Đây là giai đoạn kinh tế thế giới cũng như kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn bởi cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu, diễn biến trên thị trường rất phức tạp và khó lường, vì thế tùy từng năm mà Chính phủ đặt ra những mục tiêu ưu tiên khác nhau: • Năm 2007, mục tiêu ưu tiên của Việt Nam là kiểm soát lạm phát. NHNN vẫn duy trì chế độ tỷ giá gần như là cố định như trong giai đoạn trước đây. • Năm 2008, sáu tháng đầu năm vẫn là mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trước hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra đối với nền kinh tế thế giới, cùng những tác động bất lợi đến kinh tế trong nước, Chính phủ đã chuyển hướng mục tiêu từ kiểm soát lạm phát sang ngăn ngừa suy giảm kinh tế vào 6 tháng cuối năm. • Năm 2009 và 2010, vẫn tiếp tục mục tiêu phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bền vững. Trong các báo cáo của NHNN trong giai đoạn này, NHNN đều tuyên bố Việt Nam đang theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt có điều tiết. Diễn biến tỷ giá giai đoạn 2007 đến nay Dưới tác động của các công cụ điều hành chính sách tỷ giá của Chỉnh Phủ, giai đoạn năm 2007 đến 2010 chứng kiến sự biến động liên tục của tỷ giá hối đoái. Biểu đồ 2.12: Diễn biến tỷ giá VND/USD từ 1/2007 đến 12/2010 Ng Nguồn: NHNN TP. Hồ Chí Minh - Khác với giai đoạn trước, từ năm 2007 đến nay, biểu đồ tỷ giá VND/USD chuyển biến liên tục và đầy kịch tính. Từ cuối năm 2006, lần đầu tiên trong điều hành tỷ giá, các NHTM niêm yết tỷ giá VND/USD ở mức thấp nhất (giá sàn). Nguyên nhân của hiện tượng này là nguồn cung USD tăng vọt chủ yếu từ nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Tỷ giá giảm làm gia tăng nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu, cán cân thương mại bị thâm hụt. Để cải thiện cán cân thương mại, NHNN buộc phải điều chỉnh tỷ giá. Về lý thuyết, NHNN có thể (1) can thiệp thông qua thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoặc (2) điều chỉnh tỷ giá do NHNN công bố hằng ngày. Thực tế, những ngày đầu năm 2007, NHNN đã tăng cường mua vào USD để gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên mặt trái của việc làm này là chỉ số lạm phát có dấu hiệu gia tăng do cung tiền tăng lớn. Lúc này, NHNN buộc phải sử dụng chính sách can thiệp trung hòa thông qua nghiệp vụ thị trường mở (OMO), nhưng do cầu vốn trên thị trường trong giai đoạn này quá lớn, đấu thầu trái phiếu với mức lãi suất 7%/ năm không thành công như mong đợi. Điều này có nghĩa, NHNN không thể chủ động trong thu hồi tiền từ lưu thông. Nguy cơ lạm phát từ cung tiền tăng cao. Chính vì vậy, cuối tháng 3/2007, NHNN đã chủ động nâng tỷ giá giao dịch bằng cách gia tăng tỷ giá công bố. Đến cuối tháng 4/2007, trước nhu cầu chuyển lợi nhuận về nước của các công ty đầu tư nước ngoài đã làm cầu USD tăng vọt, tỷ giá VND/USD lại chạm trần. Những tháng cuối năm, tỷ giá làm giảm mạnh mà nguyên nhân của nó cũng chính là từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường bất động sản của Việt Nam. Đối phó với áp lực giảm giá USD, NHNN đã nới rộng biên độ xác định tỷ giá kinh doanh từ +/- 0.5% lên +/- 0.75%. Tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng năm 2007 cả năm chỉ tăng 0.08%. - Sang đầu năm 2008, biến động tỷ giá lại tương tự như những tháng đầu năm 2007. Quý 1 năm 2008, trước tình hình VND tăng giá so với USD, NHNN đã phải điều chỉnh giảm tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá vào cuối tháng 3/2008 là 15.960 VND/USD so với mức 16.091 VND/USD vào cùng kỳ tháng 1/2008, đồng thời nâng biên độ giao dịch lên mức ±1%. Tỷ giá giảm một lần nữa tác động xấu đến cán cân thương mại. Sang quý 2 năm 2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng lên 16.541 VND/USD vào cuối tháng 6/2008, tỷ giá giao dịch tại các NHTM lại đụng trần, tỷ giá trên thị trường tự do tăng tới mức 19.400 VND/USD (giữa tháng 6/2008), khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen lên tới trên 2.000 đồng. Những biến động bất lợi từ các yếu tố nội sinh lẫn ngoại sinh đã làm tỷ lệ lạm phát 6 tháng đầu năm 2008 tăng vượt trội, chỉ số CPI có thời điểm trên 20%. Để kiềm chế lạm phát, NHNN buộc phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng tiền trong lưu thông như: phát hành 20.300 tỷ VND trái phiếu bắt buộc, giảm cho vay kinh doanh chứng khoán, kiểm soát cho vay đầu tư bất động sản, điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 14%/ năm xuống còn 7.5%/ năm và buộc các NHTM không được kinh doanh quá 150% lãi suất cơ bản. So với năm 2007, VND bị mất giá 1,68% - Năm 2009, thị trường ngoại tệ diễn biến hết sức căng thẳng. Nguyên nhân của hiện tượng này trước hết là dòng vốn nước ngoài như FDI, FII, ODA, kiều hối đều giảm do nền kinh tế toàn cầu suy giảm vì cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Một nguyên nhân góp phần đáng kể căng thẳng USD trong giai đoạn này là tác động tiêu cực của gói kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ. Với chính sách này, lãi suất vay VND giảm một cách tương đối so với vay USD. Các doanh nghiệp nhập khẩu thay vì vay USD đã tăng cường vay VND sau đó mua USD thanh toán hàng nhập khẩu. Điều này làm tăng cầu vốn bằng VND và làm khan hiếm USD trong nền kinh tế. Trong khi đó, nguồn cung USD từ các doanh nghiệp xuất khẩu lại hạn chế. Do kỳ vọng USD tăng giá nên các nhà xuất khẩu găm giữ USD trên tài khoản. Cung USD giảm, cầu USD tạo áp lực tăng tỷ giá. Trước tình thế này, NHNN quyết định nâng biên độ giao dịch lên mức ±5% (24/3/2009) và sau đó giảm xuống ± 3% (26/11/2009). Tỷ giá BQLNH trong suốt 9 tháng đầu năm 2009 được NHNN giữ gần như là cố định, tỷ giá BQLNH cuối tháng 9/2009 chỉ tăng 0.08% so với cuối tháng 1/2009. Trong khi đó, tỷ giá trên thị trường tự do liên tục tăng mạnh, ba tháng cuối năm 2009, hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do nóng nhất từ trước tới nay, thời điểm giữa tháng 11, tỷ giá được điều chỉnh hàng giờ. Khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen trong thời gian này lớn, trung bình khoảng 1,500 VND/USD. - Năm 2010, USD lại tiếp tục căng thẳng, giá mua bán USD tại các NHTM luôn chạm trần. Sau một thời gian dài không điều chỉnh tỷ giá BQLNH, ngày 11/2/2010, NHNN đã bất ngờ tăng giá USD 3%. Mặc dù tăng tỷ giá nhưng áp lực về cầu USD vẫn không giảm. Tình trạng găm giữ ngoại tệ vẫn không suy giảm. Nhiều NHTM không cân đối được nguồn ngoại tệ đã buộc phải thương lượng giá với bên cung rồi cộng thêm khoản phí vào giá bán USD cho người có nhu cầu mua ngoại tệ. Tỷ giá bị chèn ép. Ngày 17.8.2010, lần thứ hai trong năm, NHNN điều chỉnh USD tăng 2%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 18.544 đã tăng lên 18.932 VND/USD. Các NHTM được phép mua bán USD ở mức giá 19.500 VND/USD, tăng 400VND/USD so với ngày 17.8.2010. Việc tỷ giá được điều chỉnh một cách bất ngờ và nhát ngừng đã thành viên thị trường thêm hoang mang, và không làm “giảm nhiệt” thị trường ngoại tệ. Cuối năm 2010, khi các thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô không khả quan như gia tăng tỷ lệ lạm phát, nợ nược ngoài, nợ công, thâm hụt ngân sách, dự trữ ngoại hối quốc gia suy giảm, cũng như việc tăng giá vàng trên thị trường Thế giới đã tạo áp lực lên tỷ giá. Hiện tượng các doanh nghiệp tự thỏa thuận giá mua bán ngoại tệ vượt mức trần cho phép đã trở thành phổ biến. Tỷ giá thị trường tự do có thời điểm đạt trên 21.500 VND/USD, lệch 2.000 VND/USD so với tỷ giá chính thức. Nhìn chung, từ 2007 đến 2010, thị trường ngoại tệ diễn biến phức tạp, nên mặc dù NHNN đã có những can thiệp mạnh vào tỷ giá, biên độ tỷ giá, lãi suất cũng như nguồn cung ngoại tệ nhưng chỉ có thể kiềm chế phần nào sức nóng của thị trường, vấn đề căng thẳng cung cầu trên thị trường ngoại tệ vẫn thực sự chưa được giải quyết. Bởi vì: + Các biện pháp sử dụng để điều hành chính sách tỷ giá vẫn chủ yếu là các biện pháp hành chính, sự can thiệp trực tiếp vào cung ngoại tệ của NHNN còn nhiều hạn chế. + Các công cụ được sử dụng đồng loạt và có hỗ trợ cho nhau để tác động lên thị trường nhưng mang tính bị động. + NHNN đã chậm trễ trong việc điều chỉnh tỷ giá cho phù hợp với tình hình thực tế mà luôn có khuynh hướng cố định, giữ mức tỷ giá bằng việc chỉ thực hiện những điều chỉnh rất nhỏ. NHNN chỉ điều chỉnh mạnh vào những lúc thị trường thật sự nóng. Việc điều hành chính sách tỷ giá trong giai đoạn này dường như là sự chạy theo diễn biến của thị trường chứ không phải hướng thị trường theo chính sách. Tỷ giá và hoạt động quản lý ngoại hối -Điểm nổi bật về quản lí ngoại hối trong giai đoạn này là hình thành sàn giao dịch vàng (NHTMCP Á Châu khánh thành Sàn giao dịch đầu tiên tại tại Việt Nam vào tháng 5/2007). Trong vòng 2 năm sau, cả nước có khoảng 20 sàn giao dịch vàng và 11 NHTM cùng 8 doanh nghiệp được phép kinh doanh vàng trên tài khoản trên thị trường Thế giới. Tuy nhiên sự nở rộ của sàn vàng này không đem lại nhiều lợi ích như mong đợi vì người tâm lí chuộng vàng và mức độ đô la hóa ở VN còn cao. Điển hình là hoạt động đầu cơ, cầu vàng tăng mạnh giá vàng tăng áp lực cho nhập khẩu ảnh hưởng đến việc điều hành tỷ giá, Để chẩn chỉnh việc này NHNN đã đóng cửa sàn vàng và bãi bỏ các giao dịch trên tài khoản ở nước ngoài vào giữa năm 2010. Cuối năm 2010 khi gía vàng thế giới tăng cao cộng với sự không khả quan của kinh tế vĩ mô ( lạm phát 11.75%, thâm hụt ngân sách), cầu vàng tăng cao, giá vàng đạt đỉnh 38.5 triệu/lượng. NHNN đã buộc cấp phép nhập khẩu vàng, giảm thuế nhập khẩu vàng từ 1% xuống còn 0,5% từ 12/11/2010 đồng thời tăng thuế xuất khẩu vàng từ 0% lên 1% từ 1/1/2011 Hoạt động mua bán trên thị trường chợ đen vẫn phát triển do do độ lệch tỷ giá VND/USD giữa thị trường chính thức và thị trường chợ đen khá lớn. Ngoài ra vấn đề đô la hóa của nền kinh tế cũng đáng lưu tâm người dân có nhu cầu tích lũy tài sản, thanh toán bằng USD. Biểu đồ 2.18:Tỷ lệ tiển gởi ngoại tệ trên M2 (FCD/M2) của Việt Nam từ 2006 - 2010 Nguồn: www.imf.org/external/country/VNM/rr/index.htm Báo cáo của IMF; NHNN Những chuyển biến trong cách điều hành tỷ giá của NHNN năm 2011 Ngày 11/2 Chính Phủ ra quyết định điều chỉnh tỷ giá. Đáng chú ý có những điểm sau: -Về thời điểm: công bố cuối tuần, ko bất ngờ vì đã được dự báo trước. -Về mức điều chỉnh, lớn và gây sốc nhất trong suốt hơn 1 năm qua, với giá USD trong giao dịch liên ngân hàng đã tăng 1.700 đồng, từ mức 18.932 VND lên mức 20.693 VND/USD. Như vậy, trong vòng đúng 1 năm, NHNN đã chính thức điều chỉnh tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng 3 lần với mức tăng tổng cộng 14,46%. -Về biên độ: tiếp tục thu hẹp, từ 5% nay giảm còn 1%. Như vậy, đợt điều chỉnh tỷ giá lần này của NHNN có 3 điểm mới là tối ưu về lựa chọn thời điểm, tối đa về mức độ giảm giá nội tệ và tối thiểu về thu hẹp biên độ giao dịch. Đồng thời, NHNN cũng cam kết trong thời gian tới sẽ điều hành tỷ giá bình quân liên ngân hàng tương đối linh hoạt, chủ động, phù hợp với tình hình cung cầu ngoại tệ, bảo đảm tăng tính thanh khoản của thị trường, góp phần kiềm chế nhập siêu và hỗ trợ cho việc thực thi chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt hơn… Tất cả những điều đó đã cho thấy những chuyển động sâu sắc cả về nhận thức, cũng như cách thức điều hành tỷ giá của NHNN. Những lợi ích thấy rõ Về tổng quát và lâu dài, việc điều chỉnh tỷ giá này có tác dụng tốt nhằm hạn chế, giải toả tình trạng găm giữ cũng như kỳ vọng đầu cơ, cân đối theo nguyên tắc thị trường cung-cầu về ngoại tệ, kích thích xuất khẩu trong nước, từ đó góp phần kiềm chế vững chắc lạm phát, giúp tăng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam, hạn chế nhập siêu, nhất là những sản phẩm trong nước có thể sản xuất thay thế. Việc tiền đồng giảm giá khiến các nhà xuất khẩu sẽ được lợi, còn hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên đắt hơn. Đặc biệt, sự điều chỉnh tỷ giá đã thu hẹp chênh lệch tỷ giá chính thức với tỷ giá trên thị trường tự do, sẽ giúp cải thiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam. Điều này còn giúp tăng cường tập trung và quản lý kinh doanh ngoại tệ trên thị trường có tổ chức. Đồng thời, nó cũng giúp cho các doanh nghiệp được tính đúng, tính đủ chi phí vốn ngoại tệ trong bảng hạch toán kinh doanh của mình, mà trước đó thường phải che giấu, hợp lý hóa các khoản mua USD trên thị trường tự do với giá cao hơn giá chính thức. Nói cách khác, tình trạng chênh lệch cao giữa tỷ giá chính thức và không chính thức tồn tại kéo dài trong nhiều tháng qua gây căng thẳng giả tạo cung-cầu trên thị trường ngoại tệ, cũng như gây thiệt hại “kép” cho doanh nghiệp và nhiều hệ lụy tiêu cực khác trong việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng sẽ dần được khắc phục. Trong thời gian tới, cần điều chỉnh tỷ giá có lên, có xuống, thời gian ngắn và nhanh hơn, với mức điều chỉnh thấp hơn và biên độ giao dịch có thể rộng hơn…như thế sẽ bớt tạo sốc tỷ giá và những hệ lụy mặt trái của điều chỉnh tỷ giá hơn.