You are on page 1of 17

Trường đại học Ngoại Thương

Tiểu luận Triết học

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Anh


Lớp: Anh 16-K49-KT
Số thứ tự : 02
Giảng viên hướng dẫn: PGS,TS Đoàn Văn Khái

Hà Nội, tháng 4/2011

1
Mục lục

Lời mở đầu....................................................................................................3

I. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất................................................4

1. Lực lượng sản xuất........................................................................4

2. Quan hệ sản xuất ...........................................................................7

II. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất ..............................................................................................8

1.Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất .......................8

2.Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng
sản xuất ........................................................................................................9

III.Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
lực lượng sản xuất vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay...............10

Kết luận.......................................................................................................16

Tài liệu tham khảo......................................................................................17

2
Lời nói đầu
C.Mác từng nói:” Cái cối xay gió quay bằng tay đưa lại xã hội có
lãnh chúa phong kiến, cái cối xay gió chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có
nhà nước tư bản chủ nghĩa”. Câu nói của Mác đã nói lên sự phù hợp của
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất. Có thể
nói, trong bất kì một hình thái kinh tế chính trị nào, lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau,
không tách rời. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Sự tổng hoà mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh
tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển.
Đặc biệt, đối với một đất nước đang trong công cuộc xây dựng một nền
kinh tế thi trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, việc chú
trọng phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất là ưu tiên
số một của Đảng và Nhà nước ta. Hiểu rõ tầm quan trọng và cấp thiết của
thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, em
xin chọn đề tài: “ Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay”.

Mục đích tiểu luận này hướng tới là làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng
giữa hai bộ phận cấu thành nên phương thức sản xuất, đặt mối quan hệ đó
dưới lăng kính của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ
đó rút ra được phương pháp luận và những đính hướng đúng đắn cho công
cuộc đổi mới của nước ta hiện nay. Để đạt được mục đích trên, tiểu luận sẽ
tập trung xoay quanh quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất và vấn đề vận dụng quy luật vào sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam.

3
I. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Phương thức sản xuất là cách thức mà con người tiến hành sản xuất
trong một giai đoạn lịch sử nhất định. cách thức này một mặt biểu hiện
trong việc sử dụng công cụ lao động nhất định (sản xuất bằng cái gì). mặt
khác biểu hiện trong việc tổ chức hoạt động sản xuất với những quan hệ sản
xuất nhất định. phương thức sản xuất do hai mặt kết hợp thành là lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất. trong đó lực lượng sản xuất là nội dung còn
quan hệ sản xuất là hình thức của phương thức sản xuất

1. Lực lượng sản xuất.

Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là kết
quả của năng lực thực tiễn của con người lực lượng sản xuất là kết quả cái
đã đạt được bởi con người là sản phẩm của hoạt động đã qua của con người,
chứ không phải là những cái mà tự nhiên cho sẵn.

Lực lượng sản xuất được gom góp, chuyển giao từ thế hệ này sang
thế hệ khác. mỗi thế hệ dựa trên những lực lượng sản xuất đã có để tạo ra
lực lượng sản xuất mới. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau trình độ
của lực lượng sản xuất biểu hiện rõ nhất ở công cụ lao động. Đến lượt nó,
trình độ của công cụ biểu hiện ở phân công lao động ở năng suất lao động.
năng suất lao động là thước đo trình độ của lực lượng sản xuất

Lực lượng có các yếu tố hợp thành:

Người lao động là yếu tố đầu tiên chủ yếu của mọi quá trình sản xuất
bao gồm các nhân tố, nhu cầu sinh sống tự nhiên của con người. Nhu cầu
thúc đẩy hoạt động, sức lao động của người lao động là những sức thần
kinh, sức cơ bắp mà con người vận dụng để sử dụng, điều khiển công cụ lao
động kinh nghiệm và kỹ năng lao động; là sự hiểu biết về đối tượng tính
năng tác dụng của công cụ lao động , môi trường, sự thành thạo ít hay nhiều

4
trong việc sử dụng công cụ khả năng cải tiến công cụ. Toàn bộ những nhân
tố ấy kết hợp trong người lao động làm thành yếu tố người lao động.

Tư liệu sản xuất bao gồm: tư liệu lao động và đối tượng lao động. tư
liệu lao động và những phương tiện, vật liệu khác dùng để tăng cường, hỗ
trợ cho tác động công cụ lao động lên đối tượng. Tư liệu lao động là vật hay
hệ thống những vật được con người đặt giữa mình với đối tượng lao động
để truyền những tác động của con người lên đối tượng nhằm biến đổi chúng
thành những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người. Do đó, tư liệu lao
động được coi là cánh tay thứ hai của con người. nó kéo dài và tăng cường
sức mạnh thế giới quan con người… Tư liệu lao động do con người sáng
tạo ra, trong đó công cụ sản xuất đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
biến đổi tự nhiên.

Đối tượng lao động là toàn bộ những khách thể tự nhiên hoặc những
vật liệu tự nhiên đã được con người làm biến đổi nhưng chưa thành sản
phẩm. những khách thể và vật liệu này có thể biến thành sản phẩm đáp ứng
nhu cầu con người và sự tác động của con người. Đối tượng lao động mang
lại cho con người tư liệu sinh hoạt.

C.Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ
chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với
những tư liệu lao động nào". Ngày nay khoa học ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, tức là trở thành yếu tố trực tiếp của lực lượng sản
xuất. khác với trước đây việc ứng dụng và sáng tạo những thành tựu khoa
học kỹ thuật ở cách xa sản xuất

Những yếu tố nói trên của lực lượng sản xuất liên hệ chặt chẽ với
nhau và chỉ có ở trong sự kết hợp đó chúng mới là lực lượng sản xuất. còn
trong sự tách rời chúng chỉ là lực lượng sản xuất ở dạng tiềm năng. Trong
những yếu tố của lực lượng sản xuất, thì con người lao động giữ vai trò
quyết định. vì con người không những tạo ra lực lượng sản xuất mà còn sử

5
dụng nó lực lượng sản xuất chỉ là sự biểu hiện những năng lực của bản thân
con người.

2. Quan hệ sản xuất.

Quan hệ sản xuất là quan hệ của con người với nhau trong quá trình
sản xuất. đó là quan hệ tất yếu khách quan được hình thành trong quá trình
sản xuất của cá nhân với nhau.

Quan hệ sản xuất bao gồm:

-Quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất;
quan hệ giữa người - người trong việc tổ chức và phân công lao động xã
hội; quan hệ giữa người và người trong việc phân phối sản phẩm xã hội.

-Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một
cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tùy tiện của nội
lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Để tiến hành sản xuất,
con người chẳng phải quan hệ với tự nhiên mà còn phải quan hệ với nhau
để trao đổi hoạt động và kết quả lao động, do đó sản xuất bao giờ cũng
mang bản chất xã hội C.Mác viết: "người ta chỉ sản xuất bằng cách hợp tác
với nhau một cách nào đó và trao đổi hoạt động với nhau. muốn sản xuất
được người ta phải để lại mối liên hệ và quan hệ chặt chẽ với nhau và chỉ có
trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ đó thì mới có sự tác động của
họ vào giới tự nhiên, tức là sản xuất.

Ba mặt của quan hệ sản xuất có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với những mặt
khác trong hệ thống sản xuất, xã hội con người sở hữu tư liệu sản xuất quyết
định quá trình tổ chức phân công lao động phân phối sản phẩm xã hội vì lợi
ích của mình, con người không sở hữu thì phục tùng sự phân công nói trên.

Trong lịch sử có hai hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu tư nhân là hình
thức mà trong đó một thiểu số cá nhân nhất định sở hữu đại bộ phận những

6
tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, như hình thức sở hữu này lợi ích cá nhân
tri phối quá trình sản xuất. Sở hữu xã hội là hình thức sở hữu của cá nhân
liên kết thành các tập thể sở hữu. hoặc tư liệu xã hội cộng sản nguyên thủy
các công xã thời cổ, sở hữu xhcn. trong sở hữu xã hội, lợi ích tập thể của xã
hội chi phối nền sản xuất xã hội.

II. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tổ chức và trình

độ của lực lượng sản xuất.

Quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt không tách rời nhau của
phát triển sản xuất. chúng tác động lẫn nhau một cách biện chứng và quy
định vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với sự hình thành và
phát triển của những cơ cấu sản xuất. Do đó mối liên hệ này được gọi là quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tổ chức và trình độ của lực
lượng sản xuất. Quy luật này chỉ ra sự phụ thuộc tất yếu khách quan của
quan hệ sản xuất vào lực lượng sản xuất và sự tác động trở lại của quan hệ
sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Bản chất của quy luật này là sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.

1. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.

Tính chất của lực lượng sản xuất là tổ chức của tư liệu lao động và
của lao động, đó là tính chất cá thể hay tính chất xã hội của chúng. Còn
trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của công cụ lao động, của kỹ
thuật kinh nghiệm và kỹ năng biểu hiện thông qua quy mô cơ cấu sản xuất,
phân công lao động. Tổ chức của một sản xuất liên hệ chặt chẽ với trình độ
của lực lượng sản xuất. rình độ của lực lượng sản xuất càng cao thì phân
công lao động xã hội càng sâu sắc, do đó tính chất xã hội của nó càng cao.

Lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức
trong phát triển sản xuất,nội dung quyết định hình thức.

7
Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất,không ngừng biến đổi trong
phương thức sản xuất vì trong quá trình lao động con người không ngừng
cải tiến công cụ do kinh nghiệm luôn được tích lũy do nhu cầu sản xuất tăng
lên. Trong khi đó quan hệ sản xuất có khuynh hướng tương đối ổn định,
biến đổi chậm hơn lực lượng sản xuất. Do đó những thay đổi của phát triển
sản xuất đều bắt nguồn sâu xa trước hết là sự tự biến đổi của lực lượng sản
xuất.

Lực lượng sản xuất quyết định sự phân công lao động xã hội do đó
quyết định quan hệ giữa các tập đoàn người về mặt sở hữu tư liệu sản xuất
thông qua quyết định quá trình tổ chức lao động xã hội và phân phối sản
phẩm.

Khi lực lượng sản xuất phát triển mâu thuẫn với quan hệ cũ đang kìm
hãm nó,thì nó đòi hỏi phải được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù
hợp để cho sản xuất phát triển. như vậy sự thay thế quan hệ sản xuất này
bằng quan hệ sản xuất khác do lực lượng quy định chứ không phải do quan
hệ sản xuất.Khi ảnh hưởng sản xuất mới thay thế quan hệ sản xuất cũ thì
phát triển sản xuất cũ kết thúc và phương thức sản xuất mới ra đời.

2. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản

xuất.

Trước hết quan hệ sản xuất là mặt không thể thiếu của phát triển sản
xuất lực lượng sản xuất không thể tồn tại, phát triển ở bên ngoài quan hệ
sản xuất, nó là hình thức tất nhiên của phương thức sản xuất. quan hệ sản
xuất có thể tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất.Khi quan hệ
sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó mở đường cho lực lượng sản
xuất phát triển bằng cách nó sắp xếp các yếu tố của lực lượng sản xuất đúng
vị trí, chức năng của chúng làm cho chúng phát huy được tính năng, tác
dụng của chúng. Nhưng khi quan hệ sản xuất phù hợp không phù hợp với
lực lượng sản xuất thì trở thành xiềng xích trói buộc đối với lực lượng sản

8
xuất làm cho chúng không phát huy tác dụng. Sự không phù hợp của quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất có thể xảy ra theo hai xu hướng vượt quá
hoặc lạc hậu so với lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất xác định mục đích xã hội của nền sản xuất nào, tổ
chức sản xuất được tiến hành vì lợi ích của tập đoàn sản xuất nào, tổ chức
sản xuất vì lợi ích nào và phân phối, sản phẩm có lợi cho ai. Như thế có
nghĩa là mọi mặt của quan hệ sản xuất đều ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực
đến lực lượng sản xuất trực tiếp.Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực
lượng sản xuất là quy luật chung cơ bản của quá trình lịch sử loài người nó
tác động trong những giai đoạn lịch sử cơ bản của xã hội là nguyên nhân
căn bản của sự hình thành và phát triển ổn định của những cấu trúc kinh tế
xã hội xác định trong lịch sử. Đồng thời cũng là nguyên nhân của những
bước chuyển lịch sử cơ bản từ giai đoạn lịch sử này sang giai đoạn khác. Từ
phát triển sản xuất nguyên thủy sang phát triển sản xuất chiếm hữu nô lệ,
tiếp theo là phương thức phong kiến rồi sang phương thức tư bản và cuối
cùng là sang phát triển sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

Sự tác động của quan hệ này trong lịch sử đã xác định vai trò quy
định của phát triển sản xuất trong sự hình thành và phát triển của những cấu
trúc xã hội nhất định.Điều kiện tự nhiên và dân số là những yếu tố tất yếu,
tác động thường xuyên đến quá trình sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi hoặc
khó khăn nhất định cho sản xuất và cũng như quá trình tồn tại và phát triển
xã hội. Nhưng không phải là nhân tố quyết định.chỉ có sự phát triển của
phương thức sản xuất mới là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người.

Nước ta đang ở thời kỳ quá độ từ một nước sản xuất nông nghiệp là
chủ yếu tiến thẳng lên một phương thức sản xuất cao hơn phát triển sản xuất
cộng sản bỏ qua phương thức sản xuất tbc. Sở dĩ có thể tiến hành như vậy là
vì trên toàn thể giới phương thức sản xuất tư bản đã không còn chiếm vị trí

9
độc tôn kế từ khi cách mạng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga bùng nổ và thắng
lợi.

Nhưng cần phải hiểu được sự bỏ qua không phải một cách máy m óc
mà trái lại phải tiếp thu tất cả những thành tựu khoa học, kỹ thuật phương
thức tổ chức nền kinh tế tiến triển mà xã hội tư bản đã đặt được để phát
triển triển nền kinh tế của chúng ta. Không những thế còn phải tiếp nhận cả
những yếu tố của những giai đoạn phát triển kinh tế thấp hơn đang có mặt ở
nước ta để hướng chúng vào mục tiêu cuối cùng là phương thức sản xuất
cộng sản.

III. Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất vào sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện
nay.

Trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đảng ta
đang vận dụng quy luật sao cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, trên thực tế Đảng và Nhà nước ta
đang từng bước điều chỉnh quan hệ sản xuất cả tầm vĩ mô và vi mô, đồng
thời coi trọng việc đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất. Hiện nay Đảng
ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại
hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt trọng trách này, thì
phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó thành phần kinh tế tư
nhân là một thành phần rất năng động, hiệu quả. Có điều kiện này thì Đảng
mới có thể có thêm kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ cụ thể để lãnh đạo thành
công mục tiêu tăng trưởng kinh tế đó chính là làm cho lực lượng sản xuất
phát triển .

Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước
ta trong suốt mấy chục năm qua thực tiễn đã cho thấy những mặt được cũng
như những những mặt còn hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các
quy luật kinh tế cũng như quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất
10
vào thực tiễn ở nước ta, với đặc điểm của nước ta là Nước nông nghiệp,
nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, con trâu đi trước cái cày đi
sau, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ
yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua
hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt,
nhất là về kinh tế. Do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển.

Thời kì trước đổi mới, từ 1975-1986, sau khi giành được chính
quyền, trước yêu cầu xây dựng Chủ nghĩa Xã hội trong điều kiện nền kinh
tế kém phát triển, Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chí trị tư tưởng để xoá bỏ
nhanh chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn
dân và tập thể, lúc đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất,
trình độ xã hội hoá sản xuất cũng như sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Song trong thực tế cách làm này đã không mang lại kết quả như
mong muốn, vì nó trái quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất,quan hệ sản xuất tiến bộ giả chạy quá xa
so với lực lượng sản xuất, đã để lại hậu quả là:

-Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ
công, buôn bán nhỏ..) thì tư hữu về tư liệu sản xuất là phương thức kết hợp
tốt nhất giữa sức lao động và tư liệu sản xuất. Việc tiến hành tập thể nhanh
chóng tư liệu sản xuất dưới hình thức cá nhân bị tập trung dưới hình thức sở
hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất , không làm chủ
được quá trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạohợp tác xã, họ cũng không
phải là chủ thể sở hữu thực sự dấn đến tư liệu sản xuất trở thành vô chủ, gây
thiệt hại cho tập thể.

-Thứ hai: Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành.
Về pháp lý tư liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là
chủ sở hữu có quyền sở hữu chi phối, định đoạt tư liệu sản xuất và sản

11
phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là người làm công ăn
lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng & chất
lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Do đó chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất cùng với ông chủ của nó trở thành hình thức, vô chủ, chính
quyền (bộ, ngành chủ quản) là đại diện của chủ sở hữu là người có quyền
chi phối, đơn vị kinh tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi
ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách nhiệm,
không có cơ chế giàng buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết
quả hoạt động của mình.

Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số
người có quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.

Ở nước ta trong giai đoạn từ 1986 đến hiện nay, quan hệ sản xuất đã
có sự thay đổi, chuyển từ nền kinh tế hiện vật sang kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế tập trung ở
hai lực lượng chính: lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước (thường
gọi là quốc doanh, thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lực lượng sản xuất
ngoài quốc doanh (thường gọi là dân doanh, thuộc kinh tế tư nhân).

Ông bà ta thường nói: muốn biết bơi phải nhảy xuống nước. Còn
Lênin, trong tác phẩm "Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các
Ban giáo dục chính trị", đã viết: "Hoặc là tất cả những thành tựu về mặt
chính trị của chính quyền Xô viết sẽ tiêu tan, hoặc là phải làm cho những
thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở kinh tế. Cơ sở này hiện nay chưa có.
Đấy chính là công việc mà chúng ta cần bắt tay vào làm,đúng theo quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Con người không thể tự ý lựa chọn quan hệ sản xuất nói
chung và quan hệ sở hữu nói riêng một cách chủ quan duy ý chí. Sở hữu
vừa là kết quả vừa là điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, là

12
hình thức xã hội có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất.
Chính vì vậy, mỗi loại hình, hình thức sở hữu chưa thể mất đi khi chúng
còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và cũng không
thể tuỳ tiện dựng lên, hay thủ tiêu chúng khi lực lượng sản xuất không đòi
hỏi. Do vậy, khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải tính đến sự biến đổi phức
tạp từ quan hệ sản xuất, trong đó trực tiếp là chế độ sở hữu.

Quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, cũng như quan hệ sở hữu trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề luôn thu hút sự
quan tâm của giới nghiên cứu lý luận, song ở đây, vẫn còn nhiều quan điểm
khác nhau. Chúng ta đều biết, khi nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa làm nảy sinh các mâu thuẫn
khác và quy định sự vận động phát triển của xã hội tư bản. Từ đó, các ông
đi đến dự báo về sự thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
bằng chế độ công hữu. Việc thay thế chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu,
theo quan điểm của các ông, không thể tiến hành ngay một lúc, mà phải là
một quá trình lâu dài. Tuy nhiên, vào giai đoạn lịch sứ đó, các ông chưa chỉ
ra mô hình cụ thể về chế độ công hữu. Kiểu quan hệ sản xuất - quan hệ sở
hữu này hay kiểu quan hệ sản xuất - quan hệ sở hữu khác tuỳ thuộc vào tính
chất và trình độ lực lượng sản xuất. Ở nước ta hiện nay trình độ lực lượng
sản xuất còn thấp lại không đồng đều giữa các ngành, các vùng. Có những
vùng, miền mà người dân vẫn dùng cái cuốc, con trâu để lao động nhưng
cũng có nơi lao động trong phòng thí nghiệm, trong khu công nghệ cao.

Do vậy, tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nên chưa thể đặt vấn đề xoá ngay mọi hình
thức bóc lột. Chỉ đến khi trình độ xã hội hoá sản xuất phát triển cao mâu
thuẫn với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì khi ấy mới có điều
13
kiện chín muồi thực hiện cuộc cách mạng xây dựng xã hội không còn bóc
lột. Chúng ta không thể thủ tiêu chế độ sở hữu ngay lập tức được mà chỉ có
thể thực hiện dần dần, và chỉ khi nào đã tạo được một lực lượng sản xuất
hiện đại, xã hội hoá cao độ với năng suất lao động rất cao thì khi đó mới
xoá bỏ được chế độ tư hữu.

Đất nước chúng ta đang thực hiện nhất quán nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, mục đích là phải sản xuất ra thêm
nhiều giá trị thặng dư. Vấn đề bóc lột hay không bóc lột thể hiện trong quan
hệ phân phối. Bình đẳng trong phân phối được thực hiện dưới những hình
thức cụ thể như thế nào là tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con
đường hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy
nhiên, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản
xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nên phải trải qua nhiều khâu
trung gian (thời kỳ quá độ). Điểm nổi lên là kinh tế của chúng ta còn quá
nghèo nàn, lạc hậu ... vì vậy khâu trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng đó
là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Đồng thời phải xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần (nhiều hình thức sở hữu đan xen nhau) là
phù hợp với yêu cầu phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất của nước ta
hiện nay. Không ngừng đổi mới chính trị, củng cố tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng
đời sống văn hoá, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đẩy mạnh sự
nghiệp giáo dục và đào tạo. Thực hiện mục tiêu " dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh" .

Về sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta (xây dựng lực lượng sản xuất) :Đây là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Vận dụng quy luật mối quan hệ giữa
14
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ta rút ra được một số phương pháp
luận như sau: Phải đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học. Từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.
Coi giáo dục đào tạo là nhiệm vụ hàng đầu,phải quan tâm đầu tư phát triển
giáo dục đào tạo, y tế để có nguồn lao động chất lượng cao, hiệu quả. Kết
hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội (củng cố đổi mới kiến trúc thượng tầng): Đổi mới hệ thống
chính trị. Nâng cao sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa,xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

15
Kết luận

Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên không
phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt tốt quy
chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể, tránh để xảy ra tình
trạng quan hệ sản xuất tiến bộ giả chạy quá xa so với lực lượng sản xuất,
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, triệt tiêu động lực của người
lao động và ngược lại.

Đối với một quốc gia đang trong công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại
đất nước như Việt Nam, việc chú trọng đầu tư phát triển, nâng cao trình độ
nguồn nhân lực đang là ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt, trong thời đại mà khoa
học kĩ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất chính, hàm lượng chất xám
trong giá trị hàng hóa ngày càng cao thì vai trò của người lao động có tri
thức lại càng quan trọng, trong lực lượng sản xuất.V.Lênin đã chỉ ra: lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao
động. Chỉ có phát triển lực lượng lao động chất lượng cao thì chúng ta mới
có thể đuổi kịp các cường quốc khác trên thế giới và tiến nhanh hơn trên
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Với kiến thức và sự cố gắng, em đã hoàn thành bài tiểu luận song
không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được lời nhận xét và
đánh giá của thầy.

Em xin chân thành cảm ơn!

16
Tài liệu tham khảo

1. Giáo trình triết học Mác - Lê -nin (nxb chính trị quốc gia)
2. Đề cương bài giảng triết học Mác - Lênin - trường đại học
khoa học xã hội và nhân văn.
3. Tạp chí triết học - viện triết học
4. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học - nxb chính trị quốc gia
5. Giáo trình kinh tế chính trị mác - lênin - nxb quốc gia
6. Học thuyết mác về hình thái kinh tế - xã hội và lý luận về con
đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta - nxb chính trị quốc
gia
7. Website: www.vnpt.com.vn.

17

You might also like