You are on page 1of 4

Kịch bản truyền hình

1. Sự ra đời và ưu thế của truyền hình

Mặc dù những chương trình truyền hình đầu tiên của những năm 30 của thế kỷ này là các tác
phẩm điện ảnh, nhưng nguồn gốc của truyền hình lại độc lập với điện ảnh. Điện ảnh bắt đầu
khai sinh với các bộ phim của anh em Luymiêre (Pháp 1859), trong khi đó mầm mống của
truyền hình lại lại là con lắc truyền ảnh (1843). Mục đích của những thử nghiệm đầu tiên là
những hình ảnh tĩnh, có nghĩa là nó có mối liên hệ với nhiếp ảnh trong giai đoạn tiền
thân này. Có lẽ vì thế mà người ta cho rằng sự ra đời của vô tuyến truyền hình là một bước
tiếp nối từ nhiếp ảnh “kỹ thuật vô tuyến truyền hình thường được xem là gắn liền với kỹ thuật
nhiếp ảnh, nhờ vào sự thay đổi có tính chất cách mạng, việc ghi nhận các hình ảnh bằng điện,
điện tử hay từ tính, cho phép làm được những “bức ảnh đóng hộp” dưới những hình thức
khác nhau trên các băng nhựa hay trong hộp (catset).

Thế nhưng truyền hình hiện đại (truyền hình sử dụng cable hay sóng vô tuyến) “màn ảnh
nhỏ” đã kế thừa từ điện ảnh những hình ảnh chuyển động và thành quả phim có tiếng. Hơn
thế nữa, truyền hình còn được thừa hưởng những điểm mạnh của nền nghệ thuật thứ 7 như
Montage, cỡ cảnh, góc độ máy mà điện ảnh sơ khai đã phải mất hàng chục năm thử nghiệm
mới gặt hái được. Và ngôn ngữ truyền hình gần như đồng nhất và kế thừa ngôn ngữ tạo hình
điện ảnh. Lịch sử loài người là lịch sử của kế thừa. Điện ảnh ra đời là sự kế thừa của nhiếp
ảnh, sân khấu, văn học, điêu khắc, hội hoạ, âm nhạc, còn truyền hình là sự kế thừa từ điện
ảnh và báo chí. Như vậy truyền hình, một tờ
báo hình, dùng phương tiện ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh để chuyển tải thông tin.

Mỗi một phương tiện truyền thông đều có một thế mạnh nhất định, nó bổ sung hỗ trợ cho
nhau trong sự nghiệp chung. Tuy nhiên trong ba loại báo noi, báo viết, báo hình thì loại báo
hình có thể hơn hẳn so với hai loại kia. Bởi ngoài việc bình luận, giải thích các hiện tượng, sự
việc, hoặc một vấn đề nào đó truyền hình còn có hình ảnh sống động giúp người xem chứng
kiến các sự kiện đang diễn ra. Ví dụ như đoạn phim cảnh tai nạn giao thông, xác người mặt
nát bên vũng máu với chiếc xe máy bẹp dúm dưới gầm một chiếc xe ôtô, nhà làm phim
truyền hình đã quay ngay thực tế đang diễn ra tạo ra được những hình ảnh đặc biệt nhất, tiêu
biểu nhất nhằm làm rõ chủ đề của phim để người xem hiểu được ý nghĩa của người định
truyền đạt tới họ. Hay những cảnh đi lại mất trật tự trên đường, vỉa hè trở thành vị trí thuận
lợi để buôn bán, kinh doanh, họp chợ làm ách tắc giao thông nghiêm trọng. Những hình ảnh
sống động đó, phần nào khiến cho người xem ý thức được tình trạng mất trật tự giao thông ở
nước ta hiên như thế nào. Đây cũng chính là ưu điểm của truyền hình mà các loại hình
báo chí khác không có được.

Hình ảnh phát sóng của truyền hình còn có khả năng vươn tới những vùng xa xôi khác nhau
trong mọi miền của cả nước một cách nhanh chóng. Nhờ đó, mọi người dân dù ở đâu cũng có
thể nhanh chóng biết được được những sự việc ở rất xa một cách tường tận. Đây là thế mạnh
nữa của loại hình báo hình so với các thể loại khác.Ưu thế về âm thanh, hình ảnh, phản ánh
cuộc sống một cách chân thật nhất đó cũng cho ta thấy quá trình làm ra một sản phẩm truyền
hình khá phức tạp và kỳ công.
2. Vai trò và đặc điểm của kịch bản truyền hình

Một phóng viên báo viết đi đến cơ sở, thu thập tin tức, viết tin bài. Hoạt động sáng tác của
nhà báo mang tính chất cá nhân. Họ viết những gì mình thu nhận được ra giấy bằng phương
tiện ngôn ngữ chữ viết đơn thuần. Và bài báo hoàn thành, dẫu sao công việc cũng đơn giản.

Làm một chương trình truyền hình, cho dù là một bản tin ngắn cũng đều
phải qua các khâu: xác định đề tài, chủ đề, phác thảo nội dung, lựa chọn cách để
quay sao cho thich hợp với nội dung đó,... khâu cuối cùng là sắp xếp ghép nối
các cảnh thành những câu bình, nối tiếp nhau lôgic. Dựa trên ý nghĩa đề tài của
các cảnh, để viết lời bình.

Bất kỳ một tác phẩm truyền hình nào cũng là sản phẩm mang tính tập thể cao, là kết quả đóng
góp củ các thành viên: quay phim, biên tập, đạo diễn, dựng phim. Vậy làm thế nào để có sự
thống nhất giữa các khâu và tập thể tác giả đó? Về mặt này, truyền hình đã học tập điện ảnh:
kịch bản truyền hình. Một kịch bản có thể xem như xương sống của một sản phẩm truyền
hình. Mỗi thể loại của truyền hình lại có những kịch bản mang đặc trưng tính chất
riêng, phù hợp với thể loại đó. Chúng tôi xin bàn kỹ hơn về vấn đề này trong chương sau.

Kịch bản báo chí truyền hình mang tính dự kiến, dự báo, chứ không phải ở dạng ổn định. Bởi
vì phần lớn các chi tiết trong kịch bản đều là những dự kiến của phóng viên về những cái sắp
xảy ra trong một tương lai gần. Mặt khác nó không được phép hư cấu, vì vậy nó luôn dựa trên
cơ sở người thật việc thật. Kịch bản truyền hình bao giờ cũng dự kiến được những nét chung
nhất của vấn đề mà nó đề cập. Các sự kiện, vấn đề, đặc biệt là những chi tiết của các sự
kiện,vấn đề mà truyền hình đề cập thường hay thay đổi. Thông thường cho đến lúc dựng
được một chương trình hay tác phẩm truyền hình thì bản thân chương trình và tác phẩm đó có
khác nhiều so với kịch bản lúc ban đầu. Vì thế mà có nhiều kịch bản chỉ hoàn chỉnh sau khi
đưa vào giai đoạn hậu kỳ. Kịch bản báo chí truyền hình được xây dựng trên cơ sở các sự kiện
có thật và nghệ thuật “ráp nối” các sự kiện bằng tư duy logic của tác giả. Nó thường được thể
hiện dưới dạng: vừa là kịch bản văn học vừa là kịch bản đạo diễn, trong kịch bản toát lên toàn
bộ nội dung của tác phẩm và biện pháp thể hiện tác phẩm. Kịch bản truyền hình được sử
dụng tất cả các thủ pháp nghệ thuật điện ảnh để thể hiện tác phẩm, nhưng chất liệu của nó là
những sự kiện, con người...có thật không được hư cấu. Hơn nữa, nó được viết ra ở dạng đề
cương và sử dụng trong phạm vi hẹp nên nó không được dùng để thưởng thức như một tác
phẩm kịch bản điện ảnh hay văn học nói chung.

Kịch bản, ngoài những tác dụng là “kim chỉ nam” cho hoạt động của phóng viên và quay
phim, là “linh hồn” cho tập thể làm phim, giúp cho tác phẩm có chủ đề tư tưởng, đối tượng
phục vụ, cách thể hiện tác phẩm rõ ràng rành mạch,...kịch bản còn là căn cứ để phóng viên
thu thập tài liệu, sử dụng có hiệu quả tiếng động hiện trường, chọn âm nhạc phù hợp với nội
dung tư tưởng, tác phẩm...bởi vì xem kịch bản người phóng viên biết mình cần thu thập tài
liệu gì, phỏng vấn ai, câu hỏi như thế nào?... Hơn nữa, kịch bản còn chỉ cho ta thấy cảnh nào,
chi tiết nào của sự kiện là chính và hình ảnh nào, chi tiết nào là phụ để từ đó xác định số cảnh
cần quay và sắp xếp các sự kiện theo logic nhất định (nếu là kịch bản chi tiết), qua kịch bản
người quay phim còn có thể biết quay cảnh nào, góc độ nào có hiệu quả cao... Nhờ có kịch
bản mà toàn bộ tư liệu và hình ảnh quay về, phóng viên đều có thể sử dụng vào các tác phẩm
và đủ thể hiện toàn bộ nội dung mà tác phẩm muốn trình bày. Xây dựng kịch bản là công việc
đầu tiên sau khi xác định đề tài, chủ đề. Việc xây dựng kịch bản chính là sự xác định và thống
nhất hành động đối với những việc cần làm của thành viên nói trên thông qua các bước quay,
dựng và viết lời bình. Đấy là kịch bản của một tác phẩm truyền hình. Đối với cả một buổi
truyền hình thì sao? Việc sắp xếp các chương trình truyền hình, chương trình nọ lại tiếp nối
chương trình kia một cách logic, và sử dụng hình hiệu của các chương trình như thế nào, cần
có một kịch bản không. Theo chúng tôi, chắc chắn phải có kịch bản. Nhưng chức năng kịch
bản này không phải là sự thống nhất giữa các khâu và tập thể làm phim mà là sự thống nhất
giữa các chương trình truyền hình nhỏ (bông hoa nhỏ, thời sự, chuyên đề, quảng cáo thời tiết)
để tạo nên một tổng thể chương trình lớn của một tờ báo hình với đúng nghĩa của nó. Như
vậy thể hiện bằng ngôn ngữ âm thanh, hình ảnh, truyền hình thực sự mở rộng phạm vi của
mình: không chỉ thông tin thời sự, chính trị, truyền hình đã sang cả khu vực sân khấu và điện
ảnh, những vở kịch, sân khấu cổ truyền hay bộ phim. Giờ đây muốn xem, người ta không cần
phải ra rạp xinê hay nhà hát để thưởng thức. Màn ảnh nhỏ đã đáp ứng được nhu cầu này, nó
thực sự là người bạn thân thiết trong gia đình và đó là sự kỳ diệu và uyển chuyển của
truyền hình.

Một chương trình truyền hình là tổng hợp của nhiều thể loại báo chí và loại hình nghệ thuật
khác nhau (sân khấu, điện ảnh) nên kịch bản các thể loại này cũng hết sức đa dạng. Tuy
nhiên, truyền hình trước hết là một loại báo hình, nó mang các đặc tính của báo chí. Do đó
vấn đề kịch bản truyền hình, chúng tôi sẽ giới thiệu chi tiết trên phương diện kịch bản của các
thể loại báo chí như tin truyền hình, phóng sự, bình luận, phỏng vấn...trong chương II.

Đối với báo viết và phát thanh công việc chuẩn bị kịch bản đã là quan trọng, nhưng trong
truyền hình thì kịch bản là cần thiết không thể thiếu được. Bởi vì, ngôn ngữ của báo viết là
dùng chữ viết để thể hiện (đôi khi còn dùng ảnh để minh hoạ), phát thanh thì dùng ngôn ngữ
âm thanh để tác động vào thính giác người nghe, nên khi đi thực tế phóng viên báo viết và
phát thanh chủ động hơn trong việc thu thập tài liệu và tiếp xúc đối tượng mà tác phẩm đề
cập, hơn nữa phương tiện kỹ thuật dùng trong quá trình làm tác phẩm gọn nhẹ và đơn giản
hơn. Còn trong truyền hình, do đặc trưng của ngôn ngữ truyền hình là nghe- nhìn, nó không
những chỉ thể hiện bằng lời bình, âm nhạc, tiếng động hiện trường mà còn có cả hình ảnh.
Đối với truyền hình, hình ảnh là yếu tố tác động mạnh nhất tới người xem (60% nhìn và 30%
nghe).

Vì vậy khi đi thực tế ngoài việc thu thập, khai thác tài liệu như báo viết, phát thanh, người
phóng viên truyền hình còn phải ghi được những hình ảnh về các sự kiện, vấn đề diễn ra
trong thực tế. Nếu không có sự chuẩn bị kịch bản thì làm sao phóng viên có thể chủ động
htực hiện được tác phẩm trong lúc hàng trăm chi tiết của cuộc sống liên tục tác động vào
nhãn quan, giác quan của phóng viên; không có kịch bản làm sao người quay phim có thể
hiểu được ý đồ phóng viên và nội dung tác phẩm cần thể hiện để mà chọn lọc ghi lại những
hình ảnh có giá trị, mang đầy nội dung và ý nghĩa. Hơn nữa, một tác phẩm truyền hình không
phải là sản phẩm riêng biệt của người phóng viên như trên báo viết và phát thanh mà nó chỉ
là sản phẩm của cả một tập thể gồm: phóng viên, quay phim, ánh sáng, kỹ thuật, lái xe... Vì
vậy kịch bản ngoài tác dụng cho phóng viên quay phim còn là “phương tiện” giúp cho nhóm
làm phim hiểu được nội dung, hình thức tác phẩm và nhìn vào kịch bản tự mỗi thành viên còn
có thể biết công việc của bản thân mình.

Nhờ có kịch bản tập thể làm phim thực hiện công việc nhịp nhàng ăn ý, và góp phần làm
giảm bớt sự tốn kém vật chất cho đoàn làm phim. Khác với kịch bản sân khấu, kịch bản
truyền hình thường chỉ sử dụng một lần giống như kịch bản phim. Bởi vì kịch bản trong
truyền hình và kịch bản điện ảnh sau khi dàn dựng thành một tác phẩm hoàn chỉnh có thể
phát sóng hoặc chiếu phim được coi như kịch bản đã hoàn thành “nhiệm vụ”. Muốn xem lại
tác phẩm người ta chỉ việc đem phát sóng hoặc chiếu lại tác phẩm đã được dàn dựng và sử
dụng lần trước chứ hiếm khi mang kịch bản đó được dàn dựng lại. Nói một cách khác, sau
khi kịch bản truyền hình hoặc phim truyện được sử dụng, người ta đã có một “thành phẩm”
hoàn chỉnh và muốn xem lại người ta đem “thành phẩm” đó ra phát sóng và chiếu lại. Còn
một kịch bản sân khấu thì được nhiều đoàn sân khấu dàn dựng và biểu diễn, đồng thời sau
buổi biểu diễn thì “thành quả” chỉ còn lại ở tâm trí những người xem vở diễn, muốn trình
diễn cho những khán giả xem thì lại dùng kịch bản đó dàn dựng từ đầu. Nói cách khác mỗi
lần biểu diễn là một lần các nghệ sỹ sân khấu lại sử dụng kịch bản một lần và một kịch bản
sân khấu có thể được lưu truyền từ thời đại này qua thời đại khác. Ví dụ như các vở bi, hài
kịch của Sếchxpia.

You might also like