You are on page 1of 21

Trao Duyen- Truyen Kieu

Xuất xứ

Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 732 đến câu 756 trong Truyện Kiều, khởi đầu bi kịch cho quãng
đời 15 năm trời lưu lạc của Thuý Kiều.

Đại ý

Kiều trao duyên cho Thuý Vân, gửi lại em gái những kỉ vật của mối tình chung. Nàng đau khổ
khóc than cho mối tình đầu tan vỡ, cay đắng cảm thấy mình là con người phụ bạc.

Phân tích

1. Kiều cầu khẩn, van lạy em gái, cậy nhờ em gái "chịu lời", nhận lời chịu uỷ thác một việc hệ
trọng. Em gái đã trở thành ân nhân của chị gái. Kiều đã lấy "lễ" đối xử với em: "Ngồi lên cho
chị lạy rồi sẽ thưa". "Lạy rồi sẽ thưa" - cử chỉ trang trọng, trang nghiêm.

Kiều thổ lộ với em mối tình đẹp với chàng Kim: "Chén thề": chén rượu hai người cùng uống
dưới trăng đêm tình tự thề nguyền: "Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương". "Quạt ước":
chiếc quạt mà Thuý Kiều đã tặng Kim Trọng. Đó là một mối tình đã thề nguyền thuỷ chung và
đẹp.

Trước gia biến "sóng gió bất kỳ", giữa tình và hiếu "khôn lẽ hai bề vẹn hai". Chị phải đặt chữ
hiếu lên chữ tình. Chị phải trao duyên cho em bởi lẽ em là "tình máu mủ" của chị, hơn nữa
cuộc đời em còn trẻ còn chứa chan hạnh phúc:

"Ngày xuân em hãy còn dài,


Xót tình máu mủ thay lời nước non".

"Lời nước non" là lời thề chỉ non thề biển; son sắc thuỷ chung. "Thay lời nước non" nghĩa là
thay chị, em lấy chàng Kim trả nghĩa cho chàng.

Nửa năm sau, chàng Kim trở lại vườn Thuý..., tìm đến nơi "di trú" của gia đình người yêu.
Vương Ông khóc than nhắc lại lời Kiều trước lúc ra đi:

"Dùng dằng khi bước chân ra


Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần.
Trót lời nặng với lang quân,
Mượn con em nó Thuý Vân thay lời.
Gọi là trả chút nghĩa người
Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên..."

Qua đó, ta thấy tấm lòng quý hoá thơm thảo của Thuý Kiều. Nàng bán mình để chuộc cha, để
cứu gia đình. Tình yêu dù tan vỡ nhưng nàng vẫn giữ lấy cái "nghĩa" với chàng Kim, "cậy
em"... "thay lời nước non". Chị có trải qua nhiều đau khổ "thịt nát xương mòn..." vẫn thơm lây
về nghĩa cử chỉ của em.

2. Kiều trao lại kỉ vật thiêng liêng cho em. Trao duyên rồi vẫn còn vấn vương, đó là bi kịch tình
yêu khi Kiều nói:

"Chiếc thoa với bức tờ mây,


Duyên này thì giữ, vật này của chung."

Đã trao duyên rồi, sao lại nói "vật này của chung?" Đó là quy luật của tình yêu, là nỗi đau của
Kiều "con tằm đến thác vẫn còn vương tơ".

3. Lời than của Kiều não nùng thê thiết như lời trăng trối. Kiều nói đến "hồn", đến "dạ đài", nói
đến một ngày mai bi thảm từ cõi âm trở về:

"Mai sau dù có bao giờ


Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đến nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan".

Tình yêu tan vỡ, Kiều xem như mình đã "chết", chết trong đau khổ. Lời than của Kiều thấm
đầy lệ.

4. Kiều thầm nhắn gửi người yêu: Tình yêu đã tan vỡ, đã "trâm gãy bình tan". Đau đớn khôn
xiết kể cho "tơ duyên ngắn ngủi", cho "phận bạc"... Kiều gửi lạy tình quân.... Kiều cất tiếng gọi
người yêu rồi ngất đi:

"Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!


Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"...

Trao duyên cho em để rồi ra đi mặc cho sỗ phận "nước chảy hoa trôi lỡ làng". Kiều ngỡ rằng
trả được nghĩa chàng Kim sẽ bớt phần đau khổ. Trái lại, trao duyên cho em rồi, Kiều lại càng
vô cùng đau khổ. Nguyễn Du với trái tim nhân đạo mênh mông, ông đã ghi lại những biến thái
tinh tế trong tâm hồn Kiều, những đau đớn ứa máu của người con gái khi mối tình đầu tan vỡ.
Ta cảm thấy ông là người chứng kiến lễ trao duyên. Đây là một trong những đoạn thơ xúc
động nhất trong "Truyện Kiều", gồm những "câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình".

TRAO DUYÊN
(Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

“Đoạn trích “Trao duyên” là những dòng thơ thể hiện bi kịch tình yêu đau đớn bậc
nhất trong Truyện Kiều”.Trong đêm cuối cùng trước khi theo Mã Giám Sinh, Kiều vẫn
canh cánh món nợ tình với Kim Trọng: “Nỗi riêng riêng những bàng hoàng. Dầu
chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn.”. Chợt Thuý Vân tỉnh giấc, ghé đến ân cần hỏi
han. Kiều chợt nảy ra ý định trao lại mối tình đầu cho em mình để trả nghĩa Kim
Trọng. Đoạn trích đã tái hiện lại câu chuyện đặc biệt đó.

I/ Tiểu dẫn

-Vị trí đoạn trích: câu 723 tới 756. So với Kim Vân Kiều truyện, vị trí đoạn trích đã
thay đổi. KVKT: trao duyên trước khi bán mình. Nguyễn Du đã tinh tế đưa trao
duyên sau việc bán mình đã rồi, không còn níu kéo được tình yêu với Kim Trọng nữa.
Do vậy, tâm trạng Thuý Kiều được miêu tả thực hơn, người hơn.

-ý nghĩa của việc trao duyên: “duyên” là tình yêu của Thuý Kiều và Kim Trọng, “trao
duyên” là việc nhờ Thuý Vân lấy Kim Trọng. Trao duyênthuộc phạm trù văn hoá
trung đại. Thời trung đại, tình phải gắn với nghĩa vụ, nếu một người làm người kia
duyên lỡ dở thì bị coi là phụ bạc, do vậy phải tìm mọi cách để trả nghĩa người
yêu. Trao duyên là một cách. Đây là điều hoàn toàn bình thường trong thời đại đó .

II/ Văn bản


1. Bố cục: 3 phần

• 12 câu đầu: Kiều tìm cách thuyết phục, trao duyên cho Thuý Vân.
• 14 câu tiếp: Kiều trao kỉ vật và dặn dò em.
8 câu cuối: Lời nói với Kim Trọng và bản thân .

2. Tìm hiểu văn bản

2.1. 12 câu đầu

a. 4 câu đầu: Lời mở đầu.

+Hành động: lạy Thuý Vân trước khi nói: “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Hành
động đó tỏ rõ sự tôn trọng, nhún mình trước T.Vân. Trong hoàn cảnh này, Kiều ý
thức rõ sự khó xử và thiệt thòi của Vân.

+Lời nói: cậy, chịu (HS thử thay thế 2 từ “cậy”, “chịu” bằng các từ đồng nghĩa khác
rồi nhận xét sắc thái khác nhau giữa từ thay thế và từ gốc. VD: thay “cậy”: nhờ, xin,
giúp; thay “chịu”: nghe, hiểu.)

Kiều không nói “nhờ em” mà dùng cậy. “Cậy” là từ phối hợp nhiều sắc thái: vừa nhờ,
vừa đặt niềm tin. Kiều đang đặt gánh nặng nhờ vả, mong Vân sẽ giúp mình. Nhưng
không phải Kiều không rõ sự thiệt thòi của Vân. Qua từ “chịu”, ta thấy Kiều ý thức rõ
Vân đang mang gánh nặng, vì nể mình mà phải chịu đựng.

Kiều đã sử dụng những từ ngữ, cách nói nhẹ nhàng, đầy sức nặng của sự tin tưởng
buộc Vân không thể từ chối.

Khi làm Vân chịu nghe mình nói, Kiều mới bắt đầu hé mở một chút về việc trao
duyên: “Giữa đường đứt gánh tương tư/ Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”. Nói về
việc trao duyên, Kiều dùng từ ngữ trang trọng để nâng cao tầm quan trọng của vấn
đề: đứt gánh tương tư, keo loan, tơ thừa. Từ “mặc em” đã đề cao vai trò của Thuý
Vân, cho thấy Kiều đã phó mặc mọi việc vào tay em mình. Với hành động và cách nói
này, Kiều đã đặt Vân vào tình huống không thể từ chối được.

b. 8 câu sau

- Kiều đã nhắc lại hồi ức tình yêu. Đó là kỉ niệm của những lần hẹn ước: “Kể từ khi
gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề/ Sự đâu sóng gió bất kì,/ Hiếu
tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Việc nhắc lại kỉ niệm chứng tỏ hồi ức mối tình với Kim
Trọng đã in sâu vào tâm trí nàng như máu thịt. Nó chứng tỏ tình yêu sâu sắc và
mãnh liệt của Kiều. Nhưng tình yêu đó tan vỡ bất ngờ để lại nỗi đau xót xa. Bốn câu
thơ kể kỉ niệm là bốn câu dùng lí lẽ tác động thuyết phục Vân nhận lời.

- Tác động vào lí trí chưa đủ, Kiều còn viện tới cả tình cảm chị em và tình cảnh đau
khổ của mình: “Ngày xuân...thay lời nước non.”. Kiều đưa tình cảm lên bàn cân để
đo đếm với việc trao duyên. Một câu thơ chia làm 2 vế ngang bằng: “xót tình máu
mủ”= “thay lời nước non”. Kiều đề cao tình cảm ruột thịt giữa mình và Vân, coi đó là
sức mạnh có thể thay đổi duyên số. Sợ em từ chối, Kiều lấy cả cái chết của mình đặt
lên bàn cân: “Chị dù thịt nát xương mòn...thơm lây.” Vân không thể không động lòng
trước điều này. Kiều còn rất khéo léo khi dùng từ “thơm lây” thay cho “vui lây” để
gián tiếp ca ngợi Vân, coi việc Vân nhận lời là biển hiện của tấm lòng nhân hậu, thơm
thảo.

- >Cách nói của Kiều vừa nêu lí lẽ đánh vào nhận thức của Vân vừa dựa vào tình
cảm chị em để thuyết phục Vân. Cách nói ấy thể hiện sự thông minh, khéo léo, tế
nhị của Kiều.

Nguyễn Du đã rất thành công trong việc kết hợp hài hoà giữa cách nói trang nhã của
văn chương quý tộc (điển cố) với cách nói giản dị của văn học dân gian (thành ngữ).

2.2. 14 câu tiếp

a. 6 câu đầu (13 – 17)

- Kỉ vật: “Chiếc vành với bức tờ mây”, “Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
-> kỉ vật in sâu mối tình Kim – Kiều, được Kiều nâng niu, giữ gìn.

- Kiều muốn kỉ vật là của chung. Hoài Thanh đã nhận xét: “Của chung là của ai? Bao
nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ ấy!”

-> Kiều đang rơi vào mâu thuẫn giữa lời nói và hành động, tình cảm và lí trí: trao
duyên nhưng không trao tình, trao kỉ vật nhưng không trao những kỉ niệm. Kiều vẫn
muốn mình xuất hiện trong mối duyên phận của Thuý Vân và Kim Trọng. Kiều muốn
dù Thuý Vân và Kim Trọng lấy nhau song vẫn không quên Kiều. Dù Kiều không có
mặt nhưng những kỉ niệm vẫn được nhắc lại.

Đây không đơn thuần là trao kỉ vật mà thực chất Kiều đang phải vĩnh biệt mối tình
đầu đẹp đẽ. Mâu thuẫn này cho thấy lòng nàng đang đau đớn, giằng xé, luyến tiếc,
xót xa.

b. 8 câu tiếp (18 – 26)

Kiều đã nghĩ tới cái chết nhưng dù vậy nàng vẫn mong gặp lại KT. K đã dặn dò kĩ
Vân cách gặp mặt sau khi nàng chết. “Trông ra ngọn cỏ lá cây...thác oan.” Đoạn thơ
sử dụng nhiều hình ảnh tượng trưng cùng những thành ngữ tạo tính hàm súc để nói
tới cái chết. Đó là cái chết còn mang nỗi trăn trở vì tình yêu, vì mâu thuẫn giữa lí trí
và tình cảm. Nó cho thấy Kiều thấy cuộc đời vô nghĩa khi mất tình yêu nhưng nàng
vẫn muốn gặp mặt Kim Trọng, vẫn khát khao được sum họp, đoàn tụ.

-> Bi kịch của Kiều ngày càng không lối thoát. Khi cậy nhờ Vân, Kiều còn minh mẫn
nhưng khi trao kỉ vật, nàng đã nghĩ quẩn tới cái chết và rơi vào trạng thái nửa tỉnh
nửa mơ. Qua đây, ta thấy những phẩm chất đáng quý của Kiều: đức hi sinh, lòng vị
tha, sự chung thuỷ. Kiều không chỉ sống cho riêng mình mà còn sống vì người yêu.

Việc miêu tả thành công, tinh tế những mâu thuẫn nội tâm này ở Kiều chứng tỏ bút
lực của Nguyễn Du. Nhà thơ không chỉ miêu tả mà ngòi bút tự sự - trữ tình ấy còn
như đang phân tích, khơi dòng ý thức nhân vật.

2.2.3. 8 câu còn lại (27 – 34)

- Kiều chuyển từ đối thoại với Vân sang độc thoại với chính bản thân mình. Nó mở
đầu bằng hai câu thơ cảm thán : “Bây giờ trâm gãy gương tan./ Kể làm sao xiết
muôn vàn ái ân!”. Đang nói một mình, Kiều quay sang như đang chuyện trò với
người yêu. N.Du đã dùng nhiều trợ từ bày tỏ tình cảm làm lời than của Kiều trở nên
da diết, đau đớn. Từng chữ thấm đầy nước mắt của Thuý Kiều.

Nguyễn Du cho Kiều chuyển đối tượng giao tiếp như vậy để nàng bộc lộ hết nỗi lòng
của mình. Từ đó bộc lộ phẩm chất cao đẹp của nàng đồng thời đưa cảm xúc thơ tới
cao trào.

- “Trâm gãy gương tan”, “ tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa
trôi” -> Nàng rơi vào tâm trạng tột cùng đau đớn khi ý thức rõ về số phận đau khổ
và tình yêu tan vỡ của mình.

Tuy vậy, nàng vẫn hướng về KT, xin Kim Trọng tha thứ cho mình. “Trăm nghìn gửi
lạy tình quân”. Cách gọi “tình quân” chứng tỏ tình yêungày càng thiết tha. Cái lạy ở
đầu đoạn thuần thể hiện sự biết ơn. Còn cái lạy trăm nghìn lần này không chỉ thể
hiện sự biết ơn mà còn là cái lạy vĩnh biệt, tức tưởi, nghẹn ngào.

Hai câu thơ cuối là tiếng thét, tiếng khóc nức nở tuyệt vọng của Kiều: “Ôi Kim lang!
Hỡi Kim lang!/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”. N. Du đã khéo léo kết hợp hai
thán từ chỉ sự đau đớn “ôi”, “hỡi”; điệp lại tên Kim Trọng hai lần ; hai dấu chấm than
ngăn cách vế câu cùng sự thay đổi nhịp thơ sang 3/3 để nhấn mạnh nỗi đau nhân đôi
của Kiều. Kiều đã nhận tất cả lỗi về mình. Từ chỗ tự nhận mình là người mệnh bạc,
giờ đây, Kiều tự nhận mình là người phụ bạc, người có lỗi lớn với Kim Trọng. Sự dang
dở của tình yêu là do tác động của hoàn cảnh, không phải do nàng. Nhưng Kiều vẫn
nhận tất cả lỗi về mình

Kiều là cô gái giàu đức hi sinh, lòng vị tha, luôn vì hạnh phúc của người mình yêu.

III/ Tổng kết

1. Nội dung:

-Bi kịch tình yêu:


Bi kịch 1: yêu tha thiết song phải tuân theo chữ hiếu mà bỏ tình yêu.
Bi kịch 2: trao duyên cho em gái song vẫn không nguôi day dứt về tình yêu.
- Kiều có thân phận đau khổ về tinh thần. Song nàng có nhân cách cao đẹp của con
người chung thuỷ, luôn biết hi sinh vì người khác.

2. Nghệ thuật:

Nghệ thuật miêu tả nội tâm chân thực, lôgic

(Sưu tầm)
"Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Nỗi thương mình của truyện Kiều Nguyễn Du

Nguyễn Du (1765 – 1820) quê ở Thăng Long, tên chữ Tố Như, hiệu là Thanh
Hiên. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc và sống trong xã hội phong kiến –
một xã hội thối nát, suy thoái. Chính vì thế mà ông có dịp hiểu biết về lối sống
phong lưu xa hoa của giới quý tộc phong kiến và có điều kiện dùi mài kinh sử.
Ông được tiếp thu truyền thống học tập và sáng tác của cả gia đình, tạo cho ông
vốn học vấn Nho học uyên thâm, lối sống tao nhã, khiến ông hiễu rõ về tầng lớp
phong kiến . ‘’Truyện Kiều’’ còn có tên Đoạn Trường Tân Thanh là một trong
những sáng tác chính của ông. Bên cạnh đó ‘’Nỗi Thương Mình’’ là một đoạn
trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc
biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn
hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi
cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy
Kiều ở chốn lầu xanh.

Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là
Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao
sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám
Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ
sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không
thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời.
Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái
làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ
lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những nàng vô cùng
buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng
nhan.Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của
cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm dầy đau đớn : “Khi
tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự
nối kết, ngỗn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình
xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ
cay đắng khi nàng sánh với quá khứ.

Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của
Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:
“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và
thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật
sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng.
Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà
nàng không thể nào nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày
Kiêu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ
ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh , nơi mà Tú Bà ăn nên làm
ra. Bằng những hình ảnh ẩn dụ : bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười
suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường
Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu ND cho thấy tình cảnh
của TK tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực
chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày K phải làm công việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại
khách đến mua vui. Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ
trêu của TK. Bút pháp ước lệ giúp ND không tránh né số phận thực tế của TK mà
vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng,
cảm trhông của tác giả đối với nhân vật.

ND đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã:
một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên.
Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn
thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ
nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân
phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng
một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo
điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn.
Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật,
mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò
đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông,
trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.

Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ,
họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường , trớ trêu thay Kiều
lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ
cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu
tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục , nỗi ê chề , sự ép buộc ,
đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều
mới có một khoẳng khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn
cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian
thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu
thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách
ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn TK. Nàng bàng hoàng
đau xót trước thực tại phủ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau
đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình. Giật mình ko chỉ là hành
động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi
trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong mà nếu ko có thì Kiều
cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì
nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh,
sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu
xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại ba
lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của TK ý thức được về
phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền
sống của con người trong lịch sử phong kiến mà ND muốn truyền tải đến người
đọc.
Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nổi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp
theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”
Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái
nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đế
mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp
nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá
trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai
tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên cảm giác đột
ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì
điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào
nỗi xót xa, tê tái của Kiều.
Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những
tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực tại phủ phàng lại hiện lên
rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá
khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực
trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa
đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá
nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là
nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức
độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi
tu từ ở đây đc ND sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước
thực tại phủ phàng, tàn nhẫn.

Hai câu thơi day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc hơn
người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả:
“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”
Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản
thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn buôn tất cả
và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách làng chơi (số nhìu) với chính
mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ xuân ở đây ý
chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với TK sống làm vợ khắp
người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ
trọi và cô đơn của cuộc đời người kỉ nữ mua vui. Từ mặc ở đây lại chỉ sự bất lực,
mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của TK nhưng
không làm sao khác được.
“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”

Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong – hoa – tuyết – nguyệt,
cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe
sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất
thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và
trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm – kì – thi – họa càng tô điểm
cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên
những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa
mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái
bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ
vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thàn hai
nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để
xót xa mỗi lúc canh tàn.
Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái.. Khi gió tựa hoa kề, khi
cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý
thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ
bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ
càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt
Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật :
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Bằng sự thông cảm lạ lung, và bằng tài năng kì diệu, ND đã viết nên hai câu thơ
hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ
thể, thơ ND đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói
hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết
nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí.
Nỗi buồn của TK cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ
khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức
nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi long, cảm xúc của TK,
khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đề trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu
tang thương.

“Vui là vui gượng kẻo là


Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của TK được ND thể hiện một cách tinh tế, độc đáo
mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được.
Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc
không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp
khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả
lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể
tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng
tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời,
đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà”
nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một
người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có
những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy sót xa cay đắng cho thấy phẩm
chất tốt đẹp của TK giàu long tự trọng coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc
sống bình yên, trong sạch.
Đoạn trích Nỗi Thương Mình thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính cách của TK.
Thể hiện tập trung tư tưỡng nhân văn của tác giả: cảm thương trước bi kịch của K,
khẳng định nhân cách đẹp đẹ của nàng và khẳng định sự ý thức về nhân phẩm và
sự ý thức cá nhân.Thể hiện nỗi thương mình của TK, ND cũng thể hiện được nghệ
thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật
như hòa vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả-nhân vật- người đọc.

TINH CANH LE LOI CUA NGUOI CHINH PHU


Tương đồng với Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều trên phương diện khẳng
định những giá trị nhân văn và phản ánh số phận người phụ nữ cũng như khả năng
vận dụng nhuần nhuyễn thể loại ngâm khúc và thể thơ song thất lục bát, song bản diễn
Nôm Chinh phụ ngâm lại có phần giản lược những suy tưởng triết lý cao siêu và
hướng nhiều hơn tới cuộc sống đời thường. Tâm tình người chinh phụ tiêu biểu cho
nỗi nhớ mong chồng, khát khao cuộc sống gia đình bình dị và ước mong về một ngày
đoàn tụ vợ chồng. Đặt trong tương quan chung, ước mơ của người chinh phụ cũng
hiền hoà, dung dị, gần gũi hơn so với người cung nữ. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của
người chinh phụ cho thấy rõ tâm trạng cô đơn của người vợ nhớ chồng ra trận và nghệ
thuật miêu tả tâm trạng bậc thầy của hai tác giả Đặng - Đoàn, trong đó phải kể đến
nghệ thuật diễn Nôm đặc biệt xuất sắc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.
Tâm trạng nổi bật trong đoạn trích gồm 36 câu thơ trong tổng số 408 câu của toàn tác
phẩm là sự thể hiện nỗi đơn côi, trống vắng của người chinh phụ. Trước hết đó là sự ý
thức về con người cá nhân chiếu ứng trong các quan hệ với cảnh vật và con người, đặt
trong tương quan với thời gian và không gian. Nhân vật chủ thể trữ tình - người chinh
phụ xuất hiện như có như không, vừa tỉnh thức trong từng bước đi, từng động tác
buông thả tấm rèm nhưng liền đó lại quên tất thảy, thờ ơ với tất thảy:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Trong khổ thơ mở đầu (từ câu 1 - 16) có hai hình ảnh quan trọng được tô đậm, nhấn
mạnh trở đi trở lại là tấm rèm và bóng đèn. Người chinh phụ "ngồi rèm thưa" mà
trông ra ngoài ngóng đợi tin chồng nhưng chẳng thấy đâu. Cuộc sống nơi "trong rèm"
chính là sự bó buộc, trói buộc trong một không gian chật hẹp, tù đọng. Câu thơ
chuyển tiếp Trong rèm dường đã có đèn biết chăng càng tôn thêm vẻ vắng lặng, đơn
côi, một mình chinh phụ đối diện với bóng mình, đối diện với người bạn vô tri vô giác
Đèn có biết dường bằng chẳng biết và đi đến kết cuộc Hoa đèn kia với bóng người
khá thương... Rõ ràng cuộc đời người chinh phụ hầu như đã mất hết sức sống, con
người đã bị "vật hoá" tựa như tàn đèn cháy đỏ kết lại đầu sợi bấc, con người bây giờ
chỉ còn là "bóng người" trống trải, vừa đối xứng vừa đồng dạng và là hiện thân của
chính kiếp hoa đèn tàn lụi. Ngay đến cảnh vật và sự sống bên ngoài cũng nhuốm vẻ
tang thương, vô cảm, chập chờn bất định, không dễ nắm bắt với những "gà eo óc gáy
sương", "hoè phất phơ rủ bóng"... Bên cạnh đó, dòng thời gian tâm lý cũng chuyển
hoá thành sự đợi chờ mòn mỏi, thời gian đầy ắp tâm trạng đơn côi nhưng không có sự
sống, không sự kiện, không thấy đâu bóng dáng hoạt động của con người:
Khắc chờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Trong sự chờ đợi, người chinh phụ thấy một khoảng thời gian ngắn mà dài như cả
năm trường, mối sầu trào dâng như biển lớn mênh mang. Những trạng từ "đằng đẵng",
"dằng dặc" tạo nên âm điệu buồn thương, ngân xa như tiếng thở dài của người thiếu
phụ đăm đắm chờ chồng. Rút cuộc, hình bóng người chinh phụ có xuất hiện trở lại thì
trước sau vẫn là nỗi chán chường, buông xuôi, vui gượng "Hương gượng đốt",
"Gương gượng soi", "Sắt cầm gượng gảy" mà không sao che đậy nổi một hiện thực
bất như ý "hồn đà mê mải", "lệ lại châu chan" và "Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại
chùng"...
đoạn thơ tiếp theo (câu 17 - 28) là sự phản ánh nỗi lòng chinh phụ khi nhớ về người
chồng. Có điều, nếu hình ảnh người chồng hiện diện như một ý niệm xa mờ thì bản
thân nỗi nhớ mong cũng chỉ như một ảo giác. Sự gặp gỡ là điều không thể bởi tin tức
mịt mờ, bởi khoảng cách về không gian, về địa danh có tính phiếm chỉ, biểu tượng
của miền "non Yên", "đường lên bằng trời", "xa vời khôn thấu"... Các từ "thăm thẳm",
"đau đáu", "thiết tha" gợi nhớ gợi thương, day đi dứt lại trong tâm can người chinh
phụ. Sắc thái nỗi nhớ tăng tiến, rộng mở từ những suy tưởng dõi theo người chồng nơi
phương xa đến sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa, đắng cay nối dài bất tận:
- Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
- Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
. Tất cả chỉ đơn thuần là cảnh vật và vì thế càng tôn thêm vẻ lạnh lùng, đối lập với tâm
tư con người và hình ảnh nhân vật chinh phụ đang khuất lấp, ẩn chìm đâu đó:
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt ***g hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!
Đến hai câu thơ cuối bắt đầu hé mở tâm trạng so sánh. Người chinh phụ nhìn cảnh hoa
nguyệt mà trạnh lòng bâng khuâng xót xa cho thân phận mình, tủi phận mình lẻ loi
trước cảnh nguyệt hoa. Từ đây có thể nói tới những dự cảm về ý thức cá nhân của
người chinh phụ và xa gần liên hệ tới quyền sống, quyền hưởng niềm vui, hạnh phúc
lứa đôi giữa chốn nhân gian.
Ngay trong từng câu thơ cũng xuất hiện những tiểu đối tạo nên tính chất hô ứng, đăng
đối, tạo ấn tượng và sự nhấn mạnh:
- Dây uyên kinh đứt/ phím loan ngại chùng
- Cành cây sương đượm/ tiếng trùng mưa phun
- Sâu tường kêu vắng/ chuông chùa nện khơi
Thêm nữa, tác phẩm diễn Nôm bên cạnh việc giữ lại và Việt hoá được cả hệ thống
điển tích và từ Hán Việt (non Yên, sắt cầm, dây uyên, phím loan, gió đông...) thì
nhiều ý tứ trong nguyên tác đã được chuyển dịch, nâng cấp thành lời thơ thật sự giàu
chất thơ. Chẳng hạn, với câu Sầu tự hải - Khắc như niên (nguyên ý nghĩa chỉ là Sầu
tựa biển - Khắc như năm) đã được chuyển dịch thành câu thơ mang sắc thái nội tâm
hoá, giàu cảm xúc, khơi gợi âm điệu cảm thương:
Khắc chờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Đoạn trích nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ tác phẩm
Chinh phụ ngâm là tiếng kêu thương của người phụ nữ chờ chồng, nhớ thương người
chồng chinh chiến phương xa. Tình cảnh lẻ loi đó được chiếu ứng trong sự cảm nhận
về thời gian đợi chờ đằng đẵng, không gian trống vắng vây bủa bốn bề và cuộc sống
hoá thành vô vị, mất hết sinh khí. Trên tất cả là tâm trạng cô đơn và sự ý thức về thảm
trạng mất đi niềm tin, đánh mất niềm vui sống và mối liên hệ gắn bó với cuộc đời
rộng lớn. Trạng thái tình cảm đó một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến tranh
phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận và hệ quả tiếp theo là bao nhiêu số phận
chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác xác nhận nhu cầu nói lên tiếng nói
tình cảm và sự ý thức về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ
nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này.

Chinh Phụ Ngâm

Ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVIII với nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần Côn, liền
sau đó được Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn nôm (dịch thành quốc ngữ)(1) Chinh
Phụ Ngâm đã mau ng đi vào lòng mọi tầng lớp quần chúng.

Trải qua hơn hai thế kỉ rưỡi cho đến nay, Chinh Phụ Ngâm luôn giữ nguyên giá trị của
một viên ngọc văn chương sáng ngời, một sản phẩm đáng tự hào của xứ sở vốn "nổi
tiếng thi thư"(2)

Nguyên tác Chinh Phụ Ngâm bằng Hán văn của Đặng Trần Côn là một tác phẩm văn
chương đặc sắc. Không những giới nho sĩ Việt Nam mà cả các bậc văn nhân Trung
Hoa, đều yêu thích và khâm phục tác phẩm này. Bằng văn tài xuất sắc, Đặng Trần
Côn sử dụng thể thơ tự do như "cổ phong" trong "Nhạc phủ" hoặc thể"từ" mà Khuất
Nguyên và Lí Bạch từng sử dụng, để viết nên một tác phẩm trữ tình hiếm có, mô tả
tâm sự sâu xa của một thiếu phụ vắng chồng.

Văn chương trong Chinh Phụ Ngâm vô cùng diễm lệ, chứa chan tình cảm, uyển
chuyển và đầy nhạc điệu. Trong số thi phẩm Hán văn của nền văn học nước ta, hiếm
có tác phẩm sánh ngang được với Chinh Phụ Ngâm .

Với Chinh Phụ Ngâm bằng quốc ngữ, xưa nay nhiều bậc thức giả uyên bác đã phân
tích và đánh giá về nhiều phương diện. Vậy mà ngày nay những khám phá mới mẻ và
sâu sắc hơn vẫn tiếp tục ra đời. Điều đó chứng tỏ Chinh Phụ Ngâm súc tích biết chừng
nào về giá trị nội dung lẫn giá trị nghệ thuật.

Thời Lê mạt (Cảnh Hưng) - Chúa Trịnh (Trịnh Giang, Trịnh Doanh) là một thời kì nhiễu
nhương và thối nát. Bọn vua chúa hoang dâm, ích kỉ và tàn bạo đã đẩy dân chúng
vào cảnh lầm than, điêu đứng. "Thượng bất chính hạ tắc loạn". Đất nước chìm đắm
triền miên trong cảnh loạn lạc, máu lửa và binh đao. Hàng ngàn vạn gia đình phải rơi
vào tình cảnh chia li tan tác, tạo nên số phận bi thảm của những chinh phu và chinh
phụ. Nỗi đau thương tưởng chừng thấu tới tận trời xanh. Chinh Phụ Ngâm ra đời như
tiếng than van thống thiết của con người, của tình yêu đôi lứa, của gia đình trong cái
thời đại đen tối ấy.

Trước hết, bằng sự bóc trần thực trạng đời sống - nhất là đời sống nội tâm tràn ngập
sầu đau - của người chinh phụ, tác phẩm nêu lên một luận đề hết sức quan trọng của
xã hội: Chiến tranh và Hoà Bình.

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi


Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

Chỉ hai câu thơ đủ cho ta thấy: Một khi chiến tranh xảy ra thì con người nói chung, và
đặc biệt là người phụ nữ, lập tức bị đẩy vào nghịch cảnh, vào nỗi khổ đau vô tận.
Chiến tranh mà Chinh Phụ Ngâm đề cập chỉ là chiến tranh mưu bá đồ vương, bảo vệ
ngai vàng của bọn vua chúa phong kiến.

Cách nhìn chiến tranh như vậy chứng tỏ tác giả Chinh Phụ Ngâm đã đứng vững như
bàn thạch trên một lập trường duy nhất: Lập trường của chủ nghĩa nhân bản.

Bằng lập trường tiến bộ đó, tác giả vạch trần mâu thuẫn giữa quyền lợi của quần
chúng nhân dân với quyền lợi ích kỉ của bọn vua chúa. Khi người chinh phụ vắng
chồng phải sống những tháng năm đằng đẵng trong đau khổ, còn người chinh phu
ngoài chiến địa bị đẩy vào cảnh chết c:

Non kì quạnh quẽ trăng treo


Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

thì ở chốn triều đình bọn vua chúa chẳng biết đấy là đâu:

Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?

Câu thơ "Mặt chinh phu ai vẽ cho nên" đã tố cáo thẳng thừng kẻ thủ phạm tạo ra tấn
bi kịch của chinh phu và chinh phụ: Đó chính là bọn vua chúa.

Vạch trần bộ mặt hắc ám của chiến tranh, Chinh Phụ Ngâm đồng thời diễn tả giấc
mộng đê mê của chinh phụ: Giấc mộng đoàn viên.

Liên ngâm đối ẩm đòi phen


Cùng chàng lại kết mối duyên đến già
Cho bõ lúc sầu xa cách nhớ
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình

Giấc mộng đoàn viên của chinh phụ phản ánh khát vọng hoà bình của nhân dân ta
trong thế kỉ XVIII loạn lạc và tang tóc.

Rõ ràng Chinh Phụ Ngâm muốn khẳng định chân lí: Hoà bình là điều kiện tiên quyết
của hạnh phúc con người và hạnh phúc lứa đôi.

Với lập trường nhân đạo sâu sắc triệt để, Chinh Phụ Ngâm đi vào chiều sâu thăm
thẳm của tâm hồn một phụ nữ phương Đông và khắc hoạ nên một bức tranh về thế
giới tâm hồn kì diệu ấy. Không một ai không cảm thán trước vẻ đẹp vô ngần về tình
cảm, sự thuần khiết và cao quí về đức hạnh, sự mẫn tuệ và sự khả ái của nàng. Vẻ
đẹp tuyệt vời của tâm hồn người con gái Việt Nam chúng ta đã gặp trong ca dao, dân
ca, truyện nôm khuyết danh. ở Chinh Phụ Ngâm, chúng ta gặp lại vẻ đẹp ấy nhưng đã
được nâng cao hơn một bậc đáng kể nhờ sự gia công của văn chương bác học.

Chinh phụ tuy không tách rời hẳn cuộc sống của người bình dân:

Con thơ măng sữa vả đương phù trì.


Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm...

nhưng nàng có phong cách quí phái của giới thượng lưu;

Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng


hoặc: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
hoặc: Mượn hoa mượn rượu giải buồn...

Ở đẳng cấp trên, lại có học vấn - như bản thân Hồng Hà nữ sĩ - tâm hồn chinh phụ dồi
dào hơn, sâu và cao hơn, cả về tư tưởng lẫn tình cảm so với người phụ nữ bình dân.
Đó chính là một nguồn suối tâm tư đầy ắp sản sinh ra thiên trường thi trữ tình Chinh
Phụ Ngâm.

Lần theo dòng suy nghĩ của chinh phụ, chúng ta không thể không thán phục khối óc
mẫn tuệ cũng như sự nhạy cảm của trái tim nàng. Vượt trên những giáo điều phong
kiến - những thứ lí luận xám xịt - nàng đặt một câu hỏi hết sức nhân bản:

Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ


Chàng há từng học lũ vương tôn
Cớ sao cách trở nước non
Khiến người thôi sớm thì hôm những sầu?

Nàng hối hận vì có lúc nàng đã quá dại khờ:

Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu


Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.

Và nàng đã khẳng định cái triết lí hạnh phúc "Tất cả ở đây, tất cả lúc này":

Ấy loại vật tình duyên còn thế


Sao kiếp người nỡ để đấy đây?
Và: Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy

Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.


Thiếp xin chàng chớ bạc đầu
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung!

Thiết tưởng những tư duy đầy nhân bản ấy của chinh phụ có thể làm cho các nhà
nhân văn thời Phục Hưng và thời Khai Sáng ở phương Tây phải thán phục!

Người chinh phụ là hình tượng cổ điển cao quí, tiêu biểu cho phẩm chất của phụ nữ
Việt Nam mọi thời đại.

Tình yêu của nàng với chồng không gì sánh nổi. Mặc dù sống cách đây hai thế kỉ rưỡi,
hình như nàng đã tìm thấy tình yêu đích thực, song phương và hạnh phúc:

Trang phong lưu đang chừng niên thiếu


Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.

Toàn bộ bản trường ca là nỗi nhớ nhung, lo âu mong đợi, thương xót và khát khao,
khiến biết bao thế hệ con người đã phải rơi lệ!

Tuy sống trong nghịch cảnh nhưng cách ứng xử của nàng tỏ ra hơn hẳn những người
đàn bà tầm thường như vợ Tô Tần ngày xưa:

Thiếp chẳng dại như người Tô phụ


Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương
Khi về đeo quả ấn vàng
Trên khung cửi dám dẫy duồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
Xin vì chàng rũ lớp phong sương,
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng!

Chinh phụ ngâm - cuốn nhật kí tâm hồn của một người chinh phụ - đã cho chúng ta
thấy tầm vóc cao đẹp về tình cảm, đức hạnh và trí tuệ của người phụ nữ Việt Nam
thế kỉ XVIII, không hề thua kém nàng Pénélope của Hy Lạp cổ đại trong tác phẩm
ODYSSéE bất hủ của Homère.

So với nàng - con người giữ được nhiều tính chất thiên chân - thì hình ảnh người chinh
phu có phần mờ nhạt. Hình như trong đầu óc kẻ chinh phu phong kiến này đầy dẫy
những giáo điều chết cứng. Chàng lao vào chiến tranh như một cái máy:

Múa gươm rượu tiễn chưa tàn


Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo,

Chàng không ý thức được thực chất hành động xả thân của mình và chàng còn bị mù
quáng bởi những bả vinh hoa:

Non Yên tạc đá đề danh...

Chính vì lẽ đó, kẻ nhìn rõ mặt trái của chiến tranh chính là người chinh phụ, chứ
không phải là chinh phu, kẻ trực tiếp dấn thân "vào nơi gió cát"!

Tuy nhiên lòng yêu chồng đã lấn át và bao trùm tất cả. Chinh phụ không một lời oán
trách chồng. Phải chăng điều đó cho chúng ta thấy một nét đẹp khác: đó là sự nhu
thuận trong tính cách của nàng?

Về nghệ thuật, Chinh phụ ngâm là tác phẩm tiếng Việt ưu tú vào bậc nhất của văn
học Việt Nam.

Với Chinh phụ ngâm, ngôn ngữ văn học dân tộc đã được nâng tới trình độ tột đỉnh.
Mỗi câu thơ đều được tạo thành bởi những từ ngữ tinh xác, được gọt giũa công phu
bởi một văn tài lớn.

Những câu thơ đầy hình ảnh:

Áo chàng đỏ tựa ráng pha


Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.

Những câu thơ tả cảnh chiến địa thê lương:

Non Kì quạnh quẽ trăng treo


Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.

Cảnh thiên nhiên sầu thảm:

Sương như búa bổ mòn gốc liễu


Nước dường cưa xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.

Những câu thơ tả "hình dong" người chinh phụ sầu não:
Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng
Lệch làn tóc rối lỏng vòng lưng co.

Và trên tất cả là những câu thơ tả tình, tả mọi trạng thái tâm lí:

- Đưa chàng lòng dặc dặc buồn


- Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại chứa chan
Sắt cầm gượng gẩy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.

Ngôn ngữ Việt Nam vốn giàu sức biểu hiện, giàu hình dung từ tinh tế, đã được vận
dụng vào trong tác phẩm một cách tài tình:

- Thét roi cầu vị ào ào gió thu


- Lá cờ bay ngùi ngùi
- Gà co óc gáy sương
- Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa
- Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng

Đôi khi Chinh phụ ngâm dùng ngoa ngữ. Đó là dấu hiệu cho thấy ngôn ngữ thơ đã
vượt tới một tầm cao, bắt đầu phát huy tính chất "cuồng phóng" vốn ít có trong văn
chương "khuôn phép"thời xưa:

- Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng


Ôm đàn tranh mấy phím rời tay
- Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt
Trống tiều khua như rứt buồng gan
Võ vàng đổi khác dung nhan...

Chinh phụ ngâm sử dụng thể thơ đặc thù của dân tộc, đã có sẵn trong nền văn học
dân gian: đó là thể song thất lục bát, giàu nhạc điệu hơn thể thơ lục bát bởi hai vần
trắc ở hai câu 7. Thể thơ này tỏ ra thích hợp cho những tác phẩm trữ tình, như "Cung
oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, "Ai tư vãn" của Lê Ngọc Hân, "Tự tình khúc"
của Cao Bá Nhạ, "Khóc Dương Khuê" của Nguyễn Khuyến...

Một tác phẩm văn chương bác học, được sáng tạo bởi một thể thơ thuần tuý dân tộc:
Đó là bằng chứng hùng hồn cho thấy tiềm năng to lớn của tiếng Việt. Đồng thời chính
điều đó đã khiến Chinh phụ ngâm trở nên ưu việt, được quảng đại quần chúng tiếp
nhận, tán thưởng và truyền tụng suốt từ đời nọ đến đời kia.

Chinh phụ ngâm chuyển hoá một cách tài tình những điển cố và những câu thơ của
văn học Trung Hoa sang tiếngViệt, làm giàu cho kho từ vựng ngô ngữ văn học nước
nhà:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,


Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
- Chàng ruổi ngựa dặm ngàn mây phủ
Thiếp dạo hài lối cũ rêu in...

(phỏng thơ Lí Bạch)

- Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu


Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong

(Phỏng thơ Vương Xương Linh)

Chinh phụ ngâm còn sử dụng nhạc điệu vô cùng điệu nghệ khiến cho tác phẩm từ lúc
ra đời đến nay dường như không phải để đọc mà là để ca, để ngâm ngợi ... Với "AIR"
giai điệu hoà thanh trầm sầu và da diết, có đổi thay theo từng trạng thái tâm hồn, ca
khúc Chinh phụ ngâm đã làm say mê biết bao thế hệ con người...

Vì những lí do đã nêu trên, Chinh phụ ngâm đã trở thành kiệt tác thi ca, và bản diễn
nôm của Hồng Hà nữ sĩ được đánh giá là hay hơn cả nguyên tác Hán văn của Đặng
Trần Côn.

--------------------

(1)Bản thân nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã từng trải tâm trạng y hệt tâm trạng của người
chinh phụ. Sau khi lấy chồng được vẻn vẹn một tháng thì chồng bà là Nguyễn Kiều
phải cầm đầu phái bộ đi sứ sang nhà Thanh trong ba năm trời. Có lẽ vì thế bà đã dồn
tất cả tâm huyết để diễn nôm tác phẩm của Đặng Trần Côn. Những năm gần đây có ý
kiến cho rằng tác giả của bản nôm Chinh Phụ Ngâm hiện hành là Phan Huy ích.
Nhưng các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam cho biết hiện vẫn chưa có đủ tài liệu
chính xác, tin cậy để xác nhận điều đó. Vì vậy vị trí của Hồng Hà nữ sĩ đối với bài diễn
ca chinh Phụ Ngâm vẫn chưa có thể thay Nguồn sưu tầm!

Dàn ý nè
Mở:
Ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVIII với nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần
Côn, liền sau đó được Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn nôm (dịch thành
quốc ngữ)(1) Chinh Phụ Ngâm đã mau chóng đi vào lòng mọi tầng lớp quần
chúng.

Trải qua hơn hai thế kỉ rưỡi cho đến nay, Chinh Phụ Ngâm luôn giữ nguyên
giá trị của một viên ngọc văn chương sáng ngời, một sản phẩm đáng tự hào
của xứ sở vốn "nổi tiếng thi thư"(2)

Nguyên tác Chinh Phụ Ngâm bằng Hán văn của Đặng Trần Côn là một tác
phẩm văn chương đặc sắc. Không những giới nho sĩ Việt Nam mà cả các bậc
văn nhân Trung Hoa, đều yêu thích và khâm phục tác phẩm này. Bằng văn
tài xuất sắc, Đặng Trần Côn sử dụng thể thơ tự do như "cổ phong" trong
"Nhạc phủ" hoặc thể"từ" mà Khuất Nguyên và Lí Bạch từng sử dụng, để viết
nên một tác phẩm trữ tình hiếm có, mô tả tâm sự sâu xa của một thiếu phụ
vắng chồng.

Văn chương trong Chinh Phụ Ngâm vô cùng diễm lệ, chứa chan tình cảm,
uyển chuyển và đầy nhạc điệu. Trong số thi phẩm Hán văn của nền văn học
nước ta, hiếm có tác phẩm sánh ngang được với Chinh Phụ Ngâm .

Với Chinh Phụ Ngâm bằng quốc ngữ, xưa nay nhiều bậc thức giả uyên bác
đã phân tích và đánh giá về nhiều phương diện. Vậy mà ngày nay những
khám phá mới mẻ và sâu sắc hơn vẫn tiếp tục ra đời. Điều đó chứng tỏ
Chinh Phụ Ngâm súc tích biết chừng nào về giá trị nội dung lẫn giá trị nghệ
thuật.

a. 8 câu đầu (1 – 8)
- Tả tâm trạng qua hành động: người chinh phụ đi ra đi vào, cuốn lên buông
xuống tấm rèm nhiều lần: “Dạo hiên vắng...đòi phen.”. Đó là hành động lặp
đi lặp lại, không có mục đích rõ ràng, thể hiện tâm trạng nặng nề, tù túng,
nóng ruột.

- Tả tâm trạng qua ngoại cảnh: chim thước là vật báo tin may; đèn là vật tả
nỗi cô đơn, thường được dùng trong ca dao và thơ cổ, Vd: “Đèn thương nhớ
ai /Mà đèn không tắt?”. Nó thể hiện sự mong ngóng tin tức của người
chồng, mong có người chia sẻ nỗi cô đơn. Câu hỏi tu từ : hỏi “đèn” chính là
mong muốn tha thiết có kẻ hiểu thấu tâm can mình.

- Trực tiếp thể hiện tâm trạng: người chinh phụ hỏi đèn nhưng rồi tự trả lời
bằng 2 lần phủ định triệt để. Đèn không thể biết được tâm trạng nàng, dù
có biết cũng không hiểu thấu được. Nó khẳng định một sự thực: nàng hoàn
toàn cô đơn, không ai chia sẻ. Dường như không kìm nén được, nàng đã bộc
lộ bằng những câu than vãn đau đớn. Từ “bi thiết” là một tính động từ nhấn
mạnh nỗi buồn đau xen trộn của nàng. Ta cảm tưởng như ống kính máy
quay đang kề sát chân dung người chinh phụ để chớp lấy cân cảnh sắc thái
tâm trạng tinh vi. Đó là tâm trạng buồn rầu tới chẳng thiết nói năng:
“Buồn...lời”. Câu thơ đã nêu lên quy luật tất yếu của nỗi buồn. Khi buồn tới
độ cao trào, con người trở nên câm lặng trước mọi vật. Tới câu 8, ống kính
lại đưa ra xa để bao quát căn phòng. Trong lòng người thì bão tố mà cảnh
vật thì tĩnh mịnh đơn côi tới buồn bã! Sao nhìn cảnh ấy không thương cho
được!

b. 8 câu tiếp (9 – 16)

- Thời điểm là đêm tối về sáng, chứng tỏ người chinh phụ đã thức cả đêm
dài. Nàng như đang đếm thời gian nhưng càng chờ càng thấy dài: “Khắc giờ
đằng đẵng như niên/ Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”. Tác giả đã dùng
biện pháp so sánh kết hợp với từ láy để nhấn mạnh cảm thức về thời gian ở
người chinh phụ. Tác giả so sánh với hình ảnh cụ thể để miêu tả độ dài, độ
sâu vô tận của thời gian và nỗi sầu. Từ láy “đằng đẵng” mô tả độ nhích
chậm chạp của thời gian. Nếu ở trên không gian bị trống vắng hoá thì ở dưới
dải cao su thời gian lại bị kéo dãn ra vô tận không có điểm dừng. Từ láy
“dằng dặc” đối với từ láy “đằng đẵng” ở trên cho ta thấy thêm một khía
cạnh của tâm trạng, dường như không chỉ buồn chán mà còn tù túng, bế
tắc. Câu thơ đã diễn tả đúng một quy luật của nỗi nhớ: càng nhớ thời gian
càng như dài ra.

- Hành động: đốt hương, soi gương, gẩy đàn. Đó là những thú vui tao nhã
nhưng nó không giúp nàng xua đi nỗi buồn “Hương gượng đốt...phím loan
ngại chùng”. Từ “gượng” xuất hiện 3 lần nhấn mạnh sự miễn cưỡng, gượng
gạo, chán chường của nàng. Tâm trạng của nàng không chỉ chán chường mà
còn mang nỗi sợ: sợ chia lìa đôi lứa. Hai từ “kinh”, “sợ” xuất hiện trong một
dòng thơ như một cơn sóng dữ ào lên rồi lênh láng trong lòng người chinh
phụ.
2.2. 8 câu cuối (17 – 28)

- Dường như trong tâm trạng chán chường, người chinh phụ bắt gặp ngọn
gió đông, trong nàng loé lên một nguồn hi vọng. Nàng van nài cả gió đông
để gửi thương nhớ tới nơi chồng “Lòng này gửi gió đông...non Yên”. Câu hỏi
ở đầu cùng việc sử dụng nhiều từ trang trọng: có tiện, nghìn vàng, xin thể
hiện sự nhún mình, sự năn nỉ ngọn gió. Nhưng đó là mong ước phi thực tế,
hi vọng loé lên rồi vụt tắt ngay. Chỉ có nỗi nhớ là hiện thực “Non
Yên...đường lên bằng trời.”. Nỗi nhớ được cụ thể hoá bằng hình ảnh độc
đáo: “đường lên bằng trời”. Tác giả còn dùng từ láy “thăm thẳm” chỉ độ sâu
để miêu tả nỗi nhớ. Nó cho thấy nỗi nhớ sâu sắc, kéo dài đến mức đã lặn
vào tâm hồn người chinh phụ. 4 câu thơ là sự hi vọng nhưng thất vọng
nhanh chóng, là việc tìm cách liên lạc với người chinh phu song bất lực.
Đọng lại là nỗi nhớ nhung, đau xót của người chinh phụ.

- Hình ảnh gợi ra không gian mênh mông, vô tận của chiến địa. “Non Yên”
chính là hình ảnh tượng trưng cho nơi chiến trận, nó chẳng rõ là đâu, lại xa
xôi, bất trắc. Đó còn là không gian buồn bã, lạnh lẽo bao trùm “Cảnh buồn
người thiết tha lòng...Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.” Cái lạnh
như ăn mòn mọi thứ. Qua biện pháp ẩn dụ cùng việc sử dụng các động từ
mạnh, ta cảm thấy từ giọt sương, tiếng trùng đến mưa xuân cũng như ẩn
tàng một sức mạnh ghê gớm. ở đây, thiên nhiên và con người đã soi chiếu
vào nhau, cùng mang chung nỗi sầu. Đúng như Nguyễn Du đã nói: “Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu./Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Từ “thiết
tha” được đảo lên trước từ lòng để nhấn mạnh tâm trạng người chinh phụ.
Giờ đây, nỗi buồn đã chuyển thành nỗi đau trong lòng người chinh phụ.

- Lối thơ vắt dòng: “Ngoài rèm thước chẳng mách tin...Đèn có biết dường
bằng chẳng biết.”; “Nghìn vàng xin gửi tới non Yên...Trời thăm thẳm xa vời
khôn thấu.”; “Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm...Trước hoa dưới nguyệt
trong lòng xiết đâu!”. Hình thức này làm những câu thơ có sự liên kết với
nhau đồng thời góp phần diễn tả nỗi buồn triền miên, kéo dài lê thê không
dứt.

-> Đó là trường tâm trạng thể hiện nhiều cung bậc: tù túng, cô đơn, buồn
rầu, chán chường, kinh sợ,...Nó là hình ảnh điện tâm đồ trong trái tim người
chinh phụ.

-> Giá trị nhân đạo: đồng cảm với khao khát hạnh phúc lứa đôi, gián tiếp lên
án chiến tranh phi nghĩa.
Kết
ND: Qua trường tâm trạng của người chinh phụ, đoạn trích thể hiện sự đồng
cảm với khao khát hạnh phúc lứa đôi và gián tiếp lên án chiến tranh phi
nghĩa.

-NT: Tiêu biểu nhất là nghệ thuật miêu tả nội tâm con người.

“Cả khúc ngâm đọng lại thành mối sầu thiên cổ mà không nhàm chán vì sự
diễn biến tinh vi, đa dạng của thế giới nội tâm nhân vật. Tiếng nói độc thoại
của người chinh phụ hấp dẫn lòng người vì giá trị nhân văn cao cả được
khắc hoạ bằng nghệ thuật cổ điển tuyệt vời.”

Cái này dành cho ai không chép bài trên


lớp _ _" (like me )
I- Tìm hiểu chung
1- Tác giả - Dịch giả
a. Đặng Trần Côn:
- Sống vào thế kỉ XVIII, quê Hà Nội;
- Là người thông minh, học giỏi;
- Tác phẩm: Chinh phụ ngâ, thơ, phú chữ Hán,…
b. Đoàn Thị Điểm (1705-1748):
- Hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, người làng Giai Phạm, Văn Giang, trấn Kinh Bắc
(nay là Hưng Yên)
- Nổi tiếng thông minh, lấy chồng muộn (37 tuổi);
- Bà còn là tác giả của tập truyện chữ Hàn Truyền kì tân phả.
2- Tác phẩm “Chinh phụ ngâm”:
- Nguyên tác là thể ngâm khúc; thể thơ trường đoản cú (câu dài ngắn khác
nhau).
- Bản diễn Nôm theo thể ngâm khúc; thể thơ song thất lục bát.
- Gía trị nội dung: thể hiện nội tâm của người chinh phụ khi người chinh phu
phải ra trận vắng nhà; nỗi mong đợi, khát khao hạnh phúc lứa đôi.
- Giá trị nghệ thuật: bút pháp tự sự trữ tình và miêu tả nội tâm sâu sắc.
II- Đọc - hiểu đọan trích
1- Cảm nhận chung
- Diễn biến tâm trạng của người chinh phụ khi chinh phu xa nhà, buồn và cô
đơn.
2- Vị trí - Bố cục:
- Từ câu 192 đến câu 216.
- Bố cục ba phần: 8 câu đầu, 8 câu giữa và 8 câu cuối; hoặc hai phần: 16 câu
đầu và 8 câu còn lại.
3- Phân tích:
a. Tâm trạng buồn, cô đơn, lẻ loi, khát khao hạnh phúc lứa đôi (8 câu đầu):
- Một mình ở nhà, lẻ loi ngoài hiên, đi đi lại lại;
- Quanh quẩn, quẩn quanh;
- Buông rèm., cuốn rèm bao nhiêu lần,…
=> Những động tác, hành động lặp đi lặp lại không mục đích, vô nghĩa,
người chinh phụ cho ta thấy tâm trạng cô đơn, lẻ loi của nàng. Nỗi lòng
nàng không biết san sẻ cho ai!
- Điệp ngữ bắc cầu: “đèn biết chăng - đèn có biết” đã và sẽ là một biện
pháp nghệ thuật phổ biến trong đoạn trích và trong toàn khúc ngâm. (Có
thể nói thêm hình ảnh của đoạn dưới non Yên, bằng trời- trời thăm thẳm..)
diễn tả tâm trạng buồn lê thê trong thời gian và không gian dường như
không bao giờ dứt.
+“Đèn biết chăng - đèn có biết” còn là sự kết hợp việc sử dụng câu hỏi tu từ
như lời than thở, nỗi khắc khoải đợi chờ và hi vọng trong nàng day dứt
không yên. Từ lời kể chuyển thành lời độc thoại nội tâm da diết, tự dằn vặt,
rất thương, rất ngậm ngùi.
- Hình ảnh “ngọn đèn, hoa đèn” cùng với hình ảnh cái bóng trên tường của
chính mình gợi cho người đọc nhớ đên hình ảnh ngọn đèn không tắt trong
bài ca dao: “Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt?...”
=> Không gian quanh người chinh phụ mênh mông, khiến sự cô đơn càng
đáng sợ.
b. Bút pháp tả cảnh ngụ tình (Tám câu tiếp theo):
- Dùng cảnh vật thiên nhiên, để miêu tả tâm trạng con người, dùng khách
quan để tả chủ quan:
+ Tiếng gà “eo óc” báo hiệu canh năm, chứng tỏ người vợ trẻ xa chồng, đã
thao thức suốt cả đêm.
+ Bóng cây hoè ngoài sân, trong vườn ngắn rồi dài, dài rồi lại ngắn: bước đi
chậm chạp của thời gian, một khắc, một giờ dài như một năm.
+ Cụ thể hoá mối sầu như niên: đằng đẵng, dằng dặc
+ Hành động: gảy, soi, đốt,... gắn liền với các đồ vật như đàn, hương, gương
- những thú vui tao nhã, những thói quen trang điểm của người chinh phụ
giờ đây thành miễn cưỡng, gượng gạo, chán chường.
(+) Đốt hương để tìm sự thanh thản mà hồn lại mê man, bấn loạn;
(+) Soi gương mà không cầm được nước mắt;
(+) Dây đàn, phín đàn chỉ nhắc cảnh chia li và nỗi chia lìa ám ảnh dây đứt,
phím chùng…
- Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng mang tính ước lệ của thi pháp trữ tình trung
đại bóng bảy, sang trọng và cổ kính nhưng người đọc tâm trạng thật của
người phụ nữ bồn, cô đơn, lẻ loi, nhớ thương, dằn vặt khi chồng đi chinh
chiến phương xa.
c. Nỗi nhớ chồng đi chinh chiến xa trường (Tám câu cuối):
- Gió đông: gió xuân tươi mát làm dịu đi cảnh vật và lòng người - người
chinh phu vẫn xa xôi.
- Non Yên: địa danh người chồng chinh chiến.
=> Không gian xa cách muôn trùng giữa người chinh phu và người chinh
phụ
- Tâm trạng người chinh phụ được miêu tả trực tiếp:
+ Nỗi nhớ triền miên trong thời gian ''đằng đẵng'' được cụ thể hoá bằng độ
dài không gian ''đường lên...''
+ Đất trời dường như bao la đến vô hạn: ''xa thẳm" không có đích, ''đau
đáu'' trăn trở không sao gỡ ra được.
=> Tâm trạng của ngừơi chinh phụ được miêu tả ngày càng sầu thảm, làm
cho khung cảnh thêm hoang vắng, quạnh hiu. Hình ảnh người chinh phụ
chìm sâu trong cô đơn, vò võ, lẻ loi chiếc bóng thao thức suốt 5 canh: nhớ
nhung, sầu muộn, lo lắng, day dứt. Khao khát âm thanh mãnh liệt được
hưởng hạnh phúc ái ân đôi lứa, đoàn tụ gia đình của người chinh phụ.
III-Tổng kết
1. Nội dung
- Bằng sự đồng cảm và chia sẻ nỗi niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của
người phụ nữ, tác giả khẳng định được giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc
của khúc ngâm.
- Đồng thời gián tiếp phê phán chiến tranh phong kiến chia rẽ tình cảm gia
đình, gây nên bao tấn bi kịch tinh thần cho con người.
2. Nghệ thuật
- Miêu tả diễn biến tâm trạng đặc sắc
- Tiếng nói độc thoại dẫn lòng người vì giá trị nhân văn cao cả
- Xây dựng hình tượng nhân vật, cử chỉ hành động, qua các điệp ngữ điệp
từ, ẩn dụ tượng trưng và cau hỏi tu từ …

Chữ ký của [Vip.Mem]*Virgin*

You might also like