vẫn giải thích
nguồn gốc Nhà nước trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm, coi Nhà nước được lập
ra do ý muốn, nguyện vọng chủ quan của các bên tham gia khế ước, không
giải thích được cội nguồn vật chất và bản chất giai cấp của Nhà nước (đại
biểu của thuyết này có Hobbles, Locke, Montesquieu...)
d. Một số học thuyết khác:
Ngoài những học thuyết nêu trên, một số học thuyết khác tuy mức độ
phổ biến có hạn chế hơn nhưng đã xuất hiện như:
- Thuyết bạo lực: cho rằng Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử
dụng bạo lực của Thị tộc này đối với Thị tộc khác, mà kết quả là Thị tộc

2
cHiến thắng “nghĩ ra” một hệ thống cơ quan đặc biệt - Nhà nước, để nô dịch
kẻ cHiến bại (đại biểu của phái này có Hume, Duhring...)
- Thuyết tâm lý: Nhà nước xuất hiện do nhu cầu tâm lý của con
người nguyên thủy luôn luôn mong muốn phụ thuộc vào thủ lĩnh, giáo sĩ...
Vì vậy, Nhà nước là tổ chức của những siêu nhân có sứ mệnh lãnh đạo xã
hội (đại diện cho phái này có Phơreder, L.Petơraitki....)
• Nhận xét: Nhìn chung, do hạn chế về mặt lịch sử, do nhận thức còn
thấp kém, hoặc do bị chi phối bởi lợi ích giai cấp hay cố tình giải thích sai
lệch những nguyên nhân đích thực làm phát sinh Nhà nước, nhằm che đậy
bản chất Nhà nước. Nên các học thuyết trên chưa giải thích được đúng
nguồn gốc của Nhà nước. (Những học thuyết tuyên truyền tính chất thần
thánh, tôn giáo, duy tâm về Nhà nước nhằm ru ngủ quần chúng bằng niềm
tin số phận, duy trì sự thống trị của giai cấp cầm quyền; hoặc như giai cấp
tư sản thì lại tuyên truyền cho tính chất “siêu giai cấp” của Nhà nước tư
sản, xuyên tạc hoặc che đậy bản chất của Nhà nước). Đa số họ khi xem xét
sự ra đời của Nhà nước đều tách rời những điều kiện vật chất của xã hội,
tách rời những nguyên nhân kinh tế, và chứng minh rằng Nhà nước là một
thiết chế tồn tại trong xã hội; một lực lượng đứng trên xã hội, đứng ngoài xã
hội để giải quyết các tranh chấp, điều hòa mâu thuẫn xã hội nhằm bảo đảm
sự phồn vinh cho xã hội.Theo đó, Nhà nước không thuộc giai cấp nào, Nhà
nước là của tất cả mọi người và xã hội văn minh mãi mãi vẫn có Nhà nước.
2. Học thuyết Mác- Lênin về nguồn gốc Nhà nước.
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu khoa học của xã hội
loài người, với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chứng minh một cách khoa học rằng
Nhà nước không phải là những hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà
nước là một phạm trù lịch sử có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong.
Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của xã
hội loài người, Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển đến một trình độ
nhất định và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó
mất đi. Những luận điểm quan trọng về sự xuất hiện Nhà nước được trình
bày trong các tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước” (Ph.Ăngghen) và “Nhà nước và cách mạng” (V.I.Lênin)
a.Chế độ cộng sản nguyên thủy và quyền lực thị tộc.
Xã hội loài người không phải khi nào cũng có Nhà nước. Lịch sử đã
chứng minh rằng, xã hội loài người đã có một thời kỳ dài không có Nhà
nước. Đó là thời kỳ lịch sử của xã hội cộng sản nguyên thủy (CSNT) – hình
thái KT-XH đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người.
* Cơ sở kinh tế của xã hội CSNT là chế độ sở hữu chung (Công hữu)
về Tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động.

3
Điều này được qui định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
còn thấp kém, công cụ lao động thô sơ, con người chưa nhận thức đúng đắn
về thiên nhiên và bản thân mình. Họ luôn trong tình trạng hoảng sợ, bất lực
trước những tai họa của thiên nhiên thường xuyên xảy đến, năng suất lao
động thấp. Trong điều kiện đó, con người không thể sống riêng biệt mà phải
dựa vào nhau, cùng chung sống, cùng lao động và hưởng thụ những thành
quả lao động chung (được đặc trưng bằng nguyên tắc bình quân). Điều này
dẫn đến sự bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không ai có tài sản riêng,
không có người giàu, kẻ nghèo, không có tình trạng người nào chiếm đoạt
tài sản của người kia. Xã hội chưa phân chia thành giai cấp và không có đấu
tranh giai cấp.
* Cơ sở xã hội: Tế bào của xã hội không phải là gia đình mà là thị
tộc.
Thị tộc được tổ chức theo huyết thống, nền tảng vật chất là kinh tế tập thể
và quyền sở hữu công cộng.Ở gia đoạn đầu, do những điều kiện về KT-XH
và hôn nhân phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ nên các thị tộc
được tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Dần dần, sự phát triển của nền KT-XH đã
tác động làm thay đổi quan hệ trong hôn nhân, địa vị của người phụ nữ trong
thị tộc cũng thay đổi. người đàn ông giữ vai trò chủ đạo trong đời sống thị
tộc và chế độ mẫu hệ đã chuyển thành chế độ phụ hệ.
Ở thời kỳ này đã có sự phân công lao động nhưng mới là sự phân công
lao động tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già và trẻ nhỏ để thực
hiện các loại công việc khác nhau chứ chưa mang tính chất xã hội (phân
công lao động theo lứa tuổi và giới tính).
Tóm lại: Công hữu TLSX+SPLĐ → Mọi người đều bình đẳng
→Không có sản phẩm dư thừa → Không có tư hữu →Không có phân
chia giai cấp + đấu tranh giai cấp → Không có Nhà nước.
* Quyền lực và các qui phạm xã hội trong chế độ CSNT.
Quyền lực thị tộc: Trong xã hội CSNT đã có quyền lực nhưng đó là
thứ quyền lực xã hội được tổ chức và thực hiện dựa trên cơ sở của những
nguyên tắc dân chủ thực sự.Quyền lực đó do toàn xã hội tổ chức ra và phục
vụ lợi ích cho cả cộng đồng được thực hiện thông qua thiết chế tự quản của
người dân với các cơ quan quản lý gồm có Hội đồng thị tộc, Tù trưởng và
các thủ lĩnh quân sự.
+ Hội đồng thị tộc: là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc, trong đó
thành viên là tất cả mọi người lớn tuổi không phân biệt đàn ông hay đàn bà.
HĐTT có quyền quyết định tất cả các vấn đề quan trọng của thị tộc (tổ chức
lao động sản xuất, tiến hành chiến tranh, tổ chức các nghi lễ tôn giáo, giải
quyết tranh chấp nội bộ...).Các quyết định của HĐTT thể hịên ý chí chung
và có tính bắt buộc chung đối với mọi thành viên trong thị tộc. Mặc dù trong

4
thị tộc chưa có các tổ chức cưỡng chế đặc biệt như: Toà án, cảnh sát ...
nhưng quyền lực xã hội có hiệu lực rất cao và đã thể hiện tính cưỡng chế
mạnh mẽ.
HĐTT bầu ra những người đứng đầu thị tộc như tù trưởng, thủ lĩnh
quân sự... để thực hiện quyền lực và quản lý những công việc chung. Những
người này có quyền lực rất lớn nhưng quyền lực của họ hoàn toàn không dựa
vào bộ máy cưỡng chế đặc biệt mà dụa vào tập thể cộng đồng, trên cơ sở uy
tín cá nhân, sự tín nhiệm và sự ủng hộ của các thành viên trong thị tộc.
Những người đứng đầu thị tộc không có một đặc quyền, đặc lợi nào so với
các thành viên khác. Họ có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu uy tín không
còn và không được tập thể cộng đồng ủng hộ nữa.
Qui phạm xã hội: Trong xã hội CSNT, chưa có pháp luật nhưng đã
tồn tại những qui tắc xử sự chung thống nhất – đó là các qui phạm xã hội thể
hiện ý chí chung của tất cả mọi thành viên trong xã hội bao gồm các tập
quán và tín Điều tôn giáo.
Tập quán luôn gắn liền với các qui phạm đạo đức và tôn giáo và nhiều
khi đồng nhất với chúng. Do nhu cầu khách quan của xã hội cần có một trật
tự, trong đó các thành viên phải tuân thủ những chuẩn mực chung, thống
nhất phù hợp với những điều kiện của xã hội và lợi ích của tập thể, các tập
quán đã dần dần được hình thành một cách tự phát, dần dần được xã hội
chấp nhận và trở thành những qui tắc xử sự chung mang tính chất đạo đức
của xã hội. Do trình độ nhận thức thấp kémcủa con người, nhiều tín Điều tôn
giáo cũng được mọi người chấp nhận và nhiều khi được coi là những chuẩn
mực tuyệt đối thiêng liêng cho xử sự của con người, vì vậy được mọi nguời
tuân theo một cách tự nguyện.Việc tuân theo các quy tắc xử sự đó dường
như đã trở thành thóI quen của các thành viên do đó QPXH có tính cưỡng
chế mạnh mẽ, các cá nhânvi phạm có thể phải chịu các biên pháp cưỡng chế
khắc nghiệt (dẫn chứng)
* Mối quan hệ giữa thị tộc – bào tộc - bộ lạc
Thị tộc là tổ chức tế bào cơ sở của xã hội CSNT, là một cộng đồng xã
hội độc lập. Nhưng cùng với sự phát triển của xã hội, do nhiều yếu tố khác
nhau tác động (chế độ ngoại tộc hôn) đã đòi hỏi các thị tộc phải mở rộng các
quan hệ với các thị tộc khác dẫn đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ lạc.
Bào tộc là một liên minh bao gồm nhiều thị tộc gộp lại. Tổ chức
quyền lực của bào tộc tương tự như của thị tộc nhưng ở chừng mực nhất
định sự tập trung quyền lực cao hơn. Hội đồng bào tộc bao gồm các tù
trưởng, thủ lĩnh quân sự (đã không phải là tất cả các thành viên của bào tộc).
Mặc dù phần lớn các công việc trong bào tộc vẫn do hội nghị tất cả các
thành viên của bào tộc quyết định nhưng trong nhiều truờng hợp chỉ do hội
đồng bào tộc quyết định.

5
Bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc có liên kết với nhau, tổ chức quyền lực
tương tự như thị tộc, bào tộc nhưng đã thể hiện mức độ tập trung quyền lực
cao hơn. Tuy nhiên, quyền lực vẫn mang tính xã hội, chưa mang tính giai
cấp.
b. Sự tan rã của chế độ CSNT và sự xuất hiện của Nhà nước.
Xã hội thị tộc - bộ lạc không biết đến Nhà nước nhưng chính trong
lòng nó đã nảy sinh những tiền đề vật chất cho sự ra đời của Nhà nước.
Những nguyên nhân làm cho xã hội tan rã đồng thời là những nguyên nhân
làm xuất hiện Nhà nước.
Đóng vai trò quan trọng trong việc làm tan rã chế độ cộng sản nguyên
thủy, chuyển chế độ cộng sản nguyên thủy lên một hình thái KT-XH mới
cao hơn đó là ba lần phân công lao động xã hội, mỗi lần tạo ra những tiền đề
mới dẫn đến sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy.
* Lần thứ nhất: nghề chăn nuôi phát triển mạnh đã tách ra khỏi
trồng thời trở thành một ngành kinh tế độc lập.
Hệ quả:
- Sự xuất hiện tài sản tư hữu việc con người thuần dưỡng được động
vật, hình thành nên đàn gia súc và trở thành nguồn tích lũy quan trọng, là
mầm móng của chế độ tư hữu. Ngành trồng trọt cũng có những bước phát
triển mới, năng suất lao động tăng nhanh, sản phẩm làm ra càng nhiều. Con
người đã tạo ra nhiều của cải hơn mức cần thiết để duy trì cuộc sống của
chính bản thân họ. Do đó đã xuất hiện những sản phẩm dư thừa và phát sinh
khả năng chiếm đoạt những sản phẩm dư thừa ấy, chế độ tư hữu xuất hiện,
xã hội đã phân chia thành kẻ giàu người nghèo.
- Do sự phát triển mạnh mẽ của nghề chăn nuôi và trồng trọt một nhu
cầu mới đã nảy sinh: nhu cầu về sức lao động. Vì vậy, trước kia những tù
binh bị bắt trong cHiến tranh thường bị giết chết thì nay được giữ lại làm nô
lệ để bóc lộc sức lao động, kết cấu xã hội phân chia thành chủ nô và nô lệ.
- Chế độ tư hữu xuất hiện đã làm thay đổi chế độ hôn nhân: chế độ
hôn nhân một vợ một chồng thay thế cho chế độ quần hôn; đã xuất hiện chế
độ gia trưởng đặc trưng bằng vai trò tuyệt đối và quyền lực vô hạn của người
chồng trong gia đình –“Gia đình cá thể đã trở thành một lực lượng đang đe
dọa thị tộc”. Bởi lẽ, đại gia đình phụ quyền đã được phân thành nhiều gia
đình nhỏ chỉ bao gồm vợ chồng và con cái. Mỗi gia đình nhỏ ấy là một đơn
vị kinh tếcó tài sản riêng (công cụ sản xuất, tư liệu lao động) và những thứ
ấy được truyền lại cho con cái từ đời này sang đời khác, càng củng cố thêm
chế độ tư hữu.
* Lần thứ 2: Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp.

6
Việc tìm ra kim loại và chế tạo công cụ lao động bằng kim loại đã nâng
cao năng suất lao động, nghề chế tạo đồ kim loại, nghề dệt, nghề gốm phát
triển.
Hệ quả:
- Xã hội hóa tầng lớp nô lệ. Sự tăng trưởng không ngừng của sản phẩm
lao động đã nâng cao giá trị sức lao động của con người. Sau nlần phân công
lao động thứ 1, nô lệ đã ra đời nhưng còn tính chất lẻ tẻ, thì ngày nay càng
phát triển và trở thnàh một lực lượng lao động phổ biến.
- Đã đẩy nhanh quá trình phân hóa xã hội làm cho sự phân biệt giữa kẻ
giàu và ngưòi nghèo, giũa chủ nô và nô lệ ngày càng sâu sắc, mâu thuẫn giai
cấp càng tăng.
* Lần thứ 3: Buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện.
Hệ quả:
- Đây là lần phân công lao động giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa
quyết định. Sự phân công này làm nảy sinh ra một giai cấp không còn tham
gia vào sản xuất nữa, mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm, đó là giai cấp
thương nhân.
- Nếu như ở hailần phân công lao động xã hội trước, những nguyên
nhân của sự hình thành giai cấp đều chỉ gắn liền với sản xuất mà thôi, thì ở
lần phân công này: “lần đầu tiên xuất hiện một giai cấp tuy không tham gia
sản xuất môtụ tý nào, nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuấ và
bắt những nguời sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế....và bóc lột cả
hai”- một giai cấp mà lịch sử loài người trước đó chưa hề biết đến.
- Hoàn thiện chế độ tư hữu. Xã hội phân hóa thành các giai cấp có lợi
ích đối kháng nhau.
Sự ra đời và bành trướng của kinh tế kéo theo sự xuất hiện của đồng
tiền (hàng hóa của các loại hàng hóa), nạn cho vay nặng lãi, quyền tư hữu về
ruộng đất và chế độ cầm cố phát triển đã tăng cường sự tích tụ, tập trung của
cải trong tay của một số ít người giàu có diễn ra nhanh chóng, đồng thời thúc
đẩy sự bần cùng hóa của quần chúng và sự tăng nhanh của đám đông dân
nghèo. Số nô lệ tăng lên rất đông cùng với sự cưỡng bức và bóc lột ngày
càng nặng nề của giai cấp chủ nô đối với họ; sự phân hóa giữa chủ nô và nô
lệ càng thêm sâu sắc.
⇒ KẾT LUẬN: Qua 3 lần phân công lao động xã hội đã làm cho nền KT-
XH có sự chuyển biến sâu sắc:
1.Các ngành kinh tế phát triển, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, đã
phát sinh khả năng chiếm đoạt tài sản dư thừa làm của riêng. Điều này làm
quá trình phân hóa nảy sinh và chế độ tư hữu ra đời (mâu thuẫn với chế độ
công hữu).

7
2.Hoạt động mang tính chuyên môn dẫn đếnviệc không nhất thiết phải
đòi hỏi lao động của cả tập thể nữa.
3.Chế độ hôn nhân 1 vợ, 1 chồng làm cho gia đình nhỏ tách khỏi gia
đình lớn, hình thành các đơn vị kinh tế độc lập, có tài sản riêng, tụ tiến hành
sản xuất.
4.Những hoạt động thương nghiệp, sự thay đổi nghề nghiệp và sự
nhượng quyền sở hữu đất đai đã đòi hỏi phải di động và thay đổi chỗ ở, phá
vỡ cuộc sống định cư của thị tộc (các thành viên của thị tộc, bộ lạc phải
cùng chung sống trên một lãnh thổ mà chỉ mình họ cư trú mà thôi).
5.Trong xã hội hình thành giai cấp thống trị (chủ nô: quý tộc thị tộc
trong công xã, bộ lạc; thương nhân; tăng lữ) có quyền và lợi ích mâu thuẫn
sâu sắc với giai cấp bị trị (bình dân, nô lệ), không thể Điều hòa được.
Tất cả những yếu tố trên đã làm đảo lộn đời sống thị tộc, phá vỡ tính
chất khép kín của thị tộc. Tổ chức thị tộc với hệ thống quản lý trước đây trở
nên bất lực, không còn phù hợp. Để Điều hành, quản lý xã hội mới đòi hỏi
phải có một tổ chức mới khác trước về chất. Tổ chức đó chỉ đại diện cho
quyền lưọi của giai cấp nắm ưu thế về chính trị, nhằm thực hiện sự thống trị
giai cấp, dập tắt sự xung đột công khai hoặc cùng lắm là giữ cho chúng ở
trong vòng trật tự, tổ chức đó là Nhà nước.
Như vậy, Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ CSNT.
TIền đề kinh tế cho sự xuất hiện của Nhà nước là sự xuất hiện chế độ tư hữu
về tài sản trong xã hội. TIền đề kinh tế là cơ sở vật chất tạo ra tiền đề xã hội
cho sự ra đời của Nhà nước – Đó là sự phân chia xã hội thành các giai cấp
mà lợi ích cơ bản giữa các gai cấp và tầng lớp này là hoàn toàn đối kháng
với nhau đến mức không thể điều hòa được. Do vậy, Nhà nước là một hiện
tượng thuộc về bản chất của xã hội có giai cấp.
Qúa trình hình thành Nhà nước có thể được tóm tắt bằng giản đồ sau:
Sự phát triển của LLSX → KT và có sự phân công lao động xã hội →
Sự xuất hiện của cải dư thừa và chế độ tư hữu → Sự hình thành giai cấp
→ Mâu thuẫn giai cấp đối kháng không thể Điều hòa được → Nhà nước
ra đời.
Ở Việt Nam, Nhà nước xuất hiện và khoảng thiên niên kỷ 2 TCN.
Cũng như các Nhà nước phương Đông khác, sự phân chia giai cấp trong xã
hội cổ Việt Nam chưa đến mức gay gắt. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ,
nhu cầu xây dựng, quản lý những công trình trị thuỷ đảm bảo nền sản xuất
nông nghiệp và tổ chức lực lượng chống giặc ngoại xâm đã thúc đẩy quá
trình liên kết các tộc người và hoàn thiện bộ máy quản lý. Kết quả này đã
cho ra đời Nhà nước Việt Nam đầu tiên - Nhà nước Văn Lang của các Vua
Hùng.
II. BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC.

8
1.Tính giai cấp của Nhà nước.
Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của Nhà nước, các nhà kinh
điển của CN Mác – Lênin đi đến kết luận: “Nhà nước là sản phẩm và biểu
hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể Điều hòa đươc”. Nghĩa là
Nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể
hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Bản chất đó thể hiện trước hết ở chỗ Nhà
nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay của giai cấp cầm
quyền, là công cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trị giai cấp.
Trong XH có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp
khác đều thể hiện dưới 3 loại quyền lực:quyền lực chính trị, quyền lực kinh
tế và quyền lực tư tưởng, trong đó quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định,
là cơ sở để đảm bảo cho sự thống trị giai cấp. Quyền lực kinh tế có ý nghĩa
quan trọng vì nó tạo ra cho người chủ sở hữu khả năng có thể bắt người bị
bóc lột phải phụ thuộc về mặt kinh tế. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế
không thể duy trì được các quan hệ bóc lột. Vì vậy, cần phải có Nhà nước,
một bộ máy cưỡng chế đặc biệt, để củng cố quyền lực của giai cấp thống trị
về kinh tế và để đàn áp sự phản kháng của các giai cấp bị bóc lột. Nhờ có
hNhà nước mà giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về
chính trị. NóI cách khác, giai cấp thống trị đó trở thành chủ thể của quyền
lực kinh tế và quyền lực chính trị.
Nhà nước là một bộ máy quyền lực do giai cấp thống trị tổ chức ra để
đàn áp các giai cấp đối địch. Với ý nghĩa đó, Nhà nước chính là một tổ chức
đặc biệt của quyền lực chính trị. giai cấp thống trị sử dụng Nhà nước để tổ
chức và thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp mình.Thông qua Nhà
nước, ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung, thống
nhất và hợp pháp hóa thành ý chí của Nhà nước và do đó buộc các giai cấp
khác phải tuân theo trật tự phù hợp với lợi ích giai cấp thống trị. Làm như
vậy, giai cấp thống trị đã thực hiện sự chuyên chính của giai cấp mình đối
với giai cấp khác. Công cụ chủ yếu để thực hiện sự chuyên chính giai cấp là
Nhà nước, một bộ máy do giai cấp thống trị tổ chức ra.
Nắm quyền lực về kinh tế và chính trị, giai cấp thống trị cũng bằng
con đường Nhà nước để xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư
tưỏng thống trị trong XH, buộc các giai cấp khác phải phụ thuộc mình về
mặt tư tưởng.
Nhà nước là công cụ sắc bén nhất thể hiện và thực hiện ý chí của giai
cấp cầm quyền. Nó củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị
trong xã hội. Do vậy, Nhà nước bao giờ cũng mang bản chất giai cấp sâu
sắc. Trong các Nhà nước bóc lột, Nhà nước là bộ máy đặc biệt nhằm duy trì
sự thống trị về kinh tế, chính trị, tư tưởng của thiểu số giai cấp bóc lột với
đông đảo quần chúng lao động, thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc

9
lột. Trong Nhà nước XHCN, Nhà nước là bộ máy để củng cố địa vị thống
trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, bảo vệ sự
thống trị của đa số với thiểu số giai cấp bóc lột đã bị lật đổ.
2.Vai trò xã hội của Nhà nước.
Vai trò xã hội và giá trị xã hội của Nhà nước thể hiện ở chỗ: Nhà nước
giải quyết các công việc mang tính xã hội, phục vụ lợi ích chung của xã hội,
đặc biệt trong thời đại ngày nay như: xây dựng các công trình phúc lợi xã
hội, trường học, bệnhviện, công viên, đường sá; bảo vệ môi trường, phòng
và chống các dịch bệnh (Bệnh cúm gà H5N1 – 2004-2006); chính sách giúp
đỡ người nghèo (Chương trình “Nối vòng tay lớn”, “Tháng hành động vì
người nghèo”)... Do vậy, Nhà nước là một tổ chức quyền lực công, là
phương thức tổ chức và bảo đảm các lợi ích chung của xã hội.
Điều đó nói lên rằng, Nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa
dạng, nó vừa mang bản chất giai cấp lại vừa mang tính xã hội.
3. Các dấu hiệu dặc trưng của Nhà nước
- Thứ nhất, Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt,
không còn hòa nhập với dân cư nữa; chủ thể của quyền lực này là giai cấp
thống trị về kinh tế và chính trị. Để thực hiện quyền lực này và để quản lý xã
hội, Nhà nước có một lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý; họ
tham gia vào các cơ quan Nhà nước và hình thành một bộ máy cưỡng chế để
duy trì địa vị của giai cấp thống trị.
- Thứ hai, Nhà nước phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính
lãnh thổ, không phụ thuộc vào huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính (khác
với tổ chức Thị tộc tập hợp các thành viên của mình theo dấu hiệu huyết
thống).Việc phân chia này dẫn đến hình thành các cơ quan quản lý của từng
đơn vị hành chính lãnh thổ. Không một tổ chức xã hội nào trong xã hội có
giai cấp lại không có lãnh thổ riêng của mình, lãnh thổ là dấu hiệu đặc trưng
của Nhà nước. Mọi Nhà nước đều có lãnh thổ riêng của mình để cai trị hay
quản lý, mọi Nhà nước đều chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính như
tỉnh, huyện, xã ... Do có dấu hiệu về lãnh thổ mà xuất hiện chế định quốc
tịch - chế định quy định sự lệ thuộc của một công dân vào một Nhà nước và
một vùng lãnh thổ nhất định; thông qua đó Nhà nước thiết lập quan hệ với
công dân của mình.
- Thứ ba, Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia mang
nội dung chính trị pháp lý, nó thể hiện ở quyền tự quyết của Nhà nước về
mọi chính sách đối nội và đối ngoại không phụ thuộc vào bất kì một quốc
gia nào khác. Chủ quyền quốc gia là một thuộc tính không tách rời Nhà
nước, có tính tối cao với đất nước, các tổ chức và dân cư. Dấu hiệu chủ
quyền Nhà nước còn thể hiện sự độc lập, bình đẳng giữa các quốc gia với
nhau dù đó là quốc gia lớn hay nhỏ.

10
- Thứ tư, Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt
buộc đối với mọi công dân. Với tư cách là người đại diện chính thức của
toàn xã hội, Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và
đảm bảo thức hiện, có thể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Pháp luật do Nhà
nước ban hành, nên nó có tính chất bắt buộc chung, mọi người đều phải tôn
trọng pháp luật.
Nhà nước và pháp luật có mối liên hệ phụ thuộc: không thể có Nhà
nước mà thiếu pháp luật và ngược lại.
-Thứ năm, Nhà nước quy định và thực hiệnviệc thu các loại thuế dưới
các hình thức bắt buộc, với số lượng và thời hạn ấn định trước. Sở dĩ Nhà
nước phải đặt ra các loại thuế vì bộ máy của Nhà nước bao gồm một lớp
người đặc biệt, tách khỏi lao động sản xuất để thực hiện chức năng quản lý,
bộ máy đó phải được nuôi dưỡng bằng nguồn tài chính lấy từ khu vực sản
xuất trực tiếp. Thiếu thuế bộ máy đó không thể tồn tại được. Nhưng mặt
khác, chỉ có Nhà nước mới có đặc quyền đặt ra các loại thuế và thu thuế, vì
Nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách đại biểu chính thức của toàn xã hội.
Những đặc điểm trên đã nói lên sự khác nhau giữa Nhà nước với các
tổ chức chính trị - xã hội khác đồng thời cũng phản ánh vị trí và vai trò của
Nhà nước trong xã hội có giai cấp: là một tổ chức đặc biệt, giữ vị trí trung
tâm của hệ thống chính trị, có thể tác động một cách toàn diện, mạnh mẽ và
hiệu quả với đời sống xã hội, thể hiện lợi ích giai cáp thống trị một cách tập
trung nhất.
* Từviệc xem xét nguồn gốc, bản chất và các đặc trưng của Nhà nước
có thể đưa ra định nghĩa về Nhà nước như sau:
“Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị có bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội
nhằm thể hiện và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội
có giai cấp đối kháng (của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới
sự lãnh đạo của ĐCS trong XHCN)".
III. CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC TRONG LỊCH SỬ.
1.Khái niệm kiểu Nhà nước.
Lịch sử xã hội loài người cho đến nay đã trải qua 5 hình thái KT-XH
trong đó có 4 hình thái KT-XH có giai cấp là: CHNL,PK,TBCN và XHCN.
Tương ứng với 4 hình thái KT-XH đó, có 4 kiểu Nhà nước:
- KIểu Nhà nước chiếm hữu nô lệ
- KIểu Nhà nước phong kiến
- KIểu Nhà nước tư sản
- KIểu Nhà nước XHCN
RIêng ở thời kỳ CSNT, do chưa có sự xuất hiện và tồn tại Nhà nước
nên chưa có chưa có kiểu Nhà nước.

11
Vậy: KIểu Nhà nước là tổng thể các dấu hiệu cơ bản của Nhà nước
thể hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những điều kiện phát sinh, tồn
tại và phát triển của Nhà nước trong một hình thái KT-XH nhất định.
2.Đặc điểm của kiểu Nhà nước.
- Các kiểu Nhà nước Chủ nô, Phong kiến, Tư sản tuy có những đặc
điểm riêng về bản chất, nội dung, chức năng, vai trò xã hội nhưng nhìn
chung chúng đều là “Nhà nước theo đúng nghĩa”:
+ Là kiểu Nhà nước bóc lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư
hữu về TLSX (chỉ khác nhau ở giai cấp nào tư hữu).
+ Là công cụ để duy trì và bảo vệ sự thống trị của giai cấp bóc lột
đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Cả 3 giai cấp đều đại diện
cho thiuêủ số bóc lột.
+ Cả 3 kiểu Nhà nước này đều duy trì, củng cố quan hệ bóc lột, làm
cho các quan hệ đó ngày càng trở nên hoàn thiện.
- So với 3 kiểu Nhà nước trên, Nhà nước XHCN là kiểu Nhà nước mới
với bản chất khác hơn cả và là kiểu Nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội
loài người, theo Lênin đây không còn Nhà nước theo nguyên nghĩa của nó
nữa mà là “Nhà nước nửa Nhà nước”, thể hiện:
+ Nhà nước XHCN thiết lập chế độ công hữu về TLSX và bảo vệ nó.
+ Nhà nước XHCN là Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động trong
xã hội (thể hiện ngay trong Điều 2 Hiến pháp1992).
+ Nhà nước XHCN hạn chế và dần dần đi đến xoá bỏ quan hệ bóc lột,
xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái, tất cả vì giá trị con người.
Như vậy, kiểu Nhà nước là một phạm trù tổng hợp, nó giúp chúng ta
tìm hiểu một cách sâu sắc bản chất, chức năng, vai trò xã hội của các Nhà
nước trong các hình thái KT-XH khác nhau, chỉ ra các điều kiện tồn tại và
xu hướng phát triển của chúng trong lịch sử.
* Sự thay đổi kiểu Nhà nước này bằng kiểu Nhà nước khác mới hơn,
tiến bộ hơn là một quá trình lịch sử tự nhiên. Quá trình đó có mấy đặc điểm
sau:
1. Mang tính tất yếu khách quan: Tới 1 giai đoạn phát triển nào đó, các
lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những QHSX hiện
có⇒Từ chỗ là những hình thức của các LLSX, những quan hệ ấy trở thnàh
những xIềng xích của các LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại của 1 cuộc CMXH.
Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn
ít nhiều nhanh chóng.
2. Được thực hiện bằng một cuộc CMXH: các giai cấp thống trị đại
diện cho PTSX cũ không bao giờ tự nguyện rời bỏ Nhà nước của mình, do
vậy, giai cấp đại diện cho PTSX mới phải tiến hành cuộc CMXH đấu tranh
với giai cấp thống trị trước đó.

12
Kiểu Nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ và hoàn thiện hơn kiểu Nhà
nước trước, bởi vì nó dựa trên PTSX mới và thúc đẩy sự phát triển của
phương thức đó.
IV.HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC
* Khái niệm:Hình thức Nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực Nhà
nước và những phương pháp để tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước.
Hình thức Nhà nước là một khái niệm chung được hình thành từ 3 yếu tố:
- Hình thức chính thể
- Hình thức cấu trúc Nhà nước
- Chế độ chính trị.
1.Hình thức chính thể.
- Khái niệm: HTCT là cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực tối
cao của Nhà nước, cơ cấu, trình tự thành lập và mối liên hệ giữa chúng;
mức độ tham gia của nhân dân vàoviệc thiết lập cơ quan này.
- HTCT có 2 dạng cơ bản:
a)Chính thể quân chủ: là hình thức trong đó quyền lực tối cao của Nhà
nước tập trung toàn bộ (hay 1 phần) vào trong tay người đứng đầu Nhà nước
theo nguyên tắc thừa kế, thế tập (Vua, Hoàng đế, Nữ hoàng, Quốc
vương…).
Với việc tập trung quyền lực tối cao của Nhà nước một phần hay toàn
bộ vào trong tay người đứng đầu Nhà nước theo nguyên tăc truyền ngôi mà
chính thể quân chủ có 2 biến dạng: Quân chủ tuyệt đối và quân chủ hạn chế.
* Chính thể Quân chủ tuyệt đối: Ở các quốc gia theo hình thức này thì
hoàng đế là người đứng đầu Nhà nước có quyền lực vô hạn. Các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp tối cao đều nằm trong tay hoàng đế. Hình thức này
chủ yếu tồn tại trong 2 kiểu Nhà nước đầu tiên là Nhà nước Chủ nô và Nhà
nước Phong kiến (Vd: Nhà nước Phong kiến Việt Nam), đến nay không còn
tồn tại nữa.
* Chính thể quân chủ hạn chế (Quân chủ lập Hiến): Người đứng đầu
Nhà nước hình thành bằng con đường truyền ngôi chỉ nắm một phần quyền
lực tối cao, bên cạnh họ còn có các cơ quan Nhà nước hình thành bằng con
đường bầu cử chia sẻ quyền lực Nhà nước với họ. Ví dụ: Trong các Nhà
nước Tư sản có chính thể quân chủ hạn chế, Nghị viện nắm quyền Lập pháp,
Chính phủ nắm quyền Hành pháp và quyền Tư pháp thuộc về Toà án. Hoàng
đế là nguyên thủ quốc gia nhưng không có thực quyền, thông thường chỉ đại
diện cho truyền thống và tình đoàn kết dân tộc (Đã có Vua thì không có
Hiến pháp, đã có Hiến phápthì Vua không có thực quyền, Do đó Hiến
pháplà công cụ hạn chế quyền lực của Vua).
Phụ thuộc vào sự hạn chế đó, người ta phân biệt 2 loại: Quân chủ nhị
nguyên và Quân chủ đại nghị.

13
+ Quân chủ nhị nguyên: Là tính song phương quyền lực của Vua và
Nghịviện (tồn tại vào cuối thế kỷ XIX ở Đức, Nhật, hiện nay chính thể
nàykhông còn nữa). Theo HTCT này thì:
+ Nghịviện nắm quyền lập pháp.
+ Vua đứng đầu cơ quan hành pháp
+ Hệ thống Toà án chịu ảnh hưởng trực tiếp của Vua.
+ Vua có quyền can thiệp đến quyền Lập pháp của Nghịviện thông
qua quyền Vectơ (quyền phủ quyết các đạo luật đã được Nghịviện thông
qua).
+ Quân chủ đại nghị: là hình thức chính thể phổ biến hiện nay trong
các Nhà nước tư sản thậm chí ngay cả trong Nhà nước tư sản phát triển
(Anh, Hà Lan, Bỉ, Thuỵ ĐIển, Nauy, Tây Ban Nha, Thuỵ ĐIển, Nhật Bản).
Ở các quốc gia theo HTCT này thì:
+ Vua là NTQG, thay mặt cho Nhà nước về đối nội, đối ngoại nhưng
không có thực quyền, chỉ là hình thức, không đóng vai trò gì đáng kể trong
hệ thống chính trị, chỉ được coi như chế định tiềm tàng trong trường hợp có
khủng hoảng chính trị (VD: Tây Ban Nha).
+ Nghịviện nắm quyền lập pháp.
+ Chính phủ nắm quyền hành pháp, đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng
do NTQG bổ nhiệm theo nguyên tắc Đảng nào chiếm đa số ghế trong
Nghịviện thì có thể đứng ra thành lập Chính phủ và đương nhiên thủ lĩnh
của Đảng đó được bổ nhiệm làm Thủ tướng.
+ Thành viên Chính phủ do Thủ tướng đề xuất và phải được Nghị
viện thông qua;Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện chứ không chịu
trách nhiệm trước NTQG.
+ Trong trường hợp bất tín nhiệm Chính phủ, Nghị viện có thể giải
tán Chính phủ và thành lập Chính phủ mới. Ngược lại, Chính phủ có thể lật
đổ Nghịviện trước thời hạn, giải tán Nghị viện và vận động bầu Nghị viện
mới.
b)Chính thể Cộng hoà: là HTCT trong đó quyền lực tối cao của Nhà
nước thuộc về những cơ quan đại diện được bầu ra trong những thời hạn
nhất định. HTCT Cộng hoà là hình thức phổ biến hơn cả ở các nước tư bản
phát triển hiện nay. Ở đây, mọi tàn tích của chính thể quân chủ bị xoá bỏ.
Chính thể Cộng hoà là hình thức cai trị tiến bộ và dân chủ hơn so với Chính
thể quân chủ.
Có 2 loại HTCT Cộng hoà:
1.Chính thể Cộng hoà quý tộc: Chỉ có giai cấp quý tộc mới có quyền
bầu cử thành lập cơ quan Nhà nước. Tiêu biểu của hình thức này ở thời kỳ
Nhà nước Chủ nô có: Nhà nước Spác cổ đại (Thế kỷVII – IV TCN) và ở
Nhà nước La Mã cổ đại (Thế kỷ V – II TCN). Trong Nhà nước Spác và La

14
Mã cổ đại, quyền lực Nhà nước (chủ yếu là quyền lập pháp) nằm trong tay
một Hội đồng mà thành viên là các quý tộc giàu sang được bầu ra và được
giữ chức vụ suốt đời. Bên cạnh đó, có một số cơ quan thực hiện chức năng
hành pháp, giám sát và xét xử. Các cơ quan này đều được thành lập qua bầu
cử. Đại hội nhân dân (thành viên là tất cả những người đàn ông đến tuổi
trưởng thành – 30 tuổi trở lên- trong xã hội) vẫn tồn tại nhưng không có vai
trò quan trọng. Hoạt động của đại hội mang tính chất hình thức và thực tế bị
đặt dưới sự chỉ đạo của Hội đồng các quý tộc (Hội đồng trưởng lão Spác –
28 trưởng lão và 2 vua, trưởng lão là người từ 60 tuổi trở lên được tuyển
chọn trong hàng ngũ những quý tộc danh vọng;Viện nguyên lão La Mã).
2.Chính thể cộng hoà dân chủ: Quyền bầu cử thuộc về công dân. Tuy
nhiên, trên thực tế, chỉ trong Nhà nước DC XHCN, quyền bầu cử của nhân
dân mới được thực hiện đầy đủ (nam, nữ 18 tuổi trở lên). Còn ở Nhà nước
CHDC chủ nô hay CHDC tư sản thì qui định này chỉ mang tính hình thức
(VD: Chính thể CHDC chủ nô điển hình ở Aten (Thế kỷ V-IV TCN), trong
các Nhà nước này công dân là những người đàn ông tự do đến tuổi trưởng
thành – 30 tuổi- trong xã hội). Như vậy, công dân chỉ chiếm 1/5 dân số, số
còn lại là nô lệ không có quyền bầu cử).
Trong Nhà nước tư sản, Chính thể cộng hoà chia làm 3 loại:
- Cộng hòa Tổng thống:
+ NTQG là tổng thống, đồng thời là người đứng đầu Chính phủ do
nhân dân bầu (trực tiếp hoặc gián tiếp).
+ Đứng đầu Chính phủ là tổng thống và tổng thống bổ nhiẹm thành
viên của Chính phủ, vì vậy Chính phủ chịu trách nhiệm trước tổng thống
chứ không chịu trách nhiệm trước Nghị viện.
+ Nghịviện không có quyền bất tín nhiệm Chính phủ và ngược lại,
Chính phủ không có quyền lật đổ Nghị viện trước thời hạn.
+ Tổng thống có thể can thiệp đến quyền lập pháp của Nghịviện thông
qua quyền Véctơ (quyền phủ quyết các đạo luật đã được Nghị viện thông
qua).
+ Nghịviện có thể can thiệp vào công việc hành pháp của Chính phủ
thông quaviệc phủ quyết hoặc phê chuẩn ngân sách hoạt động hàng năm của
Chính phủ.
- Cộng hòa đại nghị (Đức, Ấn Độ, Ý, Hungary, SIngapho…):
+ Tổng thống là NTQG do Nghị viện bầu.
+ Thủ tướng đứng đầu Chính phủ do Tổng thống bổ nhiệm theo nguyên
tắc liên minh của đảng nào chiếm đa số ghế trong Nghị viện thì thủ lĩnh của
liên minh đó được bổ nhịêm làm Thủ tướng.
+ Nghị viện thành lập Chính phủ (thành viên Chính phủ do Thủ tướng
đề xuất, Tổng thống bổ nhiệm và phải được Nghị viện thông qua). Do đó,

15
Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện, không chịu trách nhiệm
trước tổng thống.
+ Chính phủ có thể lật đổ Nghị viện trước thời hạn và ngược lại, Nghị
viện có thể bất tín nhiệm Chính phủ, buộc Chính phủ phải từ chức.
- Cộng hòa lưỡng tính (Nga, Pháp): vừa mang đặc điểm của CHTT,
vừa mang đặc điểm của CHĐN.
+ Đặc điểm của CHTT: Tổng thống là NTQG, đồng thời là người lãnh
đạo Chính phủ do nhân dân trực tiếp bầu.
+ Đặc điểm của CHĐN: Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ,
thành viên Chính phủ và Thủ tướng do Tổng thống bổ nhiệm nhưng phải
được Nghị viện thông qua, như vậy Nghị viện thành lập Chính phủ.
+ Chính phủ vừa phải chịu trách nhiệm trước Tổng thống, vừa phải
chịu trách nhiệm trước Nghị viện.
* Chính thể cộng hoà XHCN (CuBa, Việt Nam, Trung Quốc, Triều
TIên): tuân theo 2 nguyên tắc cơ bản:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước.
- Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2.Hình thức cấu trúc Nhà nước.
- Khái niệm: HTCT là sự tổ chức Nhà nước thành các đơn vị hành
chính lãnh thổ và xác lập mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận hợp thành
Nhà nước, giữa cơ quan Nhà nước trung ương với cơ quan Nhà nước ở địa
phương
- Phân loại: Có 3 HTCT Nhà nước chủ yếu là Nhà nước đơn nhất và
Nhà nước liên bang.
a)Nhà nước đơn nhất (Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia, Lào,
Pháp):
- Là Nhà nước có chủ quyền quốc gia chung
- Có lãnh thổ toàn vẹn, thống nhất
- Các bộ phận hợp thành Nhà nước là các đơn vị hành chính - lãnh
thổ, không có chủ quyền quốc gia.
- Có bộ máy Nhà nước thống nhất trong toàn quốc
VD: CQ quyền lực CQ hành chính CQ xét xử CQ công tố
↓ ↓ ↓ ↓
Quốc hội Chính phủ TAND TC VKSNDTC
↓ ↓ ↓ ↓
HĐND Tỉnh UBND Tỉnh TAND Tỉnh VKSND Tỉnh
↓ ↓ ↓ ↓
HĐND Huyện UBND Huyện TAND Huyện VKSND Huyện

16
↓ ↓
HĐND Xã UBND Xã

- Có một hệ thống pháp luật thống nhất trong toàn quốc


- Công dân có 1 quốc tịch
b)Nhà nước liên bang: là Nhà nước gồm hai hay nhiều nước thành
viên hợp thành (Mỹ, Ấn Độ, MalayxIa, Mêhico, Áo, Đức, Thụy Sỹ, Achen
tina, Canada, Nga...)
- Trong Nhà nước liên bang, không chỉ có liên bang có dấu hiệu chủ
quyền quốc gia mà các nước thành viên cũng có dấu hiệu chủ quyền quốc
gia. Tuy nhiên, quyền tự quyết được các nước thành viên trao lại cho Nhà
nước liên bang. Vì vậy, họ không phải là chủ thể độc lập trong quan hệ quốc
tế.
- Trong Nhà nước liên bang tồn tại 2 hệ thống cơ quan quyền lực, một
cho toàn liên bang và một cho mỗi nước thành viên.
- Tồn tại 2 hệ thống pháp luật, một cho toàn liên bang, một cho mỗi
bang thành viên
* Nhà nước liên minh: Là do sự liên kết tạm thời của các Nhà nước
với nhau nhằm thực hiện một số mục đích nhất định. Sau khi đạt được mục
đích đó, Nhà nước liên minh có thể tự giải tán hoặc có thể phát triển thành
Nhà nước liên bang.
VD: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, từ 1776- 1787 là Nhà nước liên minh,
sau đó trở thành Nhà nước liên bang; Đức trong thời kỳ 1815-1867 là Nhà
nước liên minh.LIên minh Châu Âu EU đuợc hợp thành từ 15 nước thành
viên: Pháp, Đức, Ý, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, Đan
Mạch, Lucxambua, AIlen, Áo, HI Lạp, Scotlen và Anh.
3.Chế độ chính trị:
Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, biện pháp mà các cơ
quan Nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực Nhà nước.
Chế độ chính trị có quan hệ chặt chẽ với bản chất của Nhà nước, với
nội dung hoạt động của nó và đời sống chính trị xã hội nói chung.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp và Nhà nước, giai cấp thống trị sử
dụng nhiều biện pháp, phương pháp để thực hiện quyền lực Nhà nước, nhìn
chung có thể phân các phương pháp, biện pháp này thành hai loại chính:
phương pháp dân chủ và phương pháp phản dân chủ. Tương ứng với hai
phương pháp này là chế độ chính trị dân chủ và chế độ chính trị phản dân
chủ.
Trong chế độ chính trị dân chủ, giai cấp thống trị thường sử dụng chủ
yếu phương pháp giáo dục - thuyết phục. Tuy nhiên, phương pháp dân chủ
có nhiều dạng khác nhau, phụ thuộc vào bản chất của từng Nhà nước cụ thể,

17
như: dân chủ hình thức, dân chủ thực sự, dân chủ giả hiệu, dân chủ rộng
rãi...Ví dụ như chế độ dân chủ trong Nhà nước tư sản là biểu hiên cao độ của
chế độ dân chủ hình thức, còn chế độ dân chủ XHCN là dân chủ thực sự và
rộng rãi.
Trong chế độ chính trị phản dân chủ, giai cấp thống trị thường sử
dụng các hình thức, phương pháp mang nặng tính cưỡng chế, đỉnh cao của
chế độ này là chế độ độc tài, phát xít.
Như vậy, hình thức Nhà nước là sự hợp nhất của ba yếu tố: hình thức
chính thể, hình thức cấu trúc Nhà nước và chế độ chính trị, ba yếu tố này có
mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại chặt chẽ với nhau, thực
hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, phản ánh bản chất của Nhà
nước.

BẢNG 1: SƠ ĐỒ TÓM TẮT HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC

Hình thức nhà nước

Hình thức cấu trúc


Hình thức chính thể Nhà nước Chế độ chính trị
Nước

Là cách thức tổ chức cơ


Là cách thức tổ chức Nhà Nước Là cách thức cai trị và t
q quan quyền lực Nhà
thành đơn vị hành chính lãnh thổ hiện quyền lực
nước

Quân Cộng
Đơn nhất Liên bang Tự do dân chủ
chủ hòa

Liên minh

18
Dân
Tuyệt đối Hạn chế Quý tộc
chủ
19
V. CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC
Bản chất, vai trò của Nhà nước được thể hiện trực tiếp trong nhiệm vụ
và chức năng của Nhà nước, vì thế khi tìm hiểu bản chất của Nhà nước, vai
trò xã hội của Nhà nước phải thông qua việc xem xét các nhiệm vụ và chức
năng của Nhà nước.
1. Nhiệm vụ của Nhà nước: là mục tiêu mà Nhà nước hướng tới, là
những vấn đề đặt ra mà Nhà nước cần giải quyết. Nhiệm vụ của Nhà nước
tuỳ thuộc vào bản chất và vai trò xã hội của Nhà nước, vào điều kiện lịch sử
của mỗi quốc gia qua từng giai đoạn cụ thể.
Nhiệm vụ của Nhà nước tuỳ thuộc vào nội dung tính chất được chia
thành: nhiệm vụ cHiến lược lâu dài, nhiệm vụ này hướng tới các mục đích
chung, cơ bản. Ví dụ: nhiệm vụ xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền
XHCN.
Để thực hiện nhiệm vụ cHiến lược, lâu dài cần phải có những nhiệm
vụ cụ thể trong những khoảng thời gian nhất định.Ví dụ: nhiệm vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước phục vụ cho công cuộc xây dựng Nhà
nước Việt Nam pháp quyền XHCN.
2.Chức năng của Nhà nước:
a)Khái niệm: Chức năng của Nhà nước là những phương diện, loại
hoạt động cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước
Nhà nước.
hChức năng và nhiệm vụ của Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ, mật
thiết với nhau. Một nhiệm vụ của Nhà nước làm phát sinh một hoặc nhiều
chức năng và ngược lại một chức năng của Nhà nước có thể nhằm thực hiện
một hoặc nhiều nhiệm vụ.
Chức năng của Nhà nước được quy định bởi bản chất của Nhà nước.
Chức năng của Nhà nước XHCN khác với chức năng của các Nhà nước bóc
lột ở nội dung và hình thức thực hiện.\
Chức năng của Nhà nước được thực hiện bởi bộ máy Nhà nước. Do
đó, khi nghiên cứu về vấn đề này cần phân biệt giữa chức năng của Nhà
nước và chức năng của cơ quan Nhà nước. Chức năng của Nhà nước như đã
nêu, là những phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước mà mỗi cơ quan
Nhà nước đều phải tham gia thực hiện ở những mức độ khác nhau. Chức
năng của cơ quan Nhà nước chỉ là những phương diện hoạt động của cơ
quan đó nhằm góp phần thực hiện chức năng chung của Nhà nước.
b) Phân loại: Chức năng của Nhà nước có nhiều cách phân loại khác
nhau. Có thể phân loại chức năng của Nhà nước thành: các chức năng đối
nội và các chức năng đối ngoại; hoặc thành chức năng cơ bản và các chức

20
năng không cơ bản; hoặc thành các chức năng lâu dài và chức năng tạm
thời...
* Chức năng đối nội của Nhà nước là những phương diện hoạt động
cơ bản của Nhà nước trong nội bộ của đất nước, bao gồm:
- Tổ chức và quản lý nền kinh tế.
- Tổ chức và quản lý nền văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ.
- Giữ vững an ninh, chính trị, trấn áp sự phản kháng của giai cấp đối
kháng.
- Bảo vệ trật tự pháp luật và quyền lợi của giai cấp cầm quyền.
* Chức năng đối ngoại của Nhà nước là những hoạt động cơ bản của
đất nước với các quốc gia khác, dân tộc khác (VD: phòng thủ đất nước,
chống sự xâm lược bên ngoài, thíêt lập các mối quan hệ ngoại giao với các
quốc gia khác).
Hai nhóm chức năng này có quan hệ mật thiết với nhau, thực hiện tốt
các chức năng đối nội sẽ ảnh hưởng tốt chức năng đối ngoại, ngược lại, nếu
thực hiện tốt chức năng đối ngoại cũng sẽ ảnh hưởng tốt tới việc thực hiện
các chức năng đối nội, và cả hai đều hướng tới việc thực hiện những nhiệm
vụ của đất nước. VD: để thực hiện tốt chức năng đảm bảo ổn định an ninh –
chính trị, bảo vệ các quyền tự do, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, thì Nhà nước
ta phải phối hợp với các quốc gia khác trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm quốc tế.
VI. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm:Bộ máy Nhà nước là hệ thống các cơ quan Nhà nước
từ trung ương xuống đến địa phương, tổ chức và hoạt động trên những
nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Các yếu tố hợp thành bộ máy Nhà nước là cơ quan Nhà nước bao gồm
3 loại: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
2. Đặc điểm: Cơ quan Nhà nước có các đặc điểm sau:
- Cơ quan Nhà nước là một tổ chức công quyền, có tính độc lập tương
đối với các cơ quan Nhà nước khác, một tổ chức cơ cấu bao gồm những cán
bộ, công chức được giao những nhiệm vụ và quyền hạn nhất định để thực
hiện nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Cơ quan Nhà nước mang quyền lực Nhà nước. Đây là đặc điểm làm
cho cơ quan Nhà nước khác hẳn với các tổ chức khác. Chỉ có cơ quan Nhà
nước mới có quyền nhân danh Nhà nước thực hiện quyền lực Nhà nước, giải
quyết những vấn đề quan hệ với công dân. Mỗi cơ quan Nhà nước đều có
thẩm quyền do pháp luật quy định, đó là tổng thể các quyền và nghĩa vụ
pháp lý mà Nhà nước trao cho để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ. Yếu

21
tố cơ bản của thẩm quyền là quyền ban hành những văn bản pháp luật có
tính bắt buộc chung phải thực hiện đối với những chủ thể liên quan.
- Thẩm quyền của cơ quan Nhà nước có những giới hạn về không
gian, thời gian và đối tượng chịu sự tác động. giới hạn này mang tính pháp
lý vì nó được pháp luật quy định.
- Mỗi cơ quan Nhà nước có hình thức và phương pháp hoạt động
riêng do pháp luật quy định.
- Cơ quan Nhà nước chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của
mình và trong phạm vi đó, nó hoạt động độc lập, chủ động và chịu trách
nhiệm về hoạt động của mình. Cơ quan Nhà nước có quyền đồng thời có
nghĩa vụ phải thực hiện các quyền của mình. Khi cơ quan Nhà nước không
thực hiện quyền hoặc từ chối không thực hiện quyền được pháp luật quy
định làvi phạm pháp luật.
Mỗi Nhà nước, phụ thuộc vào kiểu Nhà nước, hình thức chính thể ...
nên có cách tổ chức bộ máy Nhà nước khác nhau. Bộ máy Nhà nước được tổ
chức rất đa dạng, phong phú trên thực tế.
3.Hệ thống các cơ quan trong bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt
Nam.
- Hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước gồm Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp.
Các cơ quan quyền lực Nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhân
danh nhân dân để thể hiện và thực thi một cách thống nhất quyền lực, phải
chịu trách nhiệm và báo cáo trước nhân dân về mọi hoạt động của mình. Các
cơ quan Nhà nước khác đều phải chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực
Nhà nước.
- Hệ thống cơ quan chấp hành (cơ quan quản lý Nhà nước) bao gồm:
Chính phủ, các Bộ và cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND
các cấp, các Sở, Phòng, Ban chức năng của UBND.
- Hệ thống các cơ quan xét xử bao gồm: TAND tối cao, TAND tỉnh,
thành phố trực thuộc TW, TAND huyện, quận và tương đương, Tòa án quân
sự các cấp.
- Hệ thống cơ quan kiểm sát gồm có: VKSNDTC, VKSND tỉnh, thành
phố trực thuộc TW, VKSND huyện, quận và cấp tương đương, VKS quân sự
các cấp.
Ngoài bốn hệ thống cơ quan Nhà nước nói trên, trong tổ chức bộ máy
Nhà nước CHXHCN Việt Nam còn có Chủ tịch nước. Chủ tịch nước hiện
nay là cá nhân, do Quốc hội bầu ra từ trong số đại biểu Quốc hội và đặt dưới
sự giám sát của Quốc hội. Chủ tịch nước hiện nay với tính chất là nguyên
thủ quốc gia chỉ thay mặ Nhà nước về đối nội và đối ngoại.

22
CHƯƠNG 2:NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT

I. NGUỒN GỐC CỦA NHÀ NƯỚC


Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng có cùng nguồn gốc, bản chất
và gắn bó hết sức mật thiết với nhau. Những nguyên nhân làm phát sinh Nhà
nước cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Đó
là chế độ tư hữu về tài sản và sự phân hóa XH thành các giai cấp có lợi ích
đối kháng nhau không thể điều hòa được.
Trong lịch sử phát triển của loài người đã có thời kỳ không có pháp
luật đó là thời kỳ xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Song, như mọi xã hội khác,
xã hội CSNT cũng cần trật tự để ổn định và phát triển. Do nhu cầu khách
quan đó mà đã xuất hiện các qui tắc xử sự chung. Đó chính là các qui phạm
xã hội (QPXH) bao gồm tập quán và tín Điều tôn giáo. Các tập quán và tín
Điều tôn giáo xuất hiện một cách tự phát, theo thời gian dần dần được cộng
đồng thị tộc, bộ lạc chấp nhậnvà chúng trở thành những qui tắc xử sự chung
mang tính đạo đức và xã hội.
Các QPXH trong xã hội CSNT có những đặc điểm sau:
- Thể hiện ý chí chung, phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng thị
tộc, bộ lạc.
- Là quy tắc xử sự chung của cả cộng đồng, là khuôn mẫu của hành vi.
- Được thực hiện một cách tự nguyện, trên cơ sở thói quen, niềm tin tự
nhiên; dựa trên tinh thần hợp tác giúp đỡ lẫn nhau.Trong trường hợp chúng
bị vi phạm thì vẫn có sự cưỡng chế nhưng sự cưỡng chế đó do toàn thị tộc tổ
chức thực hiện chứ không phải do một bộ máy đặc biệt được hình thành để
thực hiện. (Thuyết phục: phương pháp cơ bản được áp dụng đối với người vi
phạm. Cưỡng chế:sự lên án của cả thị tộc, bộ lạc).
- Mang tính manh mún, tản mạn và về nguyên tắc chỉ có hiệu lựuc
trong phạm vi thị tộc, bộ lạc.
Các QPXH đó hoàn toàn phù hợp với các điều kiện KT-VH-XH của
xã hội CSNT, chúng cần thiết và có cơ sở khách quan để tồn tại trong một xã
hội chưa có tư hữu và giai cấp.
Khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội phân chia thành các giai cấp thì
các qui phạm đó không còn phù hợp nữa vì chúng thể hiện ý chí chung và
bảo vệ lợi ích của mọi thành viên trong cộng đồng thị tộc, bộ lạc.
Trong điều kiện mới, giai cấp thống trị lợi dụng địa vị xã hội của
mình đã tìm cách vận dụng những tập quán có nội dung phù hợp với lợi ích
của giai cấp mình, biến đổi chúng bằng con đường Nhà nước và nâng chúng
lên thành các QPPL. Đây là cách thức hoặc nguồn gốc thứ nhất hình thành
nên pháp luật, Ví dụ: Đạo luật 12 bảng của La Mã chính là kết quả của quá
trình chuyển hóa các tập quán thành các QPPL; Nhà nước Việt Nam suốt

23
thời kỳ Hùng vương - An Dương Vương chưa có pháp luật thành văn, hình
thức của pháp luật lúc bấy giờ chủ yếu là tập quán pháp.
Bên cạnh đó các Nhà nước đã nhanh chóng ban hành các văn bản
pháp luật. Bởi lẽ, nếu chỉ dùng các tập quán đã chuyển hoá để điều chỉnh
các quan hệ xã hội thì sẽ có rất nhiều các quan hệ xã hội mới phát sinh trong
xã hội không được điều chỉnh (VD: Quan hệ giũa chủ nô- nô lệ, quan hệ
trao đổi – mua bán...). Vì vậy để đáp ứng nhu cầu này hoạt động xây dựng
pháp luật của các Nhà nước đã ra đời. Hoạt động này lúc đầu còn đơn giản,
nhiều khi chỉ là các quyết định của các cơ quan tư pháp, hành chính (Tiền lệ
pháp: áp dụng đối với trưòng hợp chưa có qui tắc tập quán được hình
thành từ trước đó và do Nhà nước chưa đủ khả năng để ban hành những qui
định cụ thể để áp dụng nên các cơ quan hành phápdựa vào lợi ích của giai
cấp và năng lực của cá nhân của mình để đưa ra phán xét; dần dà những
phán xét tốt trở thành khuôn mẫu cho các cơ quan khác áp dụng giải quyết
và được gọi là tiền lệ pháp); sau dần trở nên hoàn thiện cùng với sự phát
triển và hoàn hiện của bộ máy Nhà nước. (Văn bản pháp luật: giai đoạn
phát triển cao hơn của xã hội, giai đoạn có chữviết, các văn bản gồm những
qui tắc xử sự trước đây thể hiện dưới dạng bất thành văn thì nay được thể
hiện dưới dạng VBPL bằng chữviết. Điển hình của hình thức này là những
văn bản của Nhà nước chủ nô: đạo luật Hamurabi, Manu...).
* VBPL có những đặc điểm khác với QPXH thời nguyên thủy như
sau:
- Thể hiện ý chí giai cấp thống trị chiếm thiểu số trong xã hội chứ
không thể hiện ý chí của đa số dân cư hoặc toàn xã hội.
- Nội dung thường là thể hiện quan hệ bất bình đẳng trong xã hội.
- Có tính bắt buộc chung, tính hệ thống và thống nhất cao.
- Được đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước - chủ yếu cưỡng chế bởi
một bộ máy đặc biệt, chuyên nghiệp.
Như vậy pháp luật được hình thành bằng hai con đường:
- Thứ nhất, Nhà nước cải cách hay thừa nhận các quy phạm xã hội
- phong tục, tập quán chuyển chúng thành pháp luật;
- Thứ hai, bằng hoạt động sáng tạo pháp luật của Nhà nước thông
Con đường
quaviệc ban hành các VBQP; thừa hình
nhậnthành
các tiền lệ pháp hay án lệ của Tòa
pháp luật
án.

BẢNG 2: SƠ ĐỒ VỀ CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH CỦA PHÁP LUẬT


Cải cách hoặc thừa Sáng tạo pháp luật
nhận các quy phạm của nhà nước
tập quán

24 Thừa nhận các tiền lệ


Ban hành các hoặc các án lệ của tòa án
VBQPPL
II. BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT
1. Tính giai cấp của pháp luật.
Bản chất của pháp luật cũng giống như Nhà nước là tính giai cấp của
nó, không có “pháp luật tự nhiên hay “pháp luật không có tính giai cấp".
Tính giai cấp của pháp luật trước hết ở chỗ,:
- Pháp luật phản ánh ý chí Nhà nước của giai cấp thống trị, nội
dung của ý chí đó đựơc quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai
cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực Nhà nước, giai cấp thống trị đã
thông qua Nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung
thống nhất, hợp pháp hoá ý chí của Nhà nước, được Nhà nước bảo hộ thực
hiện bằng sức mạnh của Nhà nước.
- Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh
của pháp luật. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ
giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, pháp luật là nhân tố để điều
chỉnh về mặt giai cấp các QHXH (quan hệ xã hội), nhằm hướng các QHXH
phát triển theo một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ
củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là công
cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
- Bất kỳ kiểu pháp luật nào cũng mang tính giai cấp nhưng mỗi
kiểu lại có những cách biểu hiện riêng. Chẳng hạn: đều là công khai qui định
và bảo vệ quyền lợi, địa vị của giai cấp thống trị nhưng đối với pháp luật chủ
nô, đó chính là quyền lực vô hạn của giai cấp chủ nô và tình trạng vô quyền
của giai cáp nô lệ; đối với pháp luật phong kiến thì đặc quyền, đặc lợi của
của địa chủ phong kiến và sự đàn áp dã man nhân dân lao động; đối với
pháp luật tư sản lại là ý chí, lợi ích của giai cấp tư sản và quyền tự do, dân
chủ một cách xảo trá, gian dối của chúng với nhân dân lao động; riêng đối
với pháp luật XHCN thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
2. Tính xã hội của pháp luật.
Tính xã hội của pháp luật thể hiện thực tiễn pháp luật là kết quả của
sự “chọn lọc tự nhiên” trong xã hội. Các quy phạm pháp luật mặc dù do các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các QHXH.
Tuy nhiên trong thực tiễn chỉ những quy phạm nào phù hợp với thực tiễn
mới được thực tiễn giữ lại thông qua Nhà nước, đó là những quy phạm “hợp
lý”, “khách quan’’ được số đông trong xã hội chấp nhận, phù hợp với lợi ích
của đa số trong xã hội.
Giá trị xã hội của pháp luật còn thể hiện ở chỗ, QPPLvừa là thước đo
của hành vi con người, vừa là công cụ kiểm nghiệm các quá trình, các hiện

25
tượng xã hội, là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các QHXH,
hướng chúng vận động, phát triển phù hợp với các quy luật khách quan.
III. CÁC THUỘC TÍNH CỦA PHÁP LUẬT
Thuộc tính của pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng riêng có của
pháp luật nhằm phân biệt pháp luật với các quy phạm xã hội khác.
Nhìn một cánh tổng quát, pháp luật có những đặc trưng cơ bản sau:
1.Tính quy phạm phổ biến
Pháp luật được tạo bởi hệ thống các quy phạm pháp luật, quy phạm là
tế bào của pháp luật, là khuôn mẫu, là mô hình xử sự chung. Trong xã hội
các hành vi xử sự của con người rất khác nhau, tuy nhiên trong nhưng hoàn
cảnh điều kiện nhất định vẫn đưa ra đươc cách xử sự chung phù hợp với đa
số.
Cũng như quy phạm pháp luật, các quy phạm xã hội khác đều có
những quy tắc xử sự chung. Nhưng khác với các quy phạm xã hội, pháp luật
có tính quy phạm phổ biến.
Các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trên lãnh thổ, việc áp
dụng các quy phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
bãi bỏ, bổ sung, sửa đổi hoặc thời hiệu các quy phạm đã hết. Tính quy phạm
phổ biến của pháp luật dựa trên ý chí của Nhà nước “ được đề lên thành
luật”. Pháp luật đã hợp pháp hoá ý chí này làm cho nó có tính chất chủ
quyền duy nhất trong một quốc gia. Chính quyền lực chính trị đem lại cho
pháp luật tính quy phạm đặc biệt- tính quy phạm phổ biến.
2. Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức
Thuộc tính thứ hai của pháp luật là tính xác định chặt chẽ về mặt hình
thức, nó là sự thể hiện nội dung pháp luật dưới những hình thức nhất định.
Nội dung của pháp luật đựơc xác định rõ ràng, chặt chẽ, khái quát
trong các Điều, khoản của các Điều luật trong một văn bản quy phạm pháp
luật cũng như toàn bộ hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành. Ngôn ngữ
sử dụng trong pháp luật là ngôn ngữ pháp luật, lời văn trong sáng, đơn
nghĩa. Trong pháp luật không xử dụng những từ “ vân vân” và các dấu (...).
Một quy phạm pháp luật không cho phép hiểu thế này cũng được mà hiểu
thế khác cũng được.
3. Tính được bảo đảm bằng Nhà nước
Khác với các quy phạm xã hội khác, pháp luật do Nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Sự bảo đảm bằng Nhà
nước là thuộc tính của pháp luật. Pháp luật không chỉ do Nhà nước ban hành
mà Nhà nước còn bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, có nghĩa là Nhà
nước trao cho các quy phạm pháp luật có tính quyền lực bắt buộc đối với
mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân. Như vậy pháp luật trở thành quy tắc xử sự
có tính bắt buộc chung nhờ vào sức mạnh quyền lực của Nhà nước.

26
Tuỳ theo mức độ khác nhau mà Nhà nước áp dụng các biện pháp về
tư tưởng, tổ chức, khuyến khích.... kể cả biện pháp cưỡng chế cần thiết để
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện.
Như vậy, tính được bảo đảm bằng Nhà nước của pháp luật được hiểu
dưới hai khía cạnh. Một mặt, Nhà nước tổ chức thực hiện pháp luật bằng cả
hai phương pháp thuyết phục và cưỡng chế. Mặt khác, Nhà nước là người
bảo đảm tính hợp lý và uy tín của pháp luật, nhờ đó pháp luật được thực hiện
thuận lợi trnong đời sống xã hội.
IV.CHỨC NĂNG CỦA PHÁP LUẬT.
1.Khái niệm: Chức năng của pháp luật là những phương diện, mặt tác
động chủ yếu của pháp luật phản ánh bản chất giai cấp và giá trị xã hội của
pháp luật.
2. Phân loại: Pháp luật có ba chức năng chủ yếu:
- Chức năng điều chỉnh;
- Chức năng bảo vệ;
- Chức năng giáo dục.
a) Chức năng điều chỉnh của pháp luật thể hiện vai trò và giá trị xã
hội của pháp luật. Pháp luật được đặt ra nhằm hướng tới sự điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Sự điều chỉnh của pháp luật lên các quan hệ xã hội được
thực hiện theo hai hướng: một mặt pháp luật ghi nhận các quan hệ xã hội
chủ yếu trong xã hội; mặt khác pháp luật bảo đảm cho sự phát triển của các
quan hệ xã hội. Như vậy pháp luật đã thiết lập “trật tự ” đối với các quan hệ
xã hội, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo chiều hướng
nhất định phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, phù hợp với quy luật vận
động khách quan của các quan hệ xã hội.
b) Chức năng bảo vệ:Bên cạnh chức năng điều chỉnh, pháp luật còn
có chức năng bảo vệ. Pháp luật là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội mà nó
điều chỉnh. Khi có các hành vivi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm đến các
quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định trong bộ phận chế
tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có hành vivi phạm pháp
luật.
c) Chức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác
động của pháp luật vào ý thức của con người, làm cho con người xử sự phù
hợp với cách xử sự được quy định trong các quy phạm pháp luật. Từ sự nhận
thức này hướng con người đến những hành vi, cách xử sự phù hợp với lợi
ích của xã hội, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của bản thân.
⇒Từ các vấn đề : nguồn gốc, bản chất, các mối liên hệ, các thuộc tính
và chức năng của pháp luật có thể đưa ra định nghĩa : Pháp luật là hệ thống
các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành hoặc

27
thừa nhận, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã
hội, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm mục đích điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Pháp luật là công cụ để thực hiện quyền lực Nhà nước và là cơ sở
pháp lý cho đời sống xã hội có Nhà nước.
V. CÁC KIỂU PHÁP LUẬT TRONG LỊCH SỬ
1. Khái niệm: Kiểu pháp luật là hình thái pháp luật được xác định bởi
tập hợp các dấu hiệu, đặc trưng cơ bản của pháp luật là thể hiện bản chất giai
cấp, điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật trong một hình thái kinh tế
- xã hội nhất định.
2. Phân loại:Chủ nghĩa Mác - Lê Nin xem xét lịch sử xã hội như là
một quá trình lịch sử tự nhiên của sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội
khác. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội là một kiểu lịch sử của xã hội được
thiết lập trên cơ sở của một phương thức sản xuất.
Pháp luật là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng. Bản chất, nội
dung của pháp luật suy cho cùng là do cơ sở kinh tế quyết định, vì vậy, để
phân loại các kiểu pháp luật đã tồn tại trong lịch sử cần dựa vào hai tiêu
chuẩn:
Thứ nhất, pháp luật ấy ra đời và tồn tại trên cơ sở kinh tế nào? Do
quan hệ sản xuất nào quyết định?
Thứ hai, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp nào? Bảo vệ và củng cố
quyền lợi của giai cấp nào?
Là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của
một xã hội nhất định, vì thế tương ứng với các hình thái kinh tế - xã hội có
giai cấp có các kiểu pháp luật :
- Pháp luật chủ nô.
- Pháp luật phong kiến.
- Pháp luật tư sản.
- Pháp luật XHCN.
Trong số các kiểu pháp luật đã và đang tồn tại trong lịch sử xã hội loài
người, ba kiểu pháp luật: chủ nô, phong kiến và tư sản tuy có những đặc
trưng riêng biệt, song chúng đều có đặc điểm chung là: đều thể hiện ý chí
của thiểu số giai cấp bóc lột trong xã hội; củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất; bảo đảm về mặt pháp lý sự áp bức, bóc lột của giai cấp
thống trị đối với nhân dân lao động, duy trì tình trạng bất bình đẳng trong xã
hội.
Kiểu pháp luật XHCN đang trên con đường hình thành và phát triển,
từng bước xây dựng một chế độ sở hữu công cộng về TLSX chủ yếu; thể
hiện ý chí của đa số nhân dân lao động trong xã hội; hạn chế dần và đi đến
xoá bỏ bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, đảm bảo cho mọi
công dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tất cả vì giá trị của con người.

28
Sự thay thế các kiểu pháp luật là một tất yếu khách quan phù hợp với
quy luật. Cơ sở của sự thay thế đó là sự vận động và phát triển khách quan
của các quy luật kinh tế - xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có tính quyết định. Sự
thay thế hình thái kinh tế - xã hội được thự hiện thông qua một cuộc cách
mạng xã hội đã làm thay thế kiểu Nhà nước và pháp luật tương ứng.
Sự thay thế một kiểu pháp luật này bằng một kiểu pháp luật khác tiến
bộ hơn là một quy luật tất yếu. Tuy nhiên các điều kiện, bối cảnh lịch sử
khác nhau ở mỗi nước cũng chi phối tới ự thay thế kiểu pháp luật. Vì vậy sự
thay thế kiểu pháp luật ở mỗi quốc gia diễn ra cũng rất khác nhau. Sự thay
thế này cũng không nhất thiết phải diễn ra theo trình tự: pháp luật chủ nô,
pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản, pháp luật XHCN. Chẳng hạn ở Việt
Nam không có kiểu pháp luật chủ nô, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ không có
kiểu pháp luật phong kiến... Theo quy luật thì kiểu pháp luật sau bao giờ
cũng tiến bộ hơn kiểu pháp luật trước.
VI. QUI PHẠM PHÁP LUẬT, VĂN BẢN QUI PHẠM PHÁP
LUẬT
1. Quy phạm pháp luật
a) Khái niệm, đặc điểm quy phạm pháp luật
Qui phạm pháp luật là những qui tắc xử sự có tính chất khuôn mẫu,
bắt buộc mọi chủ thể phải tuân thủ, được biểu thị bằng một hình thức nhất
định, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được Nhà nước bảo đảm thực
hiện và có thể có cả các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, nhằm mục đích
điều chỉnh các QHXH.
• Các qui phạm của các tổ chức xã hội: là các qui phạm do tổ chức xã
hội đặt ra, nó tồn tại và được thực hiện trong các tổ chức xã hội đó,
• Các qui phạm đạo đức: là những qui tắc hành vi được hình thành trong
xã hội trên cơ sở quan niệm về đạo đức và được con người tự giác thực
hiện.
• Các phong tục: được hình thành trong lịch sử và nó đã biến thành thói
quen của mọi người trong xã hội.
Đặc điểm: Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội, vì vậy
nó mang đầy đủ những đặc tính chung vốn có của quy phạm xã hội, như: là
quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu để mọi người làm theo, là tiêu chuẩn để
xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người.
Ngoài những đặc tính chung của quy phạm xã hội thì quy phạm pháp
luật còn có những đặc tính riêng:
- Quy phạm pháp luật luôn gắn liền với Nhà nước. Chúng do các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn. Chúng
được Nhà nước đảm bảo thực hiện.Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt

29
QPPL với các QHXH khác. Các QPXH khác không do Nhà nước qui định
mà do các tổ chức xã hội qui định hyay do các quan niệm về đạo đức hình
thành nên hoặc được hình thành một cách tự phát do thóI quen trong xã hội.
Các qui phạm của các TCXH được thực hiện dựa vào tổ chức, vào lực lượng
và uy tín của tổ chức đó. Các qui phạm đạo đức được thực hiện trong đời
sống nhờ lòng tin của con người; còn các phong tục được thực hiện trong xã
hội, nhờ thóI quen của mọi người.
- Quy phạm pháp luật thể hiện ý chí Nhà nước. Nhà nước thể hiện ý
chí của mình bằng cách xác định những đối tượng nào trong những điều
kiện, hoàn cảnh nào thì phải xử sự theo pháp luật, những quyền và nghĩa vụ
pháp lý mà họ có và cả những biện pháp cưỡng chế mà họ buộc phải gánh
chịu nếu họ không thực hiện đúng những nghĩa vụ đó.
- Quy phạm pháp luật là các quy tắc hành vi có tính bắt buộc chung.
Tính bắt buộc chung của quy phạm pháp luật được hiểu là bắt buộc tất cả
những ai nằm trong điều kiện mà quy phạm pháp luật đã quy định.
- Quy phạm pháp luật được thể hiện dưới hình thức xác định. Tính
hình thức ở đây thể hiện trongviệc biểu thị, diễn đạt chính thức nội dung của
các văn bản quy phạm pháp luật.
Còn tính xác định thể hiện trongviệc biểu thị rõ nội dung các quy
phạm pháp luật quy định các quy tắc hành vi và được diễn đạt rõ ràng, chính
xác. Nhờ được biểu thị dưới hình thức nhất định, các quy phạm pháp luật trở
nên dễ hiểu và áp dụng được trong đời sống xã hội.
Từ những đặc điểm trên có thể khái quát về quy phạm pháp luật
XHCN như sau: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do Nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị trong xã hội có giai cấp (nhân dân lao động trong chế độ XHCN)
để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo trật tự xã hội mà Nhà nước mong
muốn.
2. Cấu trúc của quy phạm pháp luật.
Cấu trúc của quy phạm pháp luật là cơ cấu bên trong, là các bộ phận
hợp thành của quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật bao gồm 3 bộ phận:
giả định, quy định và chế tài.
a.Giả định: là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu lên
những hoàn cảnh, điều kiện có thể xảy ra trong cuộc sống và cá nhân hay tổ
chức nào ở vào những hoàn cảnh, điều kiện đó đều buộc phải xử sự theo
những qui định của Nhà nước.
Nội dung của bộ phận giả định thường nóI tới chủ thể, thời gian,
không gian, hoàn cảnh, điều kiện, tình huống nhất định.
Bộ phận giả định của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Tổ chức,
cá nhân nào? Khi nào? Trong những hoàn cảnh, điều kiện nào?

30
Ví dụ 1: “Người nào Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà
vi phạm về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc
gật thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt
tiền từ 5 triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3
năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm” (khoản 1, Điều 202 Bộ luật Hình
sự năm 1999).
Ví dụ 2:“Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có
thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng, con sinh ra trước ngày
đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ
chồng” (khoản 1, Điều 63 Luật HN-GĐ 2000).
Ví dụ 3: “Người nàovi phạm pháp luật giao thông đuờng bộ mà gây
tai nạn thì phải chịu trách nhiệm về hành vivi phạm của mình, nếu gây thiệt
hại cho người khác thì phải bồi thường theo qui định của pháp luật” (Khoản
5- Điều 4 - Luật GTĐB 2001)
• Giả định của quy phạm pháp luật có thể giản đơn (chỉ nêu 1 hoàn cảnh,
điều kiện), Ví dụ: “Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam (sau đây gọi là công dân Việt Nam)” (khoản 1, Điều 4
Luật Quốc tịch Việt Nam 1998); “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang
quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” ( Điều 62 – Hiến
pháp1992)
• Hoặc có thể phức tạp (nêu lên nhiều hoàn cảnh, điều kiện). Ví dụ:
“Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan
khác gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà cònvi
phạm”(khoản 1, Điều 247 Bộ luật Hình sự năm 1999); “Người nào thấy
người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mnạg, tuy có điều
kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết thì bị phạt cảnh
cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù tù 3 tháng đến 2 năm”
(Khoản 1 – Điều 102 – BLHS).
b. Quy định: là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu
cách xử sự mà tổ chức hay cá nhân ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong
bộ phận giả định của quy phạm pháp luật được phép hoặc buộc phải thực
hiện.
Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi: Phải làm gì?
Được làm gì? Không được làm gì? Làm như thế nào?
Ví dụ1: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của
pháp luật” ( Điều 57 Hiến phápnăm 1992) (được làm gì)
Ví dụ 2: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên
không thoả thuận, thì có thể áp dụng tập quán hoặc quy định tương tự của

31
pháp luật, nhưng không được trái với những nguyên tắc quy định trong bộ
luật này”( Điều 14BLDS 2005).
Ví dụ 3: “Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản
riêng hay nhờ cha mẹ quản lý” ( Điều 45 Luật HNGĐ 2000).
* Mệnh lệnh được nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật có
thể dứt khoát (chỉ nêu một cách xử sự và các chủ thể buộc phải xử sự theo
mà không có sự lựa chọn). Ví dụ: Khi việc kết hôn trái pháp luật bị huỷ thì
hai bên nam nữ phải chấm dứt quan hệ vợ chồng. ( Điều 17 Luật HNGĐ
2000); “Hình phạt tử hình được thi hành bằnghình thức xử bắn” (K3-Đ229-
BLTTHS)
Hoặc không dứt khoát (nêu ra 2 hoặc nhiều cách xử sự và cho phép
các tổ chức hoặc cá nhân có thể lựa chọn cho mình cách xử sự thích hợp từ
những cách xử sự đã nêu, Ví dụ: “Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi
cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn. Cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan
đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài” (Điều 12
Luật HNGĐ 2000); “Trong trường hợp các bên thỏa thuậnviệc trả tiền thuê
theo kỳ hạn, thì bên cho thuê có quyền đơn phươngđình chỉ thực hiện hợp
đồng thuê, nếu bên thuê không trả tiền trong ba kỳ liên tiếp, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hay pháp luạt có qui định khác”. (K2-Đ486-BLDS)
c.Chế tài: là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện
pháp tác động mà Nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với các chủ thể không
thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã nêu ra trong phần qui định.để
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh.
Bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Hậu quả
sẽ như thế nào nếuvi phạm pháp luật, không thực hiện đúng mệnh lệnh của
Nhà nước đã nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.
Ví dụ1: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của
người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc
phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm” (khoản 1, Điều 121 BLHS 1999).
Ví dụ 2: “Người nào đua trái phép xe ôtô, xe máy hay các loại xe
khác có gắn động cơ gây thiệt hại cho sức khỏe, tài sản của người khác,
hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này,
chưa được xóa án tích mà cònvi phạm, thì bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến
50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hay phạt tù từ 3 tháng đến
3 năm ” (Đ207-BLHS: Tội đua xe trái phép).
Các biện pháp tác động mà Nhà nước nêu ra trong chế tài pháp luật rất
đa dạng, đó có thể là:
- Những biện pháp cưỡng chế Nhà nước mang tính trừng phạt có liên
quan tới trách nhiệm pháp lý. Loại chế tài này gồm có:

32
+ Chế tài hình sự;
+ Chế tài hành chính;
+ Chế tài dân sự;
+ Chế tài kỷ luật;
- Có thể chỉ là những biện pháp chỉ gây ra cho chủ thể những hậu quả
qbất lợi như đình chỉ, bãi bỏ các văn bản sai trái của cơ quan cấp dưới,
tuyên bố hợp đồng vô hiệu và các biện pháp khác.
Chế tài quy phạm pháp luật có thể là cố định hoặc không cố định.
Chế tài cố định là chế tài quy định chính xác, cụ thể biện pháp tác
động cần phải áp dụng đối với chủ thểvi phạm quy phạm pháp luật đó.
Chế tài không cố định là chế tài không quy định các biện pháp tác
động một cách dứt khoát hoặc chỉ quy định mức thấp nhất và mức cao nhất
của biện pháp tác động. Ví dụ: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc
dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt
cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1
năm”(khoản 1, Điều 106 BLHS 1999). Việc áp dụng biện pháp nào, mức độ
bao nhiêu là do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng lựa chọn cho phù
hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của vụviệc cần áp dụng.
Lưu ý:* Không phải mọi trường hợp các QPPL đều có đầy đủ 3 bộ phận.
Nhiều QPPL chỉ có bộ phận giả định và qui định, còn 1 bộ phận khác được
qui định ẩn hay được viện dẫn ở QPPL khác hay ở VBPL khác.
Ví dụ: "Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho
người khác thì bị phạt tù từ 1 đến 3 năm". ( Điều 107 - BLHS 1999); "Tòa
án xét xử công khai trừ trường hợp do luật định" ( Điều 131 Hiến
pháp1992).
* Trong một QPPL: trật tự giả định, qui định và chế tài có thể bị đảo
lộn.
Ví dụ: "Việc điều tra kết thúc khi cơ quan Điều tra ra quyết định đề nghị
truy tố hay đình chỉ điều tra". (Luật TTHS)
3. Văn bản quy phạm pháp luật
a. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức tiến bộ, khoa học nhất trong
các hình thức bên ngoài của pháp luật. Chính vì thế nó được các Nhà nước
hiện đại sử dụng rộng rãi nhất. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định,
trong đó có các quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN và được áp
dụng nhiều lần trong thực tế đời sống ( Điều 1 - Luật Sửa đổi, bổ sung một
số Điều Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật 16/12/2002)

33
Từ định nghĩa trên rút ra những nhận xét sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành. Nghĩa là chỉ có những văn bản nào được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền (theo luật định) ban hành mới có thể là văn bản quy
phạm pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử
sự chung (các quy phạm pháp luật ). Đó chính là khuôn mẫu, chuẩn mực cho
hành vi của con người hay tổ chức con người có tính bắt buộc thực hiện.
- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong đời sống,
trong mọi trường hợp. Khi có sự kiện pháp lý xảy ra văn bản quy phạm pháp
luật lại được áp dụng.
- Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành các loại văn bản quy phạm
pháp luật được quy định cụ thể trong luật.
*Phân biệt VBQPPL với các loại văn bản khác:
- Văn bản có tính chất chủ đạo là văn bản do các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành nhằm thực hiện các chủ trương lớn, các nhiệm vụ,
đường lối lớn, đề cập đến các vấn đề có tính chất chính trị, pháp lý của quốc
gia, địa phương (ví dụ: lời tuyên bố, lời hiệu triệu...), động viên nhân dân
thực hiện các chính sách đó, tuy mang tính pháp lý song không phải là
VBQPPL.
- Văn bản cá biệt là loại văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền căn cứ vào QPPL ban hành để giải quyết những vụviệc cụ
thể, hiệu lực chỉ một lần và chỉ có quan hệ với những cá nhân, tổ
chức chỉ ra trong chính văn bản (Ví dụ: bản án, quyết định của Tòa
án, quyết định tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức...)
b. Các loại văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam.
Căn cứ vào trình tự ban hành và giá trị pháp lý, các văn bản quy phạm
pháp luật được chia ra thành 2 loại là các văn bản luật và văn bản dưới luật.
* Các văn bản luật.
Văn bản luật là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, cơ quan
quyền lực cao nhất của quyền lực Nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục
được qui định trong Hiến pháp( Điều: 84, 88 và 147 của Hiến phápnăm
1992).
Các văn bản này có giá trị pháp lý cao nhất. Mọi văn bản khác (văn
bản dưới luật) khi ban hành đều phải dựa trên cơ sở của văn bản luật và
không được ttrái với các quy định trong văn bản đó. Các văn bản dưới luật
trái với các đạo luật đều không có hiệu lực pháp lý và bị bãi bỏ. Chỉ có Quốc
hội mới có quyền thông qua, sửa đổi hoặc hủy bỏ Hiến pháp, các đạo luật và
bộ luật . Các đạo luật không chịu sự kiểm tra, phê chuẩn, đình chỉ của bất cứ
cơ quan nào ngoài Quốc hội.

34
Văn bản Luật có các hình thức là Hiến phápvà luật.
- Hiến pháp(bao gồm Hiến phápvà các đạo luật về bổ sung hay sửa
đổi Hiến pháp). Hiến phápquy định những vấn đề cơ bản nhất của Nhà nước
như: Hình thức và bản chất của Nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
văn hoá, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, hệ thống tổ chức,
nguyên tắc hoạt động và thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước. Trong hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật, Hiến pháplà luật cơ bản của Nhà nước,
có hiệu lực pháp lý cao nhất, là cơ sở pháp lý cho tất cả hệ thống pháp luật.
Mọi văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với các quy định của Hiến
phápvà không được trái với Hiến pháp. Trình tự và thủ tục thông qua Hiến
phápcũng khác so vớiviệc thông qua các đạo luật thông thường.
- Luật (Bộ luật, luật), Nghị quyết của Quốc hội có chứa đựng các quy
phạm pháp luật là những văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành để cụ thể hoá Hiến pháp, nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước.Giữa
Bộ luật và Luật thì Bộ luật có tính tổng hợp cao hơn, phạm vi điều chỉnh
rộng hơn, bao quát hơn, trọn vẹn một lĩnh vực QHXH quan trọng.
Các Luật và Nghị quyết của Quốc hội có giá trị pháp lý cao (chỉ sau
Hiến pháp), vì vậy khi xây dựng các văn bản dưới luật phải dựa trên cơ sở
các quy định thể hiện trong văn bản luật, không được trái với các quy định
đó.
* Các văn bản dưới luật.
Văn bản dưới luật là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan
Nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức được pháp luật quy
định.
Những văn bản này có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản luật, vì
vậy khi ban hành phải chú ý sao cho những quy định của chúng phải phù
hợp với những quy định của Hiến phápvà Luật.
Giá trị pháp lý của từng loại văn bản dưới luật cũng khác nhau, tuỳ
thuộc vào thẩm quyền của các cơ quan ban hành chúng.
Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, hiện nay ở nước ta có những loại văn bản dưới luật sau:
- Pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ quốc hội ban hành quy định những
vấn đề được Quốc hội giao. Thẩm quyền ban hành Pháp lệnh của Uỷ ban
thường vụ quốc hội được quy định trong Điều 91 và Điều 93 của Hiến
phápnăm 1992.
- Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ quốc hội được ban hành để giải
thích Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, giám sátviệc thi hành Hiến pháp, văn bản
quy phạm pháp luật của Quốc hội và giám sát hoạt động của các cơ quan
Nhà nước khác.

35
- Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước được ban hành để thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, Luật quy định.
- Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ.
- Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Chính phủ.
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Quyết
định, Chỉ thị, Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởngviện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Nghị quyết, Thông tư liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước với nhau
(Ví dụ: giữa các Bộ, giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với tổ chức
CT-XH fy\có quyền ban hành Nghị quyết, Thông tư liên tịch).
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp.
- Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp.
VII. QUAN HỆ PHÁP LUẬT
1. Khái niệm quan hệ pháp luật.
Quan hệ xã hội vốn phong phú và đa dạng, vì vậy cần phải dùng rất
nhiều loại quy tắc xử sự khác nhau (quy phạm xã hội) khác nhau để điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Chúng có thể là quy phạm đạo đức, quy phạm tôn
giáo, phong tục, tập quán, quy phạm pháp luật... Trong hệ thống các quy
phạm xã hội, quy phạm pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng. Chúng là loại
quy phạm có hiệu quả nhất, bởi vậy, trong xã hội XHCN, Nhà nước đã sử
dụng hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội quan
trọng nhằm đảm bảo cho chúng phát triển phù hợp với ý chí và lợi ích của
mình.
Quan hệ pháp luật có những đặc điểm sau:
- Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí. Nói cách khác, quan hệ
pháp luật xuất hiện do ý chí của con người. Tính ý chí của quan hệ pháp luật
thể hiện ở chỗ quan hệ pháp luật là dạng quan hệ cụ thể hình thành giữa
những chủ thể nhất định. Các quan hệ này được hình thành thông qua hành
vi có ý chí của các chủ thể. Có những quan hệ pháp luật mà sự hình thành
đòi hỏi cả hai bên chủ thể đều phải thể hiện ý chí (quan hệ hợp đồng). Cũng
có những loại quan hệ pháp luật được hình thành trên cơ sở ý chí Nhà nước
(quan hệ pháp luật hình sự).
- Quan hệ pháp luật XHCN xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp
luật, tức là trên cơ sở ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
được thể chế hoá, vì thế, quan hệ pháp luật mang tính giai cấp sâu sắc.
-Quan hệ pháp luật thuộc loại quan hệ tư tưởng: Quan hệ pháp luật
thuộc kiến trúc thượng tầng và phụ thuộc cơ sở hạ tầng là QHSX của XH.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi kiểu quan hệ sản xuất có kiểu pháp luật phù

36
hợp. Các quan hệ pháp luật phát triển, biến đổi theo sự phát triển, biến đổi
của quan hệ sản xuất và phục vụ quan hệ sản xuất.
Mặt khác, quan hệ pháp luật cũng có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát
triển của cơ sở hạ tầng.
- Nội dung của quan hệ pháp luật được cấu thành bởi các quyền và
nghĩa vụ pháp lý màviệc thực hiện được đảm bảo bằng sự cưỡng chế của
Nhà nước. Đây là đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật. Trong quan hệ
pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia gắn bó chặt chẽ với nhau
về mặt pháp luật.
- Sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật luôn gắn liền
với sự kiện pháp lý. Nói cách khác, chỉ khi có các tình huống, hiện tượng,
quá trình xảy ra trong cuộc sống được ghi nhận trong quy phạm là sự kiện
pháp lý và các chủ thể pháp luật tham gia thì mới xuất hiện, thay đổi, chấm
dứt quan hệ pháp luật.
Từ sự phân tích trên có thể định nghĩa: Quan hệ pháp luật XHCN là
hình thức pháp lý của quan hệ xã hội, xuất hiện dưới sự tác động của các
quy phạm pháp luật, trong đó các bên tham gia quan hệ có quyền chủ thể và
nghĩa vụ pháp lý theo quy định của quy phạm pháp luật, quyền và nghĩa vụ
đó được pháp luật ghi nhận và Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện
pháp tổ chức, cưỡng chế Nhà nước.
2. Cấu thành của quan hệ pháp luật.
Quan hệ pháp luật được cấu thành bởi: chủ thể, nội dung và khách thể.
a. Chủ thể quan hệ pháp luật.
* Khái niệm:Chủ thể của quan hệ pháp luật là các bên tham gia quan
hệ pháp luật. Chủ thể của QHPL là cá nhân hay tổ chức có năng lực chủ thể
(năng lực pháp luật và năng lực hành vi) và tham gia vào QHPL.
Năng lực pháp luật là khả năng của các cá nhân hay tổ chức có quyền
và nghĩa vụ pháp lý nhất định theo qui định của pháp luật. Năng lực pháp
luật xuất hiện từ khi con người mới sinh ra và tồn tại cho đến khi người đó
chết.
Năng lực hành vi là khả năng của các cá nhân hay tổ chức bằng hành
vi của chính mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý theo qui định của
pháp luật. Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi chỉ xuất hiện khi
con người đạt đến một độ tuổi nhất định và phải có trạng thái thần kinh bình
thường, tức là không mắc các bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng Điều khiển hành vi của mình. Thông
thường, pháp luật hầu hết các nước trên thế giới đều lấy tuổi 18 là tuổi xác
định con người có năng lực hành vi đầy đủ. Dưới 18 tuổi, con người có thể
có năng lực hành vi hạn chế.

37
Năng lực hành vi hạn chế là năng lực hành vi mà chủ thể pháp luật có
thể có trong một số lĩnh vực nhất định. Năng lực hành vi hạn chế xuất hiện
sớm nhất là năng lực hành vi dân sự. Theo qui định của BLDS nước ta( Điều
23) thì năng lực hành vi dân sự hạn chế có thể xuất hiện khi con người đủ 6
tuổi. Những người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, ngoài
những giao dịch phục vụ nhu cầu hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, khi thực
hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo đồng ý. Những
người mặc dù đã thành niên nhưng mắc các bệnh tâm thần không thể Điều
khiển được hành vi của mình và không ý thức được hậu quả pháp lý của nó
vì họ là những người không có năng lực hành vi.việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ pháp lý của họ phải thông qua người đại diện hợp pháp.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý, những người đã thành niên và không mắc
các bệnh tâm thần nhưng nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích
khác dẫn đến phá tài sản gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi
ích liên quan hoặc của cơ quan tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết
định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi hành vi dân sự của người đó.
Ở nước ta, theo qui định của BLLĐ ( Điều 6) năng lực hành vi lao
động hạn chế xuất hiện khi con người đủ 15 tuổi. Năng lực hành vi chịu
trách nhiệm hành chính xuất hiện khi con người đủ 14 tuổi - đối với VPHC
cố ý và đủ 16 tuổi đối với mọi VPHC do mình gây ra. Năng lực hành vi chịu
TNHS xuất hiện khi con người từ đủ 14 tuổi - đối với những tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý và tội đặc biệt nghiêm trọng và từ đủ 16 tuổi - đối với
mọi tội phạm ( Điều 12- BLHS).
Để trở thành chủ thể pháp luật chỉ cần có năng lực pháp luật, nhưng
để trở thành chủ thể QHPL vừa phải có NLPL, vừa phải có NLHV.NLPL là
tiền đề của NLHV. Không thể có NLHV nếu không có NLPL. Đối với các
pháp nhân thì NLPL và NLHV xuất hiện cùng một lúc, nhưng đối với cá
nhân thì NLPL nóI chung xuất hiện trước, NLHV xuất hiện sau. Tuy nhiên,
chúng ta cũng cần lưu ý có những QHPL mà chủ thể pháp luật phải trực tiếp
thực hiện quyền và nghĩa vụ, họ không thể nhờ người đại diện thực hiện thay
được. Ví dụ:việc thực hiện quyền bầu cử và ứng cử,việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ lao động,việc thực hiện quyền đăng ký kết hôn... Đối với những
QHPL này, NLPL và NLHV của các chủ thể pháp luật xuất hiện cùng một
lúc. Năng lực bầu cử và ứng cử 18 và 21 tuổi, năng lực lao động - 16 tuổi,
năng lực kết hôn - nữ 18 tuổi, nam 20 tuổi...
* Các loại chủ thể của QHPL
Các chủ thể của QHPL có thể chia làm 4 loại sau:
- Thể nhân (cá nhân - Physical person): bao gồm 3 loại là công dân
nước sở tại, công dân nước ngoài và người không quốc tịch.

38
So với công dân Việt Nam thì công dân nước ngoài và người không
quốc tịch cư trú trên Việt Nam có NLPL hạn chế hơn. Ví dụ : họ không có
quyền bầu cử, ứng cử vào các cơ quan quyền lực Nhà nước, không thể giữ
những chức vụ nhất định trong bộ máy pháp luật, không phải thực hiện
nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động công ích. Tuy nhiên, trên cơ sở tôn
trọng các quyền cơ bản của công dân và của con người Nhà nước ta luôn
thừa nhận và bảo vệ các quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của họ.
- Pháp nhân (Juridical person): là tổ chức có những dấu hiệu cơ bản
sau đây:
1. Được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép
thành lập, đăng ký hoặc công nhận.
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó.
4. Nhân danh mình tham gia các QHPL một cách độc lập.
- Nhà nước là pháp nhân đặc biệt, là chủ thể đặc biệt của QHPL. Khi
tham gia các quan hệ quốc tế như ký kết các Điều ước quốc tế, Nhà
nước tham gia với tư cách là một pháp nhân. Trong quan hệ sở
hữu, Nhà nước với tư cách một pháp nhân là chủ sở hữu của đất
đai, rừng núi, sông ngòi, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất.
Nhưng Nhà nước lại như một pháp nhân mẹ chứa đựng trong lòng
mình nhiều pháp nhân là các tổ chức và cơ quan của Nhà nước.
Các cơ quan tổ chức của Nhà nước trực tiếp tham gia vào các
QHPL với các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định.
Các tổ chức không có tư cách pháp nhân cũng có thể trở thành chủ thể
của một số QHPL. Ví dụ: Hộ gia đình là chủ thể của một số QHPLDS và đất
đai, một số Tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân, cũng có thể là chủ thể
của QHPLDS.
b. Khách thể của QHPL.
- Khái niệm: Khách thể của QHPL là những lợi ích vật chất hoặc phi
vật chất mà các chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia các quan hệ pháp
luật.
Khách thể của QHPL có thể chia làm 3 loại:
- Tài sản vật chất như tiền, vàng, bạc, đá quí, nhà ở,ô tô, xe máy, các
loại hàng hóa khác.
- Hành vi xử sự của con người như vận chuyển hàng hóa, khám bệnh,
chữa bệnh, chăm sóc người già, trẻ em, bầu cử, ứng cử vào các cơ
quan quyền lực Nhà nước, phục vụ hành khách trên tàu hỏa, máy
bay, hướng dẫn người đi du lịch, tham quan...

39
- Các lợi ích phi vật chất như quyền tác giả, quyền phát minh sáng
chế, danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của con người.
Khách thể của QHPL chính là cái mà vì nó các chủ thể pháp luật tham
gia vào QHPL. Ví dụ: Trong quan hệ mua bán nhà ở, ngôi nhà được coI là
khách thể của QHPL này. Trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa, khách thể
của QHPL hợp đồng không phải là hàng hóa mà là sự vận chuyển hàng
hóa. Trong quan hệ tranh chấp về quyền tác giả của một sản phẩm lao động
sáng tạo thì khách thể của QHPL là quyền tác giả.
c. Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của QHPL bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ
thể khi tham gia QHPL.
* Quyền chủ thể là khả năng của chủ thể được xử sự theo cách thức
nhất định khi tham gia QHPL.
Quyền chủ thể bao gồm 3 yếu tố sau:
- Khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật
cho phép.
- Khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt các hành động cản trở
nó thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý hoặc yêu cầu chúng phải thực
hiện các nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ này.
- Khả năng của chủ thểyêu cầu các cơ quan pháp luật có thẩm quyền
can thiệp bảo vệ lợi ích của mình.
* Nghĩa vụ của chủ thể là cách xử sự mà chủ thể bắt buộc phải thực
hiện nhằm đáp ứngviệc thực hiện quyền của chủ thể khác.
Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể bao gồm 2 yếu tố:
- Phải thực hiện các xử sự mà pháp luật bắt buộc. Hành vi bắt buộc
này có thể mang tính chủ động, nghĩa là phải thực hiện một hành động nhất
định hoặc mang tính thụ động, tức là tự kiềm chế khôngvi phạm các Điều
cấm đoán.
- Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện đúng các qui định
của pháp luật.
Trong mối quan hệ pháp luật thông thường, quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia QHPL gắn bó với nhau.việc thực hiện quyền của một chủ
thể pháp luật này thường là điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ
của một chủ thể khác và ngược lại.
3. Sự kiện pháp lý
QHPL phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt dưới tác động của 3 điều
kiện: qui phạm pháp luật, năng lực chủ thể và sự kiện pháp lý.
Khái niệm: Sự kiện pháp lý là những sự kiện, hoàn cảnh thực tế, cụ
thể xảy ra không phụ thuộc vào ý chí của con người nhưng làm xuất hiện,
thay đổi hoặc chấm dứt những QHPL..

40
Sự kiện pháp lý được coi là chất xúc tác vào QPPL tạo ra các QHPL,
nó là chiếc cầu nối giữa QPPL và QHPL. Sự kiện pháp lý chia làm hai loại
là sự kiện pháp lý và hành vi pháp lý.
a.Sự kiện pháp lý: là những sự kiện, hoàn cảnh thực tế, cụ thể xảy ra
không phị thuộc vào ý chí của con người nhưng làm xuất hiện, thay đổi hoặc
chấm dứt những QHPL.
Sự kiện pháp lý thông thường là những tai biến thiên nhiên như động
đất, núI lửa, gió bão, lũ lụt, hạn hán, sấm sét. sự sinh, sự chết của con người
cũng được coI là sự kiện pháp lý. Tuy nhiên, không phải bất kỳ tai biến thiên
nhiên nào cũng là sự kiện pháp lý. Chỉ những tai biến thiên nhiên nào gây
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con người hoặc thiệt hại về tài sản mới là sự
kiện pháp lý.
Ví dụ: Điều 40 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 quy định
vềviệc chấm dứt quan hệ pháp luật về trách nhiệm vật chất giữa các bên ký
kết hợp đồng nếu nhưviệcvi phạm hợp đồng xảy ra do thiên tai, địch họa
hoặc các trở lực khách quan mà bênvi phạm đã tìm mọi cách khắc phục
song không có hiệu quả và đã có thông báo cho bên kia biết.
b. Hành vi pháp lý: là những sự kiện, hoàn cảnh thực tế cụ thể xảy ra
phụ thuộc vàop ý chí của con người làm xuất hiện hoặc thay đổi hoặc chấm
dứt những QHPL.
Hành vi pháp lý chia làm 2 nhóm là hành vi hợp pháp và hành vi bất
hợp pháp
• Hành vi hợp pháp là những hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật
làm xuất hiện, thay đổi, hoặc chấm dứt những QHPL. Ví du:việc ký kết
các hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự,việc đăng ký kết hôn theo đúng
qui định của pháp luật...
• Hành vi không hợp pháp là những hành vivi phạm pháp luật làm xuất
hiện, thay đổi hoặc chấm dứt những QHPL.
Hành vi không hợp pháp bao gồm hành vi phạm tội và hành vi VPPL
khác.
- Hành vi phạm tội là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui
định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hay
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, xâm phạm chế độ Nhà nước XHCN, xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN.
- Hành vi vi phạm pháp luật khác là những hành vi VPPL ngoài
những qui định của BLHS. Ví dụ,vi phạm pháp luật giao thông,vi phạm hợp
đồng dân sự,vi phạm kỷ luật lao động... Hành vi vi phạm pháp luật khác và

41
hành vi phạm tội đều làd những sự kiện pháp lý vì chúng luôn luôn làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những QHPL.
Những hành vi này bao giờ cũng là cơ sở phát sinh quan hệ trách nhiệm
pháp lý tùy theo mức độ vi phạm.

BẢNG 3: SƠ ĐỒ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH QUAN HỆ PHÁP


LUẬT

Chủ thể: cá nhân,


Sự kiện pháp tổ chức

Quan Quan Nội dung:
hệ hệ Quyền chủ thể
xã Quy phạm Nghĩa vụ pháp lý
pháp luật pháp
hội luật
tương ứng
Khách thể của
quan hệ pháp luật

IX.Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý


1.Vi phạm pháp luật.
a. Khái niệm vi phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật là hành vi không làm đúng với những quy định
trong các quy phạm pháp luật, gây tổn hại cho xã hội của các chủ thể pháp
luật.
Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội có những dấu hiệu cơ bản
sau:
-Vi phạm pháp luật luôn là hành vi (hành động hoặc không hành
động) xác định của con người. Chỉ những hành vi (biểu hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động) cụ thể mới bị coI là những hành vivi phạm
pháp luật; những ý nghĩ dù tốt, dù xấu cũng không thể coI là nhữngvi phạm
pháp luật.
-Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ. Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù
hợp với những quy định của pháp luật như không thực hiện những nghĩa vụ
pháp lý, sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn pháp luật cho phép... Tính trái
pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu của hành vi bị coI làvi phạm pháp luật.

42
-Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi. Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ
là biểu hiện bên ngoài của hành vi. Để xác định hành vivi phạm pháp luật
cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, nghĩa là, phải xác định trạng thái
tâm lý của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình. Nếu một hành vi
trái pháp luật được thực hiện do những hoàn cảnh và điều kiện khách quan,
chủ thể hành vi đó không cố ý và không vô ý thực hiện hoặc không thể ý
thức được, từ đó không thể lựa chọn cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật
thì hành vi đó không thể coi là có lỗi và chủ thể không bị coi là vi phạm
pháp luật. Kể cả những hành vi trái pháp luật mà chủ thể bị buộc phải thực
hiện trong điều kiện không có tự do ý chí thì cũng không bị coI là có lỗi.
- Chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phải có năng lực trách
nhiệm pháp lý. Trong pháp luật XHCN, sự độc lập gánh chịu nghĩa vụ pháp
lý chỉ quy định đối với những người có khả năng tự lựa chọn cách xử sự và
có tự do ý chí, nóI một cách khác, người đó phải có khả năng nhận thức hoặc
khả năng Điều khiển hành vi của mình. Những hành vi mặc dù trái pháp luật
nhưng do những người mất khả năng nhận thức hoặc khả năng Điều khiển
hành vi của mình thì không thể coI làvi phạm pháp luật. Hành vi trái pháp
luật của trẻ em (chưa đến độ tuổi pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm
pháp lý) cũng không bị coi làvi phạm pháp luật. Như vậy, trách nhiệm pháp
lý trong pháp luật XHCN chỉ quy định cho những người đã đạt một độ tuổi
nhất định theo quy định của pháp luật, có khả năng lý trí và tự do ý chí.
Từ những dấu hiệu trên có thể xác định:vi phạm pháp luật là hành vi
(hành động hoặc không hành động) trái pháp luật và có lỗi do chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại tới các quan hệ xã hội
được pháp luật XHCN bảo vệ.
2. Cấu thành vi phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý, song để
truy cứu trách nhiệm pháp lý trước hết phải xác định cấu thành của vi phạm
pháp luật. Cấu thành vi phạm pháp luật gồm:
- Mặt khách quan củavi phạm pháp luật ;
- Khách thể củavi phạm pháp luật ;
- Mặt chủ quan củavi phạm pháp luật ;
- Chủ thể củavi phạm pháp luật .
a. Mặt khách quan củavi phạm pháp luật.
Mặt khách quan củavi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên
ngoài củavi phạm pháp luật, gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả
thiệt hại cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiẻm cho xã
hội và hậu quả thiệt hại cho xã hội cùng các dấu hiệu khác (thời gian, địa
điểm, phương tiện, công cụ...).

43
VI phạm pháp luật trước hết phải là hành vi thể hiện bằng hành động
hoặc không hành động. Không thể coI ý nghĩ, tư tưởng, ý chí của con người
làvi phạm pháp luật nếu nó không được thể hiện thành những hành vi cụ thể.
Hành vi để bị coI là nguy hiểm cho xã hội phải là hành vi trái pháp luật.
Tính trái pháp luật được biểu hiện dưới hình thức làm ngược lại Điều pháp
luật quy định, thực hiện hành vi vượt quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc
làm khác đi so với yêu cầu của pháp luật.
Hậu quả thiệt hại cho xã hội là những tổn thất về vật chất hoặc tinh
thần mà xã hội phải gánh chịu. Xác định sự thiệt hại của xã hội chính là xác
định mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả thiệt hại
cho xã hội được biểu hiện: sự thiệt hại cho xã hội phải do chính hành vi trái
pháp luật nóI trên trực tiếp gây ra. Trong trường hợp giữa hành vi trái pháp
luật và hậu quả thiệt hại cho xã hội không có mối quan hệ nhân quả thì sự
thiệt hại của xã hội không phải do hành vi trái pháp luật trên gây ra mà có
thể do những nguyên nhân khác, trường hợp này không thể bắt chủ thể của
hành vi trái pháp luật phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại mà hành vi
trái pháp luật của họ không trực tiếp gây ra. Ví dụ: hành vi trộm cắp tài sản,
hành vi cố ý gây thương tích, hậu quả chết người, làm thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản của người khác.
b. Khách thể củavi phạm pháp luật.
Khách thể của VPPL là những QHXH được Nhà nước bảo vệ nhưng
bị hành vi VPPL xâm hại.
Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật phụ thuộc vào tính
chất,ý nghĩa, tầm quan trọng và giá trị của khách thể.
VD1: hành vi xâm phạm tính mạng con người nguy hiểm hơn hành vi
xâm phạm đến trật tự công cộng; hành vi xâm hại đến ANQG nghiêm trọng
hơn hành vi xâm hại đến trật tự quảnh lý hành chính.
VD2: Khách thể của QHPLHS là quyền tự do về sức khỏe, thân thể,
tính mạng, quyền sở hữu tài sản, an ninh chính trị và trật tự an tòan xã hội....
c. Mặt chủ quan củavi phạm pháp luật.
Mặt chủ quan củavi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên trong
của nó, bao gồm yếu tố lỗi và các yếu tố có liên quan đến lỗi là động cơ,
mục đích của chủ thể thực hiệnvi phạm pháp luật.
Lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ của chủ thể đối với hành vi
trái pháp luật của mình, cũng như đối với hậu quả của hành vi đó.
Lỗi được thể hiện dưới 2 hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có
thể là cố ý trực tiếp có thể là cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự
tin cũng có thể là vô ý do cẩu thả.

44
- Lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội;nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành vi
của mình gây ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Ví dụ: Lỗi cố ý giết người,lỗi cố ý gây thương tích cho người khác.
- Lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội; nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành
vi của mình gây ra, tuy không mong muốn những để mặc cho hậu quả xảy
ra.
Ví dụ: Lỗi cố ý gián tiếp không cứu giúp người đang trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng dẫn đến người đố chết
- Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thểvi phạm nhìn thấy trước hậu quả thiệt
hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra, nhưng hy vọng, tin tưởng Điều
đó không xảy ra hoặc nếu xảy ra có thể ngăn chặn được.
- Lỗi vô ý do cẩu thả: Chủ thểvi phạm không nhận thấy trước hậu quả
nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể thấy hoặc
cần phải nhận thấy trước.
* Động cơ là lý do thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật.
* Mục đích là kết quả mà chủ thể muốn đạt được khi thực hiện hành
vivi phạm.
Trong mặt chủ quan, lỗi là dấu hiệu bắt buộc, còn động cơ và mục
đích không phải là dấu hiệu bắt buộc, trong thực tế, nhiều trường hợpvi
phạm pháp luật chủ thể thực hiện hành vi không có mục đích và động cơ.
d. Chủ thể vi phạm pháp luật.
Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm
pháp lý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Khi truy cứu ttrách nhiệm pháp
lý nếu chủ thể hành vi trái pháp luật là cá nhân phải xác định người đó có
năng lực trách nhiệm pháp lý trong trường hợp đó hay không, muốn vậy
phải xem họ đã đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm
pháp lý trong trường hợp đó hay chưa? Khả năng nhận thức và Điều khiển
hành vi trong trường hợp đó như thế nào? Còn đối với chủ thể là tổ chức
phải chú ý tới tư cách pháp nhân hoặc địa vị pháp lý của tổ chức đó.
Ở mỗi loạivi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng, chúng ta sẽ
xem xét cụ thể trong từng ngành khoa học pháp lý.
3. Phân loại vi phạm pháp luật.
Trong đời sống xã hội tồn tại nhiều nhữngvi phạm, theo tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội có 4 loạivi phạm pháp luật sau:
a) Tội phạm (vi phạm hình sự): là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống

45
nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự
do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN.
Chủ thể vi phạm hình sự chỉ là cá nhân.
b)Vi phạm hành chính: là hành vi do cá nhân,tổ chức thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý Nhà nước mà không
phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính.
Chủ thểvi phạm hành chính có thể là cá nhân và cũng có thể là tổ
chức.
c)Vi phạm dân sự: là những hành vi trái pháp luật, có lỗi của các cá
nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm dân sự, xâm hại tới các quan hệ tài
sản, quan hệ nhân thân.
Chủ thểvi phạm dân sự có thể là cá nhân cũng có thể là tổ chức.
d)Vi phạm kỷ luật Nhà nước: là những hành vi có lỗi, trái với những
quy chế, quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ cơ quan, xí nghiệp, trường
học..., nói khác đi, là không thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, phục
vụ được đề ra trong cơ quan, xí nghiệp, trường học đó.
Chủ thểvi phạm kỷ luật có thể là cá nhân, cũng có thể là tập thể và họ
phải có quan hệ ràng buộc với cơ quan, đơn vị, trường học... nào đó.
4. Trách nhiệm pháp lý.
a. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý.
Trong những lĩnh vực khách nhau của đời sống xã hội, thuật ngữ
"trách nhiệm" được dùng ở nhiều nghĩa khác nhau.
Trong lĩnh vực chính trị, đạo đức, thuật ngữ “trách nhiệm” thường
được hiểu là bổn phận, thái độ tích cực đối với bổn phận đó.
Trong lĩnh vực pháp luật, thuật ngữ “trách nhiệm” cũng được dùng
theo 2 nghĩa: tích cực và tiêu cực.
Ở khía cạnh tích cực, khái niêm “trách nhiệm” có nghĩa là chức trách,
công việc được giao, nó bao hàm cả quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy
định.Ví dụ: Điều 117 Hiến pháp1992: "Bộ trưởng và các thành viên khác
của Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng về lĩnh vực, ngành mà
mình phụ trách".
Ở khía cạnh tiêu cực, khái niệm “trách nhiệm” được hiểu là hậu quả
bất lợi (các biện pháp cưỡng chế mang tính Nhà nước) mà cá nhân, tổ chức
phải gánh chịu khi không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã quy
định trong các quy phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý chỉ được áp dụng
đối với các hành vi VPPL.

46
Trách nhiệm pháp lý ở khía cạnh tiêu cực có một số các đặc điểm sau:
- Cơ sở của trách nhiệm pháp lý làvi phạm pháp luật. Cóvi phạm pháp
luật thì có trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý chỉ áp dụng đối với chủ
thể có năng lực chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật trong trạng thái có lý
trí và tự do về ý chí. Nói cách khác, chủ thể trách nhiệm pháp lý chỉ có thể là
cá nhân hoặc tổ chức có lỗi khi vi phạm các quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm pháp lý chỉ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, người
có thẩm quyền tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Mỗi loại cơ
quan Nhà nước, cán bộ Nhà nước chỉ có quyền truy cứu một hoặc một số
loại trách nhiệm pháp lý theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật đã quy định.
- Trách nhiệm pháp lý liên quan mật thiết tới cưỡng chế Nhà nước.
Khi vi phạm pháp luật xảy ra, thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, người
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp có tính cưỡng chế khác nhau, nhưng
không phải bất cứ biện pháp tác động nào cũng là trách nhiệm pháp lý. Biện
pháp trách nhiệm pháp lý chỉ là những biện pháp có tính chất trừng phạt,
làm thiệt hại hoặc tước đoạt ở một phạm vi nào đó các quyền tự do, lợi ích
hợp pháp mà chủ thể vi phạm pháp luật trong điều kiện bình thường đáng ra
được hưởng.
- Cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quyết định có
hiệu lực pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Trách nhiệm pháp lý là sự lên án của Nhà nước và xã hội đối với chủ
thểvi phạm pháp luật, là sự phản ứng của Nhà nước đối với hành vi vi phạm
pháp luật.
Tóm lại, trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt
giữa Nhà nước (thông qua cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) và chủ thể vi
phạm pháp luật, trong đó Nhà nước (thông qua cơ quan có thẩm quyền) có
quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng phạt được quy
định ở chế tài quy phạm pháp luật đối với chủ thểvi phạm pháp luật và chủ
thể đó phải gánh chịu hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần do hành vi của
mình gây ra.
b. Các loại trách nhiệm pháp lý.
Tương ứng với các dạngvi phạm pháp luật là các dạng trách nhiệm
pháp lý. Thông thường, trách nhiệm pháp lý được phân loại như sau:
- Phụ thuộc vào các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng trách
nhiệm pháp lý, ta có: trách nhiệm do Toà án áp dụng và trách nhiệm do cơ
quan quản lý Nhà nước áp dụng.
- Căn cứ vào mối quan hệ của trách nhiệm pháp lý với các ngành luật,
ta có: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự,
trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất.

47
a.Trách nhiệm hình sự được Toà án áp dụng đối với những người có
hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự. Chế tài trách nhiệm
hình sự là nghiêm khắc nhất.
b. Trách nhiệm hành chính chủ yếu do các cơ quan quản lý Nhà nước
hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi
phạm hành chính.
c. Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do Toà án áp dụng
đối với các chủ thể vi phạm pháp luật dân sự.
d. Trách nhiệm kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với chủ
thểvi phạm kỷ luật, do thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tiến hành.
đ. Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan,
đơn vị... áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân, người lao động...
của cơ quan, đơn vị mình trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ
quan, đơn vị.
X. Pháp chế XHCN
1. Khái niệm pháp chế XHCN.
Pháp chế là một khái niệm cơ bản có tầm quan trọng đặc biệt trong lý
luận về Nhà nước và pháp luật. Nhưng pháp chế và pháp luật là hai khái
niệm khác nhau.
Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị- xã hội,
trong đó tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân
viên Nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn
trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Pháp luật là hệ thống các quy phạm (các quy tắc xử sự) do Nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Như vậy, có
pháp luật rồi mới có pháp chế: pháp luật là tiền đề của pháp chế. Nhưng có
pháp luật chưa phải đã mặc nhiên có pháp chế, vì nếu pháp luật mâu thuẫn
và chồng chéo, nội dung phản tiến bộ thì thực hiện pháp luật đó chỉ làm cho
xã hội rơi vào tình trạng bất công, trật tự kỷ cương bị đảo lộn. Do đó, khi
ban hành pháp luật đã phải triệt để tuân thủ các nguyên tắc của pháp chế, để
bảo đảm có một hệ thống pháp luật hoàn thiện làm cơ sở, tiền đề vững chắc
cho pháp chế. Điều này giải thích vì sao xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến
có pháp luật mà chưa có pháp chế. Pháp chế xuất hiện đầu tiên trong xã hội
tư sản và càng được tăng cường trong xã hội XHCN.
Khái niệm pháp chế còn được hiểu là phương pháp, chế độ quản lý xã
hội, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và cả hệ thống
chính trị, cũng là nguyên tắc xử sự của mọi công dân.
2. Các nguyên tắc của pháp chế XHCN.
- Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế, tính tối cao của Hiến
phápvà các đạo luật: pháp luật phải được nhận thức và thực hiện

48
thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và ở tất cả các ngành, các
lĩnh vực. Điều đó có nghĩa là không chỉ mọi quyết định mà cả
những hoạt động chỉ đạo cụ thể của tất cả các cơ quan nhà nước,
của các cơ quan, tổ chức khác cũng như hành vi của mọi công dân
ở mọi địa phương đều phải phù hợp với Hiến pháp, luật và các văn
bản pháp luật của cơ quan cấp trên.
- Mọi chủ thể đều có nghĩa vụ phải chấp hành pháp luật, bình đẳng
trước pháp luật: hình phạt đối với những chủ thể vi phạm pháp
luật, cũng như quyền và nghĩa vụ của họ là như nhau, không phân
biệt tầng lớp, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, nòi giống, tín
ngưỡng, tôn giáo...
- Phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nhanh chóng, công minh
mọi vi phạm pháp luật. Nhiệm vụ này là của mọi cơ quan nhà
nước, mọi công dân nhưng trước hết là của cơ quan bảo vệ pháp
luật (Tòa án, Thanh tra, Công an, Kiểm sát)... Tức là pháp chế phải
nghiêm minh.
- Thiết lập cơ chế để công dân thực hiện các quyền tự do đã được
pháp luật ghi nhận và bảo vệ các quyền tự do đó trước các vi
phạm.
- Tính thống nhất của pháp chế phù hợp hài hòa với tính hợp lý. Mỗi
ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương có những đặc điểm riêng. Do
đó, pháp luật muốn được thi hành thống nhất trong cả nước thì
pháp luật đó phải có tính hợp lý, nghĩa là phải phù hợp với các đặc
điểm của địa phương, của các ngành, lĩnh vực, phải đặt cơ sở phát
huy quyền chủ động, sáng tọa của cơ sở trong khuôn khổ pháp
luật. Nhưng nếu cơ quan ở địa phương, cơ sở thấy pháp luật chưa
hợp lý thì vẫn phải chấp hành, không được vin vào tính không hợp
lý của nó để làm trái, đồng thời cần kịp thời kiến nghị lên cấp trên
xem xét sửa đổi. Có như vậy pháp luật mới có tính thống nhất,
3. Vấn đề tăng cường pháp chế XHCN.
Trong giai đoạn hiện nay vấn đề củng cố và tăng cường pháp chế
XHCN ở nước ta đang là vấn đề cấp thiết nhằm nâng cao hiệu lực quản lý
của Nhà nước, mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động.Đểlàm được việc đó phải tiến hành đồng bộ và toàn diện các
biện pháp sau:
a. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế.
Đây là biện pháp cơ bản, bao trùm, xuyên suốt trong quá trình củng cố
và tăng cường pháp chế XHCN. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện trước hết ở
việc Đảng đề ra đường lối, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
đồng thời đề ra chiến lược toàn diện về công tác pháp chế. Trong từng thời

49
kỳ Đảng đề ra những phương hướng về xây dựng pháp luật, tổ chức thực
hiện pháp luật, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ pháp lý để tăng cường cho các cơ quan làm công tác pháp
luật, pháp chế, tổ chức lãnh đạo phong trào quần chúng tham gia tích cực,
chống vi phạm pháp luật ... đó là sự lãnh đạo toàn diện, có ý nghĩa quyết
định đối với kết quả của công tác pháp chế.
b. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Pháp luật XHCN là tiền đề của pháp chế XHCN, muốn tăng cường
pháp chế XHCN và quản lý xã hội bằng pháp luật, phải có một hệ thống
pháp luật tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ. Để có được một hệ thống pháp
luật như vậy, phải thực hiện nhiều biện pháp như: phải thường xuyên tiến
hành hệ thống hoá pháp luật để phát hiện và loại bỏ những quy định pháp
luật trùng lặp, mâu thuẫn, lạc hậu, bổ sung những thiếu sót trong hệ thống
pháp luật; kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng thành pháp
luật; có kế hoạch xây dựng pháp luật phù hợp với mỗi giai đoạn cụ thể, đẩy
mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, kỹ thuật xây dựng pháp luật để
đảm bảo cho hệ thống các văn bản pháp luật được mang tính khoa học và đạt
trình độ kỹ thuật cao, mở rộng các hình thức nhân dân lao động tham gia
vàoviệc xây dựng pháp luật.
c. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật.
Đây là một biện pháp lớn bao gồm nhiều mặt hoạt động nhằm bảo
đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, cụ thể là:
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường công
tác giải thích pháp luật để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các quy định
pháp luật làm cơ sở choviệc tuyên truyền và giáo dục pháp luật đạt kết quả
tốt.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật
nhằm nâng cao trình độ nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật của nhân
dân (cần thiết đưa môn "Nhà nước và pháp luật đại cương" vào giảng dạy ở
mọi trường đại học, cao đẳng)
- Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ trình độ,
phẩm chất chính trị và khả năng công tác để sắp xếp vào các cơ quan làm
công tác pháp luật, pháp chế.
- Chú trọng công tác tổ chức, kiện toàn các cơ quan làm công tác pháp
luật, pháp chế. Xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, nguyên tắc
hoạt động, cải tiến các phương pháp chỉ đạo và thực hiện, đồng thời tạo
điều kiện vật chất cần thiết bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan đó đạt
hiệu quả cao.
- Trong từng thời kỳ cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời để
thấy rõ những thiếu sót, nhược điểm trong công tác tổ chức thực hiện pháp

50
luật, đề ra những phương hướng và biện pháp tăng cường hiệu lực công tác
đó.
d. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh
những hành vivi phạm pháp luật.
Bện pháp này nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm
chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. BIện pháp này đòi hỏi
trước hết phải thường xuyên tổ chứcviệc kiểm tra hoạt động của bộ máy Nhà
nước, đặc biệt là hệ thống cơ quan làm công tác bảo vệ pháp chế để phát
hiện những sai sót, lệch lạc, kịp thời uốn nắn, rút kinh nghiệm bảo đảm cho
bộ máy Nhà nước hoạt động nhịp nhàng theo đúng nguyên tắc và yêu cầu
của pháp luật.
Xử lý nghiêm minh nhữngvi phạm pháp luật của cán bộ, công chức
theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Đối với cơ quan bảo vệ pháp chế XHCN đòi hỏi phải có phương pháp
hoạt động thích hợp, có hiệu quả để nhanh chóng phát hiện, làm sáng tỏ các
vụviệc tiêu cực,vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm
minh, chính xác, đúng quy định của pháp luật.

PHẦN HAI:CÁC NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT


VIỆT NAM
CHƯƠNG 3: LUẬT HIẾN PHÁP - LUẬT HÀNH CHÍNH
A. LUẬT HIẾN PHÁP
I..KHÁI NIỆM LUẬT HIẾN PHÁP
1.Định nghĩa: Luật Hiến pháplà một ngành luật độc lập trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các QPPL do Nhà nước ban
hành hay thừa nhận để điều chỉnh những QHXH quan trọng nhất gắn liền
vớiviệc xác định chế độ KT-VH-XH-GD-KH-CN, chính sách quốc phòng và
an ninh, địa vị pháp lý của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà
nước.
2.Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh.
a) Đối tượng điều chỉnh.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháplà các QHXH được Luật Hiến
pháptác động bao gồm các nhóm quan hệ sau:
- Các quan hệ chủ yếu trong lĩnh vực chính trị bao gồm quan hệ giữa Nhà
nước với Đảng cộng sản Việt Nam, với nhân dân, với các tổ chức xã hội, với
các dân tộc khác, với các Nhà nước khác và với các tổ chức quốc tế.
- Các quan hệ trong lĩnh vực kinh tế bao gồm các quan hệ về sở hữu đối
với các tư liệu sản xuất chủ yếu; các quan hệ phân phối sanr phẩm lao động;
các quan hệ về quản lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh và các quan hệ

51
giữa Nhà nước với các thành phần kinh tế tạo nên cơ sở kinh tế của Nhà
nước..
Theo Hiến pháp1959 có 4 hình thức sở hữu: Nhà nước, tập thể, người
lao động riêng lẻ, nhà tư sản dân tộc.
Theo Hiến pháp1980: có 2 hình thức sở hữu là Nhà nước và tư nhân,
tương ứng có 2 thành phần kinh tế là Quốc doanh và tập thể (tổ hợp tác,
HTX).
Theo Hiến pháp1992 có 3 hình thức sở hữu là sở hữu Nhà nước (toàn
dân), tập thể, tư nhân ( Điều 15-Hiến pháp1992); tương ứng có 5 thành
phần kinh tế là: kinh tế quốc doanh (Nhà nước); kinh tế HTX (Tập thể), kinh
tế Tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và thành phần kinh tế cá thể, hộ
gia đình
Hiến pháp1992 sửa đổi, bổ sung 2001 bổ sung thêm 02 thành phần
kinh tế mới là: thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ (thay thế cho thành phần
kinh tế cá thể, Hộ gia đình trước đây) và thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài .
- Nhóm các quan hệ chủ yếu về văn hóa, giáo dục, khoa học và công
nghệ.
- Nhóm các quan hệ chủ yếu giữa Nhà nước và công dân trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Tập trung trong nhóm quan hệ này là quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân.
- Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành và hoạt động
của cơ quan Nhà nước.
b.Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháplà những cách thức mà Nhà
nước tác động đến các QHXH thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến
phápnhằm thiết lập một trật tự nhất định phù hợp với ý chí Nhà nước.
Quan hệ xã hội liên quan đến việc tổ chức quyền lực nhà nước là những
quan hệ xã hội rất quan trọng, là những quan hệ có tính chất cơ sở cho mọi
quan hệ xã hội khác. Do đó, với tư cách là một ngành luật công pháp quốc
nội, Luật Hiến phápthường sử dụng phương pháp định nghĩa, bắt buộc,
quyền uy để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
3. Qui phạm luật Hiến phápvà Quan hệ luật Hiến pháp.
a.Qui phạm Luật Hiến pháp
Qui phạm Luật Hiến pháplà những qui tắc xử sự do Nhà nước đặt ra
hoặc thừa nhận để điều chỉnh những QHXH quan trọng nhất gắn liền với
việc xác định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hóa, giáo dục, khoa
học, công nghệ và môi trường, chính sách quốc phòng và an ninh, địa vị
pháp lý của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Quy phạm luật Nhà nước có những đặc điểm sau:

52
- Phần lớn các qui phạm luật Nhà nước được ghi trong Hiến phápvà
ngược lại phần lớn các qui định trong Hiến pháplà những qui phạm luật Nhà
nước. Chính vì vậy mà Luật Nhà nước còn được gọi là Luật Hiến pháp.
- Các qui phạm Luạt Hiến phápchủ yếu chỉ có phần giả định và qui
định. Rất ít các qui phạm Luật Nhà nước có phần chế tài. Sỡ dĩ như vậy là vì
bắt nguồn từ đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp, các QPPL Hiến
phápchỉ qui định một cách chung nhất, trên cơ sở đó các ngành luật khác sẽ
cụ thể hóa trong từng trường hợp xác định và qui định các biện pháp chế tài
cụ thể.
b.Quan hệ Luật Hiến pháp.
Quan hệ Luật Hiến pháplà những QHXH được điều chỉnh bằng các
qui phạm Luật Hiến pháp.
• Chủ thể quan hệ Luật Hiến pháp.
- Nhân dân: Bao gồm các giai cấp, tầng lớp trong xã hội là một
loại chủ thể đặc biệt của quan hệ Luật Hiến pháp.
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
- Các cơ quan Nhà nước và những người có chức trách trong các
cơ quan Nhà nước.
- Các tổ chức chính trị - xã hội và những người có chức trách
trong các tổ chức chính trị - xã hội.
- Các đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND. Đây là chủ thể đặc
biệt của quan hệ Luật Hiến pháp
- Công dân Việt Nam và những người không có quốc tịch Việt
Nam.
• Khách thể của quan hệ Luật Hiến pháp.
- Lãnh thổ quốc gia và địa giới hành chính giữa các địa phương
- Những giá trị vật chất như: đất đai, rừng núi, sông hồ, nước, tài
nguyên trong lòng đất...
- Những lợi ích tinh thần của cá nhân như danh dự, nhân phẩm,
quyền tự do...
- Hành vi của con người và các tổ chức như học tập, lao động,
trình dự án luật.
4. Hiến phápXHCN - Luật cơ bản của Nhà nước XHCN
Hiến pháplà một đạo luật cơ bản, khác với những đạo luật khác.
Tính chất cơ bản của Hiến pháptrong Nhà nước XHCN thể hiện trên nhiều
phương diện:
- Trước hết, Hiến phápXHCN là văn bản duy nhất qui địnhviệc tổ
chức quyền lực Nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Ở từng giai đoạn phát triển, Hiến

53
phápXHCN là văn bản, là phương tiện pháp lý thực hiện tư tưởng của Đảng
dưới hình thức những qui phạm pháp luật.
- Xét về nội dung, nếu các luật khác thường chỉ điều chỉnh các
QHXH thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội thì đối tượng điều
chỉnh của Hiến phápXHCN rất rộng, đó là những QHXH cơ bản liên quan
đến lợi ích cơ bản của mọi giai cấp, mọi công dân trong xã hội như chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ,
địa vị pháp lý của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
- Xét về mặt pháp lý, Hiến phápXHCN có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Đặc tính đó của Hiến phápcó những biểu hiện cụ thể sau:
+ Các qui định của Hiến pháplà nguồn, là căn cứ của tất cả các
ngành luật khác thuộc hệ thống pháp luật XHCN.
+ Tất cả các văn bản pháp luật khác không được mâu thuẫn mà phải
hoàn toàn phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp, được ban hành
trên cơ sở của Hiến phápvà để thi hành Hiến pháp.
+ Các Điều ước quốc tế mà Nhà nước CHXHCN Việt Nam tham
gia không được mâu thuẫn, đối lập với qui định của Hiến pháp. Khi có mâu
thuẫn, đối lập với Hiến phápthì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không
được tham gia ký kết, không phê chuẩn hoặc bảo lưu đối với từng Điều riêng
biệt (Ví dụ: đất đai không thể bán cho người nước ngoài).
+ Tất cả các cơ quan Nhà nước phải thực hiện chức năng của mình
theo qui định của Hiến pháp, sử dụng đầy đủ các quyền hạn, làm tròn các
nghĩa vụ mà Hiến phápqui định.
+ Tất cả các công dân có nghĩa vụ tuân thủ theo Hiến pháp, nghiêm
chỉnh chấp hành các qui định của Hiến pháp.
+Việc xây dựng, thông qua, ban hành, sửa đổi, thay đổi Hiến
phápphải tuân theo một trình tự đặc biệt: Chủ trương xây dựng Hiến
phápthường được biểu thị bằng một Nghị quyết của cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất;việc xây dựng dự thảo Hiến phápthường được tiến hành bằng
một cơ quan soạn thảo Hiến phápdo chính Quốc hội lập ra;việc lấy ý kiến
nhân dân thường được tiến hành rộng rãi;việc thông qua Hiến phápthường
được tiến hành tại một kỳ họp đặc biệt của cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất;việc sửa đổi Hiến phápthường được thực hiện theo một trình tự đặc biệt
theo qui định tại Hiến pháp; cả quá trình xây dựng, sửa đổi Hiến phápđược
sự quan tâm, chỉ đạo của ĐCS.
II. MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH Ơ BẢN CỦA LUẬT HIẾN PHÁP
1. Chế độ chính trị nước CHXHCN Việt Nam.
• Khái niệm chế độ chính trị.
Chế độ chính trị thực chất là chế độ thực hiện quyền lực Nhà nước.
Chế độ chính trị được hiểu dưới khía cạnh khác nhau. Chế độ chính trị theo

54
bình diện là một chế định của luật Nhà nước; là một chế định cơ bản của
Luật Nhà nước vì nó là nền tảng của các chế định khác của Luật Nhà nước.
Dưới bình diện đó chế định "Chế độ chính trị" qui định những vấn đề sau:
bản chất của Nhà nước; mục đích của chế độ chính trị; các hình thức nhân
dân sử dụng quyền lực Nhà nước; tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
trị; những nguyên tắc cơ bản của chế độ chính trị; chính sách đoàn kết toàn
dân và đường lối dân tộc.
a.Bản chất và mục đích của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
• Bản chất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Bản chất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam được qui định tại Điều 2
Hiến pháp1992: "Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trongviệc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp".
Như vậy, bản chất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam trước hết được
thể hiện là Nhà nước pháp quyền XHCN. Bản chất Nhà nước pháp quyền
XHCN được thể hiện ở những đặc trưng sau:
- Nhà nước đang xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong
đó Hiến phápvà các luật đóng vai trò tối thượng. Mọi cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội, tổ chức kinh tế và mọi công dân đều phải tuân thủ nghiêm
chỉnh pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
- Là Nhà nước trong đó không chỉ có công dân có trách nhiệm đối với
Nhà nước, mà Nhà nước phải có trách nhiệm đối với công dân.
- Là Nhà nước trong đó các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính
đáng của con người được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi VPPL, xâm phạm
các quyền tự do dân chủ và lợi ích chính đáng của con người đều bị nghiêm
trị.
- Là Nhà nước trong đó quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân
công phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trongviệc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam còn là Nhà nước của dân, do dân và
vì dân. Bản chất này được thể hiện ở các đặc trưng sau:
- Nhân dân Việt Nam là chủ thể tối cao của Nhà nước. Dân chủ
XHCN là thuộc tính của Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tất cả quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân Việt Nam. Nhân dân có quyền quyết định mọi
vấn đề quan trọng của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

55
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước của tất cả các dân tộc
trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết các dân
tộc anh em.
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
nguyên tắc bình đẳng trong các mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam mang tính nhân đạo sâu sắc, tôn
trọng các giá trị con người.
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam có chính sách và hoạt động đối ngoại
thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam, thể hiện mong muốn
hợp tác trên tinh thần hòa bình, hữu nghị, cùng có lợi với tất cả các quốc gia.
• Mục đích của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Mục đích của Nhà nước CHXHCN Việt Nam là xây dựng và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam XHCN, thúc đẩy sự phát triển đất nước về mọi mặt. làm
cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
b)Các hình thức thực hiện quyền lực nhân dân.
* Khái niệm quyền lực nhân dân.
Quyền lực nhân dân là một phạm trù chính trị chỉ ưu thế tuyệt đối và
vai trò quyết định của nhân dân trong quản lý xã hội. Khái niệm này đối lập
với khái niệm quân quyền dùng để chỉ quyền lực tuyệt đối của cá nhân.
Nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân được qui
định tại Điều 2 Hiến pháp1992 có nghĩa là: Quyền lực Nhà nước hoàn toàn
thuộc về nhân dân Việt Nam. Quyền lực Nhà nước không thể thuộc về một
đẳng cấ, một tổ chức xã hội hay một nhóm người nào cả. Tất cả quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân Việt Nam. Nhân dân có toàn quyền quản lý tất
cả các công việc của Nhà nước và xã hội, giải quyết tất cả các công việc có
liên quan đến vận mệnh quốc gia, đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, tư
tưởng của toàn dân tộc. Nhân dân có quyền tự do thể hiện ý chí của mình và
thông qua các đại biểu của mình ở Quốc hội biến ý chí đó thành ý chí Nhà
nước, thành những QPPL, buộc mọi thành viên trong xã hội phải thực hiện.
* Các hình thức thực hiện quyền lực nhân dân.
Có hai hình thức thực hiện quyền lực nhân dân. Đó là hình thức dân
chủ đại diện và hình thức dân chủ trực tiếp.
- Hình thức dân chủ đại diện:
Điều 6 Hiến pháp1992 qui định: "Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà
nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) là những cơ quan
đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân do nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân". Quốc hội là cơ quan đaị diện cao nhất của
nhân dân do nhân dân cả nước trực tiếp bầu ra. Quốc hội là cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất thay mặt cho nhân dân cả nước giải quyết những

56
công việc quan trọng nhất của đất nước. HĐND là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, giải quyết
những công việc quan trọng ở địa phương, bảo đảm sự phát triển toàn diện
của địa phương và hoàn thành những nhiệm vụ mà cơ quan Nhà nước cấp
trên giao cho.
- Hình thức dân chủ trực tiếp:
Đó là việc nhân dân trực tiếp tham gia vào công việc quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận dự thảo Hiến phápvà luật, trực tiếp
thể hiện ý chí của mình khi có trưng cầu ý dân về những vấn đề hệ trọng,
liên quan đến vận mệnh quốc gia. Nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND, có quyền bãi nhiệm các đại biểu đó nếu họ
không xứng đáng với niềm tin của nhân dân. Các đại biểu Quốc hội và đặc
biệt HĐND phải báo cáo công việc của mình trước nhân dân và chịu sự
giám sát cuả nhân dân. Nhân dân có quyền khiếu nại, tố cáo mọi hành vi vi
phạm pháp luật của bất cứ cá nhân, tổ chức nào làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước cũng như mọi công dân.
c. Hệ thống chính trị của nước CHXHCN Việt Nam.
Theo Hiến pháp1992, hệ thống chính trị nước CHXHCN Việt Nam
bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Mặt
trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên như: Liên đoàn lao động
Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu
chiến binh Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản HCM... hoạt động trên cơ
sở lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân với đội ngũ trí
thức làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam để thực hiện đầy đủ
quyền lực nhân dân.
* Vị trí, vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính
trị.
ĐCS Việt Nam là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, nằm
trong hệ thống chính trị nhưng Đảng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính
trị.Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là một nguyên lý của
XHCN nói chung và của nước ta nói riêng. Điều 4 Hiến pháp1992 khẳng
định: ĐCS Việt Nam là lực lượng lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội.Sự
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị mang tính định hướng, tạo điều
kiện để Nhà nước và các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị có cơ sở
để chủ động, sáng tạo trong tổ chức và hoạt động bằng những công cụ,
phương pháp và biện pháp cụ thể của mình. Phương pháp lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị là phương pháp dân chủ, giáo dục, thuyết phục và
dựa vào uy tín, năng lực của các đảngviên và tổ chức Đảng.
* Vị trí, vai trò của Nhà nước trong hệ thống chính trị.

57
Nhà nước là một bộ phận hợp thành trong hệ thống chính trị nhưng nó
luôn luôn đứng ở vị trí trung tâm của hệ thống đó và giữ vai trò quan trọng,
là công cụ để thực hiện quyền lực nhân dân, giữ gìn trật tự kỷ cương và bảo
đảm công bằng xã hội. Sở dĩ Nhà nước có một vai trò quan trọng như vậy
bởi vì quyền lực Nhà nước là trung tâm của quyền lực chính trị; tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị luôn luôn phải dựa trên cơ sở của pháp luật
do Nhà nước ban hành; hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị phụ thuộc
rất nhiều vào sức mạnh và hiệu lực quản lý Nhà nước. Bằng sức mạnh quyền
lực và sức mạnh vật chất của mình Nhà nước tạo điều kiện để các tổ chức
thành viên trong hệ thống chính trị thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
So với các thành viên khác trong hệ thống chính trị, Nhà nước
CHXHCN Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau:
- Nhà nước là người đại diện chính thức cho các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội, có quyền quản lý toàn bộ dân cư trong phạm vi lãnh thổ và
quản lý mọi công dân Việt Nam trong cũng như ngoài lãnh thổ.
- Nhà nước là chủ thể của quyền lực chính trị, là tổ chức chính trị thể
hiện tập trung nhất quyền lực nhân dân. Nhà nước là tổ chức chính trị bao
trùm toàn bộ xã hội, có bộ máy đặc biệt thực thi quyền lực nhân dân.
- Nhà nước có sức mạnh cưỡng chế toàn diện, có hiệu lực nhất, thông
qua đó đề duy trì trật tự và ổn định xã hội.
- Nhà nước ban hành và sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Nhờ có
pháp luật mà mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước được triển khai một
cách rộng rãi và thống nhất trong phạm vi lãnh thổ.
- Nhà nước có đầy đủ các phương tiện cần thiết để thực hiện quyền
lực chính trị của mình đồng thời bảo trợ cho các thành viên khác trong hệ
thống chính trị.
- Nhà nước là thiết chế chính trị duy nhất trong hệ thống chính trị có
chủ quyền quốc gia. Nhà nước có quyền tối cao trongviệc quyết định những
vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước. Nhà nước là thiết chế chính trị duy
nhất trong hệ thống chính trị được coI là chủ thể cuả công pháp quốc tế.
Tất cả những đặc trưng trên là ưu thế riêng của Nhà nước CHXHCN
Việt Nam so với các thành viên khác trong hệ thống chính trị, chúng qui
định vai trò trung tâm của Nhà nước trong hệ thống chính trị.
• Vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính
trị.
Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của nó như:
LIên đoàn lao động, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân; Hội Phụ nữ, Đoàn
thanh niên... là các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị. Điều 9 Hiến
pháp1992 qui định: "Mặt trận tổ quốc VN và các tổ chức thành viên của nó
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân". MTTQVN và các tổ chức

58
thành viên phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí
về chính trị và tinh thần trong nhân dân, giáo dục và độngviên nhân dân thi
đua xây dựng và bảo vệ tổ quốc. MTTQVN và các tổ chức thành viên có vai
trò quan trọng trong việc thực hiện quyền lực nhân dân và Điều đó được thể
hiện trên các mặt sau đây:
- Tham gia thành lập các cơ quan Nhà nước. MTTQVN chủ trì
trongviệc hiệp thương với các tổ chức xã hội khác để giới thiệu người ra ứng
cử đại biểu Quốc hội và HĐND. Đại diện MTTQVN và các tổ chức thành
viên là những thành viên trong các tổ chức bầu cử. MTTQVN còn có quyền
đề nghị các cơ quan quyền lực Nhà nước bãi nhiệm các đại biểu không xứng
đáng đồng thời tham giaviệc bãi nhiệm đó. MTTQVN còn có quyền giới
thiệu người để HĐND bầu làm Hội thẩm nhân dân của TAND cùng cấp.
- Tham gia xây dựng pháp luật. MTTQVN và các tổ chức thành viên
có quyền trình dự án luật trước Quốc hội và trình dự án Pháp lệnh trước
UBTVQH. Ngoài ra MTTQVN và các tổ chức thành viên còn tổ chức và
tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến các dự thảo luật quan trọng khi Nhà
nước đưa ra lấy ý kiến nhân dân.
Tham gia quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan
Nhà nước, tham gia tuyên truyền pháp luật, giáo dục công dân ý thức chấp
hành pháp luật, đấu tranh bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ
của công dân.2. 2. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
• Khái niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
- Quyền cơ bản: là khả năng của mỗi công dân được tự do lựa chọn
hành động. Khả năng đó được Nhà nước ghi nhận trong Hiến phápvà bảo
đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước.
- Nghĩa vụ cơ bản: của công dân là sự tất yếu phải hành động của
mỗi công dân vì lợi ích của toàn thể Nhà nước và xã hội. Sự tất yếu đó được
Nhà nước qui định trong Hiến phápvà bảo đảm thực hiện bằng quyền lực
Nhà nước.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là cơ sở chủ yếu để xác định
địa vị pháp lý của công dân, là cơ sở đầu tiên cho mọi quyền và nghĩa vụ
khác của công dân được các ngành luật khác ghi nhận. Cơ sở phát sinh duy
nhất của các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là công dân đó có quốc
tịch Việt Nam. Còn cơ sở phát sinh các quyền và nghĩa vụ khác của công
dân là sự tham gia của họ vào các quan hệ pháp luật hoặc các sự kiện pháp
lý.
a. Những nguyên tắc Hiến phápvề quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân.
* Nguyên tắc tôn trọng các quyền con người.
* Nguyên tắc quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân

59
* Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
* Nguyên tắc nhân đạo XHCN
* Nguyên tắc về tính hiện thực của các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân.
c. Phân loại các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
* Các quyền về chính trị.
Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia
thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ
quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân ( Điều
53); Quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực Nhà nước( Điều
54); quyền Khiếu nại - tố cáo ( Điều 74).
Đây là những quyền chính trị quan trọng của công dân, bảo đảm cho
công dân thực hiện quyền làm chủ Nhà nước và xã hội, bảo đảm quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân.
* Các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội.
Quyền lao động ( Điều 55); quyền tự do kinh doanh theo qui định của
pháp luật ( Điều 57); quyền sở hữu đối với TLSX và tư liệu sinh hoạt (Điều
58); quyền học tập ( Điều 59); quyền nghiên cứu khoa học, phát minh, sáng
chế... ( Điều 60); quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe ( Điều 61);
quyền xây dựng nhà ở theo qui hoạch và pháp luật ( Điều 62); quyền trẻ em
được Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục ( Điều 65)...
Trong số các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội có quyền tự do kinh
doanh theo qui định của pháp luật lần đầu tiên mới được qui định trong lịch
sử lập Hiến Việt Nam đã góp phàn dân chủ đời sống xã hội.
• Các nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc ( Điều 77); nghĩa vụ tôn trọng và
bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng ( Điều 78); nghĩa vụ tuân
theo Hiến phápvà pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những qui tắc sinh hoạt cộng
đồng (Điều 79); nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích (Điều 80).
3. Bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
• Khái niệm: Bộ máy Nhà nước bao gồm các cơ quan Nhà nước từ trung
ương đến đại phương, liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một thể
thống nhất, một hệ thống các cơ quan Nhà nước. Bộ máy Nhà nước
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc luật định.
Bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam bao gồm 4 hệ thống sau:
- Hệ thống các cơ quan quyền lực (Cơ quan đại diện): Quốc hội,
HĐND các cấp do nhân dân trực tiếp bầu ra thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực Nhà nước.

60
- Hệ thống cơ quan quản lý (các cơ quan hành chính): Chính phủ, các
bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp và các
cơ quan thuộc UBND.
- Hệ thống cơ quan xét xử: TAND các cấp (TANDTC; TAND cấp
tỉnh, TAND cấp huyện và TAQS các cấp).
- Hệ thống các cơ quan kiểm sát : VKĐNTC, VKSND cấp tỉnh,
VKSND cấp huyện, VKSQS các cấp. Các cơ quan này có chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp và thực hiện quyền công tố.
- Ngoài ra, còn có chế định Nguyên thủ quốc gia - Chủ tịch nước -
thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại.
a. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước
CHXHCN Việt Nam.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước
CHXHCN Việt Nam là những phương hướng mang tính chủ đạo trong quá
trình tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam được
xác định trong Hiến phápvà các đạo luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước. Bao gồm các nguyên tắc sau:
* Nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân:
Hiến pháp1992 qui định: Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND. Quốc
hội và HĐND bao gồm các đại biểu của nhân dân do nhân dân bầu ra, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực Nhà nước; quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước
và địa phương.
Ngoài ra nhân dân còn trực tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước bằng
nhiều cách khác nhau như: nhân dân trực tiếp tham gia vào công việc quản
lý Nhà nước; tham gia thảo luận Hiến phápvà luật; trực tiếp bầu ra các đại
biểu Quốc hội và HĐND; giám sát hoạt động của đại biểu Quốc hội và
HĐND; bãi nhiệm các đại biểu này khi học không còn xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân; bỏ phiếu trưng cầu dân ý về những vấn đề quan trọng
thuộc nhiệm vụ quyền hạn của Nhà nước.
I* ĐCS Việt Nam lãnh đạo đối với Nhà nước (Điều 4 Hiến pháp1992)
Nội dung nguyên tắc đó thể hiện ở việc Đảng định hướng sự phát triển
về tổ chức bộ máy Nhà nước; giới thiệu, bồi dưỡng cán bộ ưu tú để nhân dân
lựa chọn bầu hoặc để các cơ quan Nhà nước đề bạt bổ nhiệm giữa các vị trí
quan trọng trong bộ máy Nhà nước; Đảng vạch ra phương hướng xây dựng
Nhà nước,giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước; Đảng lãnh đạo
Nhà nước thông qua các đảngviên, các tổ chức Đảng trong các cơ quan Nhà
nước, thông qua công tác tuyên truyền, vận động quần chúng trong bộ máy

61
Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng mọi tổ chức của Đảng phải hoạt
động trong khuôn khổ Hiến phápvà luật.
* Nguyên tắc tập trung dân chủ ( Điều 6 Hiến pháp1992)
Bản chất của nguyên tắc này thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa
chế độ tập trung lợi ích của Nhà nước, sự trực thuộc, phục tùng của các cơ
quan Nhà nước cấp dưới trước các cơ quan Nhà nước cấp trên và chế độ dân
chủ, tạo điều kiện choviệc phát triển sự sáng tạo, chủ động và quyền tự
quản của các cơ quan Nhà nước cấp dưới.
Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài
hòa với nhau. Nếu chỉ chú trọng sự tập trung thì dễ dẫn đến chuyên quyền,
độc đoán, mất dân chủ. Nhưng nếu chỉ chú trọng phát triển dân chủ mà
không bảo đảm sự tập trung thì dễ dẫn đến tình trạng vô Chính phủ, cục bộ
địa phương. Để đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Bộ máy Nhà nước phải do nhân dân xây dựng nên. Nhân dân thông
qua bầu cử để lựa chọn những đại biểu xứng đáng, thay mặt nhân dân thực
hiện quyền lực Nhà nước, chịu trách nhiệm trước nhân dân và phục vụ lợi
ích của nhân dân.
- Quyết định của cấp trên, của TW buộc cấp dưới, đại phương phải
thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, cấp dưới, địa phương có
quyền phản ánh những kiến nghị của mình đối với cấp trên, TW; có quyền
sáng kiến trong quá trình thực hiện cho phù hợp với tình hình, đặc điểm của
đơn vị, địa phương.
- Những vấn đề quan trọng cuả cơ quan Nhà nước phải được đưa ra
thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
* Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và giúp đõ giữa các dân tộc (Điều
5 Hiến pháp1992).
Thực hiện nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước đòi hỏi, tất cả các dân tộc phải có đại diện của mình trong các cơ
quan Nhà nước, đặc biệt trong QH và HĐND các cấp. Các cơ quan Nhà
nước phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, của các dân tộc, bảo đảm sự
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các dân tộc. Nhà nước có chính sách
ưu tiên, giúp đỡ để các dân tộc ít người mau đuổi kịp trình độ phát triển
chung của toàn xã hội.
Bên cạnh đó, Nhà nước nghiêm trị những hành vi miệt thị, gây chia
rẽ, hằn thù giữa các dân tộc cũng như bất cứ hành vi nào lợi dụng chính sách
dân tộc để phá hoại an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và chính sách đại
đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước ta.
* Nguyên tắc pháp chế XHCN (Điều 12 Hiến pháp1992)
b. Các bộ phận cấu thành bộ máy Nhà nước.

62
* Quốc hội: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. Quốc
hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định
những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công
dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của cơ quan Nhà nước" ( Điều 83 Hiến pháp1992).
Quốc hội của nước ta có cơ cấu một viện, bao gồm không quá 500
đại biểu do nhân dân toàn quốc bầu ra bằng cuộc phổ thông đầu phiếu. Quốc
hội có nhiệm kỳ 5 năm.
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội. Quốc hội họp
mỗi năm ít nhất 2 lần do UBTVQH triệu tập. Giữa 2 kỳ họp, nhiệm vụ và
quyền hạn của Qh do UBTVQH đảm nhiệm. Thành phần của UBTVQH
gồm: chủ tịch Quốc hội, các phó chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Quốc hội thành lập
các Ủy ban và Hội đồng chuyên môn. Các Ủy ban và Hội đồng chuyên môn
có nhiệm vụ thẩm tra trướccác dự án luật và kiểm tra việc thực hiện các
quyết định của Quốc hội. Hiện nay Quốc hội có 7 Ủy ban gồm: Uỷ ban pháp
luật, kế hoạch và ngân sách, quốc phòng và an ninh, văn hóa - giáo dục, các
vấn đề xã hội, khoa học, công nghệ và môi trường và 1 Hội đồng (Hội đồng
dân tộc).
• Chủ tịch nước (CTN): "CTN là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt
Nhà nước về đối nội và đối ngoại ", CTN do do Quốc hội bầu ra trong số các
đại biểu QH vì vậy phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội. Nhiệm kỳ của CTN theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết
nhiệm kỳ, CTN tiếp tục làm việc cho đến khi QH khóa mới bầu ra CTN mới
- Về mặt đối ngoại, CTN có quyền:triệu hồi các đại sứ đặc mệnh toàn
quyền của Việt Nam ở nước ngoài, tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền
nước ngoài, ký kết các Điều ước quốc tế.
- Về mặt đối nội: CTN có quyền đề nghị QH bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm Phó CTN, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TANDTC,viện trưởng
VKSNDTC; căn cứ vào Nghị quyết của QH bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các Phó Chánh án TANDTC, các
phóviện trưởng VKSNDTC, các Thẩm phán TANDTC, các kiểm sátviên
VKSNDTC; quyết định phong hàm,cấp trong lực lượng vũ trang, ngoại giao
và các cấp khác của Nhà nước, có quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang,
lãnh đạo Hội đồng Quốc phòng và an ninh.
- CTN có phó CTN giúpviệc; Phó CTN do Quốc hội bầu ra trong số
đại biểu QH.

63
• Chính phủ (Chính phủ): "Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc
hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam".
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc
hội, UBTVQH, CTN.
Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó thủ tướng, các Bộ trưởng.
Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu
Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ tổ chức
thực hiện các văn bản luật và nghị quyết của Quốc hội. Với tư cách là cơ
quan hành chính Nhà nước cao nhất, Chính phủ được quyền điều hành toàn
bộ bộ máy hành chính Nhà nước từ TW đến cơ sở. Thủ tướng là người lãnh
đạo Chính phủ, đứng đầu bộ máy hành pháp. Thủ tướng có nhiệm vụ và
quyền hạn sau:
+ Đề nghị Quốc hội thành lập, bãi bõ các Bộ, lựa chọn các Phó thủ
tướng, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ để đề nghi Quốc hội
bầu
+ Phê chuẩnviệc bầu cử Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và thành viên
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW
+ Đình chỉviệc thi hành hoặc bãi bõ những quyết định, chỉ thị, thông
tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, quyết định, chỉ thị của
UBND và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc TW trái với Hiến pháp, luật và
văn bản pháp luật của các cơ quan Nhà nước cấp trên.
+ Cho phép thành lập và quản lý việc tuân theo pháp luật của các hiệp
hội, các tổ chức phi Chính phủ.
Trong thành phần Chính phủ, ngoài Thủ tướng, phó Thủ tướng, còn
có các Bộ trưởng phụ trách các Bộ và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Bộ,
các cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước.
Ngoài những cơ quan ngang Bộ nóI trên, trong cơ cấu của Chính phủ
còn có các cơ quan khác trực thuộc Chính phủ; đứng đầu các cơ quan này là
các Trưởng ban, Tổng cục trưởng, Cục trưởng nhưng không là thành viên
của Chính phủ.
* Tòa án nhân dân.
TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam.
TAND cấp tỉnh và tương đương có nhiệm vụ: xét xử sơ thẩm những
vụ án không thuộc thẩm quyền của TAND cấp dưới (cấp huyện và tương
đương) và những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện nhưng có
liên quan đến người nước ngoài, có tình tiết phức tạp; xét xử phúc thẩm các
bản án,quyết định sơ thẩm của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo, kháng nghị.

64
TAND cấp huyện và tương đương có nhiệm vụ xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự, vụ án dân sự, lao động, hôn nhân gia đình...không có yếu tố nước
ngoài, không phức tạp.
TAQS các cấp có thẩm quyền xét xử các vụ án mà bị cáo là quân nhân
tại ngũ, quân nhân dự bị đang trong thời gian tập trung huấn luyện và các
người khác theo qui định của pháp luật.
• Viện kiểm sát nhân dân
VKSND có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất.
VKSND doviện trưởng lãnh đạo,viện trưởng VKSND cấp dưới chịu
sự lãnh đạo của viện trưởng VKSND cấp trên.Viện trưởng VKSND địa
phương,viện trưởng VKSQS các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng VKSNDTC.Viện trưởng VKSNDTC do Quốc hội bầu ra theo sự giới
thiệu của CTN.
* Tổ chức chính quyền Nhà nước ở địa phương.
- Phân cấp hành chính: Theo qui định của pháp luật hiện hành, chính
quyền Nhà nước ở địa phương được tổ chức theo các đơn vị hành chính. Các
đơn vị hành chính của nước CHXHCN Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành Tỉnh, thành phố trực thuộc TW. Tỉnh chia thành
huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; Thành phố trực thuộc TW chia thành
quận, huyện và thị xã. Huyện chia thành xã, thị trấn; Thành phố thuộc tỉnh,
thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường ( Điều 118 Hiến
pháp1992).
- HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.
Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên,
HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến
phápvà pháp luật ở địa phương, về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân
sách, về quốc phòng, an ninh ở địa phương, về biện pháp ổn định và nâng
cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ của cấp trên giao, làm
tròn nghĩa vụ đối với cả nước.
- Uỷ ban nhân dân (UBND) do HĐND bầu ra, là cơ quan chấp hành
của HĐND, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương chịu trách nhiệm
chấp hành Hiến phápvà pháp luật, các văn bản của cơ quan pháp luật cấp
trên và nghị quyết của HĐND. UBND, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
do pháp luật qui định, ra quyết định, chỉ thị và kiểm traviệc thi hành văn bản
đó.

65
Chủ tịch UBND có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản
sai trái của các cơ quan trực thuộc UBND và các văn bản của UBND cấp
dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái của HĐND cấp dưới, đồng thời đề
nghị HĐND cấp mình bãi bỏ nghị quyết đó.

66
BẢNG 4: MÔ HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM

Quốc hội
Chủ tịch
nước

Tòa án nhân Viện kiểm sát


Chính phủ dân nhân dân tối
tối cao cao

VKSND
HĐND tỉnh, UBND tỉnh, TAND tỉnh,
tỉnh, thành
thành phố thành phố thành phố
phố
trực thuộc trực thuộc trực thuộc
trực thuộc
Trung ương Trung ương Trung ương
Trung ương

HĐND UBND TAND VKSND


huyện quận, huyện quận, huyện quận, huyện quận,
thị xã, thành thị xã, thành thị xã, thành thị xã, thành
phố thuộc phố thuộc phố thuộc phố thuộc
tỉnh tỉnh tỉnh tỉnh

HĐND UBND
xã, phường, xã, phường,
thị trấn thị trấn

Thông qua bầu cử


Nhân dân

67
B. LUẬT HÀNH CHÍNH
I.Khái niệm
1. Định nghĩa Luật hành chính là
một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các qui
phạm pháp luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước.
2. Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính.
Là các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính
Nhà nước, những quan hệ này gọi là quan hệ quản lý hành chính Nhà nước
hay quan hệ chấp hành, Điều hành. Bao gồm các quan hệ sau:
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên với cơ quan
hành chính Nhà nước cấp dưới theo hệ thống dọc. Ví dụ: Quan hệ giữa
Chính phủ - Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh - Huyện, Bộ tư
pháp - Sở tư pháp...
- Quan hệ giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn.Ví dụ quan hệ giữa: Chính phủ -Bộ
tài chính, Ủy ban nhân dân tỉnh - Sở tư pháp; Chính phủ - Bộ GD -ĐT
- Quan hệ giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp
trên với cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp dưới trực
tiếp nhằm thực hiện chức năng theo qui định của pháp luật. Ví dụ : Bộ tư
pháp - Ủy ban nhân dân tỉnh
- Quan hệ giữa những cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền
chuyên môn cùng cấp. Khi cơ quan này có quyền hạn theo quyết định của
pháp luật đối với cơ quan kia trong lĩnh vực quản lý, lĩnh vực chuyên môn
nhất định nhưng không phụ thuộc về mặt tổ chức. Ví dụ: Bộ tài chính - Bộ
giáo dục đào tạo, Sở lao động thương binh xã hội - Sở tài chính nhằm thực
hiện chính sách xã hội đối với công chức.
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương các đơn vị
thực hiện trung ương đóng tại địa phương. Ví dụ: UBND tỉnh Thừa Thiên
Huế - Đại học Huế, Bộ Tư pháp - Đại học Luật.
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính Nhà nước với các đơn vị kinh tế
thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Ví dụ: UBND huyện - Hợp
tác xã sản xuất nông nghiệp, UBND thành phố Huế - Doanh nghiệp tư nhân.
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính Nhà nước với các tổ chức xã hội.
Ví dụ: Chính phủ - Đoàn thanh niên
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính Nhà nước - Công dân - Người
không quốc tịch - Người nước ngoài cư trú làm ăn, sinh sống ở Việt Nam.
Ví dụ: UBND thành phố - Công dân có đơn khiếu nại, UBND xã - Công dân
đăng kí kết hôn

68
* Các nhóm đối tượng điều chỉnh của luật hành chính
Thứ nhất: Các quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan
hành chính Nhà nước thực hiện hoạt động, chấp hành, Điều hành trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ hai: Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cơ quan
Nhà nước xây dựng và cũng cố chế độ công tác nội bộ của cơ quan nhằm ổn
định tổ chức. Ví dụ: Quan hệ thủ trưởng - nhânviên
Thứ ba: Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình cá nhân tổ
chức được Nhà nước trao quyền. Ví dụ: Tòa án nhân dân xử phạt hành chính
cá nhân, tổ chức có hành vi cản trở hoạt động xét xử, Người chỉ huy máy
bay, tàu biển khi đã dời sân bay, bến cảng có quyền tạm giữ người theo thủ
tục hành chính.
3. Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là mệnh lệnh đơn
phương. Phương pháp này được qui định bởi tính chất của quan hệ quản lý
Nhà nước đó là quan hệ "quyền lực - phục tùng" giữa các bên tham gia quan
hệ, một bên nhân danh Nhà nước sử dụng quyền lực Nhà nước để đưa ra các
quyết định hành chính, bên kia phải phục tùng quyết định ấy. Mối quan hệ
này biểu hiện:
Bên nhân danh Nhà nước sử dụng quyền lực Nhà nước có quyền
quyết định công việc một cách đơn phương. Xuất phát từ lợi ích chung của
Nhà nước của xã hội trong phạm vi quyền hạn của mình để chấp hành pháp
luật.
Quyết định đơn phương của bên sử dụng quyền lực có hiệu lực bắt buộc thi
hành đối với các bên liên quan và được bảo bằng sức mạnh cưỡng chế.
Quan hệ quyền lực phục tùng biểu hiện sự không bình đẳng giữa các
bên tham gia vào quan hệ pháp luật Hành chính, sự không bình đẳng thể
hiện:
- Chủ thể quản lý có quyền nhân danh Nhà nước áp đặt ý chí lên đối
tượng quản lý.
- Chủ thể quản lý căn cứ vào pháp luật để phê chuẩn hoặc bãi bỏ yêu
cầu, đề nghị của cấp dưới, của công dân tổ chức.
- Phối hợp hoạt động giữa các chủ thể mang quyền lực Nhà nước. Ví
dụ: Khi các Bộ thực hiên công tác đào tạo thì hình thức, qui mô đào tạo thì
phải được sự đồng ý của Bộ giáo dục đào tạo.
- Chủ thể quản lý có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành
chính và đối tượng quản lý phải thực hiện
II. Vi phạm hành chính.
1. Định nghĩa vi phạm hành chính.

69
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân tổ chức thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quy tắc quản lý Nhà nước mà không phải là
tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Theo nguyên tắc hành vi, luật hành chính Việt Nam không đặt vấn đề
trách nhiệm hành chính đối với những khuynh hướng tư tưởng của con
người, không đặt vấn đề trách nhiệm hành chính đối với cả biểu hiện ra bên
ngoài mà không phải hành vi.
Hành vi vi phạm được xác định thông qua bốn đặc điểm:
- Tính xâm hại nguyên tắc quản lý Nhà nước.
- Tính có lỗi.
- Tính trái pháp luật hành chính.
- Tính chịu xử phạtvi phạm hành chính.
2. Các đặc điểm củavi phạm hành chính.
* Tính xâm hại các qui tắc quản lý Nhà nước.
Đây là một đặc điểm riêng của vi phạm hành chính. Tính chất, mức độ
xâm hại khác với tính nguy hiểm cho xã hội theo quan niệm của luật hình
sự. Pháp lệnh xử lý hành chính đã nêu rõ “ khi xét thấy hành vi vi phạm
có dấu hiệu tội phạm thì người có thẩm quyền phải chuyển ngay cho cơ
quan có thẩm quyền xử lý hình sự.”
Do đó có thể khẳng định, vi phạm hành chính không phải là tội
phạm.vi phạm hành chính là hành vi xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại các
quan hệ xã hội trong quản lý Nhà nước.
Khi nói đến tính xâm hại qui tắc quản lý Nhà nước tức là nói đến khả
năng vi phạm đến trật tự quản lý Nhà nước, làm tổn hại đến các quan hệ xã
hội được pháp luật hành chính bảo vệ. Tính xâm hại các qui tắc quản lý Nhà
nước là một dấu hiệu của vi phạm hành chính. Điều này thể hiện rõ ý chí của
Nhà nước trong quan niệm về vi phạm hành chính, nó nói lên tính giai cấp,
tính xã hội của pháp luật hành chính trongviệc đưa ra các qui định về xử
phạt vi phạm hành chính.
* Tính có lỗi của vi phạm hành chính:
Lỗi là dấu hiệu cơ bản trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính.
Đây là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi hành vi do cá nhân thực hiện.
Hành vi vi phạm được coi là có lỗi thể hiện ở ý thức của người vi
phạm. Tức là ngườivi phạm biết được tính xâm hại cho quan hệ xã hội của
hành vi trái pháp luật.
Nếu không nhận thức được tính xâm hại cho cho quan hệ xã hội của
hành vi thì không có lỗi.
* Tính trái pháp luật hành chính.

70
Vi phạm hành chính là hành vi xâm hại các qui tắc quản lý Nhà nước
các qui tắc này do pháp luật hành chính qui định.vi dụ: Không đăng ký kết
hôn, đăng ký hộ khẩu.
Do đó vi phạm hành chính là hành vi xâm hại các trật tự quản lý xã
hội do luật hành chính bảo vệ.
Một hành vi được coi là trái pháp luật khi hành vi đó không phù hợp
với yêu cầu của qui phạm pháp luật hoặc là đối lập với yêu cầu đó.
Hành vi vi hành chính được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành động
hoặc không hành động. Ví du: Hành động lái xe quá tốc độ qui định.hành vi
không hành động như không đăng ký kết hôn, không khai sinh...
Như vậy, tính trái pháp luật hành chính thể hiện ở chổ hành vivi phạm
đó phải xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hành chính bảo vê.
Nếu một hành vi trái pháp luật nhưng không do luật hành chính điều
chỉnh thì không phảivi phạm hành chính.
Một hành vi xâm hại một quan hệ xã hội nhưng không được pháp luật
bảo vệ và cũng không được luật hành chính bảo vệ thì cũng không phải là vi
phạm pháp luật hành chính.
* Tính bị xử phạt hành chính.
Một hành vi xâm hại qui tắc quản lý Nhà nước trái pháp luật hành
chính, nhưng pháp luật hành chính không qui định phải bị xử phạt thì không
gọi là vi phạm hành chính.
Điều này cho thấy sự khác biệt giữa vi phạm hành chính và các loạivi
phạm pháp luật khác.
Trong thực tế có nhiều hành vi xâm hại các nguyên tắc quản lý hành
chính Nhà nước trái pháp luật hành chính, nhưng lại không có văn bản qui
định xử phạt, cho nên không thể coi là vi phạm hành chính. Ví dụ: Đánh mất
giấy phép hành nghề mà không khai báo, không tham gia bảo hiểm nghề
nghiệp cho luật sư, tự ý thay đổi tên gọi, trụ sở mà không báo cho cơ quan
có thẩm quyền.
Điều này khác với tính chịu hình phạt của tội phạm ở tội phạm dấu
hiệu này chỉ mang tính qui kết, chứ không phải là thuộc tính.

CHƯƠNG 4: LUẬT HÌNH SỰ VÀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ


A. LUẬT HÌNH SỰ
I. KHÁI NIỆM LUẬT HÌNH SỰ
1.Khái niệm: Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp
luật của nước CHXHCNVN, bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật

71
do Nhà nước ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là
tội phạm, đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy.
• Các QPPLHS được chia làm 2 loai:
+ Phần chung: qui định những nguyên tắc, nhiệm vụ của Luật Hình
sự, những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt.
+ Phần các tội phạm: qui định những dấu hiệu pháp lý của các tội
phạm cụ thể, laọi hình phạt và mức hình phạt có thể áp dụng đối với các tội
phạm.
(BLHS 1985: Quốc hội thông qua 27/6/1985
BLHS 1999 : Quốc hội thông qua 21/12/1999 có hiệu lực 1/7/2000)
2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh.
a) Đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự: Là những quan hệ xã hội
phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội
phạm.
Thời điểm bắt đầu xuất hiện quan hệ pháp luật hình sự là thời điểm
người phạm tội bắt đầu thực hiện tội phạm và quan hệ pháp luật này chấm
dứt khi người phạm tội được xoá án tích. Trong quan hệ pháp luật hình
sự luôn có hai chủ thể với những vị trí pháp lý khác nhau.
1. Nhà nước: có quyền truy tố xét xử người phạm tội, buộc họ phải
chịu những biện pháp trách nhiệm hình sự nhất định để bảo vệ pháp luật bảo
vệ lợi ích của toàn xã hội. Mặt khác, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội.
2/ Người phạm tội: có trách nhiệm chấp hành các biện pháp cưỡng
chế mà Nhà nước áp dụng đối với mình. Mặt khác, họ có quyền yêu cầu Nhà
nước đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
b)Phương pháp điều chỉnh của Luật hình sự: Xuất phát từ chức
năng điều chỉnh và địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp
luật này, Luật hình sự sử dụng phương pháp “quyền uy” - phương pháp sử
dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ pháp Luật hình sự.
Nhà nước có quyền tối cao trongviệc định đoạt số phận của người phạm tội,
buộc họ phải chịu TNHS về tội phạm mà họ đã gây ra.
II. Khái niệm Tội phạm, cấu thành tội phạm và trách nhiệm hình sự.

72
1.Khái niệm tội phạm:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ
quốc xâm phạm chế độ chính trị (thay chế độ XHCN), chế độ kinh tế nền
văn hoá quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự
do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN” (Khoản 1, Điều 8 BLHS )
2. Những dấu hiệu cơ bản của tội phạm.
Về bản chất pháp lý thì tội phạm là một trong 4 loạivi phạm pháp luật,
cụ thể là vi phạm pháp luật hình sự nên tội phạm chứa đựng các đặc điểm
chung của cácvi phạm pháp luật nói chung. Song nó còn mang các đặc điểm
có tính đặc thù để dựa vào đó có thể phân biệt được tội phạm với các vi
phạm pháp luật khác. Các đặc điểm đó là:
a. Tính nguy hiểm cho xã hội:
Bất kỳ một hành vivi phạm nào cũng đều có tính nguy hiểm cho xã
hội, nhưng đối với tội phạm thì tính nguy hiểm cho xã hội luôn ở mức độ
cao hơn so với các loại vi phạm pháp luật khác.
Đây là đặc điểm thể hiện dấu hiệu về nội dung của tội phạm nó quyết
định các dấu hiệu khác như tính được quy định trong BLHS của tội phạm.
Chính vì vậy,việc xác định dấu hiệu này có ý nghĩa như sau:
- Là căn cứ quan trọng để phân biệt giữa các tội phạm và cácvi phạm
pháp luật khác.
- Là dấu hiệu quan trọng nhất quyết định các dấu hiệu khác của tội
phạm.
- Là căn cứ quan trọng để quyết định hình phạt.
* Để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
chúng ta phải cân nhắc, xem xét, đánh giá một cách toàn diện các căn cứ
sau:
- Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm phạm.
- Phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội.

73
- Mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe doạ gây ra.
- Hình thức và mức độ lỗi.
- Động cơ, mục đích của người phạm tội.
- Nhân thân người phạm tội.
- Hoàn cảnh chính trị xa hội lúc và nơi hành vi phạm tội xảy ra.
- Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
b. Tính có lỗi
ỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Trong BLHS nước ta,
tính có lỗi được nêu trong định nghĩa về tội phạm là một dấu hiệu độc lập
với tính nguy hiểm cho xã hội để nhấn mạnh tầm quan trọng cuả nguyên tắc
lỗi. Luật Hình sự Việt Nam không chấp nhận buộc tội khách quan, tức là
buộc tội một người không căn cứ vào lỗi của họ mà chỉ căn cứ vào hành vi
khách quan họ đã thực hiện.
c. Tính trái pháp luật hình sự (tính được quy định trong BLHS):
Bất kỳ một hành vi nào bị coi à tội phạm cũng đều được quy định trong
BLHS. Đặc điểm này đã được qui định tại Điều 2 BLHS :“chỉ người nào phạm
một tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự “.
Như vậy, một người thực hiện hành vi dù nguy hiểm cho xã hội đến đâu nhưng
hành vi đó chưa được quy định trong BLHS thì không bị coi là tội phạm.
d. Tính phải chịu hình phạt:
Tính phải chịu hình phạt của tội phạm có nghĩa là bất cứ một hành vi
phạm tội nào cũng bị đe doạ phải áp dụng một hình phạt đã được quy định
trong BLHS. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, tội càng
nghiêm trọng thì hình phạt áp dụng càng nghiêm khắc
Bốn dấu hiệu của tội phạm nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi là những dấu hiệu biểu hiện
mặt nội dung, còn tính trái pháp luật hình sự, tính phải chịu hình phạt là
những dấu hiệu biểu hiện mặt hình thức của tội phạm
Tóm lại: Chúng ta có thể định nghĩa tội phạm một cách khái quát
như sau:“tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định
trong bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt”.
3.Phân loại tội phạm.
Theo qui định BLHS 1999, tội phạm được phân loại như sau:

74
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã
hội, mức cao nhất của khung hình phạt là đến 3 năm tù.
- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại cho xã hội, mức
cao nhất của khung hình phạt là đến 7 năm tù.
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã
hội, mức cao nhất của khung hình phạt là đến 15 năm tù.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt
lớn cho xã hội, mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù,tù chung
thân hoặc tử hình.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý
bằng các biện pháp khác.
4.Cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu chung có tính đặc trưng
cho một loại tội cụ thể được quy định trong BLHS. Cấu thành tội phạm là cơ
sở pháp lý của TNHS và là căn cứ pháp lý để định tội danh. Các yếu tố cấu
thành tội phạm bao gồm:
a.Khách thể: của tội phạm là QHXH được LHS bảo vệ và bị tội phạm
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức độ đáng kể. Không có sự xâm
hại đến những QHXH được LHS bảo vệ thì không có tội phạm (Ví dụ: Quan
hệ sở hữu, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, trật tự ATXH, trật tự
quản lý KT, ANQG, chế độ HNGĐ, môi trường).
b.Chủ thể: của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội được LHS qui định là tội phạm, có năng lực TNHS và
đạt độ tuổi theo qui định của LHS
*Năng lực TNHS: là khả năng nhận thức và Điều khiển hành vi của
người phạm tội. Tình trạng không có NLTNHS là trường hợp người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Người
phạm tội trong trường hợp này không phải chịu TNHS mà phải áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh. Người phạm tội trong khi có NLTNHS, nhưng đã
lâm vào tình trạng không có NLTNHS, thì cũng bị áp dụng biện pháp buộc

75
chữa bệnh; sau khi khỏi bệnh, người đó, người đó có thể chịu TNHS. Phạm
tội trong trường họp dùng rượu hoặc các chất kích thích khác vẫn phải chịu
TNHS.
* Tuổi chịu TNHS: người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải
chịu TNHS với những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt
nghiêm trọng ; người từ đủ 16 tuổi trở lên chịu TNHS đối với mọi loại tội
phạm.
c. Mặt khách quan của tội phạm: là những biểu hiện của tội phạm
diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, gồm có:
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành động hoặc không hành động)
– là dấu hiệu bắt buộc, không thể thiếu được của mọi loại tội phạm
- Tính trái pháp luật của hành vi.
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu
quả
- Ngoài 4 dấu hiệu chính trên, thuộc về mặt khách quan của tội
phạm còn có những dấu hiệu khác: phương tiện, công cụ phạm tội, phương
pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm.
d. Mặt chủ quan của tội phạm: là những diễn biến tâm lý bên
trong của tội phạm, bao gồm: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội.
• Lỗi có 2 loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý.
- Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau:
+ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó
xảy ra (cố ý trực tiếp).
+ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó ; tuy không mong muốn nhưng
vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra (cố ý gián tiếp).
- Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trưòng hợp sau:
+ Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây nguy
hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn
ngừa được ( Vô ý vì quá tự tin).

76
+ Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây
nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó
(Vô ý vì cẩu thả).
2. Trách nhiệm hình sự (TNHS).
TNHS là sự phản ứng của Nhà nước đối với người thực hiện tội
phạm, thể hiện tập trung ở sự áp dụng hình phạt với các chủ thể đó. Người
phạm tội phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất định.
TNHS có những đặc điểm riêng khác với những dạng TNPL khác,
cụ thể như sau:
+ Cơ sở của TNHS là cấu thành tội phạm, không có tội phạm thì
không có TNHS.
+ TNHS theo LHS Việt Nam là trách nhiệm cá nhân.
+ TNHS là dạng trách nhiệm pháp lý nGiêm khắc nhất, bởi phương
tiện thực hiện trách nhiệm hình sự là hình phạt
III. HÌNH PHẠT
1.Khái niệm:Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội
được quy định trong BLHS và do toà án áp dụng đối với người phạm tội
( Điều 26 BLHS).
Từ khái niệm này cho thấy hình phạt có 4 đặc điểm sau:
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, bởi vì: Hình
phạt tước bỏ người bị kết án những quyền và lợi ích thiết thân của họ. Đó là
quyền chính trị, quyền kinh tế, quyền tự do, thậm chí cả quyền sống của
người phạm tội. Mặt khác, hình phạt bao giờ cũng để lại cho người bị kết án
một hậu quả pháp lý - đó là án tích trong một thời gian nhất định.
- Hình phạt được quy định trong BLHS ở phần chung và các phần các
tội phạm cụ thể.
- Hình phạt chỉ do Toà án nhân danh Nhà nước áp dụng trên cơ sở của
bản án.
- Hình phạt chỉ áp dụng đối với người có hành vi phạm tội.
2.Hệ thống hình phạt.
Các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt được quy định tại Điều 28
BLHS Bao gồm 12 loại sau:

77
TÊN HÌNH PHẠT ĐẶC ĐIỂM

Cảnh cáo( Điều 29 BLHS): là - Chỉ có thể áp dụng đối với tội ít nghiêm
sự khiển trách công khai của trọng.
Nhà nước do Toà án tuyên đối - Có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên.
với người phạm tội.
- Chưa đến mức được miễn hình phạt.
Phạt tiền (Điều 30 BLHS): là * Mức phạt tiền: Phụ thuộc vào tính chất và mức độ
loại hình phạt tước của người nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện,có xét
bị kết án một khoản tiền nhất
đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến
định sung công quỹ Nhà nước.
động của giá cả, không thấp hơn một triệu đồng.
* Cách thức thi hành: Tiền phạt có thể nộp một hoặc
nhiều lần trong thời hạn do Toà án quyết định trong
bản án.
* Vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung.

Cải tạo không giam giữ - Chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội ít
(Điều31BLHS):là loại hìnhiến nghiêm trọng và tội nghiêm trọng.
pháphạt không buộc người bị - Có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi
kết án cách ly khỏi đời sống xã thường trú rõ ràng.
hội mà được cải tạo ở môi - Nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly
trường xã hội bình thường có họ ra khỏi đời sống xã hội.
sự giám sát, giúp đỡ của gia * Thời hạn của hình phạt CTKGG: Từ sáu tháng đến
đình, cơ quan, tổ chức và cộng ba năm.
đồng. * Nếu người phạm tội đã bị tạm giam, tạm giữ thì
đổi một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày
CTKGG rồi khấu trừ vào thời gian chấp hành hình
phạt.

78
Trục xuất(Điều 32 BLHS): là Đây là loại hình phạt mới được quy định trong
loại hình phạt buộc người nước BLHS 1999, nó vừa là hình phạt chính, vừa là hình
ngoài bị kết án phải rời khỏi phạt bổ sung. BLHS không quy định điều kiện áp
lãnh thổ nước CHXHXN Việt dụng hình phạt này
Nam.

Tù(Điều33 BLHS):là loại hình Thời hạn : Từ 3 tháng đến 20 năm (đối với trường
phạt buộc người bị kết án phải hợp phạm nhiều tội mức hình phạt tối đa là 30 năm
chấp hành hình phạm tại trạm
tù).
giam có thời hạn trong một
thời gian nhất định Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì đổi
một ngày tạm giữ, tạm giam bằng 1 ngày tù và được
trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.

Tù chung thân (Điều 34 - Chỉ có thể áp dụng với người phạm tội đặc biệt
BLHS):là loại hình phạt buộc nghiêm trọng.
người bị kết án phải cách ly
- Chưa đến mức bị xử phạt tử hình.
khỏi đời sống xã hội, chấp
hành hình phạt trong trại cải - Không áp dụng đối với người chưa thành niên khi
cải tạo cho đến khi chết. phạm tội.

Tử hình( Điều 35 BLHS): - Chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng.
- Không áp dụng đối với người chưa thành niên khi
phạm tội, với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ
dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử.
- Không thi hành án tử hình với phụ nữ có thai, đang
nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Trường hợp này
hình phạt tử hình chuyển xuống hình phạt tù chung
thân.
- Trường hợp người bị kết án tử hình được Chủ tịch
nước chấp nhận cho ân giảm thì hình phạt tử hình
chuyển thành hình phạt tù chung thân.

79
Cấm đảm nhiệm chức vụ, -Chỉ áp dụng hình phạt này nếu xét thấy nếu để
cấm hành nghề hoặc làm người bị kết án tiếp tục đảm nhận chức vụ, hành nghề
công việc nhất định (Điều 36 hoặc làm công việc đó thì có nguy cơ sẽ phạm tội
BLHS) mới.
* Thời hạn của hình phạt này là từ 1 năm đến 5 năm
kể từ ngày:
- Chấp hành xong hình phạt tù.
- Hoặc từ ngày bản án có hiệu lực nếu hình
phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, CTKGG.
. - Hoặc từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo
Cấm cư trú (Điều 37 BLHS): Thời gian: Từ 1 năm đến 5 năm kể từ ngày chấp
là loại hình phạt buộc người hành xong hình phạt tù. (Cấm cư trú chỉ đi kèm hình
kết án phạt tù không được tạm phạt tù có thời hạn).
trú và thường trú ở một số địa
phương trong một thời gian
nhất định.

Quản chế ( Điều 38 BLHS):là - Có thể áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm
loại hình phạt buộc người bị ANQG, tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
kết án phạt tù phải cư trú, làm
- Trong thời gian quản chế không được tự ý ra khỏi
ăn sinh sống và cải tạo ở một
địa phương nhất định, có sự nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân, bị cấm
kiểm soát, giáo dục của chính hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
quyền địa phương. Thời hạn: giống hình phạt cấm cư trú.

80
Tước một số quyên công dân Người bị kết án bị tước một hoặc một số quyền sau:
(Điều 39 BLHS):Hình phạt này - Quyền ứng cử, quyền bầu cử đại biểu cơ
có thể áp dụng đối với người bị
quan quyền lực Nhà nước.
kết án phạt tù về tội xâm phạm
ANQG hoặc tội khác do BLHS - Quyền làm việc trong các cơ quan Nhà
quy định. nước, quyền phục vụ lực lượng vũ trang nhân dân.
* Thời hạn từ 1 năm đến 5 năm kể từ ngày:
- Chấp hành xong hình phạt tù.
- Hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu
hình phạt chính là hình phạt cảnh cáo, phạt tiền,
CTKGG.
- Hoặc từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo.
Tịch thu tài sản ( Điều 40 * Áp dụng đối với người phạm tội nghiêm trọng, rất
BLHS):là loại hình phạt tước nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng được BLHS
một phần hoặc toàn bộ tài sản sự quy định.
thuộc sở hữu của người bị kết - Chỉ tịch thu tài sản thuộc sở hữu của người bị kết
án sung quỹ Nhà nước. án.
Nếu tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết
án và gia đình họ có điều kiện sinh sống

Trong các hình phạt trên thì các hình phạt: cảnH cáo, cải tạo không
giam giữ, tù, tù chung thân, tử hình là hình phạt chính; các hình phạt còn lại
là hình phạt bổ sung; riêng hình phạt phạt tiền và trục xuất tùy trường hợp có
thể là hình phạt chính, có thể là hình phạt bổ sung.
Về nguyên tắc, đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng
một hình phạt chính và có thể không bị áp dụng hình phạt bổ sung hoặc bị
áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung (Khoản3, Điều 38 BLHS). Do đó,
hình phạt chính được tuyên độc lập, còn hình phạt bổ sung luôn phải đi kèm
với hình phạt chính.Việc qui định các hình phạt bổ sung với chức năng hỗ
trợ hình phạt chính; ngoài ra hình phạt bổ sung còn giúp cho Tòa án áp dụng
những biện pháp xử lý triệt để và công bằng đối với người phạm tội, đạt
được mục đích tối đa của hình phạt.
3.Các biện pháp tư pháp

81
Theo qui dịnh tại BLHS, các biện pháp tư pháp gồm có: tịch thu vật
và tiền bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sữa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi, bắt buộc chữa bệnh.
B. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
I. KHÁI NIỆM
1. Định nghĩa:Luật tố tụng hình sự là một ngành luật độc lập trong
hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, Điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh:
a.Đối tượng điều chỉnh của Luật TTHS: là các QHXH phát sinh trong
quá trình khởi tố, Điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự giữa cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và
với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, cá nhân khác.
b.Phương pháp điều chỉnh:
- Phương pháp quyền uy: được áp dụng để cưỡng chế đối với người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác (Quyền uy còn
thể hiện ở mối quan hệ của cơ quan tiến hành tố tụng gồm những quyết định
có tính chất bắt buộc đối với những người tham gia tố tụng và mọi cá nhân,
tổ chức).
- Phương pháp phối hợp - chế ước: được thực hiện bởi các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm tạo điều kiện hỗ trợ lẫn nhau
Phương pháp này nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan Điều
tra,viện kiểm sát, Tòa án. Các cơ quan này có nhiệm vụ phối hợp với nhau
tiến hành các hoạt động của mình theo qui định của BLTTHS; đồng thời có
quyền giám sát, phát hiện những sai sót để tự mình sửa chữa, khắc phục
hoặc kiến nghị sửa chữa những sai sót đó.
II. CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG, NGƯỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG VÀ NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG
1. Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
a) Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có:
+ Cơ quan điều tra.
+ Viện kiểm sát.

82
+ Tòa án
b) Những người tiến hành tố tụng gồm có:
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên:
+ Viện trưởng, Phóviện trưởng, KIểm sátviên:
+ Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký tòa án.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người những người tiến
hành tố tụng được qui định cụ thể trong BLTTHS.
• Những người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị
thay đổi, nếu:
- Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sư, bị đơn dân sự; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp,
người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo.
- Họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó.
- Có căn cứ rõ ràng khác để cho thấy rằng họ có thể không vô tư khi
làm nhiệm vụ.
* Những người sau đây có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng: Kiểm sát viên; bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ; người bào chữa, người bảo
vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự.
2. Người tham gia tố tụng
a. Những người tham gia tố tụng có quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý
liên quan đến vụ án.
* Người bị tạm giữ ( Điều 48 BLTTHS)
Người tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội
quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú,
đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
* Bị can ( Điều 49 BLTTHS)
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị can tham gia tố tụng khi
có quyết định khởi tố bị can đối với họ. Bị can tham gia vào giai đoạn Điều
tra, truy tố và xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi cơ
quan Điều tra đình chỉ Điều tra;viện kiểm sát đình chỉ vụ án; Toà án đình chỉ

83
vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với bị can; hoặc Toà án ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử.
* Bị cáo ( Điều 50 BLTTHS)
Bị cáo là người bị Toà án quyết định đưa ra xét xử.
Bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến
khi bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
* Người bị hại ( Điều 51 BLTTHS)
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội
phạm gây ra. (Khoản 1 Điều 5 BLTTHS)
Luật tố tụng nước ta chỉ coi người bị hại là công dân. Pháp nhân hay
tổ chức xã hội không được coi là người bị hại. Người bị hại là con người cụ
thể bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần, tài sản.
Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có
những quyền của người bị hại. Nếu người bị hại chưa thành niên hoặc là có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì đại diện hợp pháp của họ sẽ cùng
tham gia tố tụng.
* Nguyên đơn dân sự ( Điều 52 BLTTHS)
"Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội
phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại" ( Điều 52, khoản 1
BLTTHS)
* Bị đơn dân sự ( Điều 53 BLTTHS)
Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật hình sự quy
định phải chịu trách nhiệm bồ thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án ( Điều 54
BLTTHS)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là người có quyền
lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định của cơ quan tiến hành
tố tụng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có thể là người
không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nhưng các cơ quan tiến hành tố
tụng phải xử lý theo pháp luật những vấn đề có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ. Ví dụ, người mà tài sản của họ bị kẻ phạm tội sử dụng làm
công cụ, phương tiện phạm tội; người mà tài sản của họ bị kê biên cùng tài

84
sản của người phạm tội; người đã được kẻ phạm tội cho một số tài sản do
phạm tội mà có.
b. Người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
* Người bào chữa ( Điều 56, 57, 58 BLTTHS).
Theo quy định tại Điều 56 Khoản 1 BLTTHS, người bào chữa có thể
là luật sư; bào chữaviên nhân dân hoặc người đại diện hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo.
* Người bảo vệ quyền lợi của đương sự ( Điều 59 BLTTHS)
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người được các cơ quan tiến
hành tố tụng chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người bị
hại, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
hình sự.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có thể là luật sư, bào chữaviên
nhân dân hoặc người khác có đủ điều kiện cần thiết.
Một người có thể bảo vệ quyền lợi cho nhiều đương sự trong cùng
một vụ án nếu quyền lợi của những người đó không đối lập nhau.
c. Người tham gia tố tụng khác
* Người làm chứng ( Điều 55 BLTTHS)
Người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án và
được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để khai báo về những sựviệc
cần xác minh trong vụ án.
* Người giám định ( Điều 60 BLTTHS)
Người giám định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám
định được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu theo quy định của pháp luật.
* Người phiên dịch ( Điều 60 BLTTHS)
Người phiên dịch là người biết những ngôn ngữ cần thiết choviệc giải
quyết vụ án được các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu tham gia tố tụng
trong những trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được
tiếng Việt.
III. TRÌNH TỰ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.Khởi tố vụ án hình sự: Là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự,
trong đó cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan Điều tra, VKS, Tòa án) xác định
sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm không để ra quyết định khởi tố bị
can và quyết định khởi tố vụ án hình sự.

85
Việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự dựa vào những căn cứ sau
đây:
- Tố giác của công dân.
- Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng
- Các cơ quan tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm
- Người phạm tội đến tự thú
- Khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
* Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp lý đầu tiên cho phép
cơ quan Điều tra hay Viện kiểm sát được tiến hành kịp thời những biện pháp
ngăn chặn, bảo đảm thu thập chứng cứ, bảo đảm điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án một cách kịp thời nhằm phát hiện, ngăn ngừa tội phạm và bảo
đảm được các quyền cơ bản của công dân.
1. Điều tra vụ án hình sự và quyết định việc truy tố:
a. Điều tra vụ án hình sự: là một giai đoạn của TTHS trong đó cơ
quan điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật TTHS qui định để thu
thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và các vấn đề khác có
liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông
qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội đối với
từng loại vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với các cơ
quan và tổ chức hữu quan
Là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đóviện kiểm sát tiến
hành các hoạt động cần thiết để truy tố bị can trước Toà án bằng bản
cáo trạng hoặc ra những quyết định tố tụng khác nhằm giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
3.Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong
đó Toà án tiến hành giải quyết và xử lý vụ án bằngviệc đưa ra bản án hoặc
các quyết định cần thiết khác
4.Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự: Là giai đoạn tiếp theo của tố tụng hình
sự, trong đó Toà án cấp trên trực tiếp xem xét lại bản án hoặc quyết định sơ
thẩm của
Toà án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của pháp luật.

86
5.Thi hành án hình sự: Là giai đoạn của tố tụng hình sự nhằm thực hiện bản
án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Các cơ quan có thẩm
quyền thi hành án hình sự là cơ quan Công an; chính quyền xã, cơ quan y tế,
cơ quan Thi hành án dân sự
6.GIai đoạn tố tụng đặc biệt: Là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Toà
án xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật vì phát hiện cóvi
phạm pháp luật trongviệc xử lý vụ án (Giám đốc thẩm) hoặc có những tình
tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc
quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó (tái
thẩm).

CHƯƠNG 5: LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH - LUẬT DÂN SỰ -


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ.

A. LUẬT DÂN SỰ
I.KHÁI NIỆM
1. Đối tượng điều chỉnh:
Đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự là nhóm quan hệ tài sản và
quan hệ nhân thân.
a. Quan hệ tài sản: Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người
thông qua một tài sản dưới dạng tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng hoặc
dịch vụ chuyển, sửa chữa tài sản đó trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu
dùng. Tài sản trong Luật dân sự bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản như nhà ở, cổ phiếu, trái phiếu, tiền...
b. Quan hệ nhân thân: .
Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự bao
gồm quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản và quan hệ nhân thân không
liên quan đến tài sản.
+ Quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản như quan hệ về quyền lao
động, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do sáng tác. Khi một quan hệ nhân
thân bị xâm phạm, luật dân sự áp dụng các biện pháp chủ yếu không mang
nội dung tài sản như: yêu cầu ngườivi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, công
khai xIn lỗi, cải chính trên báo chí nhằm phục hồi tình trạng như khi chưa bị
xâm phạm. Tuy nhiên, nếu sự xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà gây thiệt
hại cho người có quyền đó, thì người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại
về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Như vậy, quan hệ nhân thân có liên
quan đến tài sản là những quan hệ nhân thân là cơ sở làm phát sinh quan hệ
tài sản tiếp sau. Ví dụ: trong lĩnh vực quyền tác giả, quỳên phát minh, sáng

87
chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật và hợp lý hóa sản xuất. Ở đây, quan hệ nhân
thân là cơ sở khẳng định rằng người sáng tạo ra tác phẩm, công trình văn
hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật có quyền đứng tên là tác giả của tác
phẩm. Quyền này là quyền nhân thân và không thể tách rời người sáng tạo.
Nhưng đồng thời vớiviệc thừa nhận là tác giả của tác phẩm người đó còn
được hưởng một khoản thù lao (nhuận bút, tiền thưởng..) theo luật định. Như
vậy, lợi ích vật chất ở đây xuất phát từ một quan hệ nhân thân có trước.
+ Quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản là những quan hệ
giữa người với người về những lợi ích tinh thần tồn tại một cách độc lập
không liên quan gì đến tài sản như quan hệ về tên gọi, quan hệ về danh dự
của cá nhân, quốc tịch của công dân Sở dĩ gọi như vậy vì các giá trị tinh thần
kể trên không làm phát sinh ở chủ thể của những giá trị ấy một lợi ích vật
chất nào.
2.Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự là những cách thức biện
pháp mà Nhà nước tác động đến các các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân
thân làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi hay chấm dứt theo ý chí
của Nhà nước.
Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự có đặc thù sau:
- Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự bình đẳng, độc lập
với nhau về tổ chức và tài sản.
- Bảo đảm quyền tự định đoạt của các chủ thể khi tham gia vào các
quan hệ tài sản.
- Phương pháp giải quyết các tranh chấp dân sự là “hòa giải”, tự thỏa
thuận với nhau. Trong trường hợp các bên không hòa giải được thì tòa án sẽ
đưa vụ án ra xét xử theo trình tự, thủ tục pháp luật qui định.
- Trách nhiệm dân sự không chỉ do pháp luật qui định mà còn do các
bên thỏa thuận phù hợp với pháp luật khi tham gia vào các quan hệ đó.
3. Định nghĩa Luật dân sự: Luật dân sự là một ngành luật trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá - tiền tệ và các quan hệ nhân
thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập, quyền tự định đoạt của các chủ thể tham
gia vào quan hệ đó.
II. GIAO DỊCH DÂN SỰ
1.Khái niệm và các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
a. Khái niệm:Theo Điều 121của BLDS 2005 thì “giao dịch dân sự là
hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng dân sự của cá nhân, pháp nhân,
các chủ thể khác làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
dân sự”.
Hành vi pháp lý đơn phương được hiểu là hành vi thể hiện ý chí của
một bên chủ thể nhằm làm phát sinh quan hệ dân sự mà không cần ý chí của

88
các chủ thể khác. Chẳng hạn việc lập di chúc để lại tài sản thuộc sở hữu của
mình cho người khác không cần sự đồng ý của người thừa kế theo di chúc.
Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
b. Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: Theo quy định
tại Điều 122 thì một giao dịch dân sự được pháp luật thừa nhận có hiệu lực
pháp lý khi đảm bảo các điều kiện sau :
* Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự:
- Đối với cá nhân: Người từ đủ 18 tuổi trở lên có khả năng nhận thức
và điều chỉnh hành vi của mình có quyền tự mình tham gia mọi giao dịch
dân sự. Người đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có quyền tự mình tham gia giao
dịch dân sự nhỏ phục vụ nhu cầu hàng ngày. Đối với người mất năng lực
hành vi dân sự, không có năng lực hành vi dân sự (người bị Toà án tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự do bị bệnh tâm thần hoặc người dưới 6 tuổi)
pháp luật không cho phép họ tự mình tham gia giao dịch dân sự mà phải
thông qua người đại diện theo pháp luật.
Trong các giao dịch dân sự có đối tượng là tài sản thuộc sở hữu chung
của nhiều người (mua bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất) thì việc
xác lập giao dịch dân sự ngoài đảm bảo tư cách chủ thể của mình còn phải
có đủ tư cách đại diện cho các đồng sở hữu chủ khác
- Đối với các chủ thể khác như pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thì
phải bảo đảm tư cách chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự. Khi tham gia
giao dịch dân sự các chủ thể này thông qua người đại diện (đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền).
* Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không trái pháp luật,
đạo đức xã hội:
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà các bên mong muốn đạt
tới khi xác lập giao dịch dân sự. Nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp
các Điều khoản cam kết trong giao dịch, qui định các quyền và nghĩa vụ của
các bên chủ thể. giao dịch trái pháp luật như: mua bán tài sản pháp luật cấm
( mua bán đất đai, ma tuý), cho vay tiền để đánh bạc, đòi các khoản tiền
doviệc bán dâm, đánh bạc mang lại...
* Người tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện: Trong
trường hợp thiếu sự tự nguyện thì trái với bản chất của giao dịch dân sự và
giao dịch dân sự có thể bị coi là vô hiệu trong trường hợp sau : giao dịch dân
sự giả tạo; giao dịch dân sự được xác lập do nhầm lẫn; giao dịch dân sự
được xác lập do bị lừa dối, đe doạ.
* Hình thức của giao dịch dân sự phải phù hợp với qui định của pháp
luật: Hình thức của giao dịch dân sự thường được thể hiện dưới các hình
thức như sau : Bằng lời nói; Bằng hành vi cụ thể; Bằng văn bản thường hoặc

89
văn bản có chứng thực, chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
hoặc phải đăng ký, xIn phép: hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất... Điều kiện về hình thức chỉ bắt buộc khi pháp
luật có quy định.
2.Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý
* Khái niệm và các loại giao dịch dân sự vô hiệu:
Điều 127 BLDS qui định: Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch vi
phạm một trong các điều kiện vô hiệu .
* BLDS phân thành các loại giao dịch dân sự vô hiệu như sau :
- Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội .
-Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ qui định về hình thức.
- Giao dịch dân sự vô hiệu do thiếu sự tự nguyện của các chủ thể tham
gia.
-Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện.
* Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Về nguyên tắc giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên từ thời điểm giao dịch dân sự được xác lập. Khi giao
dịch dân sự vô hiệu các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu nghĩa là phải
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại.
Đối với trường hợp đối tượng là tài sản không còn nên các bên không
thể hoàn trả được bằng hiện vật mà phải hoàn trả cho nhau bằng tiền.
Tuỳ từng trường hợp xét theo tính chất của giao dịch vô hiệu, tài sản
giao dịch và hoa lợi, lợi tức thu được có thể bị tịch thu theo qui định của
pháp luật (khoản tiền lãi các bên đã trả cho nhau trong hợp đồng vay ngoại
tệ mà không thuộc đối tượng Nhà nước cho phép thì tịch thu, sung công quỹ
Nhà nước)
III. CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ
1.Những quy định chung về thừa kế
a.Quyền thừa kế: Quyền thừa kế được hiểu là một chế định pháp luật
dân sự (chế định thừa kế) bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành quy định về thừa kế, vềviệc bảo vệ và điều chỉnh, chuyển tài
sản của người đã chết cho những người còn sống.
Quyền thừa kế của cá nhân là quyền dân sự được pháp luật ghi nhận
bao gồm quyền hưởng thừa kế và quyền để lại thừa kế theo di chúc hoặc
theo pháp luật. Chính vì vậy khái niệm quyền thừa kế của cá nhân như sau:
Quyền thừa kế của cá nhân là quyền để lại tài sản của mình theo di chúc
hoặc cho những người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc
hoặc theo pháp luật.

90
b.Người thừa kế và người để lại di sản thừa kế.
- Người thừa kế: có thể là cá nhân, tổ chức. Đối với thừa kế theo pháp
luật thì chỉ có thể là cá nhân. Người thừa kế phải bảo đảm theo các điều kiện
pháp luật qui định.
+ Cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hay ính ra và
còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm đó.
+ Đối với tổ chức thì phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế
nghĩa là chưa bị giải thể, phá sản. Trong trường hợp tổ chức được sáp nhập,
chia tách thì quyền tài sản vẫn được thực hiện theo di chúc.
- Người để lại di sản: là người mà sau khi chết có tài sản để lại cho
người khác theo trình tự thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
c.Thời điểm mở thừa kế, địa điểm mở thừa kế:
- Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong
trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế
là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của BLDS.
- Địa điểm mở thừa kế: là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di
sản, nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế
là nơi có toàn bộ sản.
d.Di sản thừa kế.
Theo qui định của BLDS, di sản thừa kế bao gồm: tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung của người
khác và quyền sử dụng đất.
Tài sản theo qui định của BLDS đó là: “Vật có thực, tiền, các giấy tờ
khác trị giá bằng tiền và uyền về tài sản (bảo hiểm, quyền đòi nợ, quyền sở
hữu trí tuệ)”
*Tài sản riêng của người chết: Là tài sản được công nhận là sở hữu
riêng của người đó (thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu tiêu
dùng, tư liện sản xuất, ...)việc xác định sở hữu riêng của vợ chồng căn cứ
vào các qui định pháp luật về HNGĐ (tài sản riêng muốn sở hữu chung phải
lập thành văn bản).
Phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác :
Trong trường hợp nhiều người được thừa kế, được tặng cho một tài sản hay
nhiều người cùng nhau góp vốn để cùng sản xuất kinh doanh .... được xác
định là sở hữu chung đối với tài sản. Khi một người trong các chủ sở hữu đó
đối với tài sản chung này chết, thì phần tài sản của người đó trong tài sản
chung này được coI là di sản thừa kế.
+ Đối với tài sản chung hợp nhất của vợ chồng được xác định căn cứ
vào các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Về nguyên tắc khi một
bên vợ hoặc chồng chết trước thì một nửa tài sản sẽ được xác định là di sản
để chia theo pháp luật về thừa kế. (Trừ trường hợp xác định được công sức

91
đóng góp của vợ hoặc chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản
chung của vợ chồng). Đối với tài sản chung giữa cha mẹ và các con tùy
thuộc vào sự đóng góp cụ thể của các thành viên để xác định.
+ Đối với sở hữu chung theo phần được xác định trên cơ sở tỉ lệ phần
trăm đóng góp hay theo thỏa thuận của các bên, hay các giấy tờ khác như:
đóng góp để làm ăn với nhau, góp vốn vào công ty, HTX...
+ Trong trường hợp nam - nữ chung sống bất hợp pháp hoặc không
công nhận là vợ chồng mà một bên chết trước thì xác định tào sản của
người chết trong khối tài sản chung chưa có qui định của pháp luật. Trong
thực tiễn giải quyết, áp dụng Điều 17 Luật HNGĐ là phân chia tài sản
chung căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên. Nếu không xác định
được chính xác thì mỗi bên hưởng 50%.
Đối với nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại như là: trả nợ, bồi
thường thiệt hại, các nghĩa vụ khác thì những người thừa kế có nghĩa vụ
thanh toán trong phạm vi di sản. Nếu di sản đã chia thì những người thừa kế
phải thanh toán tương ứng với tỉ lệ mình được nhận trong phạm vi di sản.
e. Những người thừa kế không có quyền hưởng di sản ( Điều 646
BLDS)
Những người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật không có quyền
được hưởng di sản nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín hay hành hạ ngược đãi nghiêm trọng người để
lại di sản. Những người này bị kết án bằng bản án của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật về một trong các tội tương ưng được qui định trong BLDS,
không phụ thuộc vào hình phạt như thế nào.
- Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với người để lại di
sản. Trong trường hợp nàyviệc xác định dựa trên những cơ sở sau:
+ Nghĩa vụ nuôi dưỡng căn cứ vào qui định của Luật HNGĐ như:
cha mẹ - con, ông bà - cháu.
+ Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng, được hiểu là người có
nghĩa vụ nuôi dưỡng, có khả năng kinh tế nhưng cố tình không thực hiện
làm cho người cần được nuôi dưỡng lâm vào tình trạng khốn khổ hay nguy
hiểm đến tính mạng.
Vào thời gian vi phạm nghĩa vụ, luật chưa qui định rõ nhưng thực
tiễn giải quyết khoảng 3 năm trước khi người để lại di sản chết.
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của những
người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hay toàn bộ di sản mà người đó
có quyền hưởng.
- Người có hành vi sửa chữa, bổ sung, hủy bỏ, giả mạo di chúc nhằm
hưởng một phần hay toàn bộ di sản trái với ý chí người đó thì không có

92
quyền hưởng di sản. Hay nói cách khác: những hành vi trên nhằm mục đích
trục lợi cho chính bản thân người đó hay cho những người thân của người
đó thì cũng không có quyền hưởng di sản.
* Theo Khoản 2 - Điều 646 mặc dù những người thừa kế thuộc một
trong những trường hợp nêu trên vẫn có quyền hưởng di sản nếu người để
lại di sản biết đượcviệc đó nhưng vẫn quyết định lập di chúc cho những
người này được hưởng. Qui định này là tôn trọng ý chí của người có tài sản,
thể hiện cho sự tha thứ của người có tài sản đối với những hành vi nói trên.
Tuy nhiên khi xác định cần lưu ý những điểm sau:
- Việc lập di chúc cho hưởng hoàn toàn tự nguyện.
- Người lập di chúc phải biết được những hành vi nói trên nên di chúc
phải được lập sau khi có các hành vi nói trên.
2. Các loại thừa kế.
a.Thừa kế theo di chúc
* Khái niệm di chúc và quyền của người lập di chúc
- di chúc: di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài
sản của mình cho người khác sau khi chết .
- Quyền của người lập di chúc:
+ Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
+ Phân định phần di sản cho từng người thừa kế. Trong thực tế có
trường hợp người lập di chúc chỉ chỉ định người thừa kế mà không phân
định di sản cho họ thì được hiểu mỗi người được hưởng ngang nhau.
+ Dành một phần trong di sản để di tặng, thờ cúng: Di tặng là việc
người lập di chúc dành một phần tài sản trong khối di sản của mình để tặng
cho người khác. Khác với người thừa kế thì người nhận di tặng không phải
thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được tặng, trừ trường hợp toàn bộ di
sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản do người chết để lại thì phần di
tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người chết. Bộ
luật dân sự cũng quy định người lập di chúc có quyền dành một phần tài sản
trong khối di sản để thờ cúng (hương hỏa).
+ Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia
di sản.
+ Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ
di chúc.
* Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc: Theo Điều
669 BLDS thì những người sau đây vẫn hưởng di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp
luật trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng hoặc chỉ
cho hưởng ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối

93
hưởng di sản hoặc không có quyền hưởng di sản theo Điều 642 và khoản 1
Điều 643 BLDS :
- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
- Con đã thành niên không có khả năng lao động.
* Hình thức và nội dung của di chúc :
- Hình thức của di chúc: di chúc phải được lập thành văn bản, nếu
không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng
nói của dân tộc mình.
* Di chúc bằng văn bản (di chúcviết) bao gồm các hình thức sau :
- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: người lập di chúc
phải tự tayviết và ký vào bản di chúc.
- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng được lập trong trường
hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ
người khácviết nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng.
- Di chúc có công chứng, chứng thực
Ngoài ra pháp luật còn quy định di chúc bằng văn bản có giá trị như di
chúc được công chứng, chứng thức như di chúc lập trong bệnh viện, di chúc
của người đang bị giam, di chúc của người đang đi trên tàu biển ...
* Di chúc miệng: Di chúc miệng được lập trong trường hợp tính mạng
một người bị cái chết đe dọa do bệnh tất hoặc các nguyên nhân khác (tai
nạn, rủi ro ...) mà không thể lập di chúc bằng văn bản.
* Nội dung của di chúc bằng văn bản:di chúc bằng văn bản phải thể
hiện các nội dung sau:
- Ngày, tháng, năm lập di chúc.
- Họ tên và nơi cư trú của người lập di chúc.
- Họ tên cơ quan, tổ chức, người hưởng di sản.
- Di sản để lại và nơi có di sản.
- Việc chỉ định thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
Di chúc không được viết tắt hoặc bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm
nhiều trang thì mỗi trang phải đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của
người lập di chúc để tránh trường hợp tự ý thay đổi nội dung di chúc bằng
việc đánh tráo các trang không có chữ ký hoặc điểm chỉ trái với ý chí của
người lập di chúc.
Di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế.
b.Thừa kế theo pháp luật
* Khái niệm: Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế,
điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau
đây: - Không có di chúc, nghĩa là người có tài sản không định đoạt bằng

94
việc lập di chúc; di chúc không hợp pháp;
- Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người lập di chúc;
- Cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế.
* Diện và hàng thừa kế :
Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản được xác
định trên ba cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng giữa người để lại thừa kế và người thừa kế.
Hàng thừa kế: Pháp luật phân chia thành ba hàng thừa kế như sau :
- Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết.
- Hàng thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, các cháu nội
ngoại, anh chị em ruột của người chết.
- Hàng thứ ba: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; chắt nội ngoại của
người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột; cháu ruột của người
chết mà người chết là chú, bác, cô, dì, cậu (ruột).
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản ngang nhau.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu hàng thừa kế
trước đó không còn ai do đã chết, do không có quyền hưởng di sản, bị truất
quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.
LƯU Ý:
- Đối với hàng thừa kế thứ nhất: phải xác định là quan hệ hôn nhân
hợp pháp và đang tồn tại.
- Người thừa kế là con bao gồm con đẻ và con nuôi. Đối với con đẻ
xác định là con trong giá thú và con ngoài giá thú đều được hưởng di sản
thừa kế.
+ Con nuôi được thừa kế di sản của cha, mẹ nuôi đồng thời vẫn
được thừa kế di sản theo Điều 679 và Điều 680 của BLDS. Qui định này
được hiểu như sau: Con nuôi được quyền thừa kế di sản của cha, mẹ nuôi
mà không có quyền thừa kế của những người khác trong gia đình cha mẹ
nuôi. Do đó con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha mẹ người
nhận nuôi mình, anh chị em ruột của con đẻ người nhận nuôi mình.
+ Người đi làm con nuôi của người khác vẫn được thừa kế theo
huyết thống được qui định tại Điều 679 và Điều 680 giống như người không
đi làm con nuôi của người khác.
- Đối với những người ở hàng thừa kế thứ 2 thì anh chị em ruột
được hiểu là: một người mẹ sinh ra bao nhiêu người con đẻ thì bấy nhiêu
người con đó là anh chị em ruột của nhau không phụ thuộc và cùng cha,
khác cha; một người cha có bao nhiêu người con đẻ thì bấy nhiêu người con

95
đó là anh chị em ruột của nhau không phụ thuộc vào cùng mẹ hay khácmẹ.
Vì vậy, con riêng của vợ, của chồng, con đẻ của một người và con nuôi của
người đó không phải là anh chị em ruột của nhau.
*Thừa kế thế vị: Trong trường hợp con của người để lại di sản chết
trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản, thì cháu được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu
cũng chết trước người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Như vậy, thừa kế thế vị đặt ra khi có những dấu hiệu sau:
+ Dấu hiệu về thời gian: chết trước
+ Về quan hệ: mối quan hệ giữa ông bà nội, ngoại với các cháu, các
cụ nội ngoại với các chắt.
Ví dụ : ông A có bà người con là C, D, và E. Năm 1981 anh C kết hôn
với chị M sinh được hai con là K và H. Năm 1994 anh C bị tai nạn chết.
Năm 2000 ông A chết sau đó những người thừa kế yêu cầu chia ngôi nhà
ông A trị giá 180 triệu đồng. Trong trường hợp này vào thời điểm mở thừa
kế có hai người con là D và E còn sống, còn vợ ông A và anh C đã chết
trước ông A, do vậy hai con của anh C được thừa kế thế vị theo Điều 680
của BLDS như sau :
Di sản của ông A được chia làm ba phần, trong đó D được hưởng 60
triệu, E hưởng 60 triệu, K và H hưởng thừa kế thế vị (K hưởng 30 triệu, H
hưởng 30 triệu) phần di sản mà C được hưởng nếu còn sống.
Đặc điểm :
- Thừa kế thế vị chỉ phát sinh trong trường hợp di sản được chia theo
pháp luật.
- Cháu phải còn sống vào thời điểm ông bà chết, chắt phải còn sống
vào thời điểm cụ chết hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm ông bà (hoặc
cụ chết) nhưng đã thành thai trước thời điểm đó cũng được thừa kế thế vị.
- Nếu có nhiều người thừa kế thế vị nhưng chỉ được hưởng phần di
sản mà cha mẹ được hưởng nếu còn sống.
B. LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
I. KHÁI NIỆM
1. Định nghĩa
Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
Luật hôn nhân - gia đình là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành hoặc thể chế hoá nhằm điều chỉnh các quan hệ về hôn nhân và gia
đình (quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản).
2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh
a. Đối tượng điều chỉnh

96
Đối tượng điều chỉnh của Luật HNGĐ đó là những quan hệ xã hội
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, cụ thể là quan hệ nhân thân và tài sản
giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con và giữa những người thân thích ruột
thịt khác.
b. Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của Luật HNGĐ hết sức mềm dẻo, chủ yếu
là khuyến khích các chủ thể thực hiện các nghĩa vụ và quyền hôn nhân - gia
đình. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt mới dùng biện pháp cưỡng chế:
hủy hôn nhân trái pháp luật, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa
thành niên,... (Điều 16, Điều 14, Điều 41 Luật HNGĐ 2000).
II. KẾT HÔN VÀ HỦY KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
1. Kết hôn và các điều kiện kết hôn
a. Định nghĩa:
Khoản 2 Điều 8 Luật HNGĐ nêu rõ: "Kết hôn là việc nam nữ xác lập
quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng
ký kết hôn".
b. Các điều kiện kết hôn:
Điều 9 và Điều 10 Luật HN-GĐ 2000 quy định các điều kiện kết hôn
bao gồm:
- Phải đủ tuổi kết hôn (khoản 1 Điều 9): độ tuổi kết hôn đối với nam là
20 tuổi trở lên, nữ là 18 tuổi trở lên. Cách tính tuổi kết hôn hiện nay được
tính theo năm sinh, nghĩa là đang ở tuổi 20 đối với nam và đang ở tuổi 18
đối với nữ (Ví dụ: nam sinh năm 1970 thì đến ngày 01/01/1990 được coi là
đủ tuổi kết hôn - theo Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP)
- Phải có sự tự nguyện của hai bên nam nữ kết hôn:Việc kết hôn do
nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào,
không ai được cưỡng ép cản trở. Hai bên nam nữ muốn trở thành vợ chồng
phải xuất phát từ tình yêu chân chính để xây dựng hạnh phúc gia đình bền
vững.
-Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp luật cấm kết hôn
sau đây:
+ Phải tuân thủ nguyên tắc một vợ, một chồng
Điều 10 khoản 1 Luật HNGĐ 2000 quy định: "Cấm những người
đang có vợ hoặc chồng kết hôn" và Điều 4 khoản 2 quy định: "Cấm người
đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác
hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có vợ, có chồng".
+ Những người kết hôn mất năng lực hành vi dân sự: Người mất năng
lực hành vi dân sự là người bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không
thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Còn đối với những người bị

97
bệnh truyền nhiễm như: giang mai, da liễu, lậu, HIV vẫn có quyền kết hôn
với điều kiện phải làm giấy cam đoan không sinh con.
+ Những người kết hôn với nhau cùng dòng máu trực hệ, có họ trong
phạm vi 3 đời hoặc không có quan hệ thân thuộc:
- Ngoài ra, cấm kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã
từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể,
bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
- Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính
Trong xu thế phát triển của thế giới, những người đồng tính luyến ái
yêu cầu Nhà nước phải cho phép họ kết hôn và thừa nhận quan hệ vợ chồng
giữa họ. Một số nước đã cho phép những người cùng giới tính kết hôn (gọi
là part) như luật Đan Mạch năm 1989. Một số quốc gia trên thế giới không
thừa nhận quan hệ vợ chồng giữa những người này nhưng cho phép họ có
quyền lập hội và hưởng quyền lợi như công dân bình thường (Luật của Pháp
quy định cho phép người đồng tính luyến ái lập hội từ tháng 10/1999).
* Điều kiện, thủ tục đăng ký kết hôn:( Thực hiện theo qui định tại
Điều 11 Luật HNGĐ năm 2000 và Nghị định 156/2006/ NĐ-Chính phủ về
Đăng ký hộ tịch)
b. Hủy việc kết hôn trái pháp luật
Khoản 3 Điều 8 Luật HNGĐ 2000 quy định: "Kết hôn trái pháp luật là
việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn, nhưng vi phạm điều kiện
kết hôn do pháp luật quy định".
Như vậy, kết hôn trái pháp luật là việc kết hôn tuy đã được đăng ký tại
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhưng sau đó mới phát hiện một hoặc cả
hai bên kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định tại Điều 9,
Điều 10 - Luật HNGĐ.
Hôn nhân trái pháp luật sẽ bị Toà án nhân dân xử huỷ khi có yêu cầu.
Việc huỷ kết hôn trái pháp luật phải dựa trên cơ sở những căn cứ và người
có thẩm quyền xác định yêu cầu.
Việc huỷ kết hôn trái pháp luật dẫn đến hậu quả pháp lý nhất định:
- Về quan hệ nhân thân: Toà án áp dụng khoản 1 Điều 17 tuyên bố
huỷ việc kết hôn trái pháp luật khi đó hai bên nam nữ phải chấm dứt quan hệ
như vợ chồng. Trong trường hợp này quan hệ hôn nhân của họ không được
Nhà nước thừa nhận.
Theo quy định của Bộ luật TTDS tại Điều 28, huỷ kết hôn trái pháp
luật là yêu cầu về hôn nhân và gia đình (việc dân sự) nên chỉ giải quyết về
quan hệ nhân thân, nếu có tranh chấp và yêu cầu giải quyết về nuôi con và
tài sản các bên phải khởi kiện thành một vụ kiện dân sự riêng mà không giải
quyết đồng thời trong khi giải quyết việc dân sự. Huỷ việc kết hôn trái pháp

98
luật được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự quy định từ Điều 311
đến Điều 318 Bộ luật TTDS.
II. QUAN HỆ GIỮA VỢ CHỒNG
1. Quan hệ nhân thân: ( Điều 18- Điều 33 - Luật HNGĐ 2000): Bao
gồm những quy định mang tính khái quát về quan hệ nhân thân giữa vợ và
chồng như: Tình nghĩa vợ chồng, vợ chồng bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền,việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng, vợ chồng có nghĩa vụ tôn
trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau, vợ chồng có nghĩa vụ tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau, giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau
phát triển mọi mặt, việc đại diện cho nhau giữa vợ và chồng, về trách nhiệm
liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện, quan hệ hôn
nhân khi một bên bị tuyên bố là đã chết mà trở về .
2. Quan hệ tài sản: bao gồm
a.Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất:
* Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng: là tài sản có được trong
thời kỳ hôn nhân, là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng tính từ ngày
đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ chồng tạo ra, thu
nhập do lao động hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc tặng cho chung và những tài sản khác vợ chồng thoả
thuận là tài sản chung. Như vậy, tài sản chung của vợ chồng được xây dựng
căn cứ vào nguồn gốc tài sản gồm: tiền lương, tiền thưởng, tiền lương hưu,
tiền trợ cấp,các khoản thu nhập về sản xuất ở gia đình và các khoản thu nhập
hợp pháp khác của vợ chồng không phân biệt mức thu nhập của mỗi bên.
Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được từ các nguồn nóI trên hoặc tài sản
mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung.
Tài sản chung vợ chồng được chi dùng để đảm bảo những nhu cầu
chung của gia đình thì được xác định là đương nhiên có sự thoả thuận của cả
hai vợ chồng.
b. Quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng ( Điều 32, 33).
Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi người có trước
khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo Điều 29 và khoản 30 của
luật này; đồ dùng tư trang cá nhân. Vợ chồng có quyền nhập hoặc không
nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.
III. LY HÔN.
1. Khái niệm

99
Khoản 8 Điều 8 Luật HNGĐ 2000 quy định: Ly hôn là việc chấm dứt
quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ
hoặc chồng của cả hai vợ chồng.
Ly hôn là hành vi có ý chí của vợ chồng trên cơ sở yêu cầu của vợ
hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng; ngoài ra không chủ thể nào khác có quyền
yêu cầu ly hôn.việc giải quyết ly hôn thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân
theo quy định của pháp Luật tố tụng dân sự.
Như vậy ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng khi hai bên còn
sống.Trường hợp vợ hoặc chồng của bị tuyên bố là mất tích có yêu cầu ly
hôn thì Tòa án xử cho ly hôn bằng bản án. Nếu sau đó người bị mất tích trở
về và có yêu cầu Tòa án hủy bản án tuyên bố người đó mất tích và người vợ
hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác thìviệc giải quyết ly hôn
trước đó vẫn có giá trị pháp lý.
2.Căn cứ ly hôn ( Điều 89)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Tòa án quyết định cho ly hôn
nếu xét thấy:
+ Tình trạng vợ chồng trầm trọng.
+ Đời sống chung không thể kéo dài.
+ Mục đích hôn nhân không đạt được.
Đồng thời dựa vào tám nguyên nhân sau:
+ Không có con
+ Tính tình không hợp
+ Mâu thuẫn
+ Đánh đập, ngược đãi
+ Ngoại tình
+ Xa cách lâu năm
+ Kinh tế gia đình
+ Nguyên nhân khác.
3. Các trường hợp ly hôn theo Luật Hôn nhân - gia đình
- Thuận tình ly hôn ( Điều 9): Cả hai cùng thuận tình và yêu cầu Tòa
án giải quyết ly hôn thì Tòa án xử cho ly hôn bằng bản án hay quyết định
công nhận thuận tình ly hôn.
- Ly hôn do một bên yêu cầu ( Điều 91 ) - xin ly hôn đơn phương.
- Xin ly hôn do một bên mất tích..
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều có quyền yêu cầu xin ly
hôn. Khoản 2 - Điều 85 qui định rõ: "Trong trường hợp người vợ đang có
thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền
yêu cầu xIn ly hôn".
4. Đường lối giải quyết ly hôn
a. Đường lối giải quyết.

100
- Khuyến khích hòa giải ở cơ sở (tổ, khu phố)
- Thụ lý yêu cầu ly hôn và tiến hành hòa giải tại Tòa án.
+ Nếu hòa giải thành thì ra quyết định hòa giải thành
+ Nếu hòa giải không thành thì ra quyết định hòa giải không thành
và ra bản án công nhận sự thuận tình ly hôn của cả hai vợ chồng
b. Hậu quả pháp lý củaviệc ly hôn
- Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng: chấm dứt quan hệ vợ chồng
trước pháp luật
- Quan hệ giữa cha mẹ - con sau khi ly hôn:Việc giải quyết cho ai
nuôi con trước hết dựa trên cơ sở do vợ, chồng thỏa thuận, trường hợp
không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho bên trực tiếp nuôi
căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải
xem xét nguyện vọng của con.
Đối với con dưới 3 tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, nếu
các bên không có thỏa thuận khác, theo Luật Hôn nhân - gia đình 1986 quy
định con còn bú được giao cho người mẹ nuôi giữ, nhưng Luật hôn nhân -
gia đình 2000 quy định con dưới 3 tuổi giao cho người mẹ. Người cha hoặc
người mẹ không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con (theo quy định
cấp dưỡng).
* Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn:
- Khi ly hôn chia tài sản do các bên thỏa thuận; nếu bên không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.Tài sản riêng của bên nào thuộc sở
hữu bên đó.
- Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì nên chia tài sản
chung của vợ chồng dựa trên các nguyên tắc sau:
+ Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc chia đôi nhưng có xem
xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi
bên vàoviệc xác lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ chồng
trong gia đình coI như lao động có thu nhập.
+ Bảo vệ quyền lợi ích hợp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành
niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản tự nuôi mình.
+ Bảo vệ lợi ích chính đáng mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động thu nhập.
+ Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật theo giá trị,
nếu bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình
được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
Việc xác định khối lượng tài sản chung của vợ chồng và phần chênh
lệch căn cứ vào giá giao dịch thực tế tại địa phương vào thời điểm xét xử.

101

You might also like