You are on page 1of 11

Đề bài: Những điểm mới của Luật trọng tài thương mại 2010

so với pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.

Hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ngày càng
tham gia nhiều vào các hoạt động thương mại trên quy mô toàn thế giới, và
đương nhiên, những tranh chấp thương mại phát sinh trong quá trình đó là
không tránh khỏi, do vậy, việc nghiên cứu các biện pháp giải quyết tranh
chấp thương mại hiện nay là rất cần thiết để chúng ta có thể bảo vệ quyền lợi
chính đáng của mình trong mọi hoạt động thương mại.

I, Những hiểu biết cơ bản


1, Tranh chấp thương mại.

Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Thương mại 2005, Luật tố
tụng dân sự 2004, thì tranh chấp thương mại (TCTM) được hiểu là những
mâu thuẫn(bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong
quá trình thực hiện các hoạt động thương mại1.

Theo quy định về thẩm quyền của luật Trọng tài thương mại 2010, TCTM là
những tranh chấp có đặc điểm sau đây:

- thứ nhất, TCTM là những tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại.

-thứ hai, TCTM là những tranh chấp phát sinh chủ yếu giữa các thương
nhân.

1
Giáo trình luật thương mại Việt Nam tâp 2-trường Đại học Luật Hà Nội-Nxb CAND 2009 tr.432

1
Tất nhiên, khi tranh chấp đã xuất hiện thì nhu cầu tất yếu của các bên tham
gia vào sự tranh chấp đó là giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng nhất
và có lợi nhất.

Các hình thức giải quyết TCTM cơ bản, trên thế giới cũng như Việt Nam
hiện nay bao gồm:

-Giải quyết TCTM qua thương lượng.

-Giải quyết TCTM qua hòa giải

-Giải quyết TCTM qua trọng tài thương mại

-Giải quyết TCTM thông qua tòa án.

Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ đề cập đến phương pháp giải quyết
TCTM bằng trọng tài thương mại.

2, Trọng tài thương mại

Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến trên
thế giới, nhất là tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Thoả thuận
trọng tài là một thoả thuận đặc biệt bởi nó quy định việc giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng phải bằng trọng tài mà thoả thuận trọng tài nằm
ngay trong chính hợp đồng. Hiện nay, khi soạn thảo các điều khoản về giải
quyết tranh chấp trong Hợp đồng thương mại, các bên trong quan hệ giao
dịch thường quy định việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức Trọng tài
thương mại, đặc biệt là khi quan hệ giao dịch này có yếu tố nước ngoài.

Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc
(trọng tài ad-hoc) và trọng tài thường trực.

Phương thức giải quyết bằng trọng tài thương mại có một số ưu điểm:

2
Thời gian xử lý một vụ việc bằng hình thức trọng tài ngắn hơn so với
các phương pháp khác, trong khi vẫn đảm bảo hiệu quả.

Theo ông Nguyễn Minh Chí, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài quốc tế
Việt Nam: sở dĩ trong thời gian gần đây các vụ TCTM giữa các doanh
nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài được xử lý tranh chấp bằng
trọng tài chiếm số lượng ngày càng nhiều là do thời gian xử lý một vụ việc
bằng hình thức trọng tài rất ngắn. Một vụ tranh chấp trị giá hàng triệu USD
có khi chỉ được giải quyết trong vòng 3-4 tháng. Trong khi đó, nếu đưa ra
toà án sẽ kéo dài hàng năm. Có như vậy là bởi một trong những yếu tố làm
cho các vụ tranh chấp được xử lý nhanh là tính chất chung thẩm của quyết
định trọng tài không có kháng cáo và các bên ngay lập tức phải thi hành các
quyết định của trọng tài.

Thủ tục tố tụng linh hoạt: đây là một ưu điểm lớn, vì các bên tham gia
tranh chấp có thể lựa chọn thủ tục một cách linh hoạt, mềm dẻo, chứ không
bắt buộc phải tuân theo các thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ như giải quyết qua
tòa án.

Tính trung lập, vô tư, khách quan và tính chuyên nghiệp của trọng tài
viên, theo đó thì thẩm quyền cả trọng tài được hình thành dựa trên sự thoả
thuận của các bên. Các trọng tài viên thường là người có nhiều kiến thức và
kinh nghiệm trọng một số lĩnh vực cụ thể. Những tranh chấp chuyên ngành
đó đòi hỏi người phân xử phải có kiến thức rộng và am hiểu trong lĩnh vực
đó. Nếu ghé thăm trang web của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam -
VIAC, chúng ta có thể thấy một danh sách dài(cỡ hơn 100 trọng tài viên), họ
đều các học giả, các cán bộ nhà nước cấp cao, các luật sư nổi tiếng… mà tên
tuổi của họ cũng là làm các bên đương sự cảm thấy tin tưởng.

3
Tính bí mật: nguyên tắc giải quyết tranh chấp của trọng tài là không
công khai . đây là một trong những điểm khác biệt và là một ưu điểm so với
các phương thức giải quyết tranh chấp khác. Bởi vì trong lĩnh vực kinh
doanh bí quyết kinh doanh là yếu tố quan trọng, nhất là những lĩnh vực sở
hữu trí tuệ, công nghệ cao, nếu giải quyết tại toà án sẽ có nguy cơ làm tiết lộ
bí mật, hơn nữa, việc các đối tác biết được doanh nghiệp đang phải tham gia
tranh chấp có thể sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của doanh
nghiệp.

Sự công nhận quốc tế: phán quyết trọng tài được công nhận rộng rãi:
cho đến nay đã có nhiều Công ước quốc tế về trọng tài thương mại được ký
kết và phê chuẩn bởi nhiều quốc gia như Công ước New York 1958, Công
ước Washington 1965, Công ước Liên Mỹ về trọng tài thương mại quốc tế;
do đó, các phán quyết của trọng tài được công nhận rộng rãi hơn và dễ thực
thi hơn so với các phán quyết ở tòa án.

Ông Jason Fry, Tổng thư ký Tòa án trọng tài quốc tế cho biết: phán
quyết của trọng tài được quốc tế thừa nhận và thi hành ở nhiều quốc gia hơn
so với quyết định của tòa án. Hiện đã có 150 quốc gia đã ký công ước New
York về việc thực hiện các quyết định của trọng tài. Đây là một thuận lợi
cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đưa các vụ TCTM cho trọng tài xử lý,
bởi trong thời gian qua có đến 60% các vụ TCTM của doanh nghiệp Việt
Nam đều có yếu tố quốc tế.

Phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm, nhờ đó mà hiệu lực
của phán quyết của trọng tài thương mại được đảm bảo thi hành bởi cơ chế
pháp lý rõ ràng, không phụ thuộc vào thiện chí của các bên như thương
lượng hay hòa giải.

4
Bên cạnh những ưu điểm, phương pháp giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài cũng có nhược điểm:

Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đòi hỏi chi phí cao
hơn so với những phương thức khác, vụ việc cần giải quyết có giá trị tính
bằng tiền càng lớn thì chi phí trọng tài càng cao.

Sau đây là biểu phí trọng tài tham khảo, theo nguồn tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam - VIAC.
Đơn vị: USD

Trị giá tranh chấp Phí Trọng tài

Từ 20.000 trở xuống 2.000

Từ 20.001 đến 50.000 2.000 + 3% số tiền vượt quá 20.000

Từ 50.001 đến 100.000 2.900 + 2,5% số tiền vượt quá 50.000

Từ 100.001 đến 500.000 4.150 + 2% số tiền vượt quá 100.000

Từ 500.001 đến 1.000.000 12.150 + 1,75% số tiền vượt quá 500.000


Từ 1.000.001 đến 2.000.000 20.900 + 1,50% số tiền vượt quá 1.000.000

Từ 2.000.001 đến 5.000.000 35.900 + 1% số tiền vượt quá 2.000.000

Từ 5.000.001 đến 10.000.000 65.900 + 0,50% số tiền vượt quá 5.000.000

Từ 10.000.001 đến 30.000.000 90.900 + 0,20% số tiền vượt quá 10.000.000

5
Trên 30.000.000 130.900 + 0,05% số tiền vượt quá 30.000.000

Chi phí trên chưa bao gồm chi phí ăn ở, đi lại của các trọng tài viên, của thư
ký phiên họp hội đồng trọng tài, và hàng loạt các chi phí khác quy định tại
Điều 34 Luật trọng tài thương mại 2010. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng,
mức phí cho trọng tài thương mại là cao hơn so với chi phí khi dùng các
phương pháp giải quyết tranh chấp khác..

Việc thi hành quyết định của trọng tài thì không phải lúc nào cũng
trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án, quyết định của toà án đây là
nhược điểm chung của các phương pháp giải quyết tranh chấp không thông
qua tòa án. Sự thành công của quá trình giải quyết tranh chấp chủ yếu phụ
thuộc thái độ thiện chí và hợp tác của các bên tranh chấp; việc thực thi các
kết quả đã đạt được trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại thường phức tạp và tốn kém, vì ngay cả khi hội đồng trọng tài đã
ra phán quyết, thì một bên đương sự vẫn có quyền yêu cầu hủy phán
quyết(Điều 68 Luật trọng tài thương mại), và sẽ lại cần sự can thiệp của toàn
án vào vụ tranh chấp đó.

II, Những điểm mới của Luật trọng tài thương mại 2010 so với
pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
So với Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Luật Trọng tài thương mại có
những điểm mới quan trọng, khắc phục được những thiếu sót của Pháp lệnh
trọng tài thương mại 2003, cụ thể:.

1, Luật trọng tài thương mại mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài thương mại. Luật Trọng tài thương mại (TTTM) đã dỡ bỏ

6
hạn chế của Pháp lệnh TTTM về thẩm quyền giải quyết các TCTM của
Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới
nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2
Luật TTTM). Tại pháp lệnh TTTM, không quy định rõ thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của TTTM mà chỉ liệt kê một số hoạt động thương mại, và
mặc nhiên coi những tranh chấp trong các hoạt động đó là TCTM, rõ ràng là
một sự hạn chế khi các loại hình hoạt động thương mại ngày càng phong
phú và đa dạng.

Sự cải tiến này là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật
TTTM so với Pháp lệnh TTTM và phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài
của các nước trên thế giới.

2, Khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại
năm 2003 về các tình huống có thể làm vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều
18 Luật TTTM giới hạn 6 tình huống theo đó thoả thuận trọng tài vô hiệu.
Đặc biệt, còn có quy định trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì
bên khởi kiện (nguyên đơn) có quyền được tự do lựa chọn tổ chức trọng tài
thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt tình trạng thỏa thuận trọng tài bị
vô hiệu hoặc tình trạng không có cơ quan nào giải quyết tranh chấp.

3, Cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn
phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Chương XII với 07 Điều) .
Những quy định này một lần nữa khẳng định chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam hiện nay, và còn là một lợi thế cho các bên TCTM,
bởi lẽ, trong các tổ chức trọng tài thương mại nước ngoài, rất nhiều tổ chức
có uy tín, kinh nghiệm nhiều năm trong nhiều vụ việc tranh chấp, các bên

7
đương sự có quyền chọn cho mình trung tâm trọng tài mà họ tin tưởng nhất.
Việc cho phép các trung tâm trọng tài nước ngoài hoạt động và cạnh tranh
tại Việt Nam còn cho thấy xu hướng chuyên nghiệp hóa lĩnh vực giải quyết
TCTM.

4, Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng
Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số
biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định này nhằm
giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả hơn.

5, Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi
quy định không phù hợp của Pháp lệnh TTTM , trong pháp lệnh trọng tài
thương mại, có nhiều quy định liên quan đến hủy quyết định của trọng tài,
nhiều quy định về kháng cáo, kháng nghị quyết định của tòa án(Các điều 55
và 56), rất phức tạp. Các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng
trọng tài trở nên rất rủi ro, tăng sự can thiệp của tòa án vào phán quyết trọng
tài, làm giảm đi tính chung thẩm của phán quyết trọng tài.

6, Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong
tố tụng đây là nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp
luật tố tụng của các nước phát triển. Quy định mới của Luật (Điều 13) xác
định, khi một bên nhận thấy những quy định của Luật hoặc của thoả thuận
trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không
phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định thì mất quyền phản đối tại
Trọng tài hoặc Toà án. Quy định này nhằm ngăn chặn một cách có hiệu quả
các hành vi cơ hội trong tố tụng trọng tài.

7, Thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn
bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các bên. Luật đã đưa ra một loạt
các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý quan trọng này: xác

8
định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8 nội
dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập
chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận
trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và
yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng;
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy
định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm
quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của
Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng
như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể,
góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.

8, Quy định phù hợp hơn về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài. Khác với Pháp lệnh TTTM, thủ tục tòa án xét đơn yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài theo Luật TTTM chỉ có một cấp và có giá trị chung
thẩm. Luật quy định một Hội đồng gồm 03 thẩm phán xem xét đơn yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài và quyết định của Hội đồng là chung thẩm có hiệu
lực thi hành ngay (Điều 71).

9, Một điểm mới đáng chú ý khác là tại Điều 17 của Luật TTTM đã bổ
sung quy định nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong việc lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp, theo đó “Đối với các tranh chấp giữa nhà cung
cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã
được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do
nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được
quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung
cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được
người tiêu dùng chấp thuận”. Quy định này thể hiện rõ thái độ bảo vệ người

9
tiêu dùng trong trường hợp người tiêu dùng bị đặt vào thế bị động trong các
giao dịch dựa trên những hợp đồng in sẵn từ phía nhà cung cấp dịch vụ,
đồng thời nó cũng là biện pháp để hạn chế những phương thức giải quyết
tranh chấp không có lợi cho khách hàng thường hay bị người cung cấp dịch
vụ cài sẵn trong các hợp đồng và ép buộc bên sử dụng dịch vụ phải chấp
nhận.

10, Luật TTTM cũng đã kế thừa và quy định rõ hơn tiêu chuẩn trọng
tài viên so với PLTTTM. Điều 20 Luật TTTM có quy định rõ cá nhân có
năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế công
tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành cho các
Trung tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các
Trọng tài viên trong danh sách của mình (khoản 3, Điều 20). Trong trường
hợp đặc biệt, các bên đương sự có thể lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào
tính chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong
trường hợp đó thì nhà chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm
Trọng tài cho vụ việc của họ (khoản 1, điểm c, Điều 20). Luật TTTM 2010
cũng không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có
nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở
Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy
định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội
nhập kinh tế quốc tế.

11, Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay
cho khái niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài”
do Pháp lệnh năm 2003 quy định. Theo đó, Trọng tài quy chế là hình thức
trọng tài được tiến hành tại Trung tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng của
Trung tâm trọng tài (khoản 6 Điều 3 Luật TTTM). Luật cho phép các Trung

10
tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với quy định
của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn
đối với các bên tranh chấp.

12, Nhằm khuyến khích hoạt động của các tổ chức trọng tài, tạo điều
kiện cho các Trọng tài viên nâng cao trình độ nghiệp vụ trọng tài, bảo vệ
các quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ, Luật TTTM có 01 điều quy định về việc
thành lập Hiệp hội trọng tài. Hiệp hội trọng tài là tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của Trọng tài viên và các Trung tâm trọng tài. Việc thành lập và hoạt
động của Hiệp hội trọng tài được thực hiện theo quy định của pháp luật về
hội nghề nghiệp (Điều 22 Luật TTTM).

III, Kết luận.


Quan hệ xã hội nói chung và các hoạt động thương mại nói riêng, đều
phát triển không ngừng, đòi hỏi các quy định pháp lý phải không ngừng phát
triển . Luật trọng tài thương mại 2010 thay thế pháp lệnh trọng tài thương
mại 2003 là một sự cải tiến tuân theo quy luật đó, mong rằng, Nhà nước tiếp
tục có nhiều hơn nữa những sự cải tiến cần thiết, nhằm duy trì sự ổn định và
phát triển trong hoạt động thương mại tại Việt Nam.

11

You might also like