You are on page 1of 10

ĐẠI HỌC QUỐC TẾ BẮC HÀ

KHOA KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÁO CÁO MÔN ĐƯỜNG LỐI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT


NAM

Sinh viên thực hiện: Cao Thị Sâm


Mã số sinh viên: 0854020091
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Cao Khải

Hà Nội, tháng 4 năm 2011


Lời Mở Đầu

Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là một
nhà cách mạng, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo
công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam.
Là người viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2tháng9 năm 1945 tại quảng
trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước trong thời
gian 1945 – 1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam trong thời gian 1951 – 1969, kiêm Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng từ 10/1956 đến 1960. Cuộc đời Hồ Chí
Minh là một cuộc hành trình huyền thoại. Trong chuyến hành trình 30
năm đi tìm đường cứu nước cho dân tộc mình (từ năm 1911 cho đến
năm 1941) , Hồ Chí Minh đã tới nhiều quốc gia khác nhau để trực
tiếp quan sát những chuyển biến tại các nước châu Phi, châu Âu,
châu Á, Bắc Mỹ và Trung Đông - một việc mà không có lãnh tụ nào
khác làm được trong thế kỷ 20.
Là nhà lãnh đạo được nhiều người ngưỡng mộ và tôn
sùng, lăng của Người được xây ở Hà Nội, nhiều tượng đài của
Người được đặt ở khắp mọi miền Việt Nam, hình ảnh được nhiều
người dân treo trong nhà, đặt trên bàn thờ , và được in ở hầu hết
mệnh giá đồng tiền Việt Nam. Người được thờ cúng ở một số đền
thờ và chùa Việt Nam. Hồ Chí Minh đồng thời cũng là một nhà văn,
nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng cả tiếng Việt,tiếng
Hán, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Anh. Là một nhà lãnh đạo nổi
tiếng ở Đông Nam Á, Người đã kết hợp chủ nghĩa Marx với chủ
nghĩa dân tộc Việt Nam.
I/ VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC THÀNH
LẬP
ĐẢNG CSVN

- Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Khi Cách mạng tháng Mười Nga
thành công,Người tham gia những hoạt động chính trị sôi nổi ngay trên đất
Pháp như : tham gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Năm 1919,
Người tham gia Đảng Xã hội Pháp.
- Tháng 6 - 1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt
Nam tại Pháp gửi “ Bản yêu sách 8 điểm” đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo
chính sách của Pháp và đòi Chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân
chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Mặc dù không được chấp nhận, nhưng “ Bản yêu sách” đã gây tiếng vang
lớn đối với nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Tên
tuổi Nguyễn Ái Quốc từ đó được nhiều người biết đến.
- Tháng 7-1920 : Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người vô cùng phấn
khởi và tin tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho Người thấy con đường để
giải phóng dân tộc mình. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, dứt khoát
đi theo Quốc tế thứ III.
- Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua vào cuối tháng
12-1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ
III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người Cộng sản Việt
Nam đầu tiên. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị
của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường Cộng
sản.
- 1921: Người sáng Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp để tuyên
truyền, tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc.
- 1922 : Ra báo “ Le Paria” ( Người cùng khổ ) vạch trần chính sách đàn
áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc, góp phần thức tỉnh các dân tộc bị
áp bức đứng lên tự giải phóng.
- 1923 : Sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân, sau đó làm việc
Quốc tế Cộng sản.
- 1924 : Dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V.
Ngoài ra, Người còn viết nhiều bài cho báo Nhân Đạo, Đời sống công nhân
và viết cuốn sách nổi tiếng “ Bản án chế độ thực dân Pháp” - đòn tấn công
quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân Pháp - Những hoạt động của Nguyễn Ái
Quốc (chủ yếu trên mặt trận tư tưởng chính trị) nhằm truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào nước ta. Thời gian này tuy chưa thành lập chính đảng của
giai cấp vô sản ở Việt Nam, nhưng những tư tưởng Người truyền bá sẽ làm
nền tảng tư tưởng của Đảng sau này. Đó là :
* Chủ nghĩa tư bản, đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản các nước và
nhân dân các thuộc địa. Đó là mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng chính
quốc và thuộc địa.
* Xác định giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt của cách
mạng.
* Giai cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên
phong là Đảng Cộng sản.
- Tháng 6-1925 :Người thành lập “ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên”
và cho xuất bản tuần báo “ Thanh niên” làm cơ quan ngôn luận của Hội.
- Tháng 7-1925 : Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng Quốc tế, lập
ra “Hội các dân tộc bị áp bức ở Á Đông”, có quan hệ chặt chẽ với Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên.
- Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày
để đào tạo, bồi dưỡng cách mạng.
- Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện ở Quảng
Châu sau đó đã được xuất bản thành sách “Đường Kách Mệnh.
- Từ năm 1928 : Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng được cơ
sở của mình ở khắp nơi. Hoạt động của Hội góp phần truyền bá tư tưởng
Mác- Lênin, thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam theo xu thế cách
mạng vô sản. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng là bước
chuẩn bị chu đáo về chính trị , tổ chức và đội ngũ cán bộ cho việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
- Giữa năm 1927-1930 : Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm (Thái Lan ) về Trung
Quốc, với danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản triệu tập Hội nghị hợp nhất
các tổ chức cộng sản, thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


(ĐCSVN)- Cuối thế kỷ XIX, sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân
Pháp bắt tay thực thi các chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ một
nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc
diễn ra hết sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh
hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Tiêu
biểu là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi
xướng; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của
Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo...Các
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều
bị thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức
lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.
Trong bối cảnh đó, tháng 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc.
Năm 1920 Nguyễn Tất Thành- Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-
Lê nin; đây không chỉ là bước ngoặt đối với cuộc đời hoạt động cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc:
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách
mệnh” để “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn Ái
Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở
Việt Nam, Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lê nin
vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên
tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.
Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập ở số nhà 5D,
Hàm Long, Hà Nội, gồm có Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự,
Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân và
Dương Hạc Đính.
Ngày 1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên ở Hương Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập
Đảng Cộng sản. Đề nghị dó không được chấp nhận, trở về nước, ngày 17-6-
1929, những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long đã tuyên bố
thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25-7-1929 An
Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9-1929 Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được
tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh
cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động
biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức
thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái
Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy
nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các
tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại
Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn
Ái Quốc. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức
Cảnh (đại biểu DDCSD); Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu
(ANCSĐ). Đại biểu ĐDCSLĐ không đến kịp. Hội nghị nhất trí thành lập
đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 trở thành Ngày thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc
lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của
cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu
thế kỷ XX; là sản phẩm cuả sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng
lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về
chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu
là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng
Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy
chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí
Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã xác
định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách
mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai
cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái
Quốc-HồChí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta.

II/ Cảm Nghĩ Về Cuộc Đời Hoạt Động của Hồ Chí Minh

Ai đã làm nên lịch sử, ai đã đưa đất nước Việt Nam thoát khỏi số phận
thuộc địa, ai đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam đấu tranh giành độc lập tự
do và xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc? Ai được hàng chục triệu
người dân Việt Nam yêu mến và tôn kính? Người mà ai cũng biết,
Người là Hồ Chí Minh
Bác đã từng nói: “Suốt đời tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc
là làm sao cho đất nước ta được độc lập, dân tộc ta được tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”. Tư tưởng của Người thật
cao cả, tấm lòng của Người thật vĩ đại. “Người có tài mà không có đức là
người vô dụng. Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Câu nói ấy của Người vô cùng ý nghĩa. Bác muốn con người phải chăm lo
phát triển cả về tài và đức, phải cố gắng hoàn thiện bản thân. Bản thân Bác
là một người toàn diện cả về đạo đức và tài năng. Nhân cách đạo đức của
Bác vô cùng tốt đẹp và đáng để cho chúng ta học tập và làm theo; tài năng
của người làm cho nhiều người không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới
phải kinh ngạc và khâm phục. Và hẳn câu khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao
động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” bạn đã được nghe nhắc tới nhiều
lần, thế nhưng bạn đã thật sự sống đúng nghĩa và sống tốt chưa, đã thực sự
lao động hăng say, học tập tốt rèn luyện tốt hay chưa? Hãy bắt đầu, từ những
việc làm nhỏ nhất để thấy rằng cuộc sống này có ý nghĩa biết bao và xã hội
này tốt đẹp biết bao.

Trong “Di chúc” Bác nêu ý muốn được hỏa táng và dùng phần tro đặt
tại 3 miền đất nước, qua đó ta thấy được tình cảm của Bác đối với đất nước
quê hương mãi không bao giờ thay đổi. Tuy nhiên hiện tại thi hài Bác vẫn
được lưu giữ tại Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội, và mọi người đều
có thể đến thăm viếng Bác, con cháu đời sau có thể được nhìn ngắm vị cha
già kính yêu của dân tộc.

Tôi bỗng nghĩ tới Lênin - vị lãnh tụ xuất sắc của Liên Xô, thực hiện
thành công cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, và cũng là người mà
Bác rất kính trọng và khâm phục. Thi hài của Lênin cũng được gìn giữ ở
Moskva, nước Nga. Thật đáng tiếc khi Lênin qua đời Bác vẫn chưa một lần
gặp gỡ Lênin. Bác nhận định: “Khi còn sống, Người là người cha, thầy học,
đồng chí và cố vấn của chúng ta ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ
đường cho chúng ta đi tới cách mạng xã hội. Lênin bất diệt sẽ sống mãi
trong sự nghiệp của chúng ta”. Vâng. Lênin đối với nước Nga Xô Viết cũng
như với thế giới là một con người bất tử. Và Bác Hồ, đối với dân tộc Việt
Nam , cũng là một con người bất tử. Người đã dành trọn cuộc đời mình cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Người đã làm tất cả những gì có thể
để người dân đất Việt có thể sống trong hòa bình và hưởng cuộc sống ấm no
hạnh phúc.
Bác ơi! Bác tuy đã mãi mãi ra đi nhưng con nghĩ rằng Người sẽ vẫn
mãi dõi theo nhịp sống của đất nước, sẽ mỉm cười khi thấy đất nước đã độc
lập tự do và đang ngày càng phát triển với những tiến bộ vượt bậc. Bác
không còn nhưng Người vẫn mãi hiện diện tâm trí của mỗi người dân Việt,
vì Người là bất tử, vì tư tưởng đạo đức của Người là bất diệt, giống như câu
nói của Lỗ Tấn: “Người chết chỉ chết thật khi họ chết trong lòng người
sống”. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng
ta.

You might also like