You are on page 1of 27

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM


HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG

MÔN: THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ

ĐỀ TÀI: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ


THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TẾ MỘT SỐ HÌNH THỨC
ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : Cô Thân Thị Vi Linh


LỚP : TTTT ca 4 chiều thứ 2
THÀNH VIÊN NHÓM

TRẦN XUÂN QUẢN (CAP)


LÊ HUY NHẤT
CHU DUY KHÁNH
PHẠM TRUNG HIẾU
ĐỐ VĂN THƯ
NGUYỄN DUY MINH
VŨ QUANG SÁNG
PHẠM ANH TUẤN
NGUYỄN TRỌNG ĐỨC
HOÀNG XUÂN TRƯỜNG
LÊ QUANG TRUNG

LỚP TTQTC K11

2
LỜI NÓI ĐẦU

Chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam có vai trò quan
trọng trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, kìm chế lạm phát, ổn định giá trị
đồng tiền. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong những
năm gần đây đã có sự phát triển đúng hướng và phù hợp với chính sách kinh tế vĩ
mô. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia còn nhiều
bất cập, hạn chế, chưa tỏ ra nhạy bén và các chính sách của Ngân hàng nhà nước
chưa linh thoạt. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế ngày càng sôi động thì việc
điều hành chính sách tiền tệ từ các công cụ trực tiếp chuyển sang các công cụ
gián tiếp trong đó có việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở ngày càng trở nên cấp
bách. Điều này là phù hợp với quá trình cải cách hệ thống Ngân hàng, với việc
hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ trong giai đoạn mới.
Chính vì những lý do trên mà chúng tôi đã chọn đề tài “lý thuyết chung về
nghiệp vụ thị trường mở và thực tế một số hình thức áp dụng và hiệu quả tại
Việt Nam” với mong muốn đóng góp tiếng nói của mình vào việc sử dụng
Nghiệp vụ thị trường mở để ngày càng hoàn thiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Trong quá trình tìm hiểu không thể tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế,
chúng tôi mong được sự giúp đỡ chỉ bảo của các thầy cô.

3
I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ.

1. Lịch sử ra đời của nghiệp cụ thị trường mở. (NVTTM)

Khi FED được thành lập trước đây, thì việc thay đổi lãi suất chiết khấu là
công cụ đầu tiên của chính sách tiền tệ. Khi đó FED chưa phát hiện ra NVTTM là
một công cụ đầy sức mạnh để ảnh hưởng đến cung ứng tiền tệ, và đạo luật về dự
trữ liên bang đã không có điều quy định nào về việc thay đổi dự trữ bắt buộc.
Nguyên tắc chỉ đạo cho việc tiến hành chính sách tiền tệ là khi nào các khoản cho
vay còn được cấp cho những mục đích sản xuất, nghĩa là để nâng đỡ hàng hoá và
dịch vụ, thì việc cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng để nó cấp các khoản
vay đó chắc là không có lạm phát. Trong thực tiễn, nó có nghĩa là FED cho các
NHTM thành viên vay khi họ đến cửa sổ chiết khấu xuất trình các phiếu chiết
khấu. Vào cuối cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chính sách của FED tái
chiết khấu các phiếu chiết khấu được và duy trì ở mức lãi suất thấp để cho kho
bạc tài trợ chiến tranh đã đưa đến một cuộc lạm phát dữ dội. Trong năm 1919 và
1920, tỉ lệ lạm phát bình quân là 14%. FED quyết định sẽ không tiếp tục theo
đuổi chính sách bị động theo học thuyết tín phiếu thực tế, bởi vì nó không phù
hợp mục tiêu ổn định giá cả, và lần đầu tiên từ khi được thành lập, FED chấp
nhận trách nhiệm đóng một vai trò chủ động để ảnh hưởng đến nền kinh tế.

Vào những năm 1920, xảy ra một sự kiện đặc biệt quan trọng – FED phát hiện
ra NVTTM. Khi FED được thành lập, nguồn thu nhập của nó hoàn toàn chỉ là từ lãi
thu được của những khoản tín dung cấp cho các ngân hàng thành viên. Sau cuộc suy
thoái 1920-1921, khối lượng vay chiết khấu giảm sút nghiêm trọng và FED rất túng
tiền. Nó giải quyết vấn đề này bằng cách mua các chứng khoán sinh lãi. Khi làm
như vậy, FED phát hiện ra rằng, dự trữ trong hệ thống NHTM tăng lên và những
khoản cho vay và tiền gửi ngân hàng tăng lên gấp bội. Kết quả đó ngày nay đối với
chúng ta rất hiển nhiên nhưng đối với FED lúc bấy giờ là một phát hiện. Một công
cụ mới của chính sách tiền tệ ra đời, và vào cuối những năm 1920, đó là một vũ khí
quan trọng nhất trong kho vũ khí của FED.
4
2. Định nghĩa NVTTM.

NVTTM là hoạt động NHTW mua vào hoặc bán ra những GTCG của chính
phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua bán GTCG, NHTW tác động trực
tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung
ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường.

NVTTM là một trong các công cụ được NHNN sử dụng để thực thi chính
sách tiền tệ quốc gia.

3. Cơ chế tác động của NVTTM.

Thông qua hoạt động mua, bán các GTCG trên thị trường mở, NHTW đã tác
động trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng và ảnh hưởng gián tiếp đến các mức
lãi suất trên thị trường, từ đó tác động trực tiếp đến các mục tiêu của chính sách
tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng.

3.1. Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng.

Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác
động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng đến
tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là đối tác tham gia OMO)
và tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng là đối tác
tham gia OMO).

Sơ đồ 1.1. Cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng

NHTW Dự trữ Dự trữ mở Khối


MS
bán NH rộng cho lượng TD
giảm
GTCG giảm vay giảm giảm

Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân
hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán
ra. Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua
GTCG sẽ làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự
5
trữ của hệ thống ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà
NHTW bán ra. Sự giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả năng
cho vay của ngân hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ
giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở, kết quả
làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên. Như vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ
thị trường nó sẽ tác động đến dự trữ của các ngân hàng, làm ảnh hưởng đến khối
lượng tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.

3.2. Về mặt giá - Tác động qua lãi suất.

Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng
gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:

Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu
vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền
trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi
suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage
về lãi suất, sẽ truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường
tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế,
và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định.

Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của OMO qua lãi suất


LS thị trường
Cung TPKB Giá TPKB
tăng
tăng giảm
tăng

NHTW bán Đầu tư


TPKB giảm

Dự trữ NH Cung của quỹ Lãi suất ngắn Lãi suất thị
giảm cho vay giảm hạn tăng trường tăng

Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu
về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi,
tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ

6
trọng lớn trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời
của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu
AD và sản lượng.

Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân
hàng. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn
hạn, làm lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi
suất thị trường. Bên cạnh đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc trên thị
trường mở sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm giá
của tín phiếu kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín phiếu
kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu
kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị
trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động đầu tư của các
chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm. Từ đó tổng
cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh hưởng đến
lượng tiền cung ứng.

4. Hàng hóa trên thị trường mở.

4.1. Tín phiếu kho bạc.

Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do Chính phủ phát hành để bù đắp thiếu
hụt tạm thời của ngân sách trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu kho bạc
thường ngắn, dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của NVTTM của hấu hết
NHTW các nước vì :

- Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao

- Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu
cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau. Bộ tài chính là người có vai
trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc
của tín phiếu. Tín phiếu Kho bạc được phát hành hàng tuần để chi trả các khoản
nợ ngắn hạn của Chính phủ. Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo
nhu cầu vay mượn của Chính phủ.

7
4.2. Tín phiếu NHTW.

Tín phiếu NHTW là loại GTCG ngắn hạn do NHTW phát hành để làm công
cụ cho OMO. Việc sử dụng tín phiếu NHTW làm hàng hoá trên thị trường mở có
một số ưu điểm như tăng cường tính độc lập của NHTW trong việc thực thi
CSTT và là công cụ linh hoạt cho việc quản lý vốn khả dụng

Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu NHTW để thực thi CSTT sẽ làm cho chi
phí hoạt động của NHTW tăng lên, mặc dù NHTW hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận. Việc sử dụng tín phiếu NHTW đòi hỏi phải có sự phối hợp nhất định
với Bộ Tài chính. Khi NHTW và Bộ Tài chính đồng thời phát hành tín phiếu
NHTW và tín phiếu kho bạc, nếu lãi suất chênh lệch thì các đối tác trên thị
trường mở sẽ tập trung mua loại tín phiếu có lãi suất cao hơn. Khi đó sẽ có sự
phân khúc giữa thị trường tín phiếu kho bạc và thị trường tín phiếu NHTW, làm
cho mục đích phát hành các GTCG này không đạt được và có thể làm giảm hiệu
quả tác động của 2 loại hàng hoá này.

4.3. Chứng chỉ tiền gửi.

Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của ngân hàng hay các định chế tài chính
phi ngân hàng phát hành. Xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong
một thời gian nhất định với một mức lãi xuất định trước. Thời hạn của chứng chỉ
tiền gửi thường là ngắn hạn (cũng có trường hợp thời hạn lên tới 3-5 năm). Sự ra
đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân
hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình
thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi
tiền. Tính ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là sức sống của nó, và do đó nó
được sử dụng như là hàng hoá phổ biến trong nghiệp vụ thị trường mở.

4.4. Thương phiếu.

Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam
kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian xác định.

8
Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ sung nhu cầu
vốn ngắn hạn. Luật và pháp lệnh thương phiếu ở các nước đảm bảo tính chất an toàn
cho công cụ này bằng các quy định về điều kiện được phép phát hành thương phiếu.
Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu; Có thể là ngân hàng (thông qua các
hành vi chiết khấu hoặc cho vay có bảo đảm bằng thương phiếu) hoặc các tổ chức
phi ngân hàng trong quan hệ thanh toán trực tiếp (cơ chế bảo lãnh của ngân hàng
làm cho thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng
trong thanh toán của các tổ chức này). Vì vậy, việc mua bán thương phiếu của Ngân
hàng Trung ương sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi
của các khách hàng tại ngân hàng thương mại.

4.5. Trái phiếu chính phủ.

Trái phiếu chính phủ là giấy nhận nợ dài hạn do Chính phủ phát hành nhằm
mục đích huy động vốn cho ngân sách. Mặc dù là GTCG dài hạn có thời hạn lên đến
10-30 năm nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng khá rộng rãi trong các giao
dịch OMO ở một số nước bởi tính an toàn, ổn định trong phát hành và khối lượng
phát hành thường lớn, có khả năng tác động trực tiếp giá cả trên thị trường tài chính.

4.6. Trái phiếu chính quyền địa phương.

Tương tự như trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa
phương khác thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông
thường người sở hữu trái phiếu của chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi
về thuế thu nhập trái phiếu. Sự can thiệp của NHTW qua việc mua bán trái phiếu
loại này cũng tương tự như trái phiếu Chính phủ. Chính quyền địa phương phát
hành trái phiếu là để tài trợ cho chi tiêu của họ và thường chỉ có chính quyền địa
phương lớn phát hành. Loại chứng khoán này được các nhà đầu tư ưa chuộng và
các NHTM thường dùng loại chứng khoán này tái chiết khấu tại NHTW.

5. Các NVTTM.

5.1. Nghiệp vụ giao dich chứng từ có giá.

a. Giao dịch không hoàn lại (Các giao dịch mua đứt bán đoạn).

9
Các giao dịch không hoàn lại bao gồm các nghiệp vụ mua, bán chứng khoán
của NHTW theo các phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường.
Hình thức giao dịch này làm chuyển hẳn quyền sở hữu đối với các chứng khoán
là đối tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ của các ngân hàng
là dài hạn.

b. Giao dịch có hoàn lại (Giao dịch có kỳ hạn).

Hình thức này chủ yếu sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là các hợp
đồng mua lại (Repor). Hợp đồng mua lại, sử dụng khi NHTW thực hiện một giao
dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là mua chứng khoán từ người môi giới trên
thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày xác định trong tương lai. Hợp
đồng mua lại đảo ngược được áp dụng khi NHTW muốn rút bớt dự trữ của hệ
thống ngân hàng. Để đạt được mục đích này, NHTW bán chứng khoán cho người
giao dịch, người đồng ý sẽ bán lại vào một ngày xác định trong tương lai. Sự
chênh lệch giá bán chứng khoán tại thời điểm t = 0 và thời điểm t = T là lãi suất
của khoản vay Repor. Nói chung, hợp đồng mua lại được sử dụng trong một thời
gian rất ngắn, thường là hợp đồng qua đêm với t = 1 ngày. Tuy nhiên cũng có
hợp đồng mua lại dài hơn với t > 1 ngày, đựoc gọi là Repor có thời hạn. Với loại
Repor mở, thời hạn t không được xác định trước mà 2 bên thoả thuận lại vào mỗi
ngày. Giao dịch theo hợp đồng Repor thực chất là một khoản cho vay có đảm bảo
bằng các chứng khoán có tính thị trường cao.

Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong nghiệp vụ thị trường
mở vì những lý do sau:

Thứ nhất, đây là một công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu
những ảnh hưởng không dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng.

Thứ hai, chi phí giao dịch cho một hợp đồng mua lại rẻ hơn so với các hợp
đồng mua đứt bán đoạn.

Thứ ba, Thích hợp trong trường hợp các định hướng chính sách tiền tệ
không hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các giải pháp khắc phục.

10
Thứ tư, làm bớt thời gian thông báo, do đó mà giảm bớt biến động của thị
trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW.

5.2. Nghiệp vụ giao dịch hoán đổi ngoại tệ.

Trong nghiệp vụ này khi tham gia giao dịch thi NHTW đồng thời ký hai hợp
đồng và lấy ngoại tệ làm đối tượng trao đổi .

Hợp đồng 1: Mua bán ngoại tệ với tỷ gia giao ngay

Hợp đồng 2: Bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá co ky hạn

Ngoài ra, một loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong
NVTTM như: Phát hành chứng chỉ nợ của NHTW; Giao dịch hoán đổi các chứng
khoán đến hạn.

6. Phương thức hoạt động của NVTTM.

6.1. Giao dịch song phương.

Là phương thức mà NHTW với người giao dịch giao dịch thẳng với nhau
hoặc giao dịch thông qua nhà môi giới hoặc đại lý chứng khoán mà không mua
bán thông qua hình thức đấu thầu.

Giao dịch song phương thường không được thông báo trước, ngày can thiệp
tùy thuộc vào quyết định của NHTW.

6.1. Giao dịch theo phương thức đấu thầu.

a. Phương thức đấu thầu khối lượng.

Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng tham gia
nghiệp vụ TTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối
lượng GTCG mua hoặc bán và lãi suất do NHTW thông báo cụ thể như sau :

- NHTW thông báo cho các TCTD mức lãi suất và khối lượng các loại
GTCG cần mua hoặc cần bán (NHTW có thể không thông báo khối lượng cần
mua hoặc cần bán).

11
- Các đơn vị thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại giấy tờ cần
mua hoặc cần bán theo mức lãi suất do NHTW công bố

Sau khi mở thầu, NHTW xác định khối lượng trúng thầu của các đơn vị
tham gia dự thầu theo nguyên tắc sau :

+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD bằng hoặc thấp hơn khối
lượng NHTW cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của đơn vị chính
là khồi lượng dự thầu.

+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng NHTW
cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của các TCTD sẽ được phân bổ
theo tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của các TCTD.

b. .Phương thức đấu thầu lãi suất

Là việc xác định lãi suất trúng thầu của các TCTD tham gia NVTTM trên cơ
sở khối lượng dự thầu của các TCTD, khối lượng GTCG mà NHTW cần mua
hoặc cần bán.

- NHTW có thể công bố hoặc không công bố khối lượng GTCG cần mua
hoặc cần bán.

- Các đơn vị thành viên dự thầu theo mức lãi suất và khối lượng GTCG cần
mua hoặc cần bán ứng với mức lãi suất đó. Lãi suất dự thầu được tính theo tỷ lệ
phần trăm và được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy. Lãi suất sẽ được sắp
xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần, nếu NHTW là người mua và ngược lại
lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự tăng dần nếu NHTW là người bán.

- Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu cao nhất (trường hợp NHTW bán) và
lãi suất dự thầu thấp nhất (trường hợp NHTW mua) mà tại đó đạt được khối
lượng GTCG NHTW cần mua hoặc cần bán.

Có hai phương thức xét thầu theo lãi suất là xét thầu theo lãi suất thống nhất
hoặc theo lãi suất riêng lẻ:

12
+ Lãi suất thống nhất: là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một
mức lãi suất trúng thầu để tính số tiền phải thanh toán.

+ Lãi suất riêng lẻ: khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức
lãi suất dự thầu được công bố trúng thầu để tính số tiền thanh toán.

Khối lượng trúng thầu được tính theo nguyên tắc :

+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD nhỏ hơn hoặc bằng khối
lượng mà NHTW cần mua hoặc cần bán thì khôí lượng dự thầu chính là khối
lượng trúng thầu.

+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng mà
NHTW cần mua hoặc cần bán thì khôí lượng trúng thầu của các TCTD được tính
tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của các TCTD đó.

7. Ưu nhược điểm của NVTTM.

7.1. Ưu điểm.

Có thể khái quát một số ưu điểm điểm của NVTTM như sau:

- NVTTM là công cụ chính sách tiền tệ chủ động: Thông qua NVTTM,
NHTW có thể tạo ra những biến động có tính chất cung cấp tín hiệu cho thị
trường theo mục tiêu chính sách tiền tệ và tác động vào xu hướng trên thị trường.
NVTTM do NHTW khởi xướng khác với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác
của NHTW (chẳng hạn như cho vay cầm cố bằng GTCG, cho vay tái chiết khấu)
do các ngân hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng. NHTW có thể thực
hiện nghiệp vụ theo định kỳ hoặc vào các thời điểm cần thiết.

- NVTTM do các ngân hàng tự nguyện thực hiện theo các nguyên tắc thị
trường, không có tính chất bắt buộc như công cụ dự trữ bắt buộc.

- NVTTM có thể thực hiện linh hoạt xét trên góc độ về khối lượng cũng như
thời hạn giao dịch, NHTW có thể điều chỉnh vốn khả dụng của các ngân hàng với
quy mô vốn lớn-nhỏ với thời gian dài hay ngắn tuỳ theo quyết định mua bán là
ngắn hay dài. Tính linh hoạt của NVTTM còn thể hiện là khi thực hiện NVTTM

13
có một quyết định sai lầm nào đó thì NHTW có thể đảo ngược lại ngay tình
huống đó. Ví dụ như NHTW thấy rằng lượng tiền cung ứng tăng nhanh do
NHTW mua GTCG trên thị trường quá nhiều, thì NHTW có thể sửa chữa bằng
cách thực hiện giao dịch bán GTCG trên thị trường mở để giảm bớt cung tiền
trong nền kinh tế. Các giao dịch có kỳ hạn cho phép điều chỉnh các biến động
không dự đoán trước có ảnh hưởng đến dự trữ của các ngân hàng hoặc các diến
động quá mức dự tính với chi phí thấp và hiệu quả cao. Đặc biệt, thông qua
NVTTM NHTW có thể điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng
theo hai chiều bơm - hút (trong khi công cụ tái cấp vốn, tái chiết khấu chỉ nhằm
mục đích bơm thêm vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng).

- NVTTM có thể được thực hiện nhanh chóng, chính xác, không gây chậm
trễ về mặt hành chính. NVTTM có tính an toàn cao: Giao dịch trên thị trường mở
hầu như không gặp rủi ro, xét trên góc độ của NHTW và các tổ chức tín dụng
tham gia vì hàng hoá giao dịch trên thị trường mở là những GTCG, có tính thanh
khoản cao.

- NHTW có thể thực hiện NVTTM trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp.
NVTTM được thực hiện trên thị trường sơ cấp chỉ các giao dịch phát hành lần
đầu GTCG của NHTW và thanh toán các GTCG đến hạn. Trong khi đó, NVTTM
trên thị trường thứ cấp thực hiện trên cơ sở các giao dịch mua bán hẳn, mua - bán
có kỳ hạn các GTCG đã phát hành. Ở hầu hết các nước thì hàng hoá chủ yếu trên
thị trường mở là các chứng khoán Chính phủ vì các chứng khoán này có độ an
toàn cao, phát hành với khối lượng lớn, định kỳ khá thường xuyên.

7.2. Hạn chế.

Ngoài những ưu điểm chủ yếu trên, thị trường mở cũng có những điểm hạn
chế nhất đinh:

- Các tác động của NVTTM đến lượng tiền cơ sở bị triệt tiêu bởi các tác động
ngược chiều làm cho dự trữ của hệ thống ngân hàng không tăng hoặc giảm tương
ứng theo ý muốn của NHTW khi thực hiện mua bán GTCG trên thị trường mở. Trên

14
thực tế, các hoạt động mua bán GTCG của NHTW nhằm bơm thêm vốn khả dụng
có thể bị triệt tiêu một phần hay toàn bộ do mất cân đối trong cán cân thanh toán
hoặc một số dư tiền gửi ở NHTW tăng lên.

- Khả năng phát huy hiệu quả NVTTM không chỉ phụ thuộc vào NHTW mà
còn bị chi phối bở môi trường kinh tế vĩ mô, hành vi của công chúng và các quyết
định của các NHTM. Chẳng hạn như khi lãi suất thị trường giảm xuống như là
kết quả tất yếu của sự tăng lên của lượng tiền cơ bản, không phải lúc nào tín dụng
cho nền kinh tế cũng tăng lên tương ứng. Điều này còn phụ thuộc vào khả năng
hấp thụ vốn của nền kinh tế, mức độ rủi ro và sự ổn định môi trường đầu tư. Việc
sử dụng lượng dự trữ dư thừa cho mục tiêu mở rộng tín dụng không chỉ phụ
thuộc vào quyết định của các ngân hàng mà còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác.

II. MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ


VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.

1. Trong năm 2008.

Năm 2008 Sở Giao dịch NHNNVN đã tổ chức 402 phiên giao dịch TTM,
tăng 47 phiên so với năm 2007. Mua GTCG chiếm đến 64,67% tổng phiên giao
dịch với doanh số trúng thầu chiếm 91,42%. Không chỉ tăng số phiên giao dịch,
doanh số giao dịch cũng tăng kỷ lục so với năm 2007, trong đó chủ yếu là giao
dịch mua có kỳ hạn (tăng gấp 15 lần so với năm 2007). Trong khi đó, giao dịch
bán hẳn chỉ còn 76.837 tỷ đồng, giảm 4,6 lần so với 2007.

NVTTM được NHNNVN điều hành linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các
công cụ CSTT khác để điều tiết vốn khả dụng cho các TCTD ở mức hợp lí, góp
phần ổn định thị trường tiền tệ. Ví dụ như năm 2008, đối mặt với diễn biến kinh
tế bất thường: lạm phát ở mức 19,98% nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm từ
tháng 7 và chuyển sang âm trong tháng 10, tháng 11, NHNNVN đã kết hợp linh
hoạt, hiệu quả NVTTM với các công cụ khác của CSTT, góp phần kiềm chế lạm
phát. Kết quả giao dịch NVTTM năm 2008 như sau:

15
Bảng 2.6: Kết quả giao dịch NVTTM năm 2008
Loại giao dịch Tổng số dự kiến Khối lượng Khối lượng Lãi suất trúng
đăng ký trúng thầu thầu bình quân
Mua có kỳ hạn (260 979.800 3.883.098 947.205 12,92
phiên)
Bán hẳn (133 phiên) 368.000 135.553 76.837 4,6
Bán có kỳ hạn (9 12.022 12.022 12.022 14,91
phiên)
Tổng số 1.359.822 1.030.673 1.036.066

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Năm 2008, NVTTM đảo chiều so với năm 2007 với tổng số phiên giao dịch là 402
phiên, tăng 47 phiên so với năm 2007; doanh số giao dịch đạt 1.036.066 tỷ đồng, tăng
148% so với năm 2007, trong đó doanh số mua chiếm 91,42% và gấp 15 lần so với năm
2007, doanh số bán giảm 4,6%. Đặc biệt, mức lãi suất đặt thầu trong một số phiên mua
kỳ hạn trong quý I/2008 ở mức rất cao, có lúc lên tới 40%/năm vì vậy NHNNVN đã áp
dụng phương thức đấu thầu khối lượng, lãi suất thống nhất cho tất cả các kỳ hạn giao
dịch (từ 9-15%/năm) để ổn định lãi suất thị trường. Diễn biến này phản ánh những biến
động bất thường của thị trường tiền tệ năm 2008 và khó khăn về thanh khoản của các
TCTD. Kết quả giao dịch cụ thể của từng quý thể hiện như sau:

Bảng 2.7: Diễn biến giao dịch năm 2008 theo từng quý
Quý I Quý II Quý III Quý IV
LS (%) KL (tỷ) LS (%) KL tỷ) LS (%) KL tỷ) LS (%) KL(tỷ)
Giao dịch
Mua có kỳ hạn 12,18 190.214 11,88 445.000 15 283.100 13,6 28.891
Bán hẳn 8,5 1.867 7,75 1.578 4,5 74.986
Bán có kỳ hạn 14,91 12.022

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Trong Quý I, trên thị trường mở diễn ra cả hai loại giao dịch mua và bán
nhưng kết quả mua là chủ yếu (khoảng 93%) và áp dụng cả hai phương pháp đấu
thầu là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng, thời hạn giao dịch phổ biến là 07
và 14 ngày trong nghiệp vụ Mua kỳ hạn trên TTM. Từ tháng 2/2008, do tình hình
lãi suất đặt thầu và thắng thầu tăng cao, NHNNVN bắt đầu thắt chặt chính sách

16
tiền tệ, chỉ sử dụng phương pháp đấu thầu khối lượng, mức lãi suất thống nhất
được sử dụng trong tuần đầu tiên là 15% nhằm tạo định hướng cho thị trường,
trong các tuần tiếp theo lãi suất được điều chỉnh giảm xuống 14%, 13%, 10% và
9% cho phù hợp với lãi suất cơ bản do NHNNVN công bố.

Ngày 13/02/2008, NHNN ban hành Quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc


phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc với tổng giá trị tín phiếu phát hành là 20.300
tỷ đồng, kỳ hạn 364 ngày, lãi suất 7,8%/năm, ngày phát hành 17/03/2008. Tín
phiếu NHNN được phân bổ cho 41 NHTM theo quy mô tỷ trọng vốn huy động
bằng đồng Việt Nam (4 NHTM Nhà nước, 28 NHTM cổ phần, 7 chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài, 2 Ngân hàng liên doanh và công ty tài chính dầu khí). Đó là
những Ngân hàng vẫn còn khá dồi dào nguồn vốn. Như vậy, để thực hiện chính
sách thắt chặt tiền tệ, NHNN đã chủ động phát hành tín phiếu NHNN nhằm thu
bớt tiền trong lưu thông với mục đích ổn định tiền tệ.

Sang quý II, để đảm bảo tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, NHNNVN
một mặt áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng mặt khác vẫn hỗ trợ thanh khoản
cho các TCTD qua NVTTM. Lượng vốn bơm ra thị trường trong thòi kỳ này đạt
mức kỷ lục là 445.000 tỷ đồng, chiếm 99,65% tổng khối lượng giao dịch NVTTM
trong Quý II. NHNNVN tiếp tục áp dụng hình thức đấu thầu khối lượng với mức lãi
suất thống nhất được điều chỉnh tăng dần từ 9% lên 12%/năm.

Mục tiêu trong quý 2 là tăng tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Để làm
được điều này, NHTW thực hiện NVTTM theo hướng mua các GTCG và cung tiền
ra thị trường. Để mua được các GTCG, NHTW phải tăng mức lãi suất từ 9 % lên
đến 12% để hấp dẫn các ngân hàng bán GTCG cho mình, từ đó làm tăng dự trữ của
hệ thống ngân hàng, cung vốn khả dụng tăng, trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng
không đổi, từ đó làm giảm lãi suất liên ngân hàng, làm giảm lãi suất nói chung.

Mặt khác, cung GTCG giảm, giá của chúng tăng, tỷ suất sinh lời giảm, thị
trường GTCG trở lên kém hấp dẫn, các ngân hàng thích cung vốn trên thị trường
tiền tệ liên ngân hàng hơn là đầu tư vào các GTCG, tính thanh khoản của các
ngân hàng tăng do cung vốn khả dung tăng, cung vốn khả dụng tăng, lãi suất liên
17
ngân hàng giảm, lãi suất nói chung giảm. Nói chung, NHTW đạt được mục tiêu
đã đề ra bên trên.

Quý III, tình hình vốn trên thị trường đã bớt căng thẳng. NHNNVN tiếp tục
tổ chức mua kỳ hạn trên thị trường mơ và duy trì hình thức đấu thầu khối lượng
với mức lãi suất được điều chỉnh tăng lên 15%/năm cho phù hợp với định hướng
điều hành lãi suất và kiềm chế lạm phát của NHNNVN.

Bước sang Quý IV, lạm phát đã được kiềm chế và Chính phủ ưu tiên cho
mục tiêu chống suy giảm kinh tế, nguồn vốn khả dụng của các TCTD đã được cải
thiện đáng kể. NHNNVN đã tổ chức cả hai loại giao dịch mua và bán; trong đó
giao dịch mua vẫn áp dụng hình thức đấu thầu khối lượng nhưng lãi suất đấu thầu
được điều chỉnh giảm dần từ 15% xuống 9%/năm. Kết quả, lượng vốn đưa ra qua
kênh mua chỉ bằng 38,53% so với lượng vốn hút về qua kênh bán.

Với hiệu quả rõ rệt của NVTTM, số lượng thành viên tham ra nghiệp vụ này
đã tăng từ mức 44 TCTD trong năm 2007 lên mức 56 TCTD trong năm 2008, tỷ
lệ thành viên tham gia giao dịch cũng tăng từ mức 21 TCTD lên mức 35 TCTD.

Kể từ ngày 1/10/2008, NHNN đã có quyết định cho phép tín phiếu NHNN
bắt buộc phát hành từ tháng 3/2008 được điều chỉnh bổ sung là được phép cầm cố
để vay vốn, chiết khấu tại NHNN, được sử dụng làm công cụ cho NVTTM của
NHNN. Và từ ngày 21/10/2008, NHNN thực hiện trả trước hạn tín phiếu này
theo yêu cầu của các TCTD. (Quyết định của NHNN số 2317/QĐ-NHNN ngày
20/10/2008).

Việc bắt buộc mua tín phiếu NHNN như trên là không hợp lý bởi về nguyên
tắc, tín phiếu do NHTM tự nguyện mua, trên cơ sở tính toán nguồn vốn của mình
và có thời hạn dưới 12 tháng. Trường hợp cần thiết, NHTM có thể bán lại tín
phiếu cho NHNN để lấy tiền về. Thế nhưng với 20.300 tỷ đồng tín phiếu mà
NHNN phát hành lại không có tính tự nguyện, NHTM buộc phải mua theo số
lượng đã được NHNN ấn định. Như vậy, 20.300 tỷ đồng này khá giống với dự
trữ bắt buộc, có khác là NHTM được trả lãi với lãi suất 7,8%/năm. Một điểm nữa

18
là tín phiếu bắt buộc này lại rất giống trái phiếu. Theo quy định, tín phiếu có thời
hạn dưới 12 tháng còn thời hạn của trái phiếu là trên 12 tháng. Tín phiếu bắt buộc
thuộc loại “già tín phiếu nhưng non trái phiếu” khi có thời hạn 364 ngày, tức là
chỉ thiếu đúng một ngày là được gọi là trái phiếu. Vì lý do trên mà hầu hết các
NHTM không mặn mà đối với nghiệp vụ này.

Như trên đã phân tích, hoạt động thị trường mở có vai trò rất quan trọng
trong điều hành chính sách tiền tệ. Song tiền đề cho sự hoạt động hiệu quả của thị
trường này chính là thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước. Bởi vì
NHTM có sở hữu tín phiếu kho bạc Nhà nước và một số loại GTCG khác thì mới
có điều kiện tham gia thị trường mở của NHNN.

Trong hơn 9 tháng đầu năm 2008, do khó khăn về thanh khoản NHTM, nên
trong khi thị trường mở rất sôi động thì thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc
trầm lắng, các phiên đấu thầu không được tổ chức. Thực tế chỉ có 2 phiên được tổ
chức vào cuối tháng 1 và cuối tháng 3/2008 nhưng không có thành viên nào tham
gia dự thầu. Qúy II/2008, không tổ chức được phiên nào, quý III tổ chức được 3
phiên. Thị trường này hoạt động nhộn nhịp trở lại từ đầu tháng 10/2008, khi
NHNN đã tăng tần suất giao dịch từ 1 phiên/tuần lên 2 phiên/tuần, có 24 phiên
được tổ chức vào quý IV/2008. Tính tổng cộng đến ngày 25/12/2008, NHNN tổ
chức được 34 phiên, giảm 9 phiên so với kết quả 43 phiên được tổ chức trong
năm 2007[24,44]. Diễn biến này cùng phù hợp với 4 giai đoạn khác nhau trong
điều hành chính sách tiền tệ năm 2008 của NHNN. Thông qua đó, thị trường này
có tác dụng rất quan trọng trong can thiệp vốn khả dụng của NHTM, cũng như
tạo công cụ phòng ngừa rủi ro thanh khoản của NHTM, nâng cao hiệu quả điều
hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu đã đề ra của NHNN.

Mặc dù có những hạn chế nhưng NVTTM Việt Nam năm 2008 cũng đạt
được 1 số thành tựu nhất định như đã phát huy vai trò tích cực trong việc thực thi
CSTT, góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo khả năng thanh khoản cho các
TCTD, giữ vững tính an toàn và bền vững của hệ thống Ngân hàng.

19
Thành viên tham gia thị trường mở ngày càng được tăng cường. Việc
NHNNVN điều hành linh hoạt NVTTM với các quy trình thủ tục thuận lợi đã
ngày càng thu hút sự quan tâm của các TCTD. Đến nay, các thành viên tham gia
thường xuyên vào thị trường mở không chỉ có các NHTM Nhà nước mà còn có
các NHTM cổ phần, NHTM liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài như
NHTM cổ phần Hà Nội, NHTM cổ phần Kỹ Thương,Citibank, v.v…

2. Trong năm 2009.

Trong năm 2009, NVTTM được điều hành linh hoạt, bám sát với diễn biến cung
cầu vốn khả dụng của các tổ chức tính dụng. Các giao dịch NVTTM được thực hiện
hàng ngày, chủ yếu là các giao dịch mua GTCG với lỳ hạn ngắn (7, 14 ngày); phương
thức đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất và khối lượng nhằm ổn định thị trường; lãi
suất được điều chỉnh theo mục tiêu điều hành và phát tín hiệu điều hành của NHNN,
khối lượng chào mua phù hợp với mục tiêu điều tiết linh hoạt vốn khả dụng, hỗ trợ
thanh khoản, đảm bảo khả năng thanh toán.

Nửa đầu năm 2009, NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳ hạnh 14 ngày, lãi
suất giảm dần từ 9% xuống 7% để cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, tạo điều
kiện cho các TCTD đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích thích tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên, chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu,
nhu cầu vốn của nền kinh tế chưa cao, nguồn vốn của các TCTD vẫn dư thừa nên nhu
cầu tham gia các phiên chào mua NVTTM không cao với doanh số trúng thầu chỉ đạt
74 % so với lượng tiền chào mua của NHNN. Khối lượng trúng thầu bình quân mỗi
phiên đạt khoảng 1000 tỷ đồng mỗi phiên.

Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các TCTD có xu hướng
tăng cao theo các chương trình kích cầu của Chính phủ, NHNN đã tăng khối lượng
chào mua qua NVTTM, khối lượng trúng thầu bình quân các phiên chào mua tăng
mạnh, đạt 95 % khối lượng chào mua của NHNN và đạt khoảng 6000 tỷ đồng/phiên,
gấp 6 lần so với mức 6 tháng đầu năm. Đặc biệt trong nửa đầu tháng 12, NHNN đã
chào mua qua kênh NVTTM với khối lượng bình quân xấp xỉ 15000 tỷ đồng/phiên để
hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD do nhu cầu thanh toán tăng cao trong dịp tết dương
20
lịch. Kỳ hạn chào mua được thực hiện linh hoạt giữa 7 ngày và 14 ngày với lãi suất
chào mua tương ứng là 7 % năm và 14 % năm. Đồng thời để chủ động kiểm soát lạm
phát và điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của TCTD trong hệ thống. NHNN đã thực
hiện chào bán tín phiếu NHNN với định kỳ 3 phiên/tuần với định kỳ 3 tháng và 6
tháng. Phương thức đấu thầu lãi suất, xét thầu thống nhất, nhưng trong số 68 phiên
đấu thầu tín phiếu NHNN chỉ có 2 phiên bán trúng thầu với doanh số 102 tỷ đồng.

Cùng với việc điều hành linh hoạt và thận trọng các công cụ chính sách tiền
tệ khác, NVTTM đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn thanh
toán hệ thống các TCTD, đồng thời lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân
hàng có xu hướng xoay quanh lãi suất chào mua qua NVTTM .

Trong NVTTM 2009, NHNN thực hiện hoán đổi ngoại tệ với các TCTD gặp
khó khăn tạm thời về nguồn vốn VND, tạo điều kiện cho các TCTD cân đối giữa
nguồn vốn và sử dụng VND và ngoại tệ, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và
tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Kỳ hạn giao dịch hoán đổi ngoại tệ được thực
hiện là 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng với lãi suất tương ứng là 6%; 6.25%; 6,5%/
năm. Đến cuối 2009 NHNN chỉ thực hiện giao dịch với kỳ hạn 3 tháng và 6 tháng
với lãi suất điều chỉnh là 7,75% và 8%/ năm.

3. Trong năm 2010.

Trong quý I, báo cáo của NHNN cho biết, để đảm bảo ổn định thị trường và hoạt
động của hệ thống trong thời gian trên, cơ quan này đã tăng cường hỗ trợ vốn cho các
tổ chức tín dụng thông qua NVTTM với 2 phiên giao dịch/ngày, kỳ hạn 7 ngày và 28
ngày bắt đầu từ ngày 23/12/2009; thực hiện tái cấp vốn và nghiệp vụ Swap với khối
lượng lớn và kỳ hạn hợp lý cho các tổ chức tín dụng để đảm bảo thanh khoản; bổ
sung GTCG được phép tham gia giao dịch NVTTM và tái cấp vốn. Tính đến ngày
12/2/2010, lượng tiền cung ứng thực tế tiếp tục tăng ở mức cao so với cùng kỳ các
năm gần đây.

Trong tháng 2/2010, lượng vốn mỗi ngày NHNN hỗ trợ qua thị trường mở
có từ 12.000 – 15.000 tỷ đồng; NVTTM được tăng cường 2 phiên/ngày. Và với

21
diễn biến thuận lợi hơn về nguồn tiền gửi và tình hình vốn khả dụng, trong ngày
3/3 vừa qua, kết quả đấu thầu cũng lên tới 10.005 tỷ đồng qua 2 phiên.

Tuy nhiên, kể từ sau ngày 4/3, lượng tiền “bơm” qua thị trường mở đã giảm
mạnh và hiện chỉ còn duy trì mỗi ngày 1 phiên. Cụ thể, khối lượng trúng thầu
ngày 4/3 chỉ có 3.200 tỷ đồng, đến ngày 10/3 là 2.983 tỷ đồng; đặc biệt trong các
ngày 11, 12 và 15/3, lượng tiền chỉ còn tương ứng 796, 454 và 742 tỷ đồng.

Lãi suất hình thành qua nhưng phiên đầu thầu vừa qua ổn định ở 8%/năm,
bằng với lãi suất tái cấp vốn hiện hành, tập trung chủ yếu ở kỳ hạn 14 ngày.
Trong những thời điểm căng thẳng về vốn khả dụng, lãi suất hình thành qua đấu
thầu có thể cao hơn lãi suất tái cấp vốn.

Thống đốc NHNN cho biết trong quý I/2010, tổng phương tiện thanh toán và
tín dụng có xu hướng tăng dần, tín dụng tăng 3,34%. Huy động vốn đang có xu
hướng tăng trở lại, đến cuối tháng 3 tăng 3,8% so với cuối năm 2009, đặc biệt là
tiền gửi của dân cư tăng 9,2%.

Trong quý II, III:

22
Dựa vào số liệu dưới và biểu đồ trên đây ta thấy trong quý 2 năm 2010 có thể
thấy chính phủ đang sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng nhưng không hoàn toàn ,
cụ thể trong tuần kết thúc vào ngày 28/5, lượng vốn bơm qua OMO là -7.275 tỷ
đồng; tượng tự các tuần kết thúc vào các ngày 4/6 là 5.783 tỷ đồng, ngày 11/6 là
113 tỷ đồng, ngày 18/6 là -1.556 tỷ đồng, ngày 25/6 là 5.142 tỷ đồng. Ngày 28/5
và ngày 18/6 lượng vốn bơm qua OMO lần lượt là -7.275 và -1.556 tỷ đồng chứng
tỏ NHTW đã rút vốn trên thị trường mở qua việc bán các GTCG, cùng trong quý
ngày 4/6 và 11/6 , 25/6 lượng vồn bơm qua OMO lần lượt là 5.783 và 113, 5142
tỷ đồng chứng tỏ NHTW đã bơm tiền qua thị trường mở qua việc mua các GTCG ,
tuy vậy trong quý II thì tổng số tiền cung ứng ra khoảng 2207 tỷ đồng. Trong tình
hình nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh, tăng 6.2% trong nửa đầu năm 2010, riêng
quý II tăng 6.4% so với mức 4.5% cùng kỳ năm 2009 , tuy nhiên quý II vần chưa
đạt được mục tiêu đề ra là 6.5%.

Như ta thấy trên biểu đồ tháng 7 năm 2010 có thể thấy chính phủ đang sử
dụng chính sách tiền tệ mở rộng, Cụ thể là gày 2/7 là 1.554 tỷ đồng, ngày 9/7 là
1.849 tỷ đồng, ngày 16/7 là -278 tỷ đồng và tuần gần nhất kết thúc vào ngày 23/7
là 5.597 tỷ đồng chứng tỏ NHTW đã bơm tiền qua thị trường mở qua việc mua
các GTCG ở 3 ngày 2/7, 9/7, 23/7 và rút vốn trên thị trường mở ngày 16/7.

Trong tình hình nên kinh tế đang thiếu vốn thì việc NHTW tăng chi bơm tiền
ra OMO bằng cách mua các gtcg ,sẽ đáp ứng được các nhu cầu sản xuất , nâng
cao sảng lượng, đồng thời đáp ứng đủ nguồn vốn lưu động cho các chủ thể kinh tế
và vốn khả dụng cho NHTM. Tuy vậy trong quý II NHTW không chỉ bơm tiền
liên tục vào OMO mà còn các hoạt động hút tiền từ OMO, bởi vì việc bơm tiền ra
liên tục tuy đáp ứng nhu cầu vốn của các tổ chức kinh tế lẫn vốn khả dụng của
NHTM nhưng cũng làm lạm phát gia tăng nên bên cạnh việc bơm tiền ồ ạt,
NHTW cũng tiến hành việc hút các khoản vốn tropng nền kinh tế nhằm giảm lạm
phát việc vừa bơm tiền vừa hút tiền của NHTW trong từng thời điểm nhằm mang
lại nhiều hiệu quả vừa thúc đẩy nền kinh tế tế phát triển đồng thời kiềm chế lạm
phát

23
Trong cùng cuối quý II, và nửa đầu quý III NHTW sử dụng việc hút và bơm
tiền ra nền kinh tế nên coi NHTW sử dụng liên tiếp các chính sách tiền tệ thắt
chặt và mở rộng liên tục cụ thể như :

Ngày 28/5, 18/6 và 16/7 NHTW thực hiện chính sách tiền thệ thắt chặt à
NHTW bán các GTCG có thể là tín phiếu kho bạc cho các tổ chức tín dụng à
giảm dự trữ trong hệ thống ngân hàng à cung vốn khả dụng giảm . trong khi đó
điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không thay đổi à tăng lãi suất liên ngân hàng .
mặt khác cung tín phiếu kho bạc tăng à giá tín phiếu giảm à tỷ suất sinh lời
tăng à thị trường tín phiếu kho bạc trở nên hấp dẫn với các tổ chức tín dụng thừa
vốn à chuyể sang thị trường tín dụng kho bạc à giảm cung vốn khả dụng trên
thị trường tiền tệ liên ngân hàng và đẩy lãi suất liên ngân hàng lên phù hợp với
mục tiêu của NHTW.

Ngày 4/6, 11/6, 25/6, 2/7, 9/7 và 23/7 có thể coi NHTW thực hiện chính
sách tiền tệ mở rộng à NHTW mua các GTCG có thể là tín phiếu kho bạc cho
các tổ chức tín dụng à tăng dự trữ trong hệ thống ngân hàng à cung vốn khả
dụng tăng . trong khi đó điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không thay đổi à giảm
lãi suất liên ngân hàng . mặt khác cung tín phiếu kho bạc giảm à giá tín phiếu
tăng à tỷ suất sinh lời giảm à thị trường tín phiếu kho bạc trở nên kém hấp dẫn
với các tổ chức tín dụng thừa vốn àrút vốn từ thị trường tín dụng kho bạc à
tăng cung vốn khả dụng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng và giảm lãi suất
liên ngân hàng xuống phù hợp với mục tiêu của NHTW.

Tuy vậy NHTW đã đạt được một số kết quả nhất định , lượng tiền “bơm”
qua thị trường mở đã giảm mạnh và hiện chỉ còn duy trì mỗi ngày 1 phiên .Việc
nới lỏng tiền tệ trong thời gian gần đây được thấy rõ hơn qua việc NHNN đang
bơm tiền vào hệ thống ngân hàng thông qua OMO. Mức bơm ròng trong tháng 5
là 19 nghìn tỷ, tháng 6 là 9 nghìn tỷ và 3 tuần đầu tháng 7 là xấp xỉ 10 nghìn tỷ.

24
Trong các tuần kết thúc vào các ngày 13/8 và 20/8, nhu cầu vay vốn trên thị
trường mở đột ngột giảm mạnh, thể hiện qua lượng đăng ký đấu thầu và khối
lượng trúng thầu. Đặc biệt trong tuần kết thúc ngày 20/8, khối lượng đăng ký và
trúng thầu chỉ ở mức 7.718 tỷ đồng; trong khi nhiều tuần liên tiếp trước đó ghi
nhận các con số có từ 45.000 đến trên 90.000 tỷ đồng đăng ký và từ 20.000 đến
56.000 tỷ đồng trúng thầu.

Tuy nhiên vào các ngày 27/8, 1/9 và 10/9, quy mô các phiên đấu thầu đã
tăng mạnh trở lại, đặc biệt là ở lượng đăng ký. Cụ thể, lượng đăng ký lần lượt qua
các tuần nói trên là 43.982 tỷ đồng, 43.218 tỷ đồng và tuần kết thúc ngày 10/9
vừa qua lên tới 90.950 tỷ đồng. Tương tự, khối lượng trúng thầu lần lượt là
36.110 tỷ đồng, 23.000 tỷ đồng và 46.179 tỷ đồng.

Trên đây là dữ liệu giao dịch trên OMO được Công ty Cổ phần Chứng khoán
Thăng Long (TLS) tập hợp trong bản tin hỗ trợ nhà đầu tư cập nhật ngày 15/9.

Bản tin cũng cho biết, khối lượng bơm ròng trên thị trường mở cũng vừa có
tuần ở mức cao, đạt tới 8.020 tỷ đồng, sau khi hút ròng -2.502 tỷ đồng tuần trước
đó và chỉ bơm ròng 1.269 tỷ đồng ở tuần liền trước.

Tình hình quý IV:

25
Sau một thời gian dài ổn định các kỳ hạn, điều chỉnh mới đây của NHNN
trên thị trường mở thu hút sự chú ý của một số nhà đầu tư. Cụ thể, từ ngày 15/10
trở lại đây, các phiên đấu thầu GTCG trên thị trường này được ấn định ở hai kỳ
hạn: 28 ngày và 7 ngày. Đây là thay đổi đáng chú ý khi một thời gian dài trước
đó NHNN gần như cố định hai kỳ hạn 28 ngày và 14 ngày. Việc thay kỳ hạn 14
ngày bằng 7 ngày có thể là một tín hiệu thắt chặt tiền tệ. Theo đó, có thể hiểu
NHNN đã giảm bớt sự hỗ trợ vốn ở kỳ hạn dài hơn (14 ngày), thay bằng kỳ hạn
ngắn (7 ngày).

Bình luận trên được đặt trong bối cảnh Thủ tướng Chính phủ vừa có chỉ thị
yêu cầu NHNN nghiên cứu để có chính sách, cơ chế phù hợp cho phép các
NHTM có thể rút nhanh tiền ra khỏi lưu thông để giảm bớt áp lực tăng giá; hay
“yêu cầu” hạn chế cung tiền khi lạm phát đã có xu hướng tăng mạnh trở lại…

Trên thực tế, theo dữ liệu cập nhật từ NHNN, trong những phiên đấu thầu từ
15/10, bên cạnh kỳ hạn 7 ngày, NHNN vẫn duy trì kỳ hạn 28 ngày. Việc duy trì hai
kỳ hạn này cũng đã từng kéo dài trong suốt tháng 4 và 5/2010, sau khi cơ quan này
quyết định tăng phiên cho thị trường lên 2 phiên/ngày để tăng cường hỗ trợ các
NHTM (vào đầu tháng 4/2010).

Và sau một tháng gián đoạn (từ các phiên ngày 22/9), chiều 25/10, kết quả
đấu thầu trên thị trường mở cũng đã được NHNN cập nhật trở lại. Kết quả công
bố cho thấy, những tháng gần đây và cho đến hai phiên của ngày 22/10, lãi suất
kỳ hạn 28 ngày vẫn được giữ nguyên 8%/năm; ở kỳ hạn “mới”, 7 ngày, lãi suất là
7%/năm - mức đã từng xác định trong tháng 4 và 5/2010.

Cuối tháng 12, kết quả của phiên đấu thầu gần nhất dừng lại ở ngày
26/11/2010, phiên thứ 441 với 11 thành viên dự thầu, mua GTCG kỳ hạn 7 ngày,
khối lượng trúng thầu 2.148 tỷ đồng và lãi suất trúng thầu là 8,75%/năm.

Trạng thái “đóng băng” của việc cập nhập kết quản đâu thầu trong tháng và kết
quả gần nhất nói trên không phản ánh đúng tình hình hoạt động của thị trường trong
khoảng một tháng trở lại. Đặc biệt là lãi suất chào mua đã có một bước tăng mạnh.

26
Thông tin vừa cập nhật từ một kênh khác của NHNN cho biết, lãi suất chào
mua NVTTM kỳ hạn 7 ngày đã lên 10%/năm, tăng mạnh so với mức 8,75%/năm
theo kết quả đấu thầu được cập nhật cuối tháng 11 vừa qua. Đó cũng là sự gia
tăng đáng chú ý khi lãi suất này ở kỳ hạn 7 ngày thời điểm đầu năm chỉ ở mức
7%/năm, rồi lên 8%/năm và qua lần tăng đồng loạt các lãi suất chủ chốt của
NHNN (từ ngày 5/11/2010) lên 8,75%/năm, hiện đã lên 10%/năm.

Bên cạnh lãi suất, thời gian qua một số tổ chức đầu tư đưa ra thông tin tham
khảo là NHNN đã nối lại kỳ hạn 14 ngày trên thị trường mở. Tuy nhiên, kết quả
cập nhật chính thống hiện chưa khẳng định điểm này, ngoài trạng thái duy nhất 1
kỳ hạn là 7 ngày.

III. KẾT LUẬN.

Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ gián tiếp linh hoạt và hữu hiệu trong
thực thi CSTT. Tại các nước phát triển, OMO có ý nghĩa hết sức quan trọng và được
sử dụng chủ yếu trong điều tiết lượng tiền cung ứng và lãi suất thị trường. Ở các
nước đang phát triển, OMO ngày càng trở nên cần thiết và quan trọng khi các điều
kiện thực hiện đã và đang chín muồi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn thiện
công cụ OMO có ý nghĩa thực tiễn tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

27

You might also like