You are on page 1of 87

Đề tài:

Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản


chủ nghĩa

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Bùi Tiến Dũng


Nhóm thực hiện : Nhóm 3
Lớp : K50 báo chí

Hà Nội
Tháng 5 – 2008
…….o0o……...

Nhóm sinh viên thực hiện:

1. Nguyễn Thu Yến (nhóm trưởng)

2. Nguyễn Thị Đóa

3. Trần Thúy Đạt

4. Lữ Thị Hoa

5. Đỗ Thị Thu Hường


6. Trịnh Vân Khanh

7. Nguyễn Phương Mai

8. Nguyễn Vy Linh

9. Nguyễn Thị Diễm Linh

10. Phí Hương Ly Trang

11. Nguyễn Thanh Tam 4

12. Dương Phương Thảo 4

13. Lê Thị Trang 4

14. Nguyễn Huyền Trang (8/6/1987) 5

15. Đồng Thị Thùy 8

16. Nguyễn Thị Tươi 17

17. Lưu Thị Vân 20

Mục lục 27

27
Nội dung
32
Chương I: Khái quát về tập trung hóa báo chí
35
1. Khái niệm về tập trung hóa báo chí
35
2. Quá trình tập trung hóa báo chí
42
2.1. Theo X.I. Bê - lốp
48
2.2. Theo khái niệm
54
3. Nguyên nhân dẫn đến tập trung hóa báo chí
63

71
4. Những biểu hiện của tập trung hóa báo chí

Chương II: Tập đoàn báo chí

1. Khái niệm về tập đoàn báo chí


72
2. Nguyên nhân và dạng thức hình thành các tập đoàn báo chí
74
3. Những tập đoàn báo chí nổi tiếng trên thế giới

3.1. Rupert Murdoch – huyền thoại của truyền thông thế giới
78
3.2. Tập đoàn báo chí lớn ở Mỹ

3.3. Tập đoàn báo chí lớn ở Pháp 86

3.4. Tập đoàn báo chí lớn ở Anh 89

3.5. Tập đoàn báo chí lớn ở Đức

4. Chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam

4.1. Những tiền đề để ra đời tập đoàn báo chí ở VN

4.2. Những động thái cởi mở của nhà nước đối với việc thành lập tập
đoàn báo chí ở VN

4.3. Các bước chuẩn bị của các tờ báo có triển vọng trở thành tập
đoàn báo chí ở VN

Kết luận

Tài liệu tham khảo


Chương I: Khái quát về tập trung hóa báo chí
1. Khái niệm tập trung hóa báo chí:

Hiện nay, vẫn có những quan điểm khác nhau về khái niệm tập trung hóa và tập
trung hóa báo chí. Theo từ điển Tiếng Việt thì từ “tập trung” có nghĩa là dồn lại, tụ họp ở
1 nơi, hoặc là dồn sức lực, trí tuệ, hướng hoạt động vào việc gì” (trang 1444 Đại từ điển
Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, NXB ĐHQG TPHCM, 2007). Còn tập trung hóa thì được
hiểu như quá trình dồn lại, tụ hợp lại tại một nơi, một điểm. Hay nói cách khác hiểu một
cách đơn giản nhất thì tập trung hóa báo chí là quá trình tích tụ các cơ quan báo chí lại
với nhau, tập hợp lại thành một cơ quan to nhất.
Theo Pierre Albert trong cuốn “Lịch sử báo chí” thì cho rằng: “Quá trình tập trung
hóa là quá trình mà các báo có số lượng phát hành lớn hơn nuốt hoặc loại bỏ với các
báo có số lượng phát hành thấp hơn để củng cố địa vị của mình”.

Xem xét trong quá trình hình thành và phát triển của báo chí trên thế giới ta nhận
thấy: thứ nhất, quá trình tập trung hóa diễn ra đầu tiên ở các nước TBCN, sau đó phát
triển mạnh và lan sang các nước khác trên toàn thế giới. Thứ hai quá trình này gắn với
những hoạt động mua lại hoặc sáp nhập giữa các công ty để hình thành nên những công
ty lớn hơn. Thứ ba là quá trình này vẫn còn tiếp diễn và phát triển ở nhiều nước trên thế
giới.

Tóm lại, “Tập trung hóa là quá trình sáp nhập, kết hợp, bắt tay giữa các cơ quan
báo chí, hoặc thôn tính, thâu tóm, bành trướng lẫn nhau giữa các cơ quan báo chí để
hình thành nên các tập đoàn báo chí”.

2. Quá trình tập trung hóa báo chí diễn ra như thế nào?

Đối với đa số các nước TBCN lớn thì hiện tượng tập trung hóa các phương tiện
thông tin đại chúng trên thị trường quốc gia là một hiện tượng tiêu biểu, phổ biến. Quá
trình này đang được mở rộng hơn bởi sự xâm nhập mạnh mẽ của các tập đoàn xuyên
quốc gia vào hoạt động kinh doanh thông tin. Quá trình tập trung hóa báo chí vẫn tiếp
tục diễn ra đến tận bây giờ không phụ thuộc vào các phương cách hình thức sở hữu và
các phương pháp điều hành doanh nghiệp.

2.1. Theo X.I.Bêglốp trong tác phẩm “Các tổ chức độc quyền ngôn luận” chia
quá trình tập trung hóa theo 5 hướng:

- Hướng hợp nhất: thông qua sát nhập hoặc trên những nguyên tắc ký kết đối tác
với hình thức thành lập những phương tiện thông tin đại chúng mới cùng loại và phụ
thuộc. Ví dụ các mạng lưới báo, mạng lưới các đài phát thanh và truyền hình… thuộc
vào loại này còn có các phương tiện thông tin đại chúng quốc gia nào đó bành trướng
sang các nước khác. Trong một số trường hợp các doanh nghiệp còn mang tính chất độc
lập về phương diện tài chính, nhưng sự chỉ đạo chung lại xuất phát từ một đại bản
doanh. Các ấn phẩm “Reader’ Digest” (Mỹ), “Burda Moden Magazine” (Đức) và những
ấn phẩm tương tự khác đã cho thấy rõ xu hướng này.

- Hướng hợp nhất các phương tiện thông tin đại chúng khác nhau thành một tổ
hợp thống nhất (báo – đài phát thanh – đài truyền hình…) Trong trường hợp tiến hành
những chiến dịch thông tin hoặc tuyên truyền, những tổ hợp đa năng ấy cho phép ta tiết
kiệm được nhiều tiền bạc và đồng thời còn đạt được hiệu quả cao

- Hướng thôn tính, thâu tóm khi các tập đoàn công nghiệp – tài chính mua lại các
phương tiện thông tin đại chúng. Điều này cho phép các giới kinh doanh lớn vận động
hành lang cho các quyền lợi của mình trong quá trình chuẩn bị đưa ra các quyết định
quan trọng của nhà nước và hình thành công luận theo hướng cần thiết. Ngoài ra điều
này còn cho phép đạt được tình hình ổn định về tài chính của toàn bộ tập đoàn và giảm
phần nào mức độ lệ thuộc của các phương tiện thông tin đại chúng và những đơn đặt
hàng quảng cáo. Về phương diện này, ví dụ có ý nghĩa là các cơ sở báo chí của những
hiệp hội ấy sát nhập vào cơ cấu nhà nước, để tạo thành những hiệp hội báo chí chuyên
ngành đóng vai trò tích cực trong quá trình tự điều chỉnh của báo chí. Chẳng hạn, tạp chí
Tín hiệu là ấn phẩm của Hội công nghiệp và cục thông tin của quân đội Mỹ. Hiệp hội
các nhà báo của công nghiệp dầu lửa cũng hoạt động mạnh…Một ví dụ tiêu biểu nữa là
tập đoàn báo chí News Corportion và các hoạt động thôn tính các công ty khác của tập
đoàn này.

- Các công ty thông tin đại chúng hùng mạnh mua lại các xí nghiệp công nghiệp
không có liên quan đến hoạt động kinh doanh, biên tập – xuất bản hoặc hoạt động phát
thanh – truyền hình. Nếu như trước kia các tờ - rớt báo chí mua lại các cánh rừng và các
xí nghiệp sản xuất giấy hoặc ký kết các thỏa thuận đối tác với các xí nghiệp ấy thì giờ
đây những tờ - rớt ấy xâm nhập vào khắp nơi: từ công nghiệp rừng xenluylô- giấy cho
đến các ngành dịch vụ, hoạt động kinh doanh giải trí, xâm nhập vào những ngành điện tử
mới nhất và vật lý hạt nhân. Trên cùng một mức độ đó có thể phác họa kiểu hoạt động
như vậy của phương tiện thông tin đại chúng thông qua ví dụ về tập đoàn “The New
York Times Corporation” cùng với các các tổ chức và các hang con của nó. Tập đoàn ày
có những cánh rừng của mình ở Canada, có những xí nghiệp xenluylô –giấy, các nhà
xuất bản, các mạng lưới phát thanh và truyền hình, các tổ chức của những giới chuyên
gia máy tính và các lập trình viên…

- Cải tổ cơ cấu các tổ chức thông tin đại chúng độc quyền, phân phối lại các luồng
thông tin trên các kênh thông tin. Người ta thấy hiện tượng các luồng thông tin kinh
doanh được chuyển sang các hãng tin chuyên biệt và các máy tính chuyên biệt. Chẳng
hạn nguồn thu chủ yếu của hãng tin Reuters không phải từ những người đặt mua thông
tin quốc tế, mà là từ hoạt động đưa tin về các hoạt động của sở giao dịch trong những
thời điểm đã định… Hãng tin AP đã tổ chức ra hình thức dịch vụ ấy của AP – Dow
Jones và áp dụng hình thức dịch vụ này vào thị trường dầu lửa của một số nước. Những
bản tin của sở giao dịch đăng trên các báo đã mất đi tính thời sự trước kia của mình.
Những thông tin được chuyển tải nhanh chóng qua các chương trình phát thanh và
truyền hình (đặc biệt là qua các kênh chuyên biệt của truyền hình cáp). Vì vậy các tờ báo
và tạp chí tập trung chú ý vào khâu phân tích, bình luận và dự báo. Xu hướng này cũng
biểu hiện trong lĩnh vực phát thanh. Ví dụ các tập đoàn phát thanh hàng đầu ở Thụy Sĩ
đã dành cho khâu bình luận rất nhiều thời lượng hơn trước kia.

2.2.Từ khái niệm định nghĩa ở trên ta có thể thấy quá trình tập trung hóa diễn ra
theo hai hướng chính:

• Sáp nhập: đây là quá trình tập trung hóa được tiến hành trên nguyên tắc
hợp nhất, thông qua sáp nhập hoặc trên những nguyên tắc ký kết đối tác để hình thành
nên những tập đoàn báo chí lớn hoặc những công ty truyền thông lớn dựa trên sức mạnh
và tiềm lực của cả hai gộp lại.

Ví dụ lần sát nhập giữa AOL và Time Warner năm 2001:

 Time Warner
- Nền tảng: là sự sát nhập của Warner Communication và Time Inc, năm 1987.

- Trụ sở: New York, Mỹ.

- Những nhà lãnh đạo chủ chốt: Richard D.Parsons, chủ tịch Jeffiey L.Bewkes; và
tổng giám đốc điều hành Wayre Pace cùng các CFO khác.

- Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu: phát thanh, xuất bản, in, viễn thông.

- Thu nhập: 50.48 tỉ $ (2008)

- Nhân viên: 86.000 (31/12/2007)

 AOL

- Là tên viết tắt của American Online, là một tập đoàn chuyên
cung cấp dịch vụ Internet trên toàn cầu.

- Thành lập năm 1985, có trụ sở tại Duless, Virginia, Mỹ.

- Những nhà lãnh đạo chủ chốt: Randy Falco, Ted Leoniss, Ronald Grant.

- Lĩnh vực kinh doanh chính: cung cấp dịch vụ Internet trên tòan cầu

- Khẩu hiệu: “See what’s here for you”

 Sự sát nhập của AOL và TIME WARNER

· Ngày 11/2/2000 : AOL và Time Warner chính thức sát nhập và mang tên AOL
TIME WARNER (A-T)

· Vào thời gian AOL và Time Warner hợp nhất, giá cổ phiếu của AOL tăng cao do
sự bùng nổ của các công ty dotcom. Tập đoàn sáp nhập AOL Time Warner hiện có 135
triệu khách hàng; chỉ riêng AOL đã thu hút thêm được 1,3 triệu khách hàng mới trong
năm 2001. Tuy nhiên, sau khi bong bóng Internet xẹp xuống, giá cổ phiếu của hãng này
đã giảm rất mạnh
· Công việc thống nhất hoạt động kinh doanh của hai công ty cũng có rất nhiều khó
khăn. Có một khoảng cách văn hoá kinh doanh lớn giữa hai công ty bởi AOL mới có
thời gian hoạt động 20 năm, trong khi Time Warner đã có thâm niên tới 78 năm, với
những ấn phẩm báo chí uy tín từ Fortune tới Sports Illustrated. Đã có những lời kêu ca,
phàn nàn từ phía các phóng viên của Time và CNN tỏ ý lo lắng việc xiết chặt chi phí
hoạt động có thể ảnh hưởng tới chất lượng các bài báo.

· Năm 2001, sau khi sát nhập, hoạt động kinh doanh của tập đoàn này rất ảm đạm.
Cổ phiếu của AOL TIME WARNER đã giảm 9% mặc dù lợi nhuận trước thuế đã tăng
20%, đạt 2.5 tỷ $.

· Tính riêng trong quý I/2001, A-T lỗ 1.8 tỉ $. Nguyên nhân chính gây ra sự thất bại
này là do doanh thu quảng cáo của hãng giảm sút tới 14%.

· Ngay việc sáp nhập AOL và Time Warner cũng đã có nhiều khó khăn. Với số vốn
210 tỷ USD, giờ đây tập đoàn AOL Time Warner đã lớn gấp đôi đối thủ cạnh tranh lớn
nhất của mình là Viacom với số vốn gần 100 tỷ USD. Hai tổng hành dinh cách nhau hơn
320 km: tổng hành dinh của AOL ở miền bắc Virginia, hiện là văn phòng điều hành của
ông Case, và tổng hành dinh của Time Warner tại Manhattan là văn phòng của ông
Levin. Tổng số nhân viên của tập đoàn hiện lên tới 90.000 người.

· Tháng 5/2002, ông Ted Turner (phó chủ tịch) quyết định ra đi, gây nhìêu xáo trộn
trong hoạt động kinh doanh của tập đòan. Chủ tịch AOL TIME WARNER Steve Case
cũng thôi giữ chức và tổng giám đốc điều hành Dick Parsons sẽ thế chỗ.

· Báo chí đưa tin rằng Time Warner đã đàm phán căng thẳng trong suốt cả năm qua
về tương lai của AOL, không loại trừ cả khả năng bán tống bán tháo toàn bộ gánh nặng
này (AOL bắt đầu sáp nhập vào Time Warner từ tháng 1/2001). Nhưng càng về đến cuối
năm 2005, ý tưởng "hợp tác" càng được chú ý: nhiều khả năng được đặt lên bàn: bắt tay
cùng công cụ tìm kiếm MSN của Microsoft chăng, hay siết chặt thêm quan hệ quảng cáo
với Google, hãng đang cung cấp công nghệ tìm kiếm cho AOL.
· Sự dùng dằng trong tương lai của AOL đang cho thấy một thực tế: đến giữa thập
kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ thứ 3, khu vực online đang bị chia rẽ thành 2 tuyến: một
bên là những hãng thành công trong việc kiếm tiền từ tìm kiếm và cung cấp dịch vụ Web
còn một bên là những kẻ "trâu chậm" không muốn uống nước đục.

· Năm 2005-2006, tập đoàn này đã làm ăn khấm khá trở lại.

· Năm 2006, Công ty này nói lãi ròng trong quý ba năm nay (2006) tăng lên thành
2,3 tỷ USD từ con số 853 triệu quý ba năm ngoái.Thu nhập của Time Warner tăng 7%
thành 10,9 tỷ USD, được đẩy mạnh nhờ việc hãng này mua lại công ty Adelphia
Communications. Tháng trước, Time Warner đã bán hoạt động tại Anh của mình cho
công ty Carphone Warehouse với giá 370 triệu bảng Anh. Tập đoàn này, vốn sở hữu cả
xưởng phim Warner Bros và kênh truyền hình CNN, cho hay thu nhập từ AOL tăng tới
46%.Time Warner đã cải tổ hệ thống AOL hồi mùa hè để tăng lợi nhuận, cắt giảm 5.000
việc làm. Sau việc hãng này mua lại công ty Adelphia hồi đầu năm, nay Time Warner
trở thành tập đoàn dịch vụ truyền thông cáp lớn thứ hai Mỹ, với trụ sở chính tại New
York và Los Angeles. Cổ phiếu của Time Warner cũng tăng tới mức cao nhất trong bốn
năm nay vào tháng trước.

· Người ta cho rằng ban quản trị Time Warner muốn xóa chữ AOL trước tên công ty
này một vài lần nhưng kế hoạch chỉ được thực hiện khi giám đốc AOL Jonathan Miller
cho phép vào tháng trước. Ông Miller có quan điểm trung lập trong mối cửu hận giữa
AOL và ban điều hành Time Warner – như cách dùng từ của báo chí Mỹ.

·Ngay từ quý I/2007, Time Warner – đứa con được cưng chiều và kỳ vọng bậc nhất
của làng truyền thông Mỹ đã được đón nhận niềm vui lớn: về nhất trong cuộc bình chọn
những tập đòan truyền thông hùng mạnh nhất hành tinh ( Top Thirty Global Media
Owners). Với 29.8 tỉ $ doanh thu đạt được trong năm tài chính 2005-2006, gấp đôi
doanh thu của anh chàng News Corp, Time Warner đã trở thành người đi đầu trong cuộc
bầu chọn danh tiếng của Zenith Optimedia Group, vượt mặt 30 anh tài khác một cách
đầy thuyết phục.
• Thôn tính, thâu tóm: đây là quá trình tập trung hóa diễn ra bằng cách một
công ty hoặc một tập đoàn lớn mua lại các công ty khác và củng cố công ty ban đầu
thành những tập đoàn báo chí hùng mạnh.

Ví dụ: quá trình thâu tóm các công ty khác của tập đoàn báo chí News
Corporation – Rupert Murdoch:

Ông trùm truyền thông Rupert Murdoch sinh ngày 11/3/1931 tại Melbourne,
Australia. Trước đây, nhà tài phiệt này đã từng học ở Đại học Oxford danh tiếng và làm
việc cho tờ Daily Express trong hai năm. Năm 1952 ông trở về Australia và thừa kế tờ
The Adelaide News của Keith Murdoch, cha ông. Đó là một tờ báo tỉnh lẻ hạng hai. Mục
tiêu của ông lúc bấy giờ là mang tờ Tin tức Adelaide vươn ra khỏi thị trấn Adelaide. Kể
từ đó, cuộc đời của Rupert Murdoch luôn gắn liền với những thành công mang tầm quốc
tế, ông từng bước sở hữu hết tờ báo này đến tờ báo khác ở khắp mọi nơi: ở Sydney là tờ
Mirror, ở London là các hãng News of the World và the Sun, ở New York là tờ New
York Post.

Năm 1954-1965: mua tờ The Sunday Times, Tạp chí Perth và New Ideas.

Năm 1963: sở hữu Wollonggong Win4 TV. Sau đó, ông mua thêm Kênh 9 của đài
truyền hình Sydney.

Năm 1977: Mua thời báo New York Post với giá 30 triệu USD, đến năm 1988 bán
sang tay để có tiền mua đài truyền hình và cuối cùng lấy lại vào năm 1993. Murdoch đã
vào thị trường truyền thông Mĩ bằng cách mua tờ San Antonio News (1973), ngay sau
đó sáng lập tờ National Star.

Năm 1979, Murdoch thành lập News Corporation trên đất Úc và bắt đầu thu mua
những tờ báo và tạp chí hàng đầu London (Anh) và New York (Mĩ), cũng như thu mua
nhiều tập đoàn truyền thông khác.
Năm 1985, Murdoch nhập quốc tịch Mỹ để có thể dễ dàng mua các đài truyền hình
Mỹ hơn. Cũng trong năm này, ông đã sở hữu 50% hãng phim 20th Century Fox.

Năm 1986: Ông tiếp tục mua hãng MetroMedia, hãng này sở hữu 7 đài truyền hình
lớn nhất nước Mỹ với giá 1,55 triệu USD. Ông phát triển sang Hongkong và mua tờ The
South China Morning Post. Kết hợp với 20th Century Fox Studio, “bộ sậu” này đặt nền
móng cho việc sáng lập kênh truyền hình Fox Television Network.

Năm 1988: Chi 3 tỷ USD để mua TV Guide, sau đó sáp nhật với công ty tương tác
truyền hình Gemstar.

Năm 1989: Thành lập kênh truyền hình qua vệ tinh Sky TV với 4 kênh phát sóng
trên toàn nước Anh, một năm sau sáp nhập với công ty British Satellite Broadcasting
(lúc đó đang làm ăn thua lỗ) thành hãng BSkyB. Khối liên minh sau đó lỗ tới 2 tỷ USD
và rơi vào khủng hoảng tài chính, nhưng dưới bàn tay của Murdoch đã trở thành BskyB
hùng mạnh như ngày hôm nay.

Khi đã thành lập News Corp, Murdoch bắt đầu “tiến công” sang lĩnh vực phim ảnh
(xưởng phim nổi tiếng nhất của News Corp là 20 th Century Fox - Hãng phim này đã
được công ty News Corporation của Murdoch mua lại từ những nhà sáng lập Star với giá
825 triệu đô la. 20th Century Fox nằm trong tập đoàn Fox Entertainment Group Inc.
(FEG). News Corporation sở hữu 85% cổ phần của tập đoàn này) và phát thanh truyền
hình. Hiện nay, mạng lưới truyền hình Fox (do công ty con Fox Broadcasting Company
điều hành) đã lan toả đến 96% hộ gia đình Mĩ. Trong thập niên 1980, News Corp của
Murdoch vươn tới lĩnh vực truyền hình và phim ảnh: ở Hollywood ông sở hữu hãng
phim 20th Century Fox và hãng truyền hình Fox TV, ở Luân Đôn mua tờ Times và
Sunday Times, ở châu Á ông mua đài truyền hình Star Television. Hiện nay, tập đoàn
này đang nắm giữ lượng cổ phần khổng lồ của nền công nghiệp báo chí Australia, giữ
1/3 số tờ báo và BSkyB (hãng truyền hình vệ tinh) ở Anh. Gần đây, Murdoch đã mua đội
bóng chày Los Angeles Dodgers.
Ở Anh, thông qua công ty con News International, News Corp của Murdoch có ảnh
hưởng mạnh mẽ trong làng báo Anh, đặc biệt là từ khi sở hữu hai hệ thống báo Times
Newspapers và News Group Newspapers (khoảng thời gian cuối thập niên 80 của thế kỉ
20) và một phần hệ thống truyền hình trả tiền BskyB (năm 1990).

Vào năm 1993, News Corp mua 63,6% cổ phiếu của công ty Star TV có trụ sở tại
Hồng Kông với giá 525 triệu USD. Kênh truyền hình vệ tinh này hiện đang giúp các
chương trình của News Corp đến với trên 300 triệu người xem trên 53 quốc gia toàn thế
giới với tham vọng tiến vào thị trường truyền thông Trung Quốc, bởi đây là kênh truyền
hình vệ tinh phát khắp khu vực châu Á. Ông trùm truyền thông Rupert Murdoch rất tâm
đắc với kế hoạch này, đặc biệt là khả năng chương trình sẽ trở thành đòn bẩy cho hãng
phim Twentieth Century Fox của tập đoàn thâm nhập vào thị trường châu Á rộng lớn.

Trong suốt thập niên 90 của thế kỉ 20, News Corp chiếm thị phần lớn trong lĩnh
vực truyền hình trả tiền ở cả 3 châu lục. Năm đầu thế kỉ 21, News Corp thành công trong
lĩnh vực kinh doanh Internet với AOL.

Năm 2003: Sau trận “hỗn chiến” với các đối thủ đấu thầu, Murdoch giành quyền
kiểm soát đối với 38% cổ phiếu (trị giá 6,8 tỷ USD) của công ty truyền hình qua vệ tinh
DirecTV.

Trong năm 2005, Rupert Murdoch đã từng chi 580 triệu USD để giành lấy
MySpace trước con mắt tiếc rẻ của những công ty truyền thông khác. Trang web
MySpace.com do InterMix Media sở hữu, mới chỉ hai năm tuổi nhưng chỉ riêng 1 tháng
đã thu hút được 18 triệu lượt người tới để nghe hay xem hàng trăm ngàn nghệ sĩ cho
phép công chúng nghe thử các tác phẩm của họ trước khi chúng xuất hiện tại các cửa
hàng.Sau đó chỉ một năm, Google đã cam kết với News Corp về việc phân chia số tiền
900 triệu USD là doanh số quảng cáo cho 3 năm sau khi thỏa thuận trở thành công cụ
tìm kiếm trên mạng đặc biệt cho trang web MySpace. Cũng trong năm 2005, News
Corporation mua tiếp trang web Scout.com, một trang web thể thao trường học. Và vào
tháng 09/2005, News Corp tiếp tục mua lại IGN Entertainment, một trang web trò chơi
video và giải trí, với giá 650 triệu đôla

Năm 2007: Nhà tài phiệt truyền thông Rupert Murdoch đã thắng trong cuộc chiến
giành quyền kiểm soát đối thủ cạnh tranh của mình là hãng truyền thông Mỹ Dow Jones,
chủ sở hữu của tờ nhật báo nổi tiếng phố Wall. Tin tức cho biết chủ sở hữu News
Corporation sẽ trả 5,6 tỉ USD cho Dow Jones sau khi hai bên đạt được thoả thuận cuối
cùng. Điều quan trọng nhất là ông trùm Murdoch đã thành công trong việc đảm bảo sự
hậu thuẫn của gia đình Bancroft hiện là chủ sở hữu 64% số cổ phần trong Dow Jones. Tờ
nhật báo phố Wall là một trong những tờ báo thành công và có ảnh hưởng nhất trên thế
giới. Trong những năm trở lại đây, tờ báo này có số lượng phát hành lớn nhất trong số
các tờ báo ở Mỹ là 1,7 triệu tờ mỗi ngày.

Tờ nhật báo phố Wall được biết đến về các bài tường thuật và bình luận có giá trị
mặc dù không phải tất cả đều đồng ý với những quan điểm của tờ báo này vốn được xem
là rất bảo thủ. Giới chính trị và tài chính đánh giá đây là tờ báo "phải đọc" và đến mức
nó có biệt danh là "kinh thánh của công việc". Tờ nhật báo phố Wall phát hành bản châu
Á năm 1976 và bản châu Âu năm 1983. Hiện trang web của tờ báo này có hơn 930 ngàn
độc giả thuê bao.

Trong khi đó, tập đoàn truyền thông Dow Jones sở hữu nhiều công ty chuyên cung
cấp thông tin tài chính như hãng tin tài chính Dow Jones Newswires cùng những tờ báo
và kênh truyền hình khác.

Tập đoàn truyền thông News Corp đã


khiến nhiều nhà phân tích ngạc nhiên khi
quyết định đặt giá đầu tiên đến 5 tỷ USD để
mua Dow Jones vào tháng 5 vừa qua. Được
biết, ông Murdoch trước đó đã chú ý tới tờ
nhật báo phố Wall vốn được đánh giá như
viên kim cương trên vương miện của công
việc kinh doanh của Dow Jones. Hầu hết các tờ báo của News Corp hoạt động trong thị
trường nội địa, trong khi tờ nhật báo phố Wall là một trong số ít các thương hiệu báo chí
mang tính toàn cầu. Việc sở hữu tờ nhật báo này đã đánh dấu một thành công mới và
góp phần làm cho thương hiệu News Corp ngày càng trở nên nổi tiếng.

Mặc dù ban điều hành của Dow Jones đã ủng hộ thỏa


thuận về thương vụ này nhưng một trong những Giám đốc
của hãng, ông Dieter von Holtzbrinck đã từ chức để phản
đối vì lo lắng ảnh hưởng của thoả thuận đến sự độc lập trong
biên tập của tờ nhật báo phố Wall tuy News Corp đã hứa sẽ
tôn trọng và bảo vệ vị trí của tờ báo.

Theo nhiều chuyên gia phân tích, Rupert Murdoch bỏ ra hơn 5 tỉ USD để mua tờ
báo này bởi bốn bốn mối lợi được xem xét: mở rộng thị phần của tập đoàn ra toàn cầu vì
trước giờ báo của News Corporation chỉ là báo địa phương; nâng cao thanh danh của
vương quốc Murdoch nhờ vào uy tín nghề nghiệp của WSJ trong giới kinh doanh toàn
cầu; tìm thêm lợi tức trên thị trường cổ phiếu và cuối cùng, hưởng lợi từ thị trường
quảng cáo tăng mạnh sau thương vụ thắng lợi này.

Năm 2008: Rupert Murdoch “nhảy” vào tranh giành Newsday cùng hai ông lớn
khác trong ngành kinh doanh truyền thông ở New York. Đây là tờ báo in lớn nhất của
Long Island – hòn đảo ở phía Tây Nam thành phố New York thuộc tập đoàn truyền
thông Tribune.

Tập đoàn truyền thông Tribune, chủ nhân của tờ báo in


Newsday - vừa công bố bản báo cáo tài chính trong năm
2007. Chỉ tính riêng quý tư của năm 2007, tờ báo đã chịu lỗ
78.8 triệu USD. Con số này quả là không tưởng tượng được
nếu đem so với mức lợi nhuận 239 triệu đô cùng kỳ năm
trước đó. Cả năm 2007, Newsday chỉ thu lãi khoảng87
triệu đô – giảm 594 triệu so với năm 2006.
Ba đại gia được điểm mặt đặt tên trong cuộc chiến tranh giành Newsday lần này
gồm có Rupert Murdoch, chủ tịch tập đoàn News Corporation, ông chủ của tờ The New
York Post; Mortimer B.Zuckerman – nhà kinh doanh bất động sản và là chủ nhân của
tờ The Daily News; James L.Dolan - thành viên trong tập đoàn gia đình quản lý
Cablevision – một kênh truyền hình cáp.

Mùa thu năm 2007, Newsday đã từng báo cáo mức phát hành ấn phẩm mỗi tuần đạt
khoảng 387.000 tờ - đứng thứ 10 trong top những tờ báo in bán chạy nhất trong cả nước
(và là mức cao nhất dành cho một tờ báo chỉ phục vụ nhu cầu thông tin cho người đân ở
vùng ngoại ô chứ không hẳn trong nội vi thành phố). Trong khi đó, The Daily News và
The New York Post lần lượt chiếm vị trí thứ năm và sáu với số lượng phát hành ở mức
tương đương nhau, vào khoảng 681.000 và 667.000 tờ. Điểm mạnh của The Daily News
nằm ở số ấn phẩm phát hành dành riêng cho ngày Chủ nhật đạt 726.000 tờ năm 2007.
Đây cũng được xem là “ngày cuối tuần rực rỡ” cho các hoạt động quảng cáo trên trang
báo. Trong khi đó, đã nhiều năm nay tờ New York Post không phát hành báo vào Chủ
nhật.

Ông trùm truyền thông hoàn toàn không đề nghị “mua đứt” Newsday. Ngược lại,
ông ta chỉ đưa ra bản hợp đồng theo mô hình liên doanh giữa The Post và Newsday. Bởi
vì Murdoch cho rằng làm như thế cả hai bên đều được lợi và mối quan hệ giữa hai nhà
điều hành của hai tờ báo sẽ trở nên khăng khít hơn. Cả hai bên đã bàn bạc một hợp đồng
trong đó Tribune sẽ chịu trách nhiệm in ấn The Wall Street Journal ở hai bang Florida và
Los Angeles. Sở hữu Newsday có thể sẽ mang lại cho ông trùm Murdoch một cơ hội
vàng để gia tăng sức ép lên tờ The Daily News.

Hiện nay, News Corporation đã vươn tầm thành một trong những tập đoàn truyền
thông báo chí hàng đầu của thế giới với gần 50 nghìn nhân viên làm việc tại hơn 170
chi nhánh đặt tại khu vực châu Á, châu Âu, châu Mỹ. Theo số liệu thống kê năm 2006,
tổng thu nhập của News Corporation ước tính đạt 25,327 tỷ USD.

3. Nguyên nhân dẫn đến tập trung hóa


Quá trình tập trung hóa bắt đầu từ trước năm 1914, thực ra là vào khoảng năm
1892, khi Scripps cùng bạn làm ăn của mình thành lập “chuỗi mắt xích” hay còn gọi là
“báo dây chuyền” đầu tiên trong số 5 tờ báo. Hiện tượng “báo dây chuyền” ra đời nhằm
“khai thác mối liên kết, mối quan hệ giữa nhiều tờ báo để hỗ trợ nhau về phương diện
nghề nghiệp”. Điều đó có thể coi là một nhu cầu tất yếu. Sự liên kết này diễn ra trên cơ
sở các tờ báo có chung một chủ sở hữu (ông trùm), hoặc thuộc về một liên minh báo chí
nào đó (vương triều báo chí). Scripps cũng chính là người đưa ra công thức để thành lập
hệ thống báo chí:

- Người điều hành những tờ báo của dây chuyền phải là những người trẻ tuổi và
đứng tên đồng sở hữu (có chân trong liên minh báo chí), ở vai trò làm chủ bút, hoặc chủ
báo.

- Phối hợp hài hoà giữa hai hành vi sáp nhập (mua lại các tờ báo) và sáng lập. Chỉ
nên sáng lập và mua báo ở những thành phố hạng trung, để tránh tình trạng cạnh tranh
thua lỗ.

- Bán báo giá rẻ, phải trả tiền cho hệ thống phát hành. (Vào thời của Scripps, báo có
giá đồng loạt 1 xu.)

- Vận động cho những mục đích, những lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là tầng
lớp người nghèo.

Đây chính là những điều căn bản mà các tập đoàn báo chí lớn trên thế giới hiện nay
vẫn thường ứng dụng trong chiến lược kinh doanh của mình. Hay nói cách khác nó là
những biểu hiện đầu tiên của quá trình tập trung hóa báo chí.

Những điều kiện tiền đề dẫn đến sự tập trung hóa báo chí có thể kể đến là:

• Những tiến bộ về khoa học kỹ thuật:

- Những tiến bộ khoa học kỹ thuật thời bấy giờ như: 1925: sự phát triển của
máy truyền ảnh (bélinographe) được sử dụng rộng rãi trong việc truyền ảnh đi xa. Điện
thoại xuất hiện trong những năm 1880 rồi cũng được sử dụng rộng rãi trước đó làm thay
đổi sâu sắc cung cách làm báo. In ty-pô vẫn là phương thức in phổ biến của báo chí song
lỹ thuật in hélio và ốp – xét tiến bộ rất nhanh. Hai kỹ thuật này chủ yếu để in các tạp chí.
Tiến bộ của hélio(in ảnh chìm) càng phân biệt rõ nhật báo với những báo khác, nhất là
kỹ thuật này cho phép in màu đẹp. Mỗi nhà in báo giờ đây bao gồm những xưởng
chuyên khắc ảnh, in ảnh; phần minh họa bằng tranh ảnh tăng lên rất nhiều trên các trang
báo. Sự chuyển biến này, đã khởi đầu từ hồi đầu thế kỷ, làm biến đôi bộ mặt các báo, sự
hấp dẫn của báo không còn chỉ ở phần “đọc”.

- Thời kỳ này việc đòi hỏi ấn hành nhật báo hay báo chí định kỳ đòi hỏi
những phương tiện kỹ thuật và nguồn nhân lực lớn đến mức chỉ có những cơ sở báo chí
cỡ lớn mới đảm đương nổi. Từ những máy in quay đầu tiên cho đến máy in linô, ngành
in liên tục có những tiến bộ mới, tốc độ in báo rất nhanh mặc dù mỗi số báo có số trang
càng ngày càng tăng. Những vật tư đắt tiền và cồng kềnh đòi hỏi số tiền đầu tư, cả động
sản và bất động sản lớn.

• Những khó khăn về kinh tế:

- Sự tập trung hóa báo chí diễn ra còn do những cạnh tranh càng ngày càng
được đẩy nhanh qua các cuộc khủng hoảng kinh tế. Tiền sụt giá ở phần lớn các nước
buộc báo phải tăng giá bán, tự nhiên số người mua báo giảm đi và chỉ có những cơ sở
lớn, vững mạnh mới chống chọi lại được. Ví dụ: ở Nhật năm 1917 báo bán 10xu, tăng
lên 15 xu vào năm 1919, 20 xu năm 1920, 25 xu năm 1925, 30 xu năm 1936, 40 xu năm
1937, 50 xu năm 1938 và 1 phrăng năm 1941. Mỗi lần tăng giá là một lần sụt mạnh số
phát hành; tương tự như vậy ở Paris (Pháp) số lượng các đầu nhật báo giảm dần: giảm từ
40 xuống 32, vào năm 1920 báo ở các tỉnh là 220 tờ giảm xuống xuống 175 tờ vào năm
1939.

- Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1930 có hậu quả tai hại đến báo chí,
làm giảm số lượng phát hành, giảm cả nguồn thu từ quảng cáo. Vật tư tăng giá, việc
nâng cao số lượng và chất lượng nội dung khiến giá thành in báo tăng lên, lương trả cho
nhà báo, phóng viên, nhân viên cũng tăng sức ép của công đoàn – mà công nhân ngành
báo chí là một tổ chức đặc biệt mạnh. Tất cả những sức ép đó dẫn đến việc tập trung hóa
để giải quyết những khó khăn này.

• Những cải cách có lợi từ chính trị:

- Từ năm 1871 đến 1879, báo chí vẫn bị các chính phủ đè nén dưới một quy
chế khá nặng nề. Ví dụ ở Pháp: trong cuộc khủng hoảng ngày 16/5/1877: chính phủ
Broglie tìm mọi cách có thể nhằm gây áp lực với cử tri và với những ứng cử viên đối lập
để mình được thắng cử. Các báo có xu hướng cộng hòa phải hứng chịu rất nhiều biện
pháp có khi rất độc đoán, chỉ trong vài tuần có tới hơn 2.000 vụ báo chí ra tòa. Song kế
hoạch đó bị thất bại, và đây là lần cuối cùng báo chí bị chèn ép.

- Sau đó mối quan hệ giữa chính phủ và báo chí dần dần được cải thiện. Phía
chính phủ cho rằng báo chí với sự cạnh tranh lẫn nhau, chia rẽ nhau, chỉ tác động một
cách mơ hồ vào dư luận, khả năng kích động những phong trào lớn như những cuộc biểu
tình cách mạng sẽ không cao. Sự thừa nhận tự do báo chí và sự bãi bỏ những hạn chế về
tính độc quyền góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung hóa. Trong thập kỷ
cuối của thế kỷ XX các đạo luật chống độc quyền trong lĩnh vực các phương tiện thông
tin đại chúng đã mang tính chất tự do hóa đáng kể. Những cải cách này diễn ra ở nhiều
nước mà đầu tiên là ở Mỹ. Ví dụ, chính phủ Mỹ đã hủy bỏ lệnh cấm các công ty cung
cấp dịch vụ điện thoại không được phép thành lập các trường quay của đài truyền hình
cáp. Ở nhiều nước không còn hạn chế về số lượng đài truyền hình thuộc quyền sở hữu
của một cá nhân hoặc một pháp nhân. Đã hủy bỏ những hạn chế đối với việc sở hữu
cùng lúc các đài phát sóng và các kênh truyền dẫn bằng cáp( Nếu như trước kia luật quy
định một chủ nhân không thể có nhiều hơn 50% số đài phát dành cho một t ầng lớp xã
hội. một chủ nhân mạng lưới truyền hình không thể phục vụ hơn 35% số khán giả trên
cùng một địa bàn ấy và chỉ có quyền sở hữu một đài phát(có thể tối đa là hai ở một số
nước) cho một tầng lớp xã hội). Đã có sự cho phép các đài phát thanh trên sóng cực ngắn
phát lại các chương trình phát sóng trên các đài phát thanh sóng trung.…. Nói một cách
khác, pháp luật đã ủng hộ, đồng tính, mở đường cho tập trung hóa phát triển nhanh,
mạnh tất yếu dẫn đến dự hình thành các tập đoàn báo chí hùng mạnh ở các nước TBCN.

Tất cả những nguyên nhân trên chính là những tiền đề quan trọng để dẫn đến sự tập
trung hóa báo chí và sự hình thành nên các tập đoàn báo chí.

4. Những biểu hiện của tập trung hóa báo chí

- Quá trình giản bớt số lượng của những tờ báo độc lập:

+ Cả hai xu hướng phát triển theo chiều dọc và liên kết, bành trướng theo chiều
ngang của các tập đoàn báo chí đều dẫn tới một kết cục chung là tình trạng tập trung,
độc quyền ngày càng tăng. Nếu như vào năm 1892, “chuỗi mắt xích” đầu tiên ra đời ở
Mỹ với sự góp mặt của 5 tờ báo, thì ngày nay, 50 tập đoàn lớn đang kiểm soát hầu hết
các phương tiện truyền thông đại chúng của nước Mỹ. Theo một nghiên cứu của tờ The
Washington Post, trong những năm tới, chắc chắn toàn bộ báo chí Mỹ sẽ tập trung trong
12 tập đoàn lớn nhất. Ở các nước châu Âu, tình trạng cũng diễn ra tương tự. Nhiều tờ
báo nhỏ hoặc là đóng cửa, hoặc là trở thành bộ phận của các công ty lớn. Nhiều tờ báo
nổi tiếng cũng không thể tồn tại độc lập mà đã phải bán lại cho các tập đoàn xuyên quốc
gia.

+ Năm 1999, ở Mỹ trong tổng số 1489 tờ báo hằng ngày thì chỉ có 269 tờ nghĩa là
18% là những tờ báo độc lập còn lại thì đều thuộc quyền ở hữu của các tập đoàn báo chí.
Tổng số các tờ báo hàng ngày cũng tiếp tục giảm. Năm 1998 đã có 20 tờ báo hằng ngày
đóng cửa, tính đến tháng 2/1999 chỉ còn 1489 tờ báo. Trong 10 năm trở lại đây đã có
153 tờ báo hằng ngày chấm dứt tồn tại.Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc này
cũng phải kể đến sự thâu tóm của các tập đoàn báo chí đối với các tờ báo độc lập.

- Sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn báo chí lớn:

Tỉ lệ tài chính trong những phương tiện truyền thông đại chúng chính
Lượng tiền mặt khổng lồ cho Giá của thị trường chứng
các hoạt động sáp nhập và thôn khoán với tư cách là lượng
tính gần đây tiền mặt tăng lên
Báo in 9.5 lên 14 7.9
Truyền hình 10.6 lên16.1 7-8
Hệ thống điện tín 9.4 lên 11.1 8.5
Nguồn: Levingston, Steven and Terence O’Hara. “M cClatchy’s Paper Chase:
Family Owned Chain to by Knight, Plans to Sell off 12 Dailies.” Washington Post, 14
March 2006, p. D1.

Bảng trên thể hiện rõ những số liệu tài chính được trích dẫn theo nguồn của các tập
đoàn báo chí thời gian gần đây mà hình thành trên con đường thôn tính, mua lại, sáp
nhập. Có thể nhận thấy trong cả lĩnh vực báo in và truyền hình thì các công ty càng ngày
càng có xu hướng thích “trở nên to ra” nếu như việc đó đem lại lời ích thiết thực cho họ.
(trích lời của Levingston, Steven and Terence O’Hara trong “M cClatchy’s Paper
Chase: Family Owned Chain to by Knight, Plans to Sell off 12 Dailies.”)

+ Trong xu hướng tích tụ và tập trung tư bản ngày nay, các công ty báo chí truyền
thông ngày càng bành trướng mạnh mẽ bằng cách mua lại, sáp nhập, thôn tính các công
ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh tranh để thành lập nên các tập đoàn báo chí. Với việc bỏ
ra hàng tỷ đô la, các ông chủ này đã đẩy nhanh những sự tập hợp mới trong lĩnh vực báo
chí, truyền thông đại chúng, tạo ra quy mô hoạt động, sức mạnh ảnh hưởng vượt ra
ngoài biên giới quốc gia, phạm vi khu vực. Điều này dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các
tập đoàn báo chí lớn trên toàn thế giới đặc biệt là ở các nước TBCN phát triển. Theo số
liệu của Công ty nghiên cứu thị trường Dialogic, trong 5 tháng đầu năm 2007, trên toàn
thế giới đã ghi nhận 372 bản hợp đồng sáp nhập, mua lại giữa các công ty, tập đoàn báo
chí truyền thông với tổng giá trị lên đến 93,8 tỷ USD. Đáng chú ý nhất là hợp đồng sáp
nhập giữa Google và Double Click, trị giá 3,1 tỷ USD hồi tháng 4-2007, hợp đồng sáp
nhập giữa Yahoo với Right Media trị giá 680 triệu USD.

+ Thế giới đang chứng kiến sự tập trung cuồng nhiệt các phương tiện truyền thông.
Từ nhiều năm nay, trong thế giới phương Tây, những ông trùm tư bản ngự trị trong
ngành truyền hình, báo chí và điện ảnh như Ruppert Murdoch, Chủ tịch kiêm Tổng giám
đốc News Corp; Gerald Levin, Chủ tịch Hãng American Online (AOL) Time Warner;
Thomas Middelhoff, đứng đầu Tập đoàn Bertelsmann; hay Jean - Marie Messier, Chủ
tịch Vivendi Universal, đã và đang tiến hành cái gọi là “cuộc chạy đua bành trướng
khổng lồ” bằng cách mua lại, sáp nhập, thôn tính các công ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh
tranh. Bỏ ra hàng tỷ Đôla Mỹ, các ông chủ này, phần lớn là người Mỹ, đã đẩy nhanh
những sự tập hợp mới trong những ngành chiến lược và do vậy, đã tương đồng hoá trên
toàn hành tinh việc xuất bản âm nhạc, các chương trình truyền hình và cả những bộ phim
truyện dài trực tiếp xuất xưởng từ Hollywood. Quyền lực chi phối của các tập đoàn này
gần như mọi mặt của đời sống văn hoá.

Ví dụ như: Công ty Điện lực General Electric năm 1986 đã mua mạng truyền hình
Mỹ NBC; Công ty Viễn thông khổng lồ Mỹ AT&T năm 1999 đã nắm quyền kiểm soát
hệ thống truyền hình “cáp” TCI, rồi đến năm 2004 là mạng Mediaone. Từ năm 1995,
Tập đoàn Viacom đã thôn tính Công ty Điện ảnh Paramount, và Hãng Truyền hình CBS;
Walt Disney đã mua các hãng TV, ABC, Tập đoàn Time Warner đã hợp nhất với Turner
Broadcasting; Tập đoàn Bertelsman và Audiofina đã thành lập Tập đoàn CLT-UFA.
Năm 2000, Tập đoàn AOL tuyên bố hợp nhất với Time Warner. Còn Vivendi và Canal
Plus, một tập đoàn tư bản Pháp đã hợp nhất với Seagram, trở thành Mỹ hoá và là tập
đoàn truyền thông lớn thứ hai thế giới. Rupert Murdoch đã len chân vào ngành Truyền
hình phải trả tiền theo yêu cầu tại Italia và Đức.

Năm 2004, tính theo doanh số, trên thế giới có 7 tập đoàn truyền thông lớn được
xếp hạng như sau: AOL Time Warner: 38 tỷ USD; Vivendi Universal: 27 tỷ USD;
News Corporation: 25,5 tỷ USD; Walt Disney: 25 tỷ USD (Bao gồm hãng ABC
Network, Disney Channel, Walt Disney Pictures, Infoseck...) Viacom: 23 tỷ USD;
Comcast: 19 tỷ USD (Bao gồm CBS, MTV, Paramount....)

- Sự tập trung quyền lực báo chí vào tay một số ít nhân vật:
+ Quá trình tiến công vào các phương tiện thông tin đại chúng đã dẫn đến sự tập
trung tất cả các mạng lưới báo chí vào tay một số ít nhân vật. Theo tính toán của các
chuyên gia Mỹ thì có 50 tập đoàn lớn đang kiểm soát hầu hết các phương tiện thông tin
đại chúng ở Mỹ: 20 tập đoàn trong số đó nắm một nửa tổng số các tờ báo trên cả nước, 4
tập đoàn kiểm soát ngành truyền hình, 10 tập đoàn kiểm soát ngành phát thanh, 12 tập
đoàn thống trị ngành xuất bản sách, 4 tập đoàn ngự trị trong ngành điện ảnh. Đầu những
năm 1980 nếu như tất cả các thành phố Mỹ đều có những tờ báo ngày thì 98% trong số
đó đặt dưới quyền kiểm soát của một trung tâm. Trong tổng số 1700 tờ báo hằng ngày ở
Mỹ có hơn 1000 báo thuộc sở hữu của các tập đoàn báo chí.

+ Khi thâu tóm hoặc sáp nhập các tờ báo khác vào tập đoàn của mình, thường thì
tính chất, định hướng, sắc thái cũng thay đổi theo tùy thuộc vào quan điểm, chính kiến
của chủ sở hữu chúng. Ví dụ tiêu biểu là dưới đế chế báo chí của Rupert Murdoch, sau
khi ông mua lại các tờ báo như New York Post, Chicago, The Sunday Times… thì ngay
sau đó đã có những thay đổi chính sách của bạn biên tập cũng như nội dung của tờ báo.
Chính vì vậy, khi Rupert Murdoch quyết định mua lại tờ nhật báo phố Wall thì một
trong những Giám đốc của hãng, ông Dieter von Holtzbrinck đã từ chức để phản đối vì
lo lắng ảnh hưởng của thoả thuận đến sự độc lập trong biên tập của tờ nhật báo phố
Wall.Tờ nhật báo phố Wall được biết đến với các bài tường thuật và bình luận có giá trị.
Tuy News Corp đã hứa sẽ tôn trọng và bảo vệ vị trí của tờ báo nhưng News Corp và
Dow Jones đã thỏa thuận thành lập một ủy ban đặc biệt gồm 5 người sẽ quyết định việc
tuyển dụng hoặc sa thải Tổng biên tập tờ nhật báo phố Wall, các biên tập viên và Tổng
biên tập tờ Dow Jones Newswires. Ủy ban này sẽ là một phần của những thỏa thuận sau
cùng và được quyết định dựa trên ý kiến thống nhất của cả hai phía News Corp và Dow
Jones trong thời gian sắp tới.

- Sự thống trị của các tập đoàn này đến thị trường báo chí trong nước và quốc
tế:
Tính đến năm 2004, ở Mỹ chỉ còn 5 tập đoàn truyền thông chi phối hệ thống
truyền thông Mỹ
+ Hoạt động xuất bản các tờ báo và các tạp chí lớn nhất ở một số nước có nền báo
chí phát triển cao đều tập trung vào tay các tập đoàn báo chí lớn(các côngxoocxiom xuất
bản, các tờ - rớt báo chí…). Ví dụ: tập đoàn báo chí “Ganet”: năm 1966 tập đoàn này sở
hữu 26 tờ báo hàng ngày và 6 tờ báo chủ nhật. Trong những năm 1980, nó có ảnh hưởng
đối với 88 tờ báo hằng ngày và 23 tờ tuần báo, 13 đài phát thanh và 17 đài truyền hình.
Chỉ riêng việc thôn tính “Evening News Association” đã cho phép tập đoàn này mua lại
hàng chục tờ báo, 2 đài phát thanh và 5 đài truyền hình. Ngoài ra tập đoàn này còn có cổ
phần trong một loạt công ty điện ảnh, các tổ chức thăm dò công luận, các mạng lưới
truyền hình, bao gồm cả truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh ở 35 nước. Cũng tương
tự như vậy, tập đoàn “Capital city communication” trước đây đã từng sở hữu 40 ấn
phẩm định kỳ, 12 đài phát thanh và 7 đài truyền hình, thì đến nay đã mua lại dãng
truyền hình “BBC”. Điều này đã đem lại cho tập đoàn này thêm 12 đài phát thanh và 5
đài truyền hình cộng với hệ thống cung cấp các chương trình của mình cho 1596 đài phát
thanh và 214 đài truyền hình nữa. Qua các con số trên ta có thể phần nào hiểu được bàn
tay của các tập đoàn đã bao phủ gần như toàn bộ nền báo chí của một nước và bắt đầu
vươn ra các nước khác, các châu lục khác. Sự thịnh vượng của đế chế báo chí Rupert
Murdoch cũng là một bằng chứng rõ nét cho sự thống trị của các tập đoàn báo chí đến
với nền truyền thông.

+ Những tập đoàn báo chí lớn thường xuyên bắt tay với những tổ chức ngân hàng
độc quyền quốc gia hoặc xuyên quốc gia. Chính sự bắt tay, xâm nhập lẫn nhau về quyền
lợi giữa giới tư bản công nghiệp và các phương tiện thông tin đại chúng đã đem lại
những khoản lợi nhuận chưa từng thấy trước đây. Một nghiên cứu của giáo sư Piter
Phillips, trường Đại học Sonoma cho thấy 118 người là thành viên hội đồng quản trị của
10 tập đoàn báo chí lớn nhất nước Mỹ cũng đồng thời có mặt ở hội đồng quản trị của
288 tập đoàn kinh tế khác. Trong khi các tập đoàn The tribune, New York Times và
Gannett đều có thành viên ở hội đồng quản trị của tập đoàn Pepsi, thì Coca Cola và J.P.
Morgan lại có đại diện chia xẻ ghế hội đồng quản trị của cả NBC và Washington Post.
Thực tế này cho thấy sự liên kết rất chặt chẽ giữa các tập đoàn báo chí với các tập đoàn
kinh tế. Điều này khiến cho các trùm truyền thông này dễ dàng mua lại lại sáp nhập với
các công ty hoặc các tờ báo mà họ muốn qua việc sử dụng những mối quan hệ chính trị
cũng như thương mại của mình trong việc đạt được những ấn phẩm, hay công ty mà họ
muốn có.
Chương II: Tập đoàn báo chí
1. Khái niệm về tập đoàn báo chí:

Đối với báo chí thế giới, các thuật ngữ như ngành báo chí newspaper industry,
ngành truyền thông media industry và kinh tế báo chí media economics từ lâu đã trở
thành quen thuộc. Đó là vì tiến trình lịch sử của báo chí thế giới đến khoảng giữa thế kỉ
19 đã có một bước ngoặt lớn, những người làm báo bắt đầu chú ý đến mục tiêu kinh tế
trong hoạt động báo chí và biết cách tổ chức điều hành hoạt động báo chí (Mặc dù vậy, ở
thời buổi quảng cáo chưa phát triển, phương cách hữu hiệu để đạt được mục tiêu kinh tế
mới chỉ là cải tiến nội dung để tăng doanh số phát hành.)

Có thể thấy rõ bước ngoặt nêu trên khi nghiên cứu nền báo chí Mĩ – một trong
những nền báo chí mạnh nhất thế giới, đặc biệt là ở giai đoạn sau cuộc nội chiến 1865 –
1867.

Thật vậy, đứng trên quan điểm lịch sử, chúng tôi nhận thấy thực trạng báo chí ngày
nay ở một số quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, có nhiều điểm tương đồng
với thực trạng báo chí nước Mĩ hơn 100 năm về trước, nổi bật là khuynh hướng báo chí
làm kinh tế.

Bối cảnh đó cho phép chúng tôi nhận diện cái nôi hình thành các tập đoàn báo chí –
truyền thông ở Mĩ (nơi xuất phát của các tập đoàn truyền thông lớn nhất thế giới hiện
nay) thông qua ba hiện tượng: sự ra đời của nghề làm báo mới new journalism (phân
biệt với thuật ngữ new media trong thời đại Internet), sự giàu có của nghề làm báo vàng
yellow journalism, và sự hình thành các hệ thống báo dây chuyền newspapers chains.
Nghề làm báo mới ở Mĩ ra đời đưa đến sự phát triển rầm rộ của báo chí Mĩ. Vào
thời kì đó, báo chí trở thành “những công ty hùng mạnh, giàu có, tự đảm bảo được về
phương diện kinh tế và nhờ đó, phát huy tốt hoạt động làm báo”. Đến cuối thế kỉ 19,
báo chí Mĩ đã trở thành một nền kinh doanh lớn, có tính độc lập tương đối trong đời
sống xã hội. Những nhận định trên cho thấy xuất phát điểm của các tập đoàn báo chí
truyền thông phải là những công ty hùng mạnh, tự chủ được về tài chính.

Nghề làm báo vàng đánh dấu sự xuất hiện của những “Citizen Kane” trong làng báo
thế giới, những con người biết cách đem lại sự hùng mạnh cho các tờ báo trên phương
diện làm kinh tế. Báo chí Mĩ thời kì này đã “mấp mé”, “manh nha” hoạt động theo mô
hình tập đoàn. Bằng những tờ báo mạnh, W.Randolph Hearst – ông vua của nghề làm
báo vàng, đã “thật sự thành công, đem lại gia tài đồ sộ”. Hearst không “dừng lại ở lĩnh
vực làm báo, ông ta còn chuyển sang lĩnh vực xuất bản, lĩnh vực tạp chí và ở bất kì lĩnh
vực nào cũng thành công”, đặc biệt là với các tờ hướng đến nhóm đối tượng riêng biệt
như Beautiful House (Nhà Đẹp), Good House Keeping (Nội Trợ Giỏi), … Những nhận
định trên cho thấy hướng phát triển của các “công ty hùng mạnh” chính là từ việc gia
tăng số lượng các ấn phẩm làm ăn hiệu quả, đồng thời mở rộng kinh doanh sang các lĩnh
vực có liên quan đến báo chí.

Bước sang thế kỉ 20, một bước tiến gần hơn với mô hình tập đoàn báo chí, đó chính
là hiện tượng báo dây chuyền, nổi bật với tên tuổi của hai nhân vật E.W.Scripps và
Hearst. Hiện tượng báo dây chuyền ra đời nhằm “khai thác mối liên kết, mối quan hệ
giữa nhiều tờ báo để hỗ trợ nhau về phương diện nghề nghiệp”. Điều đó có thể coi là
một nhu cầu tất yếu. Sự liên kết này diễn ra trên cơ sở các tờ báo có chung một chủ sở
hữu (ông trùm), hoặc thuộc về một liên minh báo chí nào đó (vương triều báo chí).
Scripps cũng chính là người đưa ra công thức để thành lập hệ thống báo chí:

- Người điều hành những tờ báo của dây chuyền phải là những người trẻ tuổi và
đứng tên đồng sở hữu (có chân trong liên minh báo chí), ở vai trò làm chủ bút, hoặc chủ
báo.

- Phối hợp hài hoà giữa hai hành vi sáp nhập (mua lại các tờ báo) và sáng lập. Chỉ
nên sáng lập và mua báo ở những thành phố hạng trung, để tránh tình trạng cạnh tranh
thua lỗ.
- Bán báo giá rẻ, phải trả tiền cho hệ thống phát hành. (Vào thời của Scripps, báo có
giá đồng loạt 1 xu.)

- Vận động cho những mục đích, những lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là tầng
lớp người nghèo.

Đây chính là những điều căn bản mà các tập đoàn báo chí lớn trên thế giới hiện nay
vẫn thường ứng dụng trong chiến lược kinh doanh của mình.

Giả thuyết “ba hiện tượng” được kiểm nghiệm qua lịch sử (tự soạn thảo và đăng tải
trên Internet) của một số tập đoàn báo chí lớn trên thế giới. Cho đến nay, theo quy luật
phát triển của nền kinh tế báo chí, hai hệ thống báo dây chuyền của E.W.Scripps và
Hearst đã phát triển lên thành các tập đoàn The E.W.Scripps Company và Hearst
Corporation tiếng tăm trên đất Mĩ.

Như vậy, con đường phát triển tất yếu của ngành công nghiệp báo chí – truyền
thông là từng bước chuẩn bị những yếu tố cần thiết để trở nên lớn mạnh: đầu tiên là đổi
mới tư duy theo hướng chú trọng mục tiêu kinh tế (nghề làm báo mới), mở rộng hoạt
động kinh doanh sang các lĩnh vực truyền thông khác (nghề làm báo vàng), mở rộng
năng lực quản lý, điều hành đối nội và đối ngoại ở hàng loạt tờ báo (hiện tượng báo dây
chuyền), tham gia năng động vào nên kinh tế như những doanh nghiệp thực thụ (các tập
đoàn báo chí hùng mạnh). Nền báo chí Mĩ đã tuân theo quy luật phát triển đó, được đánh
giá là một trong những nền báo chí mạnh nhất thế giới, sở hữu nhiều tập đoàn báo chí –
truyền thông hàng đầu nhất thế giới. Đối với Mĩ, ngay từ buổi đầu rẽ vào bước ngoặt
kinh tế, người ta đã coi báo chí – truyền thông là một trong những ngành công nghiệp
nặng và cho phép nó phát triển đến mức tối đa.

Hiện nay, báo chí xuất bản bằng tiếng Anh của Việt Nam dịch cụm từ “tập đoàn
báo chí” là “press group”. Tuy nhiên, thông qua một số trang web khác, đặc biệt là trang
web của Hiệp hội báo chí thế giới (World Association of Newspapers - WAN), có thể
thấy “press groups” được sử dụng để chỉ “các nhóm báo in”, không tính đến các loại
hình báo khác. Trong phần giới thiệu các thành viên của mình, WAN đã đề cập đến
“nine regional and world-wide press groups”, nghĩa là “chín nhóm báo in có quy mô
toàn cầu và quy mô khu vực”. Trang web nghiên cứu thị trường MarketResearch.com có
phạm vi nghiên cứu trải rộng trên toàn cầu, đặc biệt là ở Mĩ, Anh, châu Âu và châu Á
cho thấy rõ hơn ý nghĩa của thuật ngữ này. Trong báo cáo về “Báo chí Trung Quốc”
(China Newspaper Industry) xuất bản vào 08/04/2005, MarketResearch.com dùng thuật
ngữ “press group” để chỉ Guangzchou Daily Press Group, mà Việt Nam vẫn quen gọi là
tập đoàn báo chí Quảng Châu. Như vậy, “press group” thông thường được sử dụng để
gọi các tổ chức có hạt nhân là một cơ quan báo in nổi tiếng lâu đời, và cơ quan này có
tham gia các hoạt động kinh doanh bổ trợ khác.

Tuy nhiên, về mức độ phổ biến trong việc chỉ các tập đoàn báo chí – truyền thông,
“press group” phải nhường bước cho một số thuật ngữ khác. Trong buổi đến thăm và
làm việc ở Khoa Ngữ văn & Báo chí (ĐH KHXH & NV TP.HCM) vào ngày
22/02/2006, Giáo sư Richard Shafer (ĐH North Dakota, Mĩ) có lời khuyên nên sử dụng
các thuật ngữ “media conglomerate”, “media convergence” để có thể tiếp cận vấn đề cần
nghiên cứu.

Theo wikipedia, “media conglomerate” dùng để chỉ các tổng công ty sở hữu một
con số lớn các công ty con hoạt động trong những loại hình truyền thông khác nhau như
truyền hình, phát thanh, xuất bản, điện ảnh, và Internet. Xét trên khía cạnh thuật ngữ
kinh tế, “conglomerate” chỉ một công ty lớn (tổng công ty) bao gồm nhiều công ty con
có vẻ ngoài là các doanh nghiệp không liên quan gì đến nó. Cuốn từ điển bách khoa trên
mạng này cũng cho biết: “Một vấn đề được đặt ra, kể từ năm 2006, là liệu các công ty
truyền thông (media companies) có thật không liên quan nhau hay không.”. Và theo
wikipedia, người ta còn sử dụng thêm thuật ngữ “media group” (theo lối hiểu như press
group nhưng bao trùm trên tất cả các loại hình truyền thông, không riêng gì loại hình báo
in)

Trang web wikipedia đưa ra một số “media conglomerate” lớn trên thế giới như:
AT&T, Berlusconi Group, Bertelsmann, Canwest Global, General Electric, Hearst
Corporation, Lagardère Media, Liberty Media, News Corporation, Sony, Time Warner,
The Times Group (phân biệt với Nhóm báo Times của tập đoàn News Corporation),
Viacom, Vivendi Universal, Walt Disney Company, … Tác giả Robert W McChesney
trong bài viết “The New Global Media: It’s a Small World of Big Conglomerate”
(1999) cũng cho biết thị trường truyền thông toàn cầu nằm dưới quyền thống trị của 8
tập đoàn xuyên quốc gia cai trị thị trường truyền thông Mĩ: General Electric (GE), AT &
T/Liberty Media, Disney, Time Warner, Sony, News Corporation, Viacom và Seagram,
cộng với Bertelsmann, một tập đoàn của Đức. Tuy lĩnh vực kinh doanh chính của GE và
AT&T không phải là lĩnh vực truyền thông nhưng GE sở hữu tập đoàn truyền thông nổi
tiếng NBC, AT & T có công ty con Liberty Media, và cả hai tập đoàn này đang có dự
định thu nạp các tài sản truyền thông nếu thấy cần thiết.

Thuật ngữ “media convergence” (hội tụ truyền thông) có những thuật ngữ tương
đồng như “media consolidation” (tập hợp truyền thông) và “concentration of media
ownership” (sự tập trung trong lĩnh vực sở hữu truyền thông). Đây là một thuật ngữ phổ
biến trong giới phê bình truyền thông cũng như các nhà làm luật khi đề cập đến phương
thức sở hữu các phương tiện truyền thông của các doanh nghiệp.

Thuật ngữ “media convergence” có sự liên hệ mật thiết với thuật ngữ “media
conglomerate” ở chỗ sự tập trung sở hữu trong lĩnh vực truyền thông thường kéo theo sự
hình thành các “media conglomerate”. Khi một doanh nghiệp sở hữu nhiều loại hình
truyền thông khác nhau, nó được xem như là một “media conglomerate”. Sáu “media
conglomerate” hiện thời là Disney, Viacom, Time Warner, News Corp, Bertelsmann, và
General Electric sở hữu hơn 90% thị trường truyền thông toàn cầu.

Như vậy, hiện tượng “media convergence” hay “concentration of media ownership”
chính là khởi điểm để hình thành các “media conglomerate” (các tập đoàn truyền thông)
ở các nước phương Tây. Một lần nữa, giả thuyết về con đường hình thành các tập đoàn
truyền thông trên thế giới được khẳng định thông qua chính bản thân các thuật ngữ.
Ngoài ra, trên thế giới còn sử dụng một số thuật ngữ khác dùng để chỉ “tập đoàn
báo chí” như: media organization, media group, media mega-group, media empires,
media giants, media corporations … Nhưng đó là thuật ngữ dành cho các nhà nghiên
cứu. Đối với bản thân các “tập đoàn báo chí”, tên gọi của tập đoàn phụ thuộc vào hình
thức đăng ký kinh doanh. Có nơi gọi mình là company, có nơi lại gọi là group, có nơi
gọi là corporation, có nơi gọi là holdings, … Do đó, việc có hay không có để danh xưng
“tập đoàn báo chí” không quan trọng bằng nội lực thực sự của mỗi doanh nghiệp truyền
thông.

Ở nước ta vẫn sử dụng lẫn lộn hai thuật ngữ “báo chí” và “truyền thông”, đôi khi
đánh đồng chúng với nhau. Do đó, để hiểu cho đúng, phải xem “tập đoàn báo chí” là một
thuật ngữ kinh tế, thuộc về kinh tế truyền thông, có nghĩa hẹp tương đương với thuật ngữ
“press group” và nghĩa rộng tương đương với thuật ngữ “media conglomerate”.

Theo đó, “tập đoàn báo chí” là một tập đoàn kinh tế hoạt động đa dạng trong lĩnh
vực truyền thông, có thể có hạt nhân là một cơ quan báo in, báo hình, hoặc bất cứ loại
hình báo chí nào khác, và cũng có thể tham gia vào một số lĩnh vực kinh doanh ngoài
truyền thông.”

2. Nguyên nhân và dạng thức hình thành tập đoàn báo chí:

Thực chất, tập đoàn báo chí chính là tập đoàn kinh tế mà báo chí, truyền thông đại
chúng là lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính, chủ yếu hoặc là một bộ phận tạo thành có ý
nghĩa quan trọng, có vai trò độc lập tương đối. Trên thực tế, rất hiếm thấy tập đoàn
truyền thông hay báo chí nào không có hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài lĩnh vực
báo chí, truyền thông đại chúng.

Tập đoàn kinh tế có thể hiểu là tổ hợp các công ty hoạt động trong một ngành hay
những ngành khác nhau trong phạm vi một nước hay nhiều nước, trong đó có một “công
ty mẹ” nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các “công ty con” về mặt tài chính
và chiến lược phát triển. Tập đoàn là một cơ cấu có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng
cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận. Về mặt tổ
chức, với hình thức liên kết của nhiều công ty hoạt động trong cùng một ngành, hay
những ngành khác nhau trong một nước hay nhiều nước, thông qua sự điều hành chung.

Sự hình thành của các tập đoàn báo chí cũng xuất phát từ chính những nguyên nhân
đã hình thành các tập đoàn kinh tế:

Thứ nhất, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là dưới tác động của
cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cho phép hình thành việc tổ chức sản
xuất mới trên cơ sở vừa chuyên môn hoá vừa tăng cường liên kết giữa các nhà máy,
doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.

Thứ hai, sự cạnh tranh tất yếu dẫn đến việc liên kết dưới nhiều hình thức khác nhau
để tạo ra sức mạnh to lớn hơn, các nguồn lực mạnh mẽ hơn cho các doanh nghiệp, tạo
nên khả năng cạnh tranh lớn hơn và tránh rủi ro.

Thứ ba, do sự phát triển và tính chất của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự
đầu tư lớn vào nghiên cứu, dự báo, hoạch định chính sách phát triển để đảm bảo sản xuất
kinh doanh có hiệu quả. Công việc này đòi hỏi nguồn lực to lớn mà chỉ có những đơn vị
kinh tế có quy mô lớn mới có khả năng thực hiện.

Theo tác giả Robert W McChesney, có hai dạng thức tập đoàn báo chí truyền thông.
Có thể thấy các tập đoàn báo chí ngày nay phát triển theo hai xu hướng chủ đạo sau:

+ Xu hướng thứ nhất là phát triển theo chiều dọc. Đó là sự phát triển nhằm đảm
bảo sự bao quát đầy đủ các công đoạn sản xuất một loại hình sản phẩm truyền thông (lập
chương trình, sản xuất, phát hành hoặc phân phối), hoặc sự bành trướng, liên kết trong
“nội bộ” các loại hình báo chí truyền thông nhằm tăng cường ưu thế, sức mạnh trong
cạnh tranh. Ví dụ như BBC chỉ tập trung vào phát triển tất cả các công đoạn của 3 loại
hình dịch vụ chính của mình là phát thanh, truyền hình và trang web trên khắp toàn cầu.
Ở Mỹ, có thể nói Gannett Co. Inc là tập đoàn báo chí truyền thông có số lượng đầu báo
lớn nhất. Tập đoàn này đang sở hữu 90 tờ nhật báo (trong đó có USA today - một trong
hai tờ có quy mô toàn quốc và Wall street Journal - tờ báo hàng đầu về tài chính, kinh tế
ở Mỹ), 36 tờ báo định kỳ khác, kiểm soát 10 đài truyền hình, 16 đài phát thanh và một
công ty quảng cáo lớn nhất nước Mỹ.

Hãng Turner Broadcasting System do Robert Edward Turner sáng lập năm 1963 lại
thành công và nổi tiếng chủ yếu do sự nổi tiếng và phát đạt của kênh truyền hình CNN.
Được thành lập và đi vào hoạt động từ 1-6-1960, đến nay CNN đã phủ sóng toàn cầu
thông qua vệ tinh, cung cấp dịch vụ tin tức truyền hình cho hơn 55 triệu gia đình ở Mỹ
và hàng tỷ dân của 92 nước trên thế giới. Năm 1995, CNN đã sát nhập vào Tập đoàn
Time Warner - một đế chế truyền thông có tài sản trị giá 18 tỷ USD.

+ Xu hướng thứ hai là liên kết và bành trướng theo hàng ngang, đầu tư vào những
ngành khác nhau, tạo sự liên kết những ngành báo chí truyền thông, công nghiệp, tài
chính, dịch vụ rất xa nhau để hỗ trợ lẫn nhau, hạn chế rủi ro, tăng cường sức mạnh. Theo
xu hướng đó, năm 1986, Công ty General Electric đã mua mạng truyền hình Mỹ NBC;
Công ty Viễn thông khổng lồ Mỹ AT&T năm 1999 đã nắm quyền kiểm soát hệ thống
truyền hình “cáp” TCI, rồi đến năm 2004 thôn tính tiếp mạng MediaOne. Từ năm 1995,
Tập đoàn Viacom đã thôn tính Công ty Điện ảnh Paramount và Hãng Truyền hình CBS.
Năm 2000, Tập đoàn AOL tuyên bố hợp nhất với Time Warner. Còn Vivendi và Canal
Plus, một tập đoàn tư bản Pháp đã hợp nhất với Seagram, hay việc Rupert Murdoch đã
len chân vào ngành truyền hình phải trả tiền theo yêu cầu tại Italia, Đức và đang chuẩn
bị thực hiện hợp đồng sáp nhập với tập đoàn NewsCorp có trị giá vài tỷ USD.

Về phương diện này, hai tác giả Johannes von Dohnanyi và Christian Moller của
nghiên cứu “The Impact of Media Concentration on Professional Journalism” (Tác động
của sự tập trung truyền thông đối với nghề báo) cũng khái quát: “Sự tập trung có thể
diễn ra theo chiều dọc, tức là tập trung các thể chế kinh tế độc lập với các công đoạn
sản xuất khác nhau lại làm một tập đoàn, hoặc diễn ra theo chiều ngang, tức là sáp
nhập các công ty giống nhau về công đoạn sản xuất.”

3.Những tập đoàn báo chí nổi tiếng trên thế giới:
Trước khi tìm hiểu về các tập đoàn báo chí nổi tiếng trên thế giới, chúng tôi tìm
hiểu về Rupert Murdoch – một trong những người có đầu óc kinh doanh tài tình và nhạy
bén với những chiến lược tuyệt vời. Tập đoàn truyền thông News Corporation của
Rupert Murdoch chính là ví dụ điển hình về con đường hình thành các tập đoàn báo chí
lớn trên thế giới.

3.1. Rupert Murdoch – huyền thoại của nền truyền thông thế giới – ông trùm của
tập đoàn báo chí lớn trên thế giới.

Cái tên Rupert Murdoch đã trở thành một huyền thoại của nền công nghiệp truyền
thông thế giới. Ông là một doanh nhân tài ba đã biến một tờ báo tỉnh lẻ thành một hãng
truyền thông phục vụ một nửa dân số trên thế giới. Hiện nay, Murdoch có tài sản trị
giá 5,1 tỷ USD, sở hữu những tên tuổi truyền thông lớn như 20th Century Fox, The Fox
Network, HarperCollins, tờ The New York Post...

• Trưởng thành từ một môi trường giáo dục nghiêm khắc

Rupert Murdoch sinh ngày 11/3/1931 tại


Melbourne, Australia, trong một gia đình có bố
là doanh nhân khá thành đạt hoạt động trong
lĩnh vực báo chí. Được sống trong một môi
trường có điều kiện vật chất khá thuận lợi, từ
nhỏ, Rupert Murdoch đã được gia đình cho
sang Anh học tập.

Do đó, mặc dù được sinh ra tại Australia


nhưng tuổi thơ và học tập của Rupert Murdoch lại gắn liền với đất nước Anh. Bố của
Rupert Murdoch là một người rất nghiêm khắc trong những vấn đề giáo dục con, ông hy
vọng Rupert Murdoch được một ý thức làm việc độc lập, nghiêm túc ngay từ nhỏ.

Với hy vọng con trai sẽ đi theo nghề làm báo nên để có được một nền tảng kiến
thức vững chắc, bố của Rupert Murdoch đã không tiếc tiền và công sức mời những
người có kinh nghiệm lâu năm trong nghề báo về chỉ bảo cho con. Đặc biệt, ông còn
luôn chứng tỏ cho Rupert Murdoch thấy cậu không thể ỷ lại vào thế mạnh của gia đình.

Có lẽ chính vì cách giáo dục có phần hà khắc của bố mà từ khi còn nhỏ, Rupert
Murdoch đã có được một quyết tâm lớn trong học tập. Sau khi kết thúc chương trình học
phổ thông với kết quả khá cao tại trường Worcester College, Rupert Murdoch đã tiếp tục
thi đỗ vào khoa kinh tế của trường Đại học Oxford.

Trong thời gian học tập tại trường, ngoài việc duy trì tốt các nội dung trong chương
trình học, Rupert Murdoch đã tham gia viết cho tờ báo của trường và nhiều tờ tạp chí
dành cho sinh viên tại Oxford. Một trong những tờ tạp chí danh tiếng mà Rupert
Murdoch đã từng là cộng tác viên khi còn là sinh viên chính là tờ Daily Express.

Những công việc ban đầu này đã giúp Rupert Murdoch có thêm những khoản thu
nhập và tích luỹ được nhiều kiến thức thực tế đồng thời tạo cho Rupert Murdoch có
được tình cảm, niềm say mê đối với nghề làm báo.

Khi đang học tập tại Anh, bố của Rupert Murdoch - ông Keith Arthur Murdoch đã
là một doanh nhân có tiếng trong vùng. Là một người có học thức sâu về lĩnh vực kinh
tế, ngay trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Rupert Murdoch đã có những bài viết sắc
sảo về chiến tranh và ông đã từng được coi là một trong những “nhà sử học của chiến
tranh thế giới thứ I” tại Australia.

Thế chiến kết thúc, Rupert Murdoch đã bắt đầu nghiệp viết báo, bằng chính tài năng
và vốn hiểu biết của mình, sau một thời gian làm việc, ông đã được bầu vào vị trí tổng
biên tập tại chi nhánh Sydney Sun và Melbourne Herald thuộc quyền quản lý của tờ
Times tại Luân Đôn.

Cũng bắt đầu từ thời điểm này, Keith Arthur Murdoch đã bắt đầu có những hoạt
động đầu tư và sở hữu một số tờ báo địa phương. Một trong những số đó là Công ty
News Limited với tờ tạp chí buổi chiều The News. Tuy nhiên, trong những năm cuối
đời, do nhiều nguyên nhân, công việc của Keith Arthur Murdoch đã gặp nhiều khó khăn,
bản thân ông đã phải chịu nhiều khoản thua lỗ và News Limited cũng phải đương đầu
với những khoản nợ trầm trọng.

Năm 1952, khi đó vẫn đang học tại Oxford, Rupert Murdoch đã phải quay về
Australia chịu tang bố và đảm nhiệm công việc phụ trách News Limited. Từ thời điểm
này, Rupert Murdoch đã phải cùng một lúc làm hai công việc, vừa tiếp tục chương trình
học tập, vừa điều hành hoạt động của News Limited.

• Hồi sinh News Limited

Mặc dù đã có những hiểu biết nhất định về nghề báo, nhưng việc điều hành một
doanh nghiệp đang phải chịu những khoản nợ đã trở thành rào cản rất lớn đối với Rupert
Murdoch.

Phần lớn nhân viên đang làm việc tại tờ báo đều có chung một mối lo về sự sụp đổ
của News Limited và không khí làm việc đã bắt đầu nguội dần. Do đó, Rupert Murdoch
đã nhanh chóng bắt tay vào nghiên cứu chương trình khôi phục News Limited.

Để làm được điều này, Rupert Murdoch đã triệt để tận dụng khả năng thuyết phục
và động viên nhân viên của mình tạo nhằm ra một luồng sinh khí làm việc mới cho toàn
chi nhánh. Chỉ một thời gian không lâu sau đó, không khí làm việc hăng hái chưa từng
thấy trước đó đã được đẩy mạnh và tạo được bước chuyển biến đến kinh ngạc tại tờ báo.

Nhiều người khi nhớ lại thời điểm đó đã phải thốt lên rằng “không hiểu tại sao
Rupert Murdoch lại có thể thổi một sức sống mới cho News Limited”. Từ bước khởi đầu
đầy ấn tượng đó, Rupert Murdoch đã bước đầu ổn định được hoạt động của News
Limited, lượng phát hành và tiêu thụ các số báo của The News đã bắt đầu tăng.

Bước vào giai đoạn ngành sản xuất hàng hoá bắt đầu phát triển mạnh, các doanh
nghiệp đều có nhu cầu lớn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để quảng bá
cho các sản phẩm của mình, chính điều này đã tạo ra những cơ hội thuận lợi cho Rupert
Murdoch.
Không bỏ qua dịp may đó, Rupert Murdoch đã tìm cách thiết lập quan hệ với các
doanh nghiệp có nhu cầu quảng cáo sau đó là tập trung vào xây dựng chuyên mục quảng
cáo đi vào chiều sâu cho tờ tạp chí The News. Quyết tâm biến chuyên mục này thành
nguồn phát triển, với nguồn vốn không phải là mạnh của mình, Rupert Murdoch vẫn
quyết định mua lại tờ Sunday Newspaper đang trước nguy cơ phải đóng cửa để khôi
phục hoạt động.

Song song với đó, Rupert Murdoch còn tiếp tục đầu tư một lượng vốn khá lớn vào
nhập dây truyền kỹ thuật in báo khổ nhỏ tiên tiến trong thời điểm đó. Sau một loạt
chương trình đầu tư đó, doanh thu từ các chuyên mục quảng cáo đã tăng lên rất nhanh,
News Limited đã có được những khoản lãi và thanh toán được những khoản nợ trước đó
đồng thời bắt đầu khuyếch trương hoạt động ra các khu vực lân cận.

Hướng tới mục tiêu chiếm lĩnh thị trường báo chí trong nước, trên cơ sở những
thành công đã đạt được, Rupert Murdoch còn tiếp tục mua lại và thiết lập thêm nhiều tờ
báo mới như TV Week, New Idea, The Australian, The Daily Telegraph... Một trong số
đó là tờ TV Week đã từng được tổ chức Southdown Press tại Melbourne bầu chọn là tờ
tạp chí truyền hình thành công nhất.

Nếu như bước khởi đầu chồng chất những khó khăn thì chỉ sau đúng 4 năm, trên
cương vị là người đứng đầu công ty, Rupert Murdoch đã đưa News Limited trở thành
một trong những doanh nghiệp báo chí truyền thông có tầm ảnh hưởng lớn nhất tại
Australia. Hầu hết các khu vực từ thành thị tới các vùng nông thôn đều có sự xuất hiện
các tờ báo của News Limited.

Hoàn tất chương trình chiếm lĩnh thị trường nội địa cùng một nguồn lực hùng
mạnh, Rupert Murdoch tiếp tục khởi động chiến lược khuyếch trương hoạt động ra thị
trường báo chí của các quốc gia trong và ngoài khu vực.

• Xây dựng thành công Tập đoàn News Corporation


Chiến dịch lan toả ra thị trường ngoài nước đầu tiên được
Rupert Murdoch thực hiện chính là Anh Quốc. Đây là một thị
trường có tiềm năng khai thác rất lớn và hơn thế nữa là một
thị trường Rupert Murdoch đã có nhiều năm gắn bó, có nhiều
hiểu biết.

Để có thể đi vào hoạt động ngay khi tiến vào thị trường mới,
Rupert Murdoch đã tìm cách mua lại tờ The News of the
World, một trong những tờ tạp chí có tầm ảnh hưởng lớn tại Anh và nhiều khu vực trên
thế giới. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với Rupert Murdoch trong thời điểm này chính
là việc đối thủ “nặng ký” Robert Maxwell đã có thâm niên hoạt động tại Anh cũng đang
tìm cách mua lại The News of the World.

Quyết dành phần thắng trong cuộc đua này, Rupert Murdoch đã phải bán đi nhiều
cổ phần đầu tư tại nhiều doanh nghiệp và thậm chí là thế chấp nhiều tài sản tại Australia
để vay thêm vốn của ngân hàng. Nhờ chiến lược tổng lực đó, Rupert Murdoch đã thành
công với bản hợp đồng dành quyền sở hữu The News of the World. Tổng số lượng phát
hành lên tới 6 triệu ấn phẩm tính riêng trong năm 1968, The News of the World đã trở
thành một công cụ hữu hiệu không thể thiếu để Rupert Murdoch khuyếch trương hoạt
động tại thị trường Anh Quốc.

Không dừng lại ở đó, nhờ biết triệt để khai thác ưu thế của The News of the World
nên chỉ sau một thời gian không lâu sau đó, cùng với mức tăng trưởng mạnh của The
News of the World, Rupert Murdoch đã không những tạo được chỗ đứng vững chắc tại
thị trường Anh mà còn trả được những khoản vay thế chấp tài sản tại Australia.

Trong những năm tiếp theo, Rupert Murdoch còn thực hiện thành công bản hợp
đồng mua lại tờ The Sun và tờ The Times danh tiếng và vươn lên trở thành một thế lực
hùng mạnh trong lĩnh vực báo chí truyền thông tại Anh.

Có được những kinh nghiệm quý báu từ thị trường Anh, năm 1973, bắt đầu tiến vào
thị trường Mỹ, ngay trong thời gian đầu tiên, Rupert Murdoch đã ngay lập tức mua lại tờ
San Antonio Express-News. Thêm vào đó, nhằm giải toả sức ép cạnh tranh rất lớn từ các
đối thủ mạnh tại thị trường Mỹ, một lần nữa, Rupert Murdoch sử dụng chiến lược đầu tư
tổng lực vào thành lập tờ Star và liên tiếp thâu tóm nhiều tờ báo danh tiếng khác như
New York Post, The Herald and Weekly Times Ltd., Fox Network, Fox News Channel...

Chưa thị trường nào Rupert Murdoch lại thực hiện nhiều thương vụ mua đi và bán
lại như tại thị trường Mỹ. Mới đây, với sức mạnh tài chính của mình, Rupert Murdoch
còn tiếp tục đầu tư 34% cổ phần tương đương với 6 tỷ USD vào hệ thống Hughes
Electronics và mua lại Công ty Intermix Media Inc với mức giá 580 triệu USD. Qua
những thương vụ kinh doanh dày đặc và nhanh đến chóng mặt đó, Rupert Murdoch đã
chính thức đưa tên mình vào vị trí một trong những ông trùm báo chí truyền thông tại
Mỹ.

Cùng với tốc độ phát triển mạnh mẽ đó, Rupert Murdoch đã biến News Limited
thành tập đoàn báo chí truyền thông quốc tế News Corporation. Hiện nay, tính cả kênh
truyền hình qua vệ tinh STAR TV (Asia) hoạt động tại các quốc gia thuộc khu vực châu
Á bao gồm Singapore, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và Việt Nam, News Corporation đã
thiết lập được một mạng lưới tổng cộng hơn 170 chi nhánh trên 3 châu lục của thế giới.

Sau gần cả cuộc đời gắn bó với thương trường, Rupert Murdoch đã tạo dựng được
khối tài sản cá nhân khổng lồ, trị giá 6,7 tỷ USD

• Bí quyết thành công

Giới báo chí được coi như là một cơ quan quyền lực thứ tư của mỗi đất nước (sau
ba cơ quan hành pháp, tư pháp và lập pháp), bởi vậy các ông trùm truyền thông là những
người không mấy ai thích. Rupert Murdoch là ông trùm báo chí đầu tiên trở thành “con
quỷ” của cả thế giới. Ông là đối tượng của nhiều lời chỉ trích, về những tư tưởng chính
trị hữu khuynh của ông, hay về thái độ ''ve vãn'' của ông đối với Trung Quốc bởi vì ông
đang triển khai kế hoạch kinh doanh ở đất nước này. Tuy nhiên, trước búa rìu dư luận,
Murdoch vẫn không hề nao núng, một trong những sức mạnh của ông là ông không quan
tâm đến những lời chỉ trích này.
Trưởng thành trong thời đại toàn cầu hoá, Murdoch là người nhạy bén hơn ai hết
khi sớm nhận ra những cơ hội mà kỷ nguyên khoa học công nghệ mang lại, đó là máy
tính, vệ tinh, công nghệ truyền tín hiệu không dây. Nhờ đó, ông là người đầu tiên tạo ra
hãng truyền thông quốc tế, và thống trị các kênh truyền hình. Ông đã đầu tư những
khoản tiền khổng lồ để xây dựng hệ thống truyền hình vệ tinh BSkyB ở Anh. Sau đó
cũng chính ông phát triển hệ thống vệ tinh truyền hình trên khắp châu Á. Năm1998, dịch
vụ LineOne của Murdoch đã trở thành AOL của châu Âu.

Murdoch có một phong cách làm việc khá độc đáo. Ông không phải là người thích
nói ra những gì mình làm, tự thể hiện mình thông qua cách xử lý công việc hiệu quả và
các mối quan hệ chính trị - kinh doanh đầy quyền lực. Đầu thập niên 1990, sự thống trị
của News Corp bị lung lay do Murdoch đã đầu tư quá nhiều tiền vào kế hoạch truyền
hình vệ tinh ở Anh, thêm vào đó là sự suy thoái của News Corp. Lần đầu tiên, tập đoàn
truyền thông này rơi vào khủng hoảng. Tuy nhiên, Murdoch có điểm thuận lợi là các
ngân hàng lớn của thế giới đều rất tin tưởng vào tài năng kinh doanh của ông, vì thế họ
đã đồng ý quay vòng nợ cho News Corp. Cuối cùng tập đoàn này đã thoát khỏi khủng
hoảng và phục hồi. Kể từ đó, News Corp lại giành lại vị trí ưu thế số một của nó.

Trong số các hãng mà Murdoch sở hữu, Star Television ở châu Á - mua năm 1993
– là hãng gặp nhiều khó khăn nhất. Hãng này rất có tiềm năng phát triển: các vệ tinh
truyền hình của nó phủ sóng từ Nhật Bản cho đến Trung Đông, qua Trung Á, và phục vụ
2/3 dân số thế giới. Tuy nhiên, Murdoch sớm nhận ra rằng hãng này không có thị trường
toàn thể thống nhất mà chỉ có những thị trường theo kiểu khu vực địa phương mà thôi.
Hiện, với kế hoạch xâm nhập thị trường Trung Quốc, ông hi vọng sẽ có thể khắc phục
được khó khăn này.

Ở tuổi thập cổ lai hy, với bảng thành tích phong phú hơn ai hết, Murdoch vẫn
không ngừng cố gắng làm việc và vươn lên. Ông gọi những thành công là một loạt các
trận chiến trong cuộc đấu tranh vì sự phát triển. Cuộc đẩu tranh ấy không bao giờ kết
thúc. Điều đó làm cho News Corp. không ngừng lớn mạnh.
Tới năm 2007, bước sang tuổi 76, Rupert Murdoch đã vươn lên vị trí thứ 32 trong
danh sách những doanh nhân thành đạt nhất thế giới. Mới đây, ông chủ của News
Corporation lại vừa hoàn tất thương vụ mua lại Dow Jones với khoản tiền hơn 5 tỷ USD.

3.2. Tập đoàn báo chí của Mỹ:

• Viacom:

Tiền thân của Viacom là CBS Films,


một nhánh truyền hình của CBS, đến năm
1971 mới đổi tên thành VIACOM
(Video&Audio Communication).

Năm 1985, Viacom mua hãng Warner-


Amex Satellite Entertainment (hay MTV
Networks). Cùng năm Viacom cũng mua tập Tòa nhà của tập đoàn viacom
đoàn Showtime Networks (Bao gồm có
Showtime và Kênh chiếu phim -Movie Channel)

Năm 1986, ông chủ của National Amusements (Giải trí quốc gia) mua lại Viacom
và “mua” lại cả Sumner Restone - Giám đốc Viacom bấy giờ.

Từ đó, Restone tiến hành chiến dịch bành trướng, mua lại Paramout Pictures
(1993) và Blockbuster Video (1994), tạo đà cho Viacom mua lại gã khổng lồ Spelling
Entertainment (kiểm soát hãng ABC và NBC).

Sau đó, đội quân truyền hình đông đảo này sát nhập với Paramount Pictures tạo ra
một Paramout Pictures hùng mạnh như ngày nay.

Năm 1999, Viacom mua BET(Black Entertainment Television) với giá 3 tỉ đô.
Black Entertainment Television (BET) là hệ thống truyền hình cáp đàu tiên tập trung ở
Bắc Phi được Robert L.Johnson tạo lập Vào năm 1979. Hệ thống này được khai trương
vào tháng 1 năm 1980, lúc đầu phát sóng 2 tiếng một tuần. Sau 11 năm, BET trở thành
công ty điều khiển đầu tiên được đưa vào danh sách trong thị trường chứng khoán
NewYork. Năm 2007, BET đạt được lợi nhuận 65 triệu đôla và ngày càng mở rộng hơn
thành những kênh truyền hình có liên quan đến BET và tạo thành một mạng lưới BET
như : BET, các kênh truyền hình kĩ thuật số BET HipHop và BET Gospel.

Không dừng lại ở đó, năm 1999 Viacom tiến hành chiến dịch mua lại lớn chưa
từng có: mua lại chính “phụ thân” CBS với giá khổng lồ là 34,5 tỉ USD. Từ đây Viacom
là chủ sở hữu của mạng truyền hình cáp đồ sộ: TNN, Country Music Television,
Eyemark, King World.

• Lịch sử của CBS:

CBS là hệ thống truyền hình đầu tiên ra


đời vào buổi bình minh của kỷ nguyên truyền
hình. Nó thống trị lĩnh vực truyền hình trong
những năm đầu kỷ nguyên và cho ra các tác
phẩm đặc sắc như I Love Lucy, Dragnet, The
Jack Benny Show, Gunsmoke (thập niên
1950), The Ed Sullivan Show, The Andy
Griffith Show, Candid Camera (thập niên
1960) và các bộ phim truyền hình nhiều tập
nổi tiếng như All In The Family, MASH, The Mary Tyler Moore Show (thập niên 1970).

CBS cũng đem đến cho khán giả Dallas, The Beverly Hillbillies, The Waltons,
Hawaii Five O. Ngày 28/1/1983 CBS phát hành tập cuối cùng của bộ phim MASH, phá
kỷ lục về số khán giả theo dõi trong lịch sử điện ảnh: 60 triệu người. Gần đây hơn là các
bộ phim truyền hình nhiều tập Murphy Brown, Cybill, Medicine Woman, Chicago Hope
và The Nanny. Hôm nay, CBS không còn có sự ưu thế như xưa nhưng bộ phim truyền
hình nhiều tập 60 minutes của nó vẫn rất ăn khách và các chương trình tạp kỹ như
Everybody Love Raymond, Becker vẫn có nhiều người xem. CBS cũng giữ chân được
David Letterman, một tổ sư trong lãnh vực phỏng vấn đối thoại truyền hình trước sự
mua chuộc của đối thủ ABC.

CBS TV City được xây năm 1952 tại địa điểm cũ của sân vận động Gilmore. Đây
là nơi CBS ghi hình nhiều chương trình truyền hình được yêu thích nhất nước Mỹ, các
bộ phim truyền hình nhiều tập và cả các chương trình phỏng vấn như Late Late Show
(do Craig Kilborn chủ trì), Dennis Miller Live. Ngoài ra còn hai chương trình trò chơi
thi đấu: Hollywood Squares và The Price Is Right. Các nghệ sĩ Jack Benny, Bing
Crosby, Krank Sinatra, Doris Day, Steve Martin, George Burns, Elton John, Bob
Hope...đều có các chương trình đặc biệt được ghi hình tại CBS TV City.

Ngày 17/10/1951, khi CBS công bố logo mới CBS Eye có hình con mắt của hãng,
CBS cũng không ngờ logo này sẽ trở thành một biểu tượng của kỹ thuật giải trí Mỹ và
được đánh giá là một trong các logo công ty ấn tượng nhất trong lịch sử thế giới. Ngày
20/10/1951, logo mới chính thức xuất hiện trên kênh TH của CBS và nó vẫn giữ nguyên
hình dạng từ bao năm nay dù đã được thay đổi về màu sắc nhiều lần. Ngày 11/11/2001,
CBS kỷ niệm 50 năm ngày phát hành chương trình TH hài I Love Lucy (bộ phim phát
sóng ngày 15/10/1951, 5 ngày trước khi logo mới ra mắt khán giả TH). Nhân dịp này
hãng sẽ giới thiệu lại quá trình tiến hoá của logo CBS Eye.

Trước những năm 1970, Viacom là “con” của CBS, năm 2000 CBS bị Viacom
thôn tính và trở thành “con” của Viacom. Chỉ 6 năm sau, Viacom và CBS tách ra và
hoàn toàn đứng độc lập: CBS - đứng đầu là Leslie Moonves - hãng phát thanh truyền
hình; và Viacom – chủ tịch là Sumner Redstone - tập trung vào mạng lưới truyền hình
cáp.

Có thể nói quan hệ giữa Viacom và CBS là mối “nhân duyên tiền định”, là biểu
hiện cụ thể và rõ ràng nhất về chuỗi liên hoàn: nhập-tách; tách-nhập của gã khổng lồ
truyền thông nói riêng và cả thế giới truyền thông nói chung.
Vậy mối lương duyên tiền định này mang được lợi gì cho Viacom? Để hiểu được
căn nguyên của vấn đề chúng ta hãy quay trở lại cuộc chia tách lịch sử giữa Viacom và
CBS năm 2006.

• Cuộc chia tách lịch sử: Viacom và CBS

Tháng 7/2000, cổ phần Viacom ở mức kỷ lục: 75,88 đô la nhưng đến 6/2005, mức
giá ở phiên giao dịch giảm hơn 1 nửa.

Chính vì thế Viacom quyết định chia tách với CBS. Mục đích để có được cú lội
ngược dòng thành công khi giá cổ phiếu Viacom đang sụt thê thảm.

Hơn nữa, cuộc chia tách này góp phần củng cố quyền lực của Sumner Restone khi
vị trí của ông đang bị các ứng viên Freston và Moonves dòm ngó.

“Sumner rất khôn ngoan khi tăng giá trị cổ phần nhờ thu hẹp phạm vi hoạt động, vì
sau một loạt cuộc sát nhập giá cổ phiếu của Viacom vẫn sụt giảm”, Richard Greenfield,
nhà phân tích truyền thông của tổ chức Fulcrum Global Partners nhận định.

Khi Viacom tuyên bố chính thức tách khỏi CBS vào 17/3/2006, cổ phiếu của
Viacom ở mức 36,72 đô la ở phiên đóng cửa. Sau đó giá cổ phiếu có xu hướng giảm.
Nhiều nhà đầu tư bắt đầu lo ngại liệu Restone có thể tạo ra kỳ tích hay không?

Đáp lại, Restone chỉ nói, “Viacom và CBS là hai công ty khác nhau, kinh doanh ở
lĩnh vực khác nhau. Khi chúng tách ra, sẽ tối đa hóa lợi nhuận vì mỗi hãng sẽ thu hút
những nhà đầu tư riêng”.

Quả đúng như thế, quý ba năm 2007, Viacom tuyên bố doanh thu tăng 24% (doanh
thu CBS cũng tăng 8%).

Năm 2007, bộ phim phiêu lưu viễn tưởng “Indiana Jones” và series phim truyền
hình “Star Trek” đã hốt bạc về cho Paramount Pictures. Doanh thu Viacom tăng lên
27%, lợi nhuận ròng tăng 80%, cố phiếu tăng thêm 65 cent/1 cổ phiếu, truyền thông
chiếm 60% doanh thu và 92% lãi doanh thu.
“Đó là do nhu cầu quảng cáo tăng vọt do truyền thông giờ đây không còn lệ thuộc
nhiều vào bất động sản và dịch vụ tài chính như trước nữa”, Frederick W. Moran, thành
viên của tập đoàn Stanford cho biết.

• CBS cũng đạt được thành công tương tự sau khi tách khỏi Viacom.

Giới phân tích nhận định truyền hình cáp sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc
liệt với Internet nhưng Viacom tuyên bố sẽ tiếp tục đầu tư mạnh mẽ cho truyền hình cáp.
Giới đầu tư cũng bị kích thích vì Viacom tiếp tục mua lại cổ phần trong suốt quý 3 năm
nay: chi 1,7 tỉ đô la để mua lại cổ phần đã bán ra.

Mua lại cổ phần được coi là cái mốt đang thịnh hành trong giới truyền thông.
Viacom đã kiếm được hơn hàng nghìn triệu đô la từ việc mua bán cổ phần từ trước tới
nay. Vậy bản chất của mua lại cổ phần là gì?

“Mua lại cổ phần - chiến lược đầu tư dài hơi”

"Summer luôn biết làm gì với túi tiền và túi của ông ta luôn đầy tiền": Đó là phát
biểu hùng hồn của ngài chủ tịch quyền năng Sumner Redstone. Chỉ mới đầu năm 2006,
dưới sự lãnh đạo của ông, công ty National Amusements (Công ty Giải trí quốc gia, sở
hữu một chuỗi nhà hát, trực thuộc tập đoàn Viacom) đã bán 184 triệu đô la cổ phần
Viacom với mức giá hết sức “khuyến mại”. Tất cả được tiến hành dưới sự dàn xếp của
ông trùm Sumner.

Khi các nhà đầu tư thấy tình trạng bán ồ ạt của các cổ đông sẽ dự đoán giá cổ phiếu
ngày càng giảm. Khi giá cổ phiếu trên thị trường thấp hơn nhiều so với lúc bán ra,
Viacom lại ào ạt mua về. Lợi nhuận kiếm được từ khoản chênh lệch trong những thương
vụ này không hề nhỏ.

Phát biểu trong cuộc họp báo, Redstone nói: “Viacom là nhà đầu tư chiến lược tài
ba nhất trong ngành truyền thông”.
Tất nhiên bản thân National Amusements muốn bán cổ phần với mức giá cao nhất
nhưng phải tuân theo kế hoạch cũng như sự dàn xếp của Hội đồng quản trị Viacom.
Trước khi tách khỏi CBS, National Amusements bán được 640 triệu đô la cổ phần (năm
2004 và 9 tháng đầu năm 2005) cũng theo sự dàn xếp tương tự.

Khi tách khỏi CBS, Viacom càng thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình mua lại cổ
phần. Theo đó, giá cổ phiếu liên tục giảm. Vào tháng hai, National Amsuements bán 59
triệu đô la cổ phiếu loại B đều đặn. Sau đó, National Amusements tiếp tục bán cổ phiếu
với mức giá thấp hơn và càng ngày càng giảm.

Cổ phần của ông Restone chiếm một tỉ lệ nhỏ nhưng rất quan trọng trong số cổ
phần bán ra từ trước tới nay củaViacom. Sau khi tách khỏi CBS, cổ phiếu Viacom cao
giá hơn CBS và mức cổ tức cũng cao hơn.

Nhiều hãng truyền thông lớn khác như Hãng Time Warner, Tập đoàn News và
công ty Tribune đang tiến hành chiến dịch mua lại để tăng giá cổ phần. Mua lại cổ phiếu
của chính công ty mình với mức giá thấp hơn (lần bán ra) là một cách đầu tư tốt, và tăng
số lượng cổ đông sẽ tăng giá cổ phần. Đó là nguyên tắc kinh tế cơ bản.

Với danh nghĩa chủ tịch Viacom, sau khi buộc phải bán cổ phần của một cổ đông
lớn như National Amusements với mức giá quá thấp, Redstone mới xác nhận Viacom
đang thực hiện kế hoạch mua lại cổ phần.

Tháng 2 năm 2004: Viacom thành công trong thương vụ mua lại hãng phim
DreamWorks SKG với giá 1,6 tỉ đô la Mỹ.

Tháng 4.2006, Viacom đã mua Xfire với giá 102 triệu USD. Xfire là “sàn thi đấu”
cấp thời dành cho các gamer đã ngày càng nổi tiếng hơn sau khi được Dennis Fong, biệt
danh “Thresh”, thành lập vào năm 2001. Trung bình mỗi tháng, một gamer “sống” 91
giờ đồng hồ trên địa chỉ này.

• Viacom là chủ sở hữu của:


* Các hãng phim lớn: Viacom International, Paramount Pictures, DreamWorks,
Republic Pictures, MTV Films, Nickelodeon Movies, Go Fish Pictures

* Các đài truyền hình: Comedy Central, Logo, BET, Spike, TV Land, Nick at Nite,
Nickelodeon, Noggin, The N, Nick Jr., TEENick, MTV, VH1, MTV2, CMT, MHD

*Hãng sản xuất truyền hình: DreamWorks Television

*Hãng sản xuất trò chơi video: Xfire, Harmonix, GameTrailers, Neopets

* Internet Sites: Screwattack

Ngày nay, Viacom là tập đoàn truyền thông giải trí lớn thứ ba ở Mỹ, với hơn 120
mạng truyền hình khắp thế giới. Doanh thu của Viacom trong năm 2005 đã đạt hơn 25 tỉ
đô la Mỹ.

3.3. Tập đoàn báo chí lớn của Pháp:

• Tổ hợp công nghiệp Lagardère: Tổ hợp công nghiệp Lagardère với người
sáng lập là Jean-Luc Lagardère, là một tổ hợp khổng lồ hoạt động trong rất nhiều lĩnh
vực như truyền thông, viễn thông, quốc phòng, hàng không....

Do đây là một tập đoàn hoạt động đa lĩnh vực rất rộng lớn, và thể theo yêu cầu
của đề bài, chúng tôi chỉ chú trọng nhấn mạnh đến sức mạnh của tập đoàn này trong lĩnh
vực truyền thông mà thôi.

 Lịch sử:

Jean-Luc Lagardère (1928-2003) người sáng lập ra tập đoàn Lagardère, ban đầu là
giám đốc điều hành của Matra, siêu tổ hợp về viễn thông và hàng không. Cho đến những
năm 80, Jean-Luc Lagardère đã mở rộng lĩnh vực hoạt động của tập đoàn mình sang
quốc phòng và đặc biệt là truyền thông. Trong lĩnh vực truyền thông, Jean-Luc
Lagardère đã mua lại nhà sách- nhà xuất bản Hachette Livre, rồi kế đến là Hachette
Filipacchi Médias. Hachette Livre hàng năm thu trên 2 tỉ euros, là nhà xuất bản lớn nhất
của Pháp, lớn thứ hai tại Anh và Cannada và lớn thứ 5 trên phạm vi toàn thế giới.
Hachette Filipacchi Médias sở hữu 260 đầu báo trên 34 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong
đó phải kể đến nhật báo Paris Match và tạp chí Elle- tạp chí đầu tiên xuất bản với phạm
vi quốc tế.

Năm đầu của thập niên 90, tập đoàn Lagardère tiếp tục sở hữu Hachette Press- tổ
hợp báo chí chuyên dành cho trẻ em, là sự kết hợp đúp giữa Hachette Filipacchi Médias
và hãng Walt Disney (hãng này từ năm 1934, đã cho ra đời ấn bản báo chí đầu tiên dành
cho trẻ em mang tên: Tờ báo của Mickey). Hai nhánh cuối cùng trong tổ hợp truyền
thông này là : Lagardère Active và Hachette distribution services.

 Các mốc thời gian:

• Năm 1826- Louis Hachette (1800-1864) khởi nghiệp tại Paris với nhà sách Bredif,
và bắt đầu những bước cơ bản các hoạt động truyền thông của Hachette như sách, báo,
xuất bản.

• Năm 1852: Louis Hachette cho thiết lập những thư viện đầu tiên dọc theo mạng
lưới đường sắt quốc gia. Cho đến năm 1900, những thư việc đầu tiên tại các bến tàu
điện ngầm của paris xuất hiện.

• Năm 1855: Louis Hachette là một trong những người tiên phong tại Pháp trong
lĩnh vực xuất bản các tờ báo dành cho đại đa số bố phận công chúng, tờ báo dành cho số
đông.

• Năm 1863:Louis Hachette bắt đầu công việc xuất bản từ điển với người bạn của
mình là Littré.

• Năm 1864: Louis Hachette qua đời

• Năm 1897: sáng lập ra tổ hợp Messageries Hachette, tổ hợp siêu cường về phân
phối sách báo tại Pháp.

• Năm 1900: Bùng nổ hàng loạt các thư viện tại các bến tàu điện ngầm của paris.
• Năm 1905: Mua lại toàn bộ các hoạt động của AGLP, hãng truyền thông sở hữu
phần lớn các tạp chí danh tiếng, và các hiệu sách bán lẻ tại Nam Mỹ và các nước Trung
Âu.

• Năm 1945: Hachette sáng lập ra Elle, một trong những tạp chí hàng đầu thế giới
dành cho phụ nữ, và đồng thời Hachette còn sáng lập ra các tờ nhật báo.

• Năm 1953: Cùng với Henri Filipacchi , Hachette tung ra thể loại SÁCH BỎ TÚI,
nắm thế thượng phong tại thị trường này.

• Năm 1963: Jean-Luc Lagardère được bổ nhiệm là giám đốc điều hành của Matra,
với 1450 nhân sự lúc bấy giờ.

• Từ năm 1967-1975: hàng loạt các thành công trên thương trường của Matra.

• Năm 1981: Jean-Luc Lagardère bắt đầu có những dự định mang tính chiến lược
quan trọng với nhà xuất bản Hachette.

• Năm 1986: Hachette sở hữu Europe 1,1 trong 3 kênh truyền hình phát thanh tư
nhân có mạng lưới bao phủ lớn nhất tại Pháp

• Năm 1987: Phát kênh Europe 2, bắt đầu chuyển hướng sang phát sóng tại hải
ngoại.

• Năm 1988: Hachette sở hữu bách khoa toàn thư Grolier của Mỹ và nhóm báo in
Diamandis, sau này trở thành tổ hợp tạp chí Hachette Mgazine.

• Từ năm 1989-1991: tiếp tục các chuỗi sự kiện của Matra.

• Năm 1992: Sau 1 năm cải tổ chuyên nghiệp lại toàn bộ tập đoàn, sát nhập và ra
đời tổ hợp Matra Hachette, và tập đoàn Lagardère.

• Năm 1993: Nhà sách Hachette tung ra thị trường bách khoa toàn thư đa phương
tiện đầu tiên trên thế giới: AXIS.
• Năm 1995: +Tổ hợp phân phối dịch vụ Hachette (Hachette distribution services)
tuyên bố mua lại được dây chuyền sản xuất tạp chí và báo in tại Canada : UCS, và trở
thành nhà phân phối bán lẻ báo lớn thứ 3 trên thế giới.

+ Elle kỉ niệm sinh nhật lần thứ 50 và chính thức có mặt trên các sạp
báo của 26 nước trên thế giới.

• Năm 1996: nhà sách Hachette sở hữu thêm tổ hợp xuất bản giáo dục lớn thứ 3 của pháp.

• Năm 1997: Nhà sách Hachette thu về nhiều giải thưởng danh giá:

+ Giải Goncourt và giải thưởng của viện hàn lâm Pháp với tác phẩm
Cuộc chiến đấu của Patrick Rambaud

+ Giải Renaudot với tác phẩm: Những kẻ đánh cắp sắc đẹp của Pascal
Bruckner

• Năm 1997: Sát nhập tập đoàn báo chí Hachette Filipacchi Presse và tập đoàn truyền
thông Filipacchi Médias thành Hachette Filipacchi Médias.

• Năm 1998: + sáng lập ra Hachette đa truyền thông, kết quả của sự hợp tác giữu
nhà sách đa phương tiện Hachette Livre và các dịch vụ giáo dục trực tuyến của Grolier
Interactive.

+ phát triển mạnh hệ thống nhà sách Hachette trên toàn thế giới, cùng
với việc mua lại 2 nhà sách khác của Anh là Orion và Cassell.

+ Tung ra bản tin châu ÂU với kênh Eurpe 1 và câu lạc bộ Internet,
dịch vụ thông tin trực tuyến đầu tiên cho cộng đồng các nước nói tiếng Pháp.

• Năm 1999: Sở hữu 80% nhà xuất bản Rusconi Editore của Ý. Arnauld Lagaderè
được đề cử làm giám đốc truyền thông của Eurpe 1.

• Năm 2000: 2 tổ hợp LAGARDERE và CANAL sát nhập lại trong lĩnh vực truyền
hình số.
• Năm 2001: + nhà sách Hachette lại tiếp tục sở hữu nhà xuất bản Bruni của Tây
Ban Nha và phát triển thành nhà sách mang tính quốc tế chuyên hoạt động trong lĩnh vực
sách giáo dục.

+ Tập đoàn truyền thông Hachette Filipacchi Médias đạt được 42% cổ
phần trong tập đoàn truyên thông Mairie Claire (tổ hợp tạp chỉ chuyên các ấn phẩm cho
phụ nữ của Anh).

+ Nhà sách Hachette lại mua được nhóm xuất bản Octopus của Anh-
một trong những nhà xuất bản sách minh họa đầu tiên của Anh.

+ Lagardère mua lại thương hiệu Virgin Stores và sở hữu tạp chí
Virgin MegaStores tại Pháp

• 2002: + ra đời tuần báo Version Femina, tuần báo đầu tiên dành cho phái nữ
của châu âu.

+ Tập đoàn HFM (Hachette Filipacchi Médias) mua lại nhóm báo-tạp chí
Attic Futura của Anh.

+ Mua lại hệ thống cửa hàng Virgin Stores thứ 31 tại Pháp.'

• 2003: + xuất bản SÁCH BỎ TÚI kỉ niệm sinh


nhật làn thứ 50

+ Đám tang của Jean-Luc Lagardère,


đồng thời là sự chuyển giao quyền lực cho người
con trai độc nhất của ông là d'Arnaud
LAGARDERE

+ xuất bản số 3000 của tạp chí Elle

+ ra đời tạp chí Public


• 2004: + LAGARDERE mua 40% Editis (mà tiền thân là tổ hợp truyền thông
Vivendi Unniversal, nổi bật với các tiện ích gam trực tuyến)

+5 triệu ấn bản MẬT MÃ DAVICI do nhà sách Hachette phát hành


được bán hết veo.

+ Tiếp tục nhà sách này lại sở hữu nhà xuất bản Hodder Headline của
Anh

+ Tờ báo Mickey tròn 70 tuổi

• 2005: + Tung ra hệ thống các kênh của Europe2 TV và Gulli (hợp tác với France
Télévisions)

+ Elle sinh nhật lần 60

+ ra đời tờ tạp chí Fujingaho, tờ tạp chí cũ của Nhật nhân kỉ niệm 100
năm nhà văn hóa Nhật tại Paris.

• 2006: + nhà sách Hachette Livre mua lại nhà xuất bản của MỹTime Warner
Books.

+ Chiếm 20% vốn trong tập đoàn tryền hình số Canal.

+ Mở cửa hàng dịch vụ số trên mạng trên các trang web relay và virgin
mega, giúp người truy cập net có thể đặt mua hàng ngàn tít báo để sử dụng.

+ Tuyên bố sự sát nhập của tập đoàn Hachette Filipacchi Médias và


Lagardère Active,tập đoàn truyền thông hoạt động mạnh mẽ trong lĩnh vực phát thanh-
truyền hình, các hoạt động Internet, phân phối phim ảnh. Cũng nhân dịp này, chiếc ghế
giám đốc điều hành của HFM được trao cho Didier Quillot, giám đốc điều hành của tập
đoàn viễn thông Orange

3.3. Tập đoàn báo chí lớn của Anh:

• Reed Elsevier
Reed Elsevier là một công ty xuất bản quốc tế và là một nhà cung cấp thông tin
lớn. Nó được hình thành từ năm 1993 – là kết quả của cuộc sáp nhập giữa Reed
International (một nhà xuất bản sách và tạp chí lớn ở Anh) và một nhà xuất bản khoa học
Elservier NV của Hà Lan.
Chủ tích tập đoàn Reed
• Lịch sử của Reed International Elsevier

Vào năm 1894, Albert E.Reed đã thành lập một xưởng in báo tại Tovil Mill gần
Maidstone, Kent. Đến năm 1903, Albert E.Reed đã nâng cấp xưởng này thành một công
ty. Đến năm 1970, công ty này đổi tên thành Reed International Limited. Công ty này
ngày một lớn mạnh bởi sự sáp nhập với hàng loạt các nhà xuất bản khác cũng như việc
cho ra đời hàng loạt những ấn phẩm nhật báo có chất lượng cao như IPC Business Press
Ltd và tạp chí cho phụ nữ cũng như một số tạp chí gia đình khác như IPC magazines
Ltd. Sau một thời gian, công ty này xuất bản một ấn phẩm mới tên là The Daily Mirror.
Ông chủ của Reed là Methodist đã đưa ra những hình thức đãi ngộ tốt trong công ty của
ông cho những nhân viên phải làm việc trong môi trường in độc hại này. Chính vì vậy,
nhân viên của công ty này được biết đến như những người làm việc có trách nhiệm cao.
Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện đại công ty đã tận dụng tất cả những ưu thế của việc thay
đổi những quan diểm trong những năm 1980 và liên quan đến việc cắt giảm những vận
dụng trên tất cả các hệ thống tạp chí của nó theo sự liên kết phá bỏ sự thừa nhận vào
những năm 1990, mặc dù tính đến nay sự liên kết có thừa nhận vẫn giữ lại được vị thế
của nó ở một vài đơn vị kinh doanh.

• Lịch sử của Elsivier NV

Vào năm 1880, Jacobus George Robert thành lập một công ty xuất bản lấy tên là
NV Uitgeversmaatschappij Elsevier (công ty xuất bản Elsevier NV) chuyên xuất bản
những sách văn học kinh điển và những bộ sách giáo khoa. Tên công ty được Robert đặt
giống với tên của một nhà in cổ của Hà Lan là Elzevie chuyên xuất bản những vở kịch
của Erasmus vào năm 1587. Elservier NV lúc đầu đặt tại Rotterdam nhưng sau đó
chuyển về Amsterdam vào cuối những năm 80.
Mãi cho đến năm 1930, Elsevier vẫn chỉ là một nhà xuất bản nhỏ thuộc quyền sở
hữu của gia đình, với không quá 10 nhân công. Sau khi chiến tranh nổ ra, nhà xuất bản
này đã cho ra đời nhật báo Elsivier Weekblad và nó đã thu lợi lớn. Elsivier sau đó đã
phát triển với tốc độ nhanh chóng. Tập đoàn Elsivier Inc ra đời năm 1951 tại Houston,
Texas đến năm 1962 các nhà xuất bản của nó mở rộng ra thị trường London và New
York. Những sự sáp nhập với cấp số cộng vào năm 1970 đã kéo theo sự thay đổi tên, đó
là nhà xuất bản khoa học Elsivier vào năm 1979. Hai năm sau trước khi sáp nhập với
Reed, Elsivier đã giành được tập đoàn Pergamon ở Anh.

• Những công ty con của tập đoàn này:

Các ấn phẩm của tập đoàn này được xuất bản bởi những công ty con sau:

- Sách khoa học và y học được xuất bản bởi công ty Elsevier

- Sách về luật pháp được xuất bản bởi công ty Lexis Nexis

- Sách về giáo dục được xuất bản bởi công ty Harcourt Education, sau này nó được
bán cho Houghton Mifflin

- Sách về kinh doanh được xuất bản bởi công ty Reed Business information

• Các ấn phẩm chính:

Số lượng ấn phẩm do ScienceDirect(một nhánh của tập đoàn này) xuất bản chiếm
hơn 25% số lượng sách về khoa học, kỹ thuật và y học trên toàn thế giới.

Tập đoàn xuất bản Scopus(một nhánh của tập đoàn này) hiện ra là cơ sở dữ liệu
trích dẫn và tóm tắt các tài liệu nghiên cứu về văn học lớn nhất thế giới.

Reed Business là công ty cung cấp các tạp chí, các cuộc triển lãm, các dịch vụ
truyền thông và marketing online khắp 5 châu lục. Nó có những chi nhánh uy tín với
những dịch vụ chuyên nghiệp trong mọi ngành công nghiệp: các nhánh lớn có thể kể đến
như Variety, New Scientist, totaljobs.com, Elsevier, Kellysearch, and the World Travel
& Tourism Market.

Tháng 2 năm 2007, Reed Elsevier đã bán Harcourt – công ty chuyên xuất bản
những ấn phẩm sách giáo dục của mình. Tháng 4 năm 2007 Pearson – tập đoàn báo chí
quốc tế về thông tin giáo dục tuyên bố họ đồng ý mua Harcourt Assessment và Harcourt
Education International từ Reed Elsevier với giá $950m bằng tiền mặt. Tháng 6 năm
2007 Reed Elsevier tuyên bố rằng họ đồng ý bán công ty Harcourt, bao gồm cả xưởng
in Heinemann, cho Houghton Mifflin Riverdeep Group với giá $4b bằng tiền mặt và cổ
phần.

• Các mốc lịch sử chính của tập đoàn này là:

Năm 1880: Jacobus Robbers thành lập một công ty xuất bản gọi là NV
Uitgeversmaatschappij tại Rotterdam để xuất bản những cuốn sách văn học kinh điển và
những bộ sách giáo khoa. Tên của công ty được đặt giống với một xưởng in của thế kỉ
16 của Hà Lan chuyên xuất bản sách và những vở kịch.

Năm 1894: Albert Reed thành lập một xưởng in ở Anh tại Tovil mill gần Maidstone

Năm 1903: Albert Reed &Co trở thành một công ty độc lập.

Năm 1920:Xưởng sản xuất giấy in của Reed được xây dựng tại Aylesford, Kent

Năm 1931: Elsivier bắt đầu xuất bản những cuốn sách khoa học mang tầm quốc tế

Năm 1937: Elsivier thành lập chi nhánh của mình ở New York tên là công ty xuất
bản Nordesmann

Năm 1946: Thành lập Excerpta medica.

Năm 1947: Harmsworths cho ra đời tờ Daily Mirror.

Năm 1951: Tập đoàn báo chí Elsivier được thành lập ở Houston, Texas
Năm 1954: Reed bắt đầu mở xưởng sản xuất cung cấp các sản phẩm trong xây
dựng

Năm 1955: Reed có xưởng cung cấp giấy ở New Zealand

Năm 1960: Excerpte medica giới thiệu đến công chúng hệ thống dữ liệu online
EMBASE(Excerpta Medica electronic database)

Năm 1960: Những hoạt động đầu tiên của Reed tại Canada bắt đầu với việc mua
(từ tờ Daily Mirror) xưởng báo giật gân của người Anglo – Canada tại Quebec.

Năm 1961: International pusblishing corporation (IPC) mua công ty xuất bản và in
ấn Odhams.

Năm 1962: công ty xuất bản Elsivier tại Mỹ được thành lập.

công ty xuất bản Elsivier tại Anh được thành lập.

Năm 1963: Reed bước vào lĩnh vực kinh doanh báo chí với việc mua công ty trách
nhiệm hữu hạn Spicers.

Năm 1965: Reed mua Wall Paper Manufacturers Limited (Crown, Sanderson) tổ
chức sản xuất các đồ trang trí lớn nhất trên thế giới, cùng với Polycell, một công ty
chuyên làm các sản phẩm DIY(do it yourself).

Năm 1966: Công ty trách nhiệm hữu hạn công nghiệp Reed tổng hợp được thành
lập ở Australia để đem tới lợi nhuận kết hợp của Reed ở Australia/New Zealand.

Năm 1970: đổi tên thành tập đoàn trách nhiệm hữu hạn Reed để phản ánh quy mô
hoạt động rộng khắp của mình. Reed mua International Publishing Corporation (IPC).
Nó bao gồm Mirror Group Newspapers và tất cả lợi nhuận của các ấn phẩm sách, báo,
tạp chí uy tín như Odhams, George Newnes, National Trade Press, Pearsons,
Collinridge, Amalgamated Press, Kellys, Thomas Skinner, Iliffe and Son, Hulton Press
and Butterworths. Nó cũng bao gồm cả 29.2% lợi nhuận của ấn phẩm Cahners tại Mỹ.
Tên công ty mẹ đổi thành Reed International Limited với tên cũ là Reed Group Limited.
Năm 1971: Sáp nhập giữa công ty xuất bản Elsevier NV, công ty xuất bản North
Holland và Excerpta Media để hình thành nên Associated Scientific Publishers.

Năm 1972: Reed Paper Limited được thành lập ở Canada để giám sát lợi nhuận của
Reed ở Bắc Mỹ. MEPC-Reed Properties được hình thành.

Năm 1974: Các hoạt động xuất bản của Reed chủ yếu dựa vào Mirror Group
Newspapers and IPC.

Năm 1975: diễn ra cuộc sáp nhập giữa Uitgeversmaatschappij Elsevier vàEdicom
để hình thành nên Elsevier Nederland. Elsevier Trends Journals bắt đầu hoạt động.

Năm 1977: Tiền đặt cọc ban đầu Reed ở Cahners tăng lên 100%.

Năm 1978: Mirror Group Newspapers đổi tên thành Fleet Street group chuyên sản
xuất những tờ báo bằng kỹ thật xếp chữ trên phim.

Năm 1979: + có sự sáp nhập giữa Elsevier và Nederlandse Dagbladunie.


Associated Scientific Publishers được đổi tên thành Elsevier Scientific Publishers.

+ Chuyển nhượng 49% cổ phần trong MEPC/Reed Properties


Limited.

Năm 1981: Butterworths mua Focal Press Butterworths.

Năm 1982: đổi tên Reed International Limited thành Reed International PLC, mua
được The Update Group Limited.

Năm 1984: + tiếp tục mua International Exhibition Services Group

+ chuyển nhượng Mirror Group Newspapers và công ty in ấn và xuất


bản Odhams cho Robert Maxwell.

Năm 1985: tiếp tục mua công ty R R Bowker thuộc Online Computer Systems Inc.

Năm 1986: + mua cổ phần trong công ty trách nhiệm hữu hạn Direct Broadcasting.
Năm 1987: + mua tập đoàn xuất bản Octopus, tạp chí Variety, tờ báo luật người
Malaixia, và K G Saur Verlag.

Năm 1988: + mua Communications Today Limited (kinh doanh) Big Farm Weekly
(lĩnh vực kinh doanh), Rigby International & Moving into Maths (lĩnh vực giáo dục),
Macgregor Trade Show (triển lãm), D W Thorpe( Australia), Interfama Trade Fairs
(Singapore), Printing News (kinh doanh), Media International (kinh doanh), Industrial
Marketing Digest (kinh doanh), tạp chí PC (kinh doanh), Asian Plastics News (kinh
doanh).

Năm 1989: + mua Martindale Hubbell (luật), Mardev (kinh doanh), Midem (triển
lãm), Printing Views (kinh doanh), Chemical Insight (kinh doanh), tạp chí Mac (kinh
doanh), Electronic-Business Asia (kinh doanh) và Independent Television Publications
với giá £113m.

Năm 1990: + mua Estates Gazette (kinh doanh) với giá £59.4m, Pollution
Engineering (kinh doanh), Library Association Publishing Limited (kinh doanh),
Industrial Seminars Group (triển lãm), AGIFA (triển lãm), Promex - JEDIFA (triển
lãm), Tower Publishing Company (luật).

+ Chuyển nhượng 20.9% lợi nhuận ở British Satellite Broadcasting


còn 10.45% lợi nhuận British Sky Broadcasting

Năm 1991: + mua Rigby (giáo dục) và nhà xuất bản truyền thông The Lancet,
Broadcasting (kinh doanh), Travel Weekly – của Anh, 49% cổ phần của Sepel-Com
(triển lãm), tập đoàn Pergamon của Anh (khoa học) và Maxwell Directories từ Maxwell
với giá £440m, mua 29% cổ phần của Sinclair-Stevenson và vẫn tiếp tục mua thêm vào
năm 1992.
+ Pearson bán 22% cổ phần của Elsevier với giá £313m; Elsevier
cũng bán 8% cổ phần họ có ở Pearson.
Năm 1992: + mua công ty Parker & Son Publications và công ty con Parker
Griffin Publishing Co (luật), Messe Salzburg AG (triển lãm), Digital News and Review
(kinh doanh), Kemps International Film và Television Year Book (kinh doanh),
+ Sáp nhập Reed International với Elsevier NV (trở thành Reed
Elsevier vào tháng 1 năm 1993), Big Farm Weekly với Farmers Weekly (kinh doanh),
Social Worker Today với Community Care (kinh doanh).
Năm 1993: + Sáp nhập giữa Elsevier NV và Reed International PLC hình thành
nên Reed Elsevier plc
+ Mua tập đoàn Digital, Official Airline Guides (kinh doanh) của
Robert Maxwell với giá £275m, Editions Techniques (luật) với giá £76m, 40% cổ phần
của công ty Giuffre (luật) với giá £30m.
+ Chuyển nhượng: cổ phần trong British Sky Broadcasting
Năm 1994: + mua Moving Pictures International (kinh doanh), Times Media
Limited (triễn lãm) , LEXIS-NEXIS (luật).
Năm 1995: + chuyển nhượng Nederlandse Dagbladunie BV (lĩnh vực tiêu dùng),
tờ báo Reed Regional (lĩnh vực tiêu dùng) với giá £210 million, Bonaventura: tạp chí
Special Interest (lĩnh vực tiêu dùng), tạp chí Cahners Consumer, Brabants Nieuwsblad
(lĩnh vực tiêu dùng). Và cũng bán đi Autovisie, Man, Oor, Elegance, Hitkrant and tạp
chí Residence cho De Telegraaf.
Năm 1996: + mua công ty Times Mirror thuộc quyền sở hữu của Shepards (luật)
với giá £105m, công ty Tolley Publishing (luật) từ United News & Media với giá
£100m.
Năm 1997: + mua tập đoàn Colofon (Business), tập đoàn luật Thomson ở Anh
(luật), MDL Information Systems (khoa học và y học) với giá $320 m, Chilton Business
Group (kinh doanh) với giá US$447 m
+ Chuyển nhượng: công ty giáo dục của Reed Consumer Books
với giá £17 million cho Random, Folio Corporation, ELT công ty con của Reed
Educational
+ Tóm lại:liên minh Strategic với Microsoft, Sáp nhập Utell và
Anasazi để hình thành nên REZsolutions.
Năm 1998: + mua công ty Matthew Bender (luật) và 50% cổ phần của Shepards
(luật) với giá US$1.65 tỉ.
+ chuyển nhượng: những tờ tạp chí của IPC với giá £860m, những
cuốn sách trẻ em của Reed,và những cuốn sách của Reed Illustrated
Năm 1999: + chuyển nhượng REZsolutions
Năm 2000: + mua Miller Freeman Europe (kinh doanh) với giá £360m, CMD
Group (kinh doanh), Endeavor Information Systems (khoa học), eLogic (kinh doanh)
+ chuyển nhượng tập đoàn Springhouse cho Kluwer, KG Saur
Năm 2001:+ mua Harcourt General (Science & Medical and Education),
Classroom Connect (Education) với giá US$2.06 tỉ.
+ chuyển nhượng: OAG Worldwide, tập đoàn du lịch Cahners,
Bowker, công ty xuất bản National Register.
Năm 2002: + mua Hanley & Belfus (Elsevier), STM business of Holtzbrinck
(Elsevier), Quicklaw (LexisNexis), MBO Verlag (LexisNexis), FactLANE (LexisNexis)

Năm 2003: + mua CIMA Publishing (Elsevier), Dolan Media’s Public-Records


Businesses, (LexisNexis), Applied Discovery (LexisNexis), Swets Test International
(Harcourt), ACTV’S eSCHOOL (Harcourt).

Năm 2004: + mua J C Raven Ltd (Harcourt), Ordinate Corporation (Harcourt),


Seisint, Inc (LexisNexis), Saxon Publishers, Inc.(Harcourt), Verilaw Technologies
(LexisNexis), Info Sales (RBI), Data.TXT Corporation (LexisNexis), Primary Care
Respiratory Journal (Elsevier).

+ bán Saxon Publishers, BioLink Communications, và bán database


specialist Seisint với giá US$745m

Năm 2005: + mua MediMedia MAP (Elsevier), Rachel Hollingsworth Court


Reporting, Inc. (LexisNexis), Payne-Gallway (Harcourt).
+ bán medical information business MediMedia với giá US$270m

Năm 2006: + mua Syngress (Elsevier), Gold Standard (Elsevier) với giá US$40m,
CMP Technology (Elsevier).

Năm 2008: + bán ChoicePoint với giá US$4.1bn

Reed Elsevier Plc

Nguồn gốc Là kết quả của sự sáp nhập giữa Elsevier and Reed International
PLC năm 1993
Trụ sở chính London and Amsterdam
Người điều hành CEO: Ngài Crispin Davis
Chủ tịch: Jan Hommen
Các lĩnh vực kinh Xuất bản (sách khoa học và sách y học), văn bản luật, sách giáo
doanh chủ yếu dục và sách kinh doanh
Tổng thu nhập £4,584 million (2007)
Operating income £888 million (2007)
Net income £1,203 million (2007)
Nhân công 32,000 (2007)
Các công ty con Elsevier
LexisNexis
Harcourt Education
Reed Business Information
Website www.reedelsevier.com

3.4. Tập đoàn báo chí lớn của Đức:

3.4.1. Bertelsmann AG
Tập đoàn truyền thông Bertelsmann AG thành lập năm 1835, có trụ sở ở
Gutersloh, Đức. Tập đoàn này có đại diện tại 63 nước với đội ngũ nhân viên trên
100.000 người trên toàn thế giới (tính đến 30/7/2006). Năm 2006, công ty thu nhập được
19.3 tỷ euro, lợi nhuận trước lãi vay và thuế là 1.87 tỷ euro, và thu nhập ròng là 2.4 tỷ
euro.

 Lịch sử Bertelsmann

C. Bertelsmann Verlag ban đầu là một cửa


hàng in và trở thành nhà xuất bản tháng 6/1835,
dưới sự quản lý của Carl Bertelsmann. Ban đầu,
Bertelsmann tập trung vào những bài hát và sách
của Christian. Năm 1851, dưới sự dẫn dắt của con
trai Carl Bertelsmann, Heinrich, việc xuất bản sách
mở rộng sang cả khu vực tiểu thuyết. Trong suốt
những năm sau đó, Bertelsmann ngày càng mở rộng
một cách vững vàng và đều đặn. Năm 1939, nhà
xuất bản tuyển 401 nhân viên.

Cuối chiến tranh thế giới thứ 2, nhà xuất bản


bị đóng cửa vài lần do xuất bản báo thương mại phi Trụ sở Bertelsmann
pháp. Thời kỳ Quốc xã, nó xuất bản những cuốn
sách của các tác giả Quốc xã như Will Vesper và Hans Grimm. Năm 1947, công ty được
tái thành lập lại vởi Reinhard Mohn, thế hệ thứ năm của gia đình Bertelsmann.

Vào những năm 1950, Bertelsmann đã mở rộng với hội những người yêu sách
Bertelsmann Leserring (bán sách giá rẻ cho hội viên) và thành lập hãng Ariola Record
năm 1958, đánh dấu một sự xuất hiện mới trong thị trường âm nhạc. Vào năm 1964,
Bertelsmann mua Filmproduktionsgesellschaft Ufa như một sự ghi dấu bước chân vào
thị trường làm phim thương mại. Dây chuyền rạp chiếu phim của Ufa được bán lần nữa
vào những năm 1970. Vào 1969, Bertelsmann mua cổ phần trong nhà xuất bản Gruner
und Jahr (báo, tạp chí), vào năm 1973 trở thành cổ đông chính.

Từ những năm 1980, Bertelsmann đã mở rộng trên toàn cầu: năm 1979, tập
đoàn này mua nhãn hiệu American Arista, năm 1980 mua Bantam Books, 1986 mua nốt
RCA Victor và nhà xuất bản Doubleday. Năm 1992 nó thâu tóm 50% Windham Hill
Record và đến năm 1996 thì nắm quyền kiểm soát toàn bộ. Trong suốt thời kỳ này,
những hoạt động trong thị trường âm nhạc của Bertelsmann đều được thống nhất dưới
cái tên BMG.

Vào năm 1993, Reinhard Mohn với tư cách là người sở hữu Bertelsmann đã
chuyển 68,8% cổ phần Bertelsmann AG của mình sang Bertelsmann Foundation. Đến
năm 2006, gia đình nhà Mohn vẫn sở hữu 74.9% vốn của Bertelsmann

Từ 1995 đến năm 2000, Bertelsmann có được nhà cung cấp dịch vụ Internet
chính kết hợp chung với AOL, mạng lưới rộng khắp châu Âu.

Năm 1995, Ufa Film- und Fernseh-GmbH sáp nhập với CLT, Luxembourg. Kết
quả là RTL được biết đến như một tập đoàn với hệ thống đài phát thanh, truyền hình cá
nhân lớn nhất châu Âu.

Vào năm 1998, Thomas Middelhoff trở thành tổng giám đốc của Bertelsmann.
Ông đã mua nhà xuất bản Random House và tập trung toàn bộ việc xuất bản sách của cả
tập đoàn dưới cái tên nhà xuất bản này.

Năm 1999, Bertelsmann (B) cho ra mắt bol.com, nhà bán lẻ sách qua internet.

Tháng 2/2001, Bruxelles Lambert


Groupe, đứng đầu là Albert Frére, đã
mua 25% cổ phần của Bertlsmann
AG. Tháng 7/2002, tổng giám đốc
điều hành Thomas Middelhoff rời khỏi công ty bởi những bất đồng về chiến lược của
công ty, liên quan tới kế hoạch của ông về 1 loạt cổ phiếu của công ty trên thị trường
chứng khoán.

Năm 2002, Bertelsmann thừa nhận rằng họ đã nói dối về sự liên quan của họ với
Adolf Hitler cũng như Đảng Quốc xã, bao gồm việc kiếm lợi nhuận từ những người lao
động và việc xuất bản những ấn phẩm mang tính tuyên truyền về đức tin. Sự việc này
được tiết lộ trong thời gian họ tiếp quản nhà xuất bản sách Random House của Mỹ năm
1998.

Năm 2003, tổng giám đốc điều hành mới Gunter Thielen mở rộng nhánh âm nhạc
BMG bằng việc mua lại hãng Zomba Record.

Năm 2004, BMG sáp nhập với Sony Music tạo thành công ty
thu âm khổng lồ Sony BMG. Đặt trụ sở tại thành phố New York và do
Sony và Bertelsmann sở hữu với tỷ lệ góp vốn 50-50, hãng Sony BMG
có trong tay các ngôi sao ca nhạc lớn từ ACDC đến ZZ Top và cả các
tên tuổi gạo cội như Bruce Springsteen, Oasis và Placido Domingo.

Bertelsmann bao gồm 6 tập đoàn nhỏ:

- RTL Group: đài phát thanh lớn nhất châu Âu.

- Grunner + Jahr: nhà xuất bản tạp chí lớn nhất


châu Âu.

- Bertelsmann Music Group (BMG): chiếm 50%


lợi nhuận của Sony BMG.

- Random House: nhà xuất bản sách thương mại


lớn nhất thế giới.

- Arvato AG: nhà cung cấp dịch vụ thông tin và truyền thông quốc tế.
Cơ cấu của Bertelsmann

3.4.2. Medienholding (SWMH)

Với việc gom mua một loạt báo chí và nhà xuất bản trong thời gian gần đây,
Medienholding (SWMH) đã nhanh chóng trở thành một trong những tập đoàn truyền
thông lớn nhất châu Âu.

Suốt cả một thời gian gần như công luận và giới truyền thông không mấy ai để ý
đến sự đi lên và phát triển nhanh chóng của tập đoàn SWMH. Hàng chục tờ báo lớn nhỏ
đã thuộc quyền sở hữu hoặc chịu sự kiểm soát của tỉ phú Dieter Schaub. Cho đến nay,
mặc dù đã trở thành một ông trùm truyền thông đầy quyền lực
nhưng Dieter Schaub vẫn là một con người đầy bí ẩn!

Trước kia chỉ một số rất ít người biết tỉ phú Dieter Schaub
cũng như công ty truyền thông Medien Union của ông. Đó cũng
chính là điều mà Dieter Schaub mong muốn. Ông lặng lẽ và bí mật xây dựng tập đoàn
truyền thông SWMH mà lĩnh vực kinh doanh chính là báo chí và nhà xuất bản. Nhiều tờ
báo lớn nhỏ đã bị ông tỉ phú nhiều tiền thâu tóm chỉ qua một đêm.

Hiện SWMH đang nắm cổ phần chi phối rất nhiều tờ báo
Dieter Schaub say sưa
một cách không bình lớn nhất trong khu vực như tờ Người Stuttgart với 75%, tờ tin
thường đối với quyền
lực và sự ảnh hưởng to
tức Stuttgart, Frankfurt với 80% và 62,5% tổng số cổ phần. Hơn
lớn của báo chí đến nền ba phần tư các ấn phẩm báo, tạp chí trong khu vực đều được
kinh tế, chính trị và xã
hội. xuất bản, in ấn bởi một nhà xuất bản của tập đoàn SWMH.

Không dừng lại ở đó, ông trùm truyền thông Dieter Schaub
còn quyết tâm mua cổ phần của DDVG là tập đoàn in và xuất bản lớn nhất nước Đức.
Các cơ quan thẩm quyền, cơ quan cartel chuyên xem xét việc mua bán, sáp nhập các tập
đoàn lớn đã phải chột dạ và thẩm định rất kỹ lưỡng. Họ đang lo ngại quyền lực và ảnh
hưởng của ông trùm truyền thông có thể quá lớn. Nhưng Dieter Schaub làm mọi thứ vẫn
rất đúng luật và trở thành một trong những cổ đông lớn nhất của DDVG.

Ông chủ luôn muốn giấu mình

Dieter Schaub sinh năm 1938 tại Pfalz, một miền nằm Tây Nam nước Đức. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, vùng Pfalz lúc đó đang chịu sự kiểm soát của liên quân đồng
minh. Ông Josef Schaub, cha của Dieter Schaub ngay khi vừa kết thúc chiến tranh đã trở
về quê để tìm việc làm. Đúng lúc đó thì quân đồng minh đang tìm người để lập ra một tờ
báo địa phương do họ tài trợ. Thế là ông Josef Schaub may mắn có việc làm và trở thành
một trong năm người chủ chốt đầu tiên làm tờ báo này.

Cho đến nay tờ giấy phép đầu tiên của tờ báo Rheinpfalz do quân đội Pháp cấp vẫn
còn được nhắc đến. Số báo đầu tiên ra ngày 29 tháng 9 năm 1945 là một sự kiện quan
trọng trong đời sống tinh thần của người dân địa phương sau chiến tranh. Cả toà soạn
báo kiêm nhà in tất cả chỉ có 5 người, ngoài ông Josef Schaub là 4 người làm tất cả các
việc cần thiết để một tờ báo có thể xuất bản bao gồm thiết kế, đăng tin quảng cáo, kinh
doanh xuất bản, thợ lên khuôn chữ, định dạng và sắp xếp chữ in. Tin tức lúc đầu chủ yếu
là do quân đồng minh cung cấp và tin tự khai thác. Tờ báo mới được người dân đón
nhận một cách rất tích cực. Chưa đầy 2 năm, số lượng phát hành thường xuyên đã lên tới
200.000 bản.

Toà soạn báo kiêm xưởng in chính là ngôi nhà nhỏ của gia đình Schaub tại thị trấn
Neustadt. Cậu bé Dieter Schaub đã sinh ra và lớn lên trong chính toà soạn và xưởng in
của cha ông. Sống trong môi trường đó Dieter Schaub đã sớm nắm bắt mọi công việc về
in ấn báo chí và xuất bản. Con đường sự nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh truyền thông
của Dieter Schaub đã được định sẵn và nuôi dưỡng từ đó.

Dieter Schaub không thích người khác nói về mình. Giống như cha mình, ông muốn
che giấu tất cả những thông tin về cá nhân. Người ta cũng chẳng biết chính xác tại sao
Dieter Schaub lại sợ xuất hiện trước công chúng đến vậy. Ngoài những phi vụ mua bán
sáp nhập các tờ báo, nhà xuất bản với những số tiền không thể giấu giếm thì Dieter
Schaub chẳng muốn tiết lộ bất cứ thông tin nào ra ngoài, đặc biệt là về bản thân và gia
đình. Dường như ông chủ báo 66 tuổi này chỉ muốn ẩn mình với cuộc sống bình thường
như bao người khác.

Tham vọng quyền lực chi phối

Mặc dù Josef Schaub rất thành công với tờ báo của mình nhưng Dieter Schaub sẽ
không phải là chính ông nếu chỉ tiếp tục làm chủ một tờ báo như cha. Dieter không
muốn thoả mãn với những gì nhận được từ cha mình. Ông không muốn dừng lại với
những con số nhỏ, ông muốn vươn lên một cái đích cao hơn, xa hơn.

Vào năm 1964, ngay khi được trực tiếp quản lý tờ báo kiêm nhà xuất bản của cha,
Dieter Schaub đã không chần chừ thực hiện tham vọng mở rộng kinh doanh báo chí và
xuất bản của mình. Và mọi việc diễn ra rất nhanh. Khi gia đình nhà Bosch có ý muốn
bán cổ phần của tờ “Người Stuttgarter”, ông lập tức mua lại ngay và chiếm giữ gần 30%
cổ phần bao gồm cả bất động sản. Dieter Schaub là người ham quyền lực. Vì vậy ông
vẫn tìm cách gom mua cổ phiếu để có thể chi phối được thật sự tờ báo quan trọng này.
Chỉ một thời gian ngắn sau, sự quyết liệt và dai dẳng của Dieter Schaub đã được đền bù.
Số cổ phần của tờ “Người Stuttgarter Zeitung” lên tới con số xấp xỉ 50%.

Càng thành công trong lĩnh vực báo chí, Dieter Schaub càng nhiều tiền. Và đặc biệt
ông như say sưa một cách không bình thường với quyền lực và sự ảnh hưởng to lớn của
báo chí đến kinh tế, chính trị và xã hội. Dieter Schaub tiếp tục tìm cách gia tăng quyền
lực ngầm của mình thông qua thu gom hệ thống báo chí vào tay mình.

Vào đầu những năm 70, ông tìm cách mua lại đối thủ cạnh tranh lớn nhát của mình
là tờ “Mannheimer buổi sáng”. Phi vụ này tuy không thành nhưng đã thể hiện tham vọng
quyền lực vô cùng lớn của ông chủ Dieter Schaub con người có vẻ rất lặng lẽ này. Cho
tới giờ thì người ta vẫn không thể lí giải chính xác nguyên nhân của thất bại trên song về
hình thức thì vấn đề nằm ở sự bất đồng về mặt tổ chức.

Thực tế, có thể sự lo lắng của các đại gia truyền thông khác về mưu đồ bành trướng
để độc quyền của Dieter Schaubs là một nguyên nhân đáng kể.

Giữa những năm 80, tập đoàn truyền thông của Dieter Schaub phải đối mặt với
nguy cơ trượt dốc. Người ta cho rằng chính do vụ scandale liên quan đến vấn đề “mờ ám
tài chính” với một tờ nhật báo của Thuỵ Sĩ đã huỷ hoại danh tiếng Dieter Schaub trước
công luận. Năm 1984 ông tiến hành rót vốn cho công ty cổ phần Benziger-
Zuerich/Einsiedln đang trên bờ vực phá sản.

Đây là quyết định mạo hiểm, rất liều lĩnh của Dieter Schaub. Chiến lược của ông là
lấy Thuỵ Sĩ làm tâm điểm để mở rộng thị trường và để đầu tư cho các dự án mới. Hơn
40 triệu Franc Thuỵ Sĩ, một con số không nhỏ đối với kinh doanh báo chí đã được đổ
vào đây.

Thế nhưng lộ trình bành trướng “nam tiến” sang Thuỵ Sĩ của Dieter Schaub đã
không gặp may.Vốn dĩ là người thận trọng và có cả tính đa nghi nhưng Dieter Schaub đã
phải trao nhầm “trứng cho ác”. Và điều đó lại không xảy ra chỉ một lần. Toàn bộ số tiền
đầu tư rất lớn đã bị kẻ đại diện được uỷ quyền của ông biển thủ sạch. Năm 1984, Dieter
Schaub cùng với công ty Benzinger đầu tư vào khách sạn. Thế nhưng kết quả là Dieter
Schaub nhận được một khu khách sạn tồi tệ bên bờ Rivera tại Luzen. Còn công ty
Benziger đứng trước nguy cơ phá sản một cách thảm hại. Tên tuổi và uy tín của ông chủ
truyền thông Dieter Schaub bị ảnh hưởng một cách trông thấy.

Chính từ những sự cố và thất bại không nhỏ đó mà Dieter Schaub đã có được những
bài học quí giá. Dieter Schaub quyết định không điều hành trực tiếp mà thuê Tổng giám
đốc điều hành. Con mắt tinh đời của Dieter Schaub từ năm 1987 đã tìm được một nhân
vật rất xuất sắc là Juergen Richter. Ông này là một nhà điều hành chuyên nghiệp trong
lĩnh vực báo chí, xuất bản và truyền thông. Chính Richter đã thực hiện nhiều phi vụ sáp
nhập mua gom các tờ báo khác rất thành công theo tham vọng dường như vô bờ của ông
chủ Dieter Schaub.

Từ những năm 1990, Dieter Schaub đã bỏ ra không tiếc tiền để mua lại nhiều tờ báo
ở Đông Đức và Đông Âu. Nhà tỉ phú truyền thông đã bỏ ra hơn 100 triệu Euro để mua
lại tờ “Báo tự do” ở Chemnitz vào năm 1991. Nhiều nhà xuất bản khác cũng là mục tiêu
“sưu tầm” của Dieter Schaub. Sau này nhiều báo chí đã đề cập đến mối quan hệ khá tốt
của Dieter Schaub với chính khách và chính quyền đương nhiệm để ông có thể thực hiện
được việc này khá dễ dàng.

Tập đoàn SWMH có tham vọng tiếp tục đầu tư lớn vào lĩnh vực truyền thông và
đang có chiến lược mở rộng ảnh hưởng của mình ra ngoài địa giới truyền thống. Ngoài
nước Đức, Áo và Thuỵ Sĩ cũng đang nằm trong tầm ngắm của tỉ phú truyền thông Dieter
Schaub.

4. Chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam:

4.1. Điều kiện hình thành tập đoàn báo chí ở Việt Nam

Các tập đoàn báo chí trên thế giới ra đời cách đây khá lâu, đã quen thuộc với người
dân thế giới nhưng với Việt Nam tập đoàn báo chí còn khá mới mẻ. Đất nước ta đã
bước và thời kỳ hội nhập, người dân đã sống trong nền kinh tế thị trường nhưng lĩnh vực
báo chí chưa thực sự được hoà mình trong nền kinh tế thị trường ấy. Gia nhập WTO là
cơ hội để Việt Nam hoà nhập vào thị trường sôi nổi và năng động của thế giới. Thách
thức đặt ra là làm sao để “hoà nhập nhưng không hoà tan”.

Hướng tới thành lập tập đoàn báo chí ở Việt Nam hiện nay đã không còn là vấn đề
tranh cãi. Con đường hình thành tập đoàn báo chí sẽ là quá trình sát nhập, kết hợp, bắt
tay giữa các cơ quan báo chí. Đây sẽ là con đường phù hợp đối với nền báo chí, cũng
như phù hợp bản sắc văn hoá, chính trị của nước ta.

Để nền báo chí Việt Nam có thể hoà nhập với nền kinh tế thị trường của đất nước
và hoà nhịp cùng nền báo chí thế giới thì Việt Nam cần có tập đoàn báo chí. Đó cũng là
ý kiến của nhiều nhà chức trách và của nhiều đại diện các cơ quan báo chí. “ Tập đoàn
báo chí - chỉ chờ các cơ quan báo chí” _ Đó là khẳng định của ông Phạm Quang Nghị -
Uỷ viên Bộ chính trị, Bộ trưởng Bộ văn hoá thông tin về việc thành lập các tập đoàn báo
chí ở nước ta. Phó tổng biên tập báo Tuổi trẻ Huỳnh Sơn Phước cho cảm nghĩ : “Tôi
nghĩ, khi chúng ta gia nhập WTO thì vấn đề đặt ra với mọi doanh nghiệp, mọi tổ
chức là phải tối ưu hoá các nguồn lực mà mình đang có. Vì thế, việc thành lập các
tập đoàn báo chí ở nước ta là sự hình thành tự nhiên.”. Chiều 30/9, Bộ Văn hoá thông
tin đã họp bàn về chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010. Thứ trưởng Đỗ Quý
Doãn cho biết : “Chính phủ đã đồng ý thí điểm mô hình tập đoàn báo chí tại Việt
Nam. Hiện nay, một số tờ báo cũng bước đầu hoạt động theo mô hình tập đoàn.”
Theo ông Doãn, tập đoàn báo chí là một mô hình mới ở Việt Nam nên cần thời gian
nghiên cứu kỹ, xây dựng đề án, tiêu chí cụ thể. Nhưng chắc chắn trước năm 2010, Việt
Nam sẽ có vài tập đoàn báo chí lớn.

“Tập đoàn báo chí” là xu hướng phát triển tất yếu khi truyền thông thế giới đạt được
những thành tựu đáng kể. Sớm hay muộn gì ở Việt Nam cũng sẽ hình thành các tập đoàn
báo chí. Vậy, hiện nay, nước ta đã có những điều kiện gì để tập đoàn báo chí manh nha.

Thứ nhất, số lượng các cơ quan báo chí cũng như các ấn phẩm của chúng ta phát
triển nhanh chóng. Trong đó, nhiều cơ quan báo chí hoạt động thông tin ở cùng một lĩnh
vực như: kinh tế, văn hoá, xã hội hay nghệ thuật…Các cơ quan này có thể liên kết lại với
nhau hình thành nên tập đoàn báo chí có quyền lực lớn trong lĩnh vực hoạt động của
mình hoặc một số cơ quan báo chí lớn có thể mua các cơ quan báo chí nhỏ hơn để hình
thành tập đoàn. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước định hướng xây dựng Thông tấn xã Việt
Nam và báo Nhân dân thành tập đoàn báo chí có sức mạnh thong tin trong nước và thế
giới. Một số tờ báo lớn như Tuổi trẻ, Tiền phong… cũng đang dần hình thành.

Thứ hai, Hiến pháp và Luật Báo chí Việt Nam tạo hành lang pháp lý cho sự ra đời
của tập đoàn báo chí. Hành lang pháp lý ấy quy định tập đoàn báo chí hoạt động với tư
cách phần nào là kinh tế, phần nào là mục địch chính trị xã hội, tổ chức và phát triển ra
sao, quan hệ cộng tác với cơ quan của Đảng và Nhà nước như thế nào. Luật Báo chí
Việt Nam quy định mọi công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, nhưng không
phải vì thế mà các hoạt động báo chí không nằm dưới sự quản lý và giám sát của Đảng
và Nhà nước.

Thứ ba, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong những năm
gần đây, nền kinh tế xã hội Việt Nam đạt được những bước tăng trưởng đáng kể. Đặc
biệt là sự ra đời và phát triển của các công ty doanh nghiệp cổ phần. Năm 2007 là mốc
đánh dấu sự bùng nổ của ngân hang cổ phần và thị trường chứng khoán. Đay là hai kênh
huy động vốn quan trọng để hình thành tập đoàn, đồng thời đóng vai trò giám sát hoạt
động của tập đoàn.

Thứ tư, nước ta có một đội ngũ phóng viên, biên tập viên…những người làm báo
chuyên và nghiệp dư hùng hậu. Đây là nguồn chất xám lớn để các ấn phẩm báo chí tiếp
tục phát triển. Đồng thời, một đội ngũ những người đứng đầu các cơ quan báo chí có
kinh nghiệm quản lý, có đạo đức phẩm chất và kỹ năng nghề nghiệp, hứa hẹn trở thành
những ông chủ tài năng cảu các tập đoàn báo chí lớn.

Hiện nay, Việt Nam chưa có tập đoàn báo chí nhưng nó sẽ tồn tại và phát triển
trong tương lai. Mô hình tập đoàn báo chí Việt Nam hoạt động trong cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tổ chức trực tuyến và lãnh đạo phi tập trung.
4.2. Những động thái cởi mở của nhà nước:

Vấn đề tập đoàn báo chí được đưa ra bàn luận trên báo chí Việt Nam từ khoảng
giữa năm 2004. Công cụ tìm kiếm trên mạng Google cho thấy, tại cuộc Hội thảo về Tình
hình phát triển, quản lý thông tin đại chúng và xuất bản trên địa bàn TPHCM vào ngày
24/6/2004, ông Phan Xuân Biên, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hoá Thành Uỷ, đã gợi ý về
định hướng phát triển sự nghiệp báo chí: cần có những tập đoàn báo chí mạnh; một số
việc có thể thuê kênh tư nhân làm, Nhà nước quản lý nội dung. Ông Trần Thế Tuyển,
cục phó Cục Quản lý báo chí, đề nghị TP.HCM nên có chuyên đề về quy hoạch, sắp xếp
để hình thành các tập đoàn báo chí, vì ông cho rằng: “Nước ta chưa có nhưng trên thực
tế đã có cơ quan báo chí thấp thoáng hình thành mô hình này.”

Trước đó, nhân ngày nhà báo Việt Nam 21/6/2004, trong bài trả lời phỏng vấn của
báo Tuổi Trẻ, Thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Đỗ Quý Doãn cho biết thực tế đã tồn
tại mô hình “tổ hợp truyền thông đa lĩnh vực hoạt động như một tập đoàn kinh tế”, mặc
dù Luật báo chí qui định “Cơ quan báo chí là cơ quan thực hiện một loại hình báo chí”.
Thứ trưởng chỉ ra một số trường hợp: báo Nhân Dân hiện có báo ngày, báo tuần, báo
tháng và báo điện tử; Đài truyền hình Việt Nam không chỉ có tạp chí mà còn có hãng
phim, công ty nghe nhìn, các đơn vị hoạt động dịch vụ … Cũng trong buổi phỏng vấn
này, ông Đỗ Quý Doãn đã đề cập đến chuyện “vấn đề kinh tế báo chí cần được xem xét
đầy đủ và hoàn thiện về mặt luật pháp”. Ông Đỗ Quý Doãn dự báo khi đã có những tổ
hợp báo chí hùng mạnh thì những tờ báo èo uột, không tự sống được sẽ tự đào thải.

Sau đó, báo chí chú ý khai thác những thông tin liên quan đến mô hình tập đoàn báo
chí ở Trung Quốc và các nước phương Tây. Đáng chú ý là những tin, bài được đăng tải
trong tháng 8/2004 trên báo Tuổi Trẻ về những động thái “cởi mở” của báo chí Trung
Quốc.
Bước sang đầu năm 2005, Bộ Văn hoá – Thông tin đệ trình chính phủ Chiến lược
phát triển thông tin đến năm 2010, trong đó có đoạn: “Thử nghiệm xây dựng tổ hợp xuất
bản, tập đoàn báo chí, kết hợp với các hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của
pháp luật để tạo nguồn thu đầu tư cho hoạt động báo chí.”

Cách đây 6 – 8 năm, vấn đề kinh tế báo chí là một vấn đề khá nhạy cảm, người ta
rất ngại nói đến vấn đề này. Đến nay, những e ngại khi đề cập đến các vấn đề mới mẻ
như kinh tế báo chí và tập đoàn báo chí vẫn còn tồn tại ở một số nơi chậm đổi mới tư
duy, mặc dù Thông báo số 162-TB/TW ra ngày 1-12-2004 của Bộ Chính trị Trung ương
Đảng đã phê bình về việc chậm tổng kết, rút ra những kết luận cần thiết về kinh tế báo
chí.
Khoảng thời gian chuẩn bị cho Đại hội Hội nhà báo Việt Nam (08/2005), báo chí
liên tục đăng tải những suy nghĩ nghiêm túc của báo giới và các cơ quan quản lý về vấn
đề tập đoàn báo chí.

Vấn đề kinh tế báo chí một lần nữa được đặt ra. Tiến sĩ Đào Duy Quát, tổng biên
tập website Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Ban tư tưởng văn hoá trung ương đã đưa ra
quan điểm “gắn kinh tế với báo chí để báo chí phát triển” và “Phải hình thành những tập
đoàn báo chí tự sống, tự phát triển chứ không chờ bao cấp”.

Bài viết đáng tham khảo thứ hai là bài trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ của Bộ
trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Phạm Quang Nghị. Khi ấy, mô hình tập đoàn báo chí đã
được Nhà nước “bật đèn xanh”, song vẫn chưa có tờ báo nào trình đề án “tập đoàn báo
chí”, Bộ Văn hoá – Thông tin vẫn cần có người đi đầu. Bộ Văn hoá – Thông tin tiếp tục
phát triển nhận định hồi năm 2004: thực tế đã có một số cơ quan báo chí hoạt động như
là tập đoàn, chỉ có điều chưa tổ chức lại, chưa xưng danh “tập đoàn báo chí”. Ông Phạm
Quang Nghị tiếp tục dẫn chứng: Đài truyền hình Việt Nam đã có các “công ty con” như
hãng phim, trung tâm dịch vụ quảng cáo, tạp chí truyền hình …; các báo Tuổi Trẻ, Tiền
Phong đã có nhiều ấn phẩm, có cả hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực quảng cáo, phát
hành sách báo, cho thuê văn phòng như các “tổng công ty”. Ông Phạm Quang Nghị cho
rằng Bộ Văn hoá – Thông tin đã tổng kết từ thực tiễn và đề xuất Chính phủ mở ra cơ chế
tập đoàn báo chí và “phần việc còn lại là của các cơ quan báo chí”. Về vấn đề tập đoàn
báo chí có được phép hoạt động như một doanh nghiệp hay không, ông Phạm Quang
Nghị thừa nhận cơ quan quản lý vẫn còn lúng túng trong việc định hình các tờ báo tự
chủ về tài chính và có những bộ phận hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Tuy nhiên,
theo ông, do đặc thù của hoạt động báo chí, ngành này không nên chỉ tuân theo Luật
doanh nghiệp, mà trước hết phải tuân thủ Luật báo chí, tốt nhất là nên tách bạch các bộ
phận hoạt động như doanh nghiệp.

Cũng trong một cuộc làm việc với lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, Trưởng ban Tư
tưởng – Văn hoá Trung ương Nguyễn Khoa Điềm nêu rõ: “Việc xây dựng các tập đoàn
báo chí là cần thiết, bởi đó là yêu cầu khách quan của một nền báo chí phát triển dựa
trên nền tảng của một nền kinh tế thị trường phát triển, công nghiệp và hiện đại. Tuy
nhiên báo chí nước ta là báo chí của Đảng, là công cụ chính trị - tư tưởng của Đảng và
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, là món ăn tinh thần của nhân dân, do vậy tập đoàn báo chí
cũng phải hướng theo mục tiêu phấn đấu đó.”

Đến tháng 9/2005, câu hỏi “Bao giờ có tập đoàn báo chí?” được đặt ra, kèm theo
đó là hàng loạt vấn đề như mô hình, quy mô, cơ chế hoạt động, cơ chế quản lý nội dung
báo chí, cơ chế quản lý tài chính báo chí … của các tập đoàn báo chí. Vào thời điểm này,
có thông tin cho rằng báo Hà Nội Mới, cơ quan ngôn luận của Thành ủy Hà Nội và báo
Sài Gòn Giải Phóng, cơ quan ngôn luận của Thành ủy TP.HCM đang được lãnh đạo 2
thành phố cho phép lập dự án xây dựng Tập đoàn báo chí . Thậm chí, ngày 22 – 9 –
2005, tại cuộc họp mặt với Tổng Biên tập một số báo Đảng khu vực phía Nam, Ủy viên
Ban Thường vụ Hội Nhà báo Việt Nam, Tổng Biên tập báo Hà Nội Mới Nguyễn Xuân
Trình đã phác họa đôi nét chân dung về một tập đoàn báo chí của nhật báo Hà Nội Mới
trong tương lai không xa.

Tất cả những động thái “cởi mở” nói trên được xem là sự chuẩn bị cho sự kiện ngày
30/9/2005, Bộ Văn hoá – Thông tin họp báo về việc Chính phủ đã ban hành Quyết định
219, phê duyệt Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010, trong đó có việc đồng ý
thí điểm mô hình tập đoàn báo chí tại Việt Nam. Tuy một số tờ báo ở TP.HCM đã manh
nha hoạt động theo mô hình này, như Saigon Times Group, song tính đến thời điểm đó,
việc xây dựng đề án và định ra tiêu chí cụ thể cho mô hình tập đoàn báo chí hầu như
chưa có.

Liền ngay sau đó, thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin đã trả lời chi tiết trên tờ Việt
NamExpress xoay xung quanh vấn đề thành lập các tập đoàn báo chí.

Về mặt thời điểm, ông Doãn khẳng định mô hình tập đoàn báo chí đang là xu
hướng phát triển ở nhiều nước trên thế giới, ngay cả ở châu Á, mặt khác, vào thời điểm
hiện nay, báo chí Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc và thực tế cũng đang manh nha
hình thành các tập đoàn báo chí.

Về mô hình, trước mắt, theo chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010, sẽ thử
nghiệm xây dựng các tổ hợp xuất bản, tập đoàn báo chí có các hoạt động kinh doanh,
dịch vụ theo quy định pháp luật tạo nguồn thu cho hoạt động báo chí. Còn theo phác
thảo của ông Doãn, tập đoàn phải có hạt nhân là một cơ quan báo chí (báo in, truyền
hình, phát thanh, Internet), làm ra nhiều ấn phẩm báo chí, bên cạnh đó là những hoạt
động bổ trợ phục vụ phát triển báo chí, nhưng không phải là phép cộng cơ học các toà
báo. Phác thảo này được đưa ra sau khi Bộ Văn hoá – Thông tin đã có tham khảo một số
mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới như Thuỵ Điển, Nhật Bản, Trung Quốc… Đưa ra
phác thảo này, ông Doãn cho thấy “chưa có cơ quan báo chí nào ở Việt Nam có đầy đủ
thực lực và cơ cấu thích hợp để hình thành tập đoàn thực sự”. Tuy nhiên, ngay cả hai
điều cơ bản nhất là định nghĩa và tiêu chí thành lập tập đoàn báo chí ở Việt Nam Bộ Văn
hoá – Thông tin vẫn chưa thể đưa ra được. Ông Doãn chỉ có thể đưa ra một nguyên tắc
“không áp dụng rập khuôn” mô hình của bất kì nước nào do các khác biệt về thể chế
chính trị, điều kiện kinh tế xã hội, dân trí; và gợi mở thêm một số vấn đề: ở Việt Nam,
chủ tịch tập đoàn có quyền bổ nhiệm Tổng Biên Tập hay không, các tổ chức trong tập
đoàn sẽ hoạt động như thế nào, làm sao giải được các “bài toán” về tính chuyên nghiệp
trong quản lý của các toà soạn và trong tác nghiệp của các nhà báo, về điều kiện cơ sở
vật chất của các tờ báo…
Về hoạt động tài chính, ông Doãn trưng ra mô hình của các tập đoàn báo chí nước
ngoài: tự chủ về mặt tài chính, tự trang trải kinh phí hoạt động, đóng góp rất lớn cho
ngân sách nhà nước (chỉ sau ngành viễn thông), và khẳng định chỉ các tờ báo mạnh mới
nên thành lập tập đoàn.

Về giải pháp thúc đẩy sự phát triển xu hướng hình thành tập đoàn báo chí, điều
đơn giản nhất và cũng hiện thực nhất mà Chính phủ nghĩ tới là thành lập một trường báo
chí quốc gia nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ hoạt động báo chí.
Tuy nhiên, điều cần trao đổi lại ở đây là: không nên chỉ đào tạo đội ngũ viết báo (điều
này các trường báo chí đã làm nhưng hiệu quả chưa cao), mà để phù hợp với tình hình
mới, quan trọng nhất là phải đào tạo đội ngũ người làm báo và đội ngũ quản lý báo chí
(quản lý phải theo kịp thực tiễn chứ không phải quản lý không được thì cấm).
Với tất cả sự thận trọng, các câu hỏi xoay xung quanh “tập đoàn báo chí” lần lượt
được Bộ Văn hoá – Thông tin và những người có quan tâm đặt ra và chờ lời giải đáp cụ
thể từ phía các cơ quan báo chí lớn, đủ thế và lực trong nước .

4.3. Các bước chuẩn bị của các tờ báo có triển vọng trở thành tập đoàn báo chí:

4.3.1.Tiền Phong:

Hiện nay, Tiền Phong là một trong những tờ báo có nhiều ấn phẩm nhất với 6 đầu
báo (Tiền Phong ngày, Tiền Phong chủ nhật, Tiền Phong cuối tháng, Tiền Phong giữa
tháng, Người đẹp Việt Nam, Mỹ phẩm, Tri thức trẻ) và có website
www.tienphongonline.com. Ấn phẩm của Tiền Phong (đặc biệt là các ấn phẩm phụ) đạt
được tỉ lệ phát hành khá cao.

Từ 5 năm trước đây, Tiền Phong đã bước chuẩn bị cho việc trở thành một tập đoàn
báo chí, với việc định ra một chiến lược phát triển phù hợp với tiêu chí của tờ báo. Trả
lời phỏng vấn trên tạp chí Nghề Báo (số 21, tháng 7/2004), tổng biên tập Dương Xuân
Nam đã khẳng định con đường tất yếu của sự phát triển là hiện đại hoá báo chí: “Có
nghĩa, phải trở thành một tập đoàn báo chí thực sự chứ không chỉ đơn thuần làm báo,
sống bằng viết báo, tái đầu tư bằng tiền bán báo.” Theo chiến lược này, song song với
việc gia tăng ấn phẩm, báo Tiền Phong thành lập công ty cổ phần Tiền Phong chuyên lo
công tác quảng cáo – phát hành, dẫn đến tổng doanh thu của cả hai hoạt động kinh tế và
báo chí hàng năm đạt không dưới 150 tỷ đồng. Công ty Tiền Phong không những là chỗ
dựa kinh tế tài chính cho Tiền Phong, mà còn giúp cho việc phân tách rạch ròi giữa
khâu nội dung và khâu “chạy quảng cáo” của phóng viên, hạn chế khuynh hướng “lá
cải”, “bán báo”. Tờ báo cũng có đủ điều kiện để mời những cây bút có nghề trong làng
báo, đào tạo tại chỗ và gửi phóng viên đi học nước ngoài để nâng cao trình độ làm báo,
thực hiện cơ chế thu nhập và thưởng phạt nghiêm minh …

Bên cạnh đó, Tiền Phong còn tổ chức những hoạt động xã hội mang tầm quốc gia
như các cuộc thi Hoa hậu, Siêu cúp bóng đá quốc gia …, nhằm mục đích quảng bá
thương hiệu tờ báo.

Qua nghiên cứu một số tập đoàn báo chí trên thế giới, đặc biệt là các tập đoàn báo
chí Trung Quốc, có thể thấy báo Tiền Phong gần như đã thực hiện đúng các bước đi để
trở thành tập đoàn báo chí. Có điều, phạm vi hoạt động kinh tế và doanh thu của tờ báo
còn hạn chế nên chưa thể gọi Tiền Phong là một tập đoàn báo chí, dẫu chỉ là ở quy mô
nhỏ như tập đoàn báo chí Thẩm Quyến của Trung Quốc 8 năm trước đây (1998).
Khi có quyết định 219, Tiền Phong lại dành cho Tạp chí Nghề Báo một cuộc
đàm luận về “danh phận” tập đoàn báo chí. Tổng biên tập Dương Xuân Nam cho rằng
“Để nên danh phận, phải hội đủ thế và lực!” Để chuẩn bị cho sự ra đời của tập đoàn báo
chí, ông .

Về phía Nhà nước: cần có cơ chế, chính sách, sự hỗ trợ cụ thể trong điều kiện cụ
thể của Việt Nam.

Cụ thể hơn, cần có cơ chế để các tờ báo mạnh thâu nạp các tờ báo không làm ăn
được, “nuôi họ và làm hay lên” . Điều đó có nghĩa là Nhà nước phải tiến tới không bao
cấp báo chí, cho ra đời quy chế sáp nhập các tờ báo. Bên cạnh việc sáng lập, việc sáp
nhập và thậm chí mua lại các tờ báo là những bước đi tất yếu để hình thành các tập đoàn
báo chí trên thế giới. Mặt khác, cũng cần có cơ chế quản lý thông thoáng tương đối, nên
giao quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật cho những người đứng đầu
cơ quan báo chí.

Đối với vấn đề hỗ trợ, cần hỗ trợ thông qua việc trợ giá giấy in báo, và việc miễn,
giảm thuế, bởi hiện thời, các tờ báo có quy mô hoạt động rộng như Tiền Phong phải
gánh 4- 5 loại thuế, từ thuế doanh nghiệp, thuế vốn, thuế đầu tư cho đến thuế thu nhập
… Theo Tổng biên tập báo Tiền Phong, đặt vấn đề hỗ trợ không mâu thuẫn với yêu cầu
“tự thân vận động”, bởi đó là hỗ trợ cần thiết trong 10 – 20 năm đầu hình thành tập đoàn.

Về vị thế của tờ báo: để trở thành tập đoàn, tờ báo phải có uy tín chính trị, đặt ra
được những vấn đề lớn của xã hội và thời đại.

Về lực của tờ báo: tờ báo phải có số phát hành lớn, có nhiều ấn phẩm (6 – 7 ấn
phẩm trở lên), đội ngũ làm báo chuyên nghiệp, có công ty, xí nghiệp riêng, có trụ sở …

Tính đến cuối năm 2005, công tác chuẩn bị về thế và lực của Tiền Phong đã tiến
thêm một bước. Về thế, tờ báo chú trọng đầu tư cải tiến hình thức và nội dung nhằm mở
rộng đối tượng độc giả; mở mang các hoạt động xã hội bằng cách thành lập thêm các
quỹ từ thiện. Về lực, ngoài Công ty Tiền Phong, Tiền Phong tăng cường hội nhập
thương trường, chủ động phát triển kinh tế báo chí bằng cách mở thêm một số văn phòng
giới thiệu việc làm, du học, các nhà sách … Dự định trong năm 2006, tức sau khi có chủ
trương hình thành tập đoàn báo chí của chính phủ, của báo Tiền Phong là đầu tư về trụ
sở tờ báo, về đào tạo phóng viên, mở rộng các điểm in mới, xây dựng nhà sách quy mô
lớn nhất miền Bắc, …

Phát biểu của người đứng đầu báo Tiền Phong và những động thái của tờ báo này tỏ
rõ quyết tâm và sự tự tin trong ý định vươn lên thành lập tập đoàn báo chí. Vấn đề của
Tiền Phong là ở sự cho phép của Nhà nước, không chỉ cho phép về danh nghĩa mà còn
cho phép thông qua việc định ra các cơ chế, chính sách phù hợp.

4.3.2. Việt Nam Net:


Xuất thân là một website dịch vụ cung cấp tin tức tiếng Việt (12.1997 – www.Việt
Namn.Việt Nam), tờ báo điện tử VietNamNet (1.2003 – www.vietnamnet.Việt Nam)
được xem là “hiện tượng báo chí” trong vài năm gần đây.

Tuy không có “thế” về chính trị, song VietNamNet lại có thế “sinh ra” từ một công
ty thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam – Bộ Bưu chính Viễn thông, đơn
vị thành viên tập đoàn Bưu chính Viễn Thông (Công ty Phần mềm và Truyền thông
VASC), nghĩa là có khả năng gắn kết các hoạt động truyền thông và viễn thông. Đây
cũng là một hướng phát triển lên tập đoàn từng có tiền lệ trên thế giới (tập đoàn Shin
Corporation của Thái Lan cũng phát triển từ ngành viễn thông sang). Chính vì thấy được
thế mạnh của mình, thay vì đề cập trực tiếp đến việc trở thành một tập đoàn báo chí
(truyền thông), ông Nguyễn Anh Tuấn – Tổng Biên Tập Báo điện tử VietNamNet chỉ
đưa ra định hướng: “Xây dựng VietnamNet thành công ty truyền thông đa phương tiện,
đa loại hình báo chí.” Thực chất, nếu làm được điều này, tức là mặc nhiên đã trở thành
một tập đoàn truyền thông. Là một người hiểu rõ thế nào là một tập đoàn truyền thông,
ông Nguyễn Anh Tuấn nói: “Hai từ “tập đoàn” nghe có vẻ to tát, nhưng nếu hiểu là
“doanh nghiệp truyền thông, có nhiều loại hình báo chí, hoạt động trên cơ sở tự hạch
toán, không sống dựa vào bao cấp của nhà nước” thì sẽ hợp lí hơn”.

Về lực, VietNamNet có báo điện tử VietNamNet tiếng Việt, VietNamNet tiếng


Anh, VietNamNet T.V, Người Viễn Xứ, Netmode, Giai Điệu Xanh, E-Chip và một công
ty mạnh về tài chính là VASC. (Cách đây vài năm, VietNamNet có ý định ra tờ nhật báo
VietNamNet nhưng chưa đủ nguồn lực, không hẳn là vì thiếu hụt tài chính). Hiện nay,
tuy hệ thống báo điện tử của VietNamNet Group vẫn chưa sinh lợi trực tiếp và mỗi năm
VASC vẫn phải bù lỗ vài tỷ, nhưng tương lai hứa hẹn của báo điện tử đang đến rất gần.
Ngoài ra, VietNamNet cũng có một số hoạt động xã hội gây tiếng vang trong và ngoài
nước, nổi bật là hoạt động “Vinh danh đất Việt” và website liên kết báo chí khu vực
ASEAN.
Như vậy, đứng trước Quyết định 219, về lý thuyết, tờ báo điện tử này được xem là
có khả năng chuyển mình thành một tập đoàn truyền thông.
Theo Tổng biên tập Báo điện tử VietNamNet, hiện tại, tờ báo này đang “chuẩn bị
con người, cập nhật thông tin về thị trường truyền thông, nghiên cứu, tìm hiểu mô hình
của các tập đoàn truyền thông lớn trên thế giới, đặc biệt là chuẩn bị chiến lược cho
doanh nghiệp của mình để không bỏ lỡ cơ hội phát triển.” Mục tiêu mà VietNamNet
hướng đến trước mắt là trở thành một công ty truyền thông đa phương tiện, trên cơ sở
ứng dụng những công nghệ thông tin, viễn thông, truyền thông thế hệ mới nhằm đa dạng
hoá các sản phẩm, cung cấp cho bạn đọc ngày càng nhiều thông tin, kiến thức bổ ích.
Hướng đi của VietNamNet là một hướng đi thận trọng, khôn ngoan trong bối cảnh báo
chí – truyền thông Việt Nam đang có nhiều biến động, cũng là một hướng đi bài bản học
tập từ các tập đoàn truyền thông nước ngoài. Điều đó thể hiện ngay từ trong cách phát
ngôn của Tổng biên tập Nguyễn Anh Tuấn trước báo chí: “Tôi có 2 khát vọng lớn: xây
dựng VietNamNet thành công ty truyền thông đa phương tiện, đa loại hình báo chí có uy
tín trong nước và quốc tế, được bạn bè đồng nghiệp trong và ngoài nước trân trọng.
Khát vọng thứ hai là thấy mọi cán bộ, nhân viên VietNamNet hạnh phúc, thành đạt.”

Góp ý quan trọng của VietNamNet trong vấn đề xây dựng tập đoàn báo chí ở Việt
Nam chính là: ngoài thế và lực (điều kiện cần), tập thể cơ quan báo chí còn phải có ý
muốn, khát vọng thành lập tập đoàn (điều kiện đủ). Ứng dụng vào thực tế hiện nay, có
thể thấy yêu cầu này rất có giá trị. Ngoài ra, Tổng biên tập Nguyễn Anh Tuấn cũng nhấn
mạnh đến vai trò của người lãnh đạo cơ quan báo chí: phải có tầm nhìn, phải có sự hiểu
biết về thị trường truyền thông quốc tế, có mối quan hệ với các tập đoàn báo chí trên thế
giới, có chiến lược đúng, độc đáo, tạo sự khác biệt và lợi thế cạnh tranh trên thị trường
trong nước cũng như quốc tế.

Ông Nguyễn Anh Tuấn cho rằng lược phát triển thông tin đến năm 2010 rất phù
hợp với xu hướng phát triển của truyền thông. Cũng như Tiền Phong, để bảo đảm lộ
trình hình thành một tập đoàn báo chí, VietNamNet đưa ra một số đề xuất đối với phía
Nhà nước:
- Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bộ Văn hoá Thông tin, Bộ Bưu chính Viễn
thông, và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông tạo điều kiện về các thủ tục pháp lý

- Nhà nước nên có quan niệm mới: xem truyền thông là một ngành kinh tế, cơ quan
báo chí là một doanh nghiệp , và như vậy, đã là cơ quan báo chí thì được phát triển đa
loại hình báo chí, miễn là tự chủ về tài chính và hoạt động hiệu quả, nên bỏ cơ chế xin –
cho.

4.3.3. Tuổi trẻ:

Tuổi Trẻ là cơ quan khá “im hơi lặng tiếng” trong vấn đề thành lập tập đoàn báo
chí, kể cả trước và sau khi có Quyết Định 219. Mặc dù vậy, đây là một trong số những
cơ quan báo chí có thế và lực mạnh nhất nước.

Về thế, Tuổi Trẻ ngang với Tiền Phong.

Về lực, Tuổi Trẻ là cơ quan tự hạch toán kinh tế sớm nhất (từ năm 1980) và hoạt
động có hiệu quả nhất (riêng hoạt động quảng cáo đã thu về 270 tỉ đồng mỗi năm. Hiện
tại, Tuổi trẻ có 4 ấn phẩm (nhật báo Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ Cuối Tuần, Tuổi Trẻ cười, Tuổi
Trẻ Online), với con số phát hành ấn phẩm chính (nhật báo Tuổi Trẻ) gần 400.000 ấn
bản/kì, là tờ báo có uy tín rộng rãi trong nhân dân. Cơ sở vật chất của báo Tuổi Trẻ vào
hàng hiện đại nhất nước. Hoạt động phát hành và quảng cáo trên thực tế độc lập với hoạt
động báo chí. Đội ngũ làm báo năng động, trình độ cao. Tờ báo có mối quan hệ hợp tác
với nhiều cơ quan báo chí trên thế giới. Bên cạnh đó, Tuổi Trẻ còn thành lập Công ty
Thế kỉ 21 để kinh doanh địa ốc, và đang bước đầu kinh doanh xuất bản sách, du lịch.

Về ý chí, vào tháng 7/2005, báo Tuổi Trẻ đã đặt mục tiêu “đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng, phát hành hàng triệu bản/ngày, phấn đấu để trở thành một tập đoàn báo chí hùng
mạnh.”
Như vậy, về lý thuyết, Tuổi Trẻ hội đủ các yêu cầu để tuyên bố thành lập tập đoàn
báo chí hiểu theo kiểu Trung Quốc trong thời điểm hiện tại. Vướng mắc duy nhất của cơ
quan này là cơ chế, chính sách từ phía nhà nước.
Ông Trương Quang Vĩnh, Phó Tổng Biên Tập báo Tuổi Trẻ cho rằng Tuổi Trẻ chỉ
mới ở giai đoạn “manh nha”, chỉ mới đi “những bước đi đầu tiên” tiến tới thành lập tập
đoàn báo chí. Và như vậy, Tuổi Trẻ đang có những dự định mới nhằm gia tăng nội lực
của mình: ra thêm nhiều ấn phẩm nhắm đến từng đối tượng cụ thể, thuê kênh truyền hình
cáp … Tuổi Trẻ tin rằng mình phát triển đúng hướng và không quá quan trọng về danh
nghĩa “tập đoàn báo chí”. Điều báo Tuổi Trẻ quan tâm nhân chủ trương hình thành tập
đoàn báo chí là Nhà nước tháo gỡ những ràng buộc bất hợp lý (nhất là trong hoạt động
quảng cáo), định ra cơ chế quản lý các cơ quan báo chí (theo luật doanh nghiệp), cần có
những quy định cụ thể trong luật báo chí phù hợp với tình hình mới.

4.3.4. Thanh niên:

Thanh Niên là tờ báo thuộc về Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam, nên cũng được
xem là một tờ báo có “thế” lên tập đoàn báo chí. Trong bài viết “Tờ báo là diễn đàn tin
cậy của tuổi trẻ, là vũ khí tư tưởng tin cậy của đoàn” đăng trên báo Thanh Niên, ông Đào
Ngọc Dung, Bí thư thứ nhất T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, đánh giá: “Điều kiện cơ sở
vật chất và phương tiện hoạt động của báo ngày càng hiện đại hơn, có thể đáp ứng cho
quá trình cải tiến nâng cao chất lượng về nội dung và kỹ thuật trình bày, phù hợp với
tiến trình đổi mới và phát triển của làng báo nước ta. Báo Thanh Niên cũng đang mạnh
dạn từng bước tiến tới xây dựng một tập đoàn báo chí mạnh.”

Về lực, hiện tại Thanh Niên có các ấn phẩm: Thanh Niên ngày, Thanh Niên Chủ
nhật, Thanh Niên điện tử (bản tiếng Anh và bản tiếng Việt), Thanh Niên Tuần san.
Thanh Niên là một tờ báo có lượng độc giả đông đảo, số phát hành tương đối cao. Theo
tổng kết của Thanh Niên, báo có vài triệu bản in mỗi tuần, có 1 triệu rưỡi người truy cập
trang Thanh Niên điện tử tiếng Việt, 30.000 người truy cập trang Thanh Niên điện tử
tiếng Anh hàng ngày. Đây cũng là một trong số những tờ báo tự chủ về tài chính sớm
nhất, biết cách thu hút quảng cáo. Các hoạt động xã hội của tờ báo gây được tiếng vang
trong và ngoài nước, nổi bật là chương trình Duyên Dáng Việt Nam (đã tổ chức được 15
lần) và giải U.21 báo Thanh Niên.
Nhân dịp kỉ niệm 20 năm (3/1/1986 – 3/1/2006), Tổng biên tập báo Thanh Niên
phát biểu: “Thanh Niên phải có hàng triệu bản in trong nay mai, và theo chủ trương của
Đảng và Nhà Nước, Thanh Niên phải trở thành tập đoàn báo chí mạnh trong khu vực,
với xưởng phim, công ty cổ phần kinh tế, với nhiều sản phẩm báo chí, cùng những phát
triển trong lĩnh vực in ấn và truyền hình. Chương trình Duyên Dáng Việt Nam phải tạo
ảnh hưởng với quốc tế và sẽ trở thành thương hiệu lớn hơn nữa trong lĩnh vực này. U.21
tiếp tục là sân chơi lớn, góp phần đào tạo nhiều tuyển thủ trẻ hơn, và với chất lượng cao
hơn, để bóng đá Việt Nam có vị trí xứng đáng hơn trong khu vực và thế giới.”

Tính đến thời điểm hiện tại, báo Thanh Niên có thế, có khát vọng, song tiềm lực tài
chính còn quá mỏng để trở thành một tập đoàn báo chí. Chính vì vậy, khâu chuẩn bị của
tờ báo này phải mất rất nhiều thời gian.

Kết luận
Việt Nam đã ra nhập WTO, nghĩa là sẽ hoà chung vào dòng chảy của thế giới trên
mọi lĩnh vực, báo chí cũng không phải là ngoại lệ. Báo chí Việt Nam hiện nay đã có
những thành tựu đáng kể và được đánh giá là một nền báo chí đang ở giai đoạn phát
triển hết sức mạnh mẽ. Sự ảnh hưởng của truyền thông đến đời sống của người dân là
không thể phủ nhận. Truyền thông đang tìm một hướng đi mới mẻ hơn nhằm đáp ứng
nhu cầu thông tin vô tận của con người. Mặt khác, nền truyền thông nước nhà còn đối
đầu với sự cạnh tranh của các kênh thông tin nước ngoài đang ồ ạt tiến vào Việt Nam.
Nếu chỉ đa dạng về số đầu báo thì chưa đủ, truyền thông Việt Nam cần có những tập
đoàn truyền thông lớn mạnh hơn, cả về chất lượng chuyên môn và sức mạnh kinh tế để
đứng vững, hoàn toàn làm chủ nền truyền thông trong nước cũng như tham vọng vươn
xa ra thế giới. Có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc thành lập các tập đoàn báo chí ở
Việt Nam, nhưng hầu hết ý kiến của các chuyên gia đầu ngành đều đánh giá rằng: Việc
thành lập các tập đoàn báo chí ở Việt Nam là một tất yếu. Đồng chí Nguyền Khoa Điềm
còn chỉ đạo: đến năm 2010 phải thành lập các tập đoàn báo chí ở Việt Nam.

Ngoài những ý kiến tán thành việc thành lập các tập đoàn báo chí ỏ Việt Nam
cũng có không ít những ý kiến lo ngại cho sự thành công của dự án này. Sở dĩ có những
băn khoăn này trước hết là do tiềm lực kinh tế của chúng ta còn yếu kém và đội ngũ
nhân sự chưa thực sự chuyên nghiệp. Vì thế, để có thể thành lập các tập đoàn báo chí ở
Việt Nam vào năm 2010 đầu tiên chúng ta phải khắc phục được hai khó khăn trên.

Như chúng ta đã biết tập đoàn báo chí được hình thành theo hai con đường chính:
Con đường thứ nhất là quá trình xác nhập kết hợp, bắt tay giữa các cơ quan báo chí. Con
đường thứ hai là quá trình thôn tính, thâu tóm, bành trướng lẫn nhau giữa các cơ quan
báo chí để hình thành nên một tập đoàn báo chí. Sự kết hợp bắt tay giữa các cơ quan báo
chí không thể hiểu đó chỉ là phép cộng toán học cơ bản, nghĩa là hai cơ quan báo chí
xuống dốc nắm tay nhau hợp sức lại vậy là thành một tập đoàn báo chí lớn mạnh. Đây
hoàn toàn là một cách hiểu sai lệch. Để trở thành một tập đoàn báo chí cần rất nhiều yếu
tố, trong đó yếu tố về kinh tế là một yếu tố hết sức quan trọng. Con đường hình thành
thứ hai yếu tố kinh tế tài chính lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Nó gần như chiếm
yếu tố quyết định trong việc thành bại của quá trình bành trướng, thâu tóm lẫn nhau giữa
các tập đoàn báo chí. Rõ ràng chỉ có con cá lớn mới nuốt được cả bé. Như vậy yếu tố tài
chính là yếu tố đầu tiên mà chúng ta cần chú ý.

Thực trạng báo chí Việt Nam hiện nay có rất nhiều tờ báo vẫn "sống" theo cơ chế
bao cấp, sống dựa vào ngân sách của nhà nước mà không tự chủ động về tài chính.
Chính vì thế mà những cơ quan báo chí này làm việc rất trì trệ, chất lượng được đánh giá
không cao. Hoạt động như vậy vừa không hiệu quả lại tiêu tốn rất nhiều kinh phí của nhà
nước. Để khắc phục yếu kém về mặt tài chính, trước hết phải xoá bỏ bỏ bao cấp để các
cơ quan báo chí tự chủ về tài chính có như vậy mới mong chúng tự thân vận động, phát
triển được. Một cơ quan báo chí để tồn tại và phát triển rõ ràng không chỉ trông chờ vào
tiền bán báo mà còn phải thể hiện tính năng động trong mọi lĩnh vực. Chẳng hạn như:
quảng cáo, kinh doanh…Có thể đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng hay thị trường chứng
khoán…Cần xoá bỏ suy nghĩ một cơ quan báo chí có nghĩa là hoạt động duy nhất là làm
báo, hãy biết đánh bóng "thương hiệu" và tạo được lòng tin từ phía công chúng. Làm
được điều này không phải là dễ, nhưng trước vấn đề "sống còn" đòi hỏi cơ quan báo chí
ấy phải biết vận động, sáng tạo…để tìm được lối đi đúng đắn nhất.

Một yếu tố quan trọng hơn hết đó là vấn đề con người. Nếu một cơ quan báo chí
có đủ tiềm lực về kinh tế nhưng lại có đội ngũ phóng viên yếu kém tạo nên nhưng sản
phẩm báo chí nhàm chán, không tạo được sự thu hút , sự ủng hộ từ phía công chúng thì
cơ quan ấy không thể phát triển được. Trên thực tế rất ít các cơ quan báo chí có một đội
ngũ phóng viên thực sự chuyên nghiệp. Mà để thành lập một tập đoàn báo chí thì đội
ngũ phóng viên phải được tuyển chọn hết sức khắt khe và đáp ứng yêu cầu cao. Một
phóng viên chuyên nghiệp ngoài những phẩm chất đạo đức cần có thì phải là người chịu
được áp lực công việc, làm việc một cách nhanh chóng và hiệu quả, có trách nhiệm và
linh hoạt chủ động trong công việc và đặc biệt là giỏi ngoại ngữ…Để thiết lập được một
mạng lưới phóng viên như vậy đòi hỏi chúng ta phải chú trọng hơn đến các phương pháp
giảng dạy và đào tạo đội ngũ phóng viên từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Trên thực
tế có nhiều cử nhân tốt nghiệp đại học báo chí nhưng khi đi làm thực tế lại không thể
viết được một cái tin ra hồn, rất tiếc trường hợp như vậy không phải là hiếm. Điều này
thể hiện rằng chúng ta phải thay đổi cách giảng dạy cho sinh viên. Làm sao kết hợp
nhuần nhuyễn giữa lí thuyết và thực hành, giáo dục cho sinh viên về đạo đức, phẩm chất
cũng như kiến thức vững chắc của người cầm bút. Cần chú trọng về chất hơn là quan
tâm và lượng. Ngoài ra, các cơ quan báo chí cần kết hợp, liên kết với các trường đào tạo
cử nhân báo chí. Có thể tạo điều kiện cho sinh viên được thực tập hoặc đầu tư, chọn ra
những cá nhân xuất sắc cùng với nhà trường đào tạo thành những phóng viên giỏi và
chuyên nghiệp.
Cơ cấu tổ chức các phóng viên trong một cơ quan báo chí cũng hết sức quan trọng,
cơ quan báo chí cần phải có một mạng lưới lớn các phóng viên chuyên nghiệp thường
trú tại các địa điểm khác nhau để cập nhật thông tin chính xác và nhanh chóng hơn.

Tóm lại, để có thể hoàn thành mục tiêu thành lập các cơ quan báo chí ở Việt Nam
vào năm 2010 thì vấn đề tài chính và nhân sự là vô cùng quan trọng. Hai yếu tố này luôn
phải được quan tâm và đầu tư đúng mức có như vậy báo chí Việt Nam mới có thể tiến
bước và vươn xa hơn.

Tài liệu tham khảo

1. Pierre Albert – Lịch sử báo chí - NXB Thế giới – 2003, Hà Nội

2. X.A.Mikhailốp – Báo chí hiện đại nước ngoài: những quy tắc và nghịch lý –
NXB Thông tấn, 2004, Hà Nội.

3. Robert W. McChesney, The New Global Media: It’s a Small World of Big
Conglomerates, 1999

4. Mark N. Cooper THE CASE AGAINST MEDIA CON SOLIDATION: Evidence


on Concentration, Localism and Diversity

5. Các trang web: vietbao.com

nghebao.com
tuanvietnam.net

Vietnamnet.vn

google.com

Wikipedia.org

www.smeg.com.cn

www.wan-press.org

www.cjr.org/tools/owners

www.lagardere.com

www.newscorp.com

The New York Times

Theo Pajamasmedia

Jackmayers.com

www.reedelsevier.com

communication.ucsd.edu/people/ConcentrationpaperICA.htm

internetworldstats.com

You might also like