Professional Documents
Culture Documents
Dân số trung bình cả nước năm 2010 ước tính 86,93 triệu người, tăng 1,05% so với năm 2009, bao gồm
dân số nam 42,97 triệu người, chiếm 49,4% tổng dân số cả nước, tăng 1,09%; dân số nữ 43,96 triệu
người, chiếm 50,6%, tăng 1%. Trong tổng dân số cả nước năm 2010, dân số khu vực thành thị là 26,01
triệu người, chiếm 29,9% tổng dân số, tăng 2,04% so với năm trước; dân số khu vực nông thôn là 60,92
triệu người, chiếm 70,1%, tăng 0,63%. Tỷ lệ giới tính của dân số năm 2010 ở mức 97,7 nam trên 100 nữ
(Năm 2009 tỷ lệ này là 97,6/100).
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2010 là 50,51 triệu người, tăng 2,68% so với năm 2009, trong
đó lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 46,21 triệu người, tăng 2,12%. Tỷ lệ dân số cả nước 15
tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động tăng từ 76,5% năm 2009 lên 77,3% năm 2010. Tỷ lệ lao động
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 51,9% năm 2009 xuống 48,2% năm 2010; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng từ 21,6% lên 22,4%; khu vực dịch vụ tăng từ 26,5% lên 29,4%.
Tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 của lao động trong độ tuổi là 2,88%, trong đó khu vực thành thị là 4,43%, khu
vực nông thôn là 2,27% (Năm 2009 các tỷ lệ tương ứng là: 2,9%; 4,6%; 2,25%). Tỷ lệ thiếu việc làm năm
2010 của lao động trong độ tuổi là 4,50%, trong đó khu vực thành thị là 2,04%, khu vực nông thôn là
5,47% (Năm 2009 các tỷ lệ tương ứng là: 5,61%; 3,33%; 6,51%)./.
Xuất phát điểm của nền kinh tế Việt nam rất thấp, nước ta lại là một nước đông dân với tốc
độ tăng dân số vào loại cao nhất trên thế giới. Vì vậy việc tận dụng khai thác hết các nguồn
lực nội tại mà đặc biệt là nguồn lực con người được coi là hạt nhân của quá trình phát triển
Kinh tế - Xã hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: Điều kiện tiên quyết để
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước là ổn định dân số, lao động là yếu tố cơ
bản nhằm hoàn thành công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước từng bước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm qua Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Lập Thạch đẩy mạnh phát
triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân và đã đạt được những
thành tựu đáng kể. Tuy nhiên vấn đề tồn tại lớn nhất hiện nay là dân số quá đông, quy mô
lao động rất lớn, trình độ người lao động thấp, mất cân đối lớn cả về cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động, sức chứa lao động trong lĩnh vực nông nghiệp đã quá tải, tỷ lệ thiếu việc làm của
người lao động cao đã tạo ra một áp lực rất lớn tới vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động của huyện.
Trong thời gian thực tập ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, tôi đã nhận thấy vấn đề biến
động dân số, lao động và việc làm đang mang tính thời sự vừa cấp bách vừa lâu dài có ảnh
hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Do đó cần thiết và sớm
phải có một sự xem xét, đánh giá một cách trung thực đầy đủ và khoa học vấn đề nói trên từ
đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được và từng bước
giải quyết những vấn đề tồn đọng nói trên để tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở
huyện. Vì vậy tôi đã chọn đề tài: "Phân tích biến động dân số, lao động và việc làm ở huyện
Lập Thạch trong giai đoạn hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Nội dung của đề tài bao gồm:
Phần I: Cơ sở lý luận về biến động dân số, lao động và việc làm.
Phần II: Thực trạng của sự biến động dân số, lao động và việc làm ở huyện Lập Thạch trong
giai đoạn hiện nay.
Phần III: Giải pháp về điều chỉnh dân số, lao động và tạo việc làm cho người lao động ở
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Các phương pháp nghiên cứ đề tài:
- Phương pháp thu thập tư liệu, các nghiên cứu của huyện có liên quan đến đề tài nghiên
cứu.
- Phương pháp điều tra thống kê: Được điều tra khảo sát ở một số xã đại diện để thu thập
những thông tin cần thiết để mih hoạ cho các nhận xét, đánh giá thực trạng.
- Phương pháp toán học - thống kê: Dựa trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập được, sử dụng
các công thức toán học, thống kê học cần thiết giúp cho việc phân tích đánh giá các hiện
tượng nghiên cứu.
- Phương pháp tổng hợp: Thông qua kết quả những phân tích các hiện tượng nghiên cứu để
tổng hợp khái quát thành bản chất, xu hướng vận động của vấn đề nghiên cứu.
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách về dân số - kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ) luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của Chiến lược
phát triển đất nước, một trong những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của quốc gia. Thực hiện tốt chính sách dân số - kế
hoạch hoá gia đình là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp, chiến lược nhằm quan
tâm toàn diện đến vấn đề dân số - kế hoạch hoá gia đình. Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và các Bộ, ngành liên
quan đã ban hành nhiều thông tư liên tịch, văn bản hướng dẫn để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của
Đảng vàluật pháp của Nhà nước về chính sách này.
Ngày 14/01/1993 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI,Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 04 về chính
sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (gọi tắt là Nghị quyết TW 4 khoá VII), đây là văn bản có tính chất quan trọng, làm
tiền đề cho những quyết sách về dân số - kế hoạch hoá gia đình sau này của Đảng và Nhà nước.
Quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước, qua hơn 15 năm thực hiện Nghị
quyết TW 04 khoá VII, với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân, chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình đã thực sự đi vào
cuộc sống và đạt được nhữngkết quả quan trọng: nhận thức của toàn xã hội đã có bướcchuyển rõ rệt, quy mô gia đình có
một hoặc hai con được chấp hành ngày càng rộng rãi; tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế, số con trung bình của
một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 3,5 con năm 1992 xuống 2,28 con năm 2002, tỷ lệ tăng dân số giảm tương ứng
từ hơn 2% còn 1,32%.
Kết quả từ chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng
thu nhập bình quân đầu người hàng năm, xoá đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống của nhân dân. Với những thành tựu
của chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, năm 1999, Việt Nam đã được nhận giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, từ sau năm 2000 kết quả thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình chững lại và giảm sút. Từ khi
Pháp lệnh Dân số ra đời năm 2003, trong hai năm 2003 và 2004, tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ sinh con thứ ba tăng mạnh
trở lại. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên sinh con thứ ba trở lên tăng nhiều ở hầu hết các địa phương, gây tác động
tiêu cực đến phong trào nhân dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình. Tình hình này đã làm chậm thời gian đạt mức sinh thay
thế (trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có 2 con).
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của
chính sách này trong bối cảnh kinh tế, văn hoá và xã hội của đất nước, dẫn đến chủ quan, thoả mãn với những kết quả đạt
được ban đầu, buông lõng lãnh đạo, chỉ đạo. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình
thiếu ổn định, quá tải, quản lý kém hiệu quả, việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một chính sách liên quan thiếu chặt chẽ.
Trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước ta chưa phát triển, tình trạng đói nghèo còn nhiều, tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp,
quy mô dân số hiện nay khá lớn với hơn 85 triệu người (theo kết quả tổng điều tra Dân số và Nhà ở vào thời điểm 0 giờ
tháng 01/4/2009 của Tổng cục Thống Kê), mật độ dân số vào hàng cao nhất thế giới (259 người/km2 vào năm 2009), chất
lượng dân số chưa được cải thiện đáng kể… Do đó, việc tăng dân số nhanh trở lại sẽ phá vỡ những thành tựu đạt được, cản
trở sự phát triển kinh tế - xã hội và việc nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm chậm quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và đặt nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa hơn. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách
dân số - kế hoạch hoá gia đình là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong thời gian tới.
Xuất phát từ mục đích ý nghĩa to lớn ấy, chính sách dân số - kế hoạch gia đình cần phải được quan tâm, củng cố và nâng
cao chất lượng hoạt động.Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề này, người viết lựa chọn đề tài “Chính sách
dân số - kế hoạch hóa gia đình ở nước ta, thực trạng và giải pháp”
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin , căn cứ vào một
số quan điểm trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(12-1986), đặc biệt là những vấn đề lý luận và từ thực tiễn công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Do điều kiện về thời gian, về tài liệu cũng như trình độ hiểu biết vấn đề của người viết còn hạn chế nên không thể tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ quý thầy cô và bạn đọc để tiểu luận này
được hoàn thiện hơn!
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
1.Cơ sở lý luận:
1.1.Lý luận chung:
Dân số của mỗi quốc gia hoặc mỗi địa phương thật sự có liên quan rất mật thiết đến sự phát triển của quốc gia, địa
phương đó cũng như có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của người dân.
Về mặt tích cực, dân số đông đem lại nguồn lao động cho sản xuất, nhất là khi trình độ cơ giới hóa, tự động hóa chưa cao.
Tuy nhiên về mặt tiêu cực, dân số đông dẫn đến nhiều vấn đề nghiêm trọng nhất là khi cung không đáp ứng đủ cầu.
Về mặt kinh tế, khi mà tài nguyên thiên nhiên, đầu tư cơ sở vật chất không đáp ứng kịp tỉ lệ tăng dân số, nạn thất nghiệp
sẽ là một vấn đề nan giải. Từ đó dẫn đến những vấn đề như người lang thang, ăn xin thậm chí là những tệ nạn xã hội như
trộm cướp, mại dâm v.v... chưa kể đến sự đổ xô của nhiều người lên thành thị làm nặng thêm những vấn đề này ở các
thành phố lớn.
Về mặt giáo dục, dân số tăng nhanh có thể vượt mức đáp ứng của hệ thống giáo dục cộng với điều kiện kinh tế gia đình
khó khăn làm tăng tình trạng thất học, bỏ học dẫn đến trình độ dân trí trung bình giảm thấp, ảnh hưởng đến sự phát triển
chung của xã hội cũng như chất lượng cuộc sống.
Về mặt y tế, dân số tăng nhanh vượt quá mức cung ứng sẽ dẫn đến dịch bệnh gia tăng dẫn đến giảm sức lao động, thương
tật, tử vong.
Hậu quả nghiêm trọng nhất của việc tăng dân số là vấn đề môi trường. Việc khai thác thiên nhiên một cách bừa bãi như
phá rừng lấy đất canh tác, khai thác gỗ làm chất đốt, vật dụng, khai thác thú rừng, đào quặng bừa bãi v.v... đã tàn phá
trầm trọng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên gián tiếp ảnh hưởng đến các rối loạn về mặt sinh thái như nạn lụt lội, hạn
hán.
Dân số tăng đặc biệt ở thành thị dẫn đến những vùng có mật độ dân cư cao, sống chen chúc, mất vệ sinh dẫn đến sự gia
tăng các dịch bệnh. Khói thải, nước thải, rác thải làm ô nhiễm môi trường không khí, nước, đất làm trọng trầm thêm những
vấn đề sức khỏe nhất là ở các đô thị hoặc khu công nghiệp. Ảnh hưởng về mặt kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường đã tác
động mạnh đến đời sống xã hội và tâm lý của người dân. Cuộc sống khó khăn dẫn đến quẫn bách hoặc xào xáo, mâu
thuẫn trong gia đình càng làm giảm thêm chất lượng cuộc sống.
1.2.Vai trò của công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình:
Từ những phân tích trên, bên cạnh các biện pháp phát triển kinh tế, y tế, giáo dục, kiểm soát việc khai thác tài nguyên,
phân bố dân cư hợp lý, giải quyết ô nhiễm môi trường thì kế hoạch hóa gia đình là một biện pháp căn cơ giúp giải quyết
vấn đề dân số và nâng cao chất lượng cuộc sống. Kế hoạch hóa gia đình ngoài mục đích hạn chế sự gia tăng dân số còn
nhằm bảo vệ sức khỏe của người phụ nữ và trẻ em đồng thời đem lại hạnh phúc cho gia đình.
-Nên sinh từ 1-2 con: sinh ít con sẽ làm giảm khả năng tai biến sản khoa, tránh sa sinh dục, bảo vệ được sức khỏe người
phụ nữ tránh các tình trạng kém dinh dưỡng đồng thời còn bảo vệ vẻ đẹp của người phụ nữ.
-Khoảng cách sinh con nên từ 3-5 năm: không làm tăng thêm gánh nặng cho người phụ nữ về dinh dưỡng cũng như về sức
khỏe giúp giảm suy dinh dưỡng, giãm tai biến sản khoa, giúp sinh dễ. Đồng thời người mẹ có thời gian chăm sóc trẻ, tránh
bệnh tật. Không sinh khoảng cách quá xa vì có thể đã quên kinh nghiệm nuôi con.
-Tuổi có con nên từ khoảng 22-35. Sinh lúc còn quá trẻ khi cơ thể chưa phát triển đầy đủ làm tăng tai biến sản khoa, tăng
tỉ lệ suy dinh dưỡng cho cả mẹ và con.
2.Cơ sở pháp lý:
2.1.Quan điểm của Đảng và Nhà nước:
a)Quan điểm của Đảng:
Tại Nghị quyết TW 4 khoá VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vềchính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, Đảng
ta nêu rõ:
-Công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng củachiến lược phát triển đất nước, là một trong
những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầucủa nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của
từngngười, từng gia đình và của toàn xã hội.
-Giải pháp cơ bản để thực hiện công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình làvận động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với
đưa dịch vụ kế hoạch hoá gia đìnhđến tận người dân; có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp nhận giađình
ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực hiện kế hoạch hoágia đình.
-Đầu tư cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là đầu tư mang lạihiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao. Nhà nước cần
tăng mức chi ngân sách cho côngtác dân số và kế hoạch hoá gia đình, đồng thời động viên sự đóng góp của cộngđồng và
tranh thủ sự viện trợ của quốc tế.
-Huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia công tác dân số và kế hoạchhoá gia đình, đồng thời phải có bộ máy chuyên
trách đủ mạnh để quản lý theochương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệuquả và đến
tận người dân.
-Để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có ý nghĩa quyếtđịnh là Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh
đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiệncông tác dân số và kế hoạch hoá gia đình theo chương trình.
b)Quan điểm của Nhà nước:
Tại Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg ngày 22/12/2000 của Thủ tướng Chínhphủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt
Nam giai đoạn 2001 - 2010 nêu rõ:
-Công tác dân số là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước,là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao
chất lượng cuộc sống của từngngười, từng gia đình và toàn xã hội, góp phần quyết định để thực hiện công nghiệphoá, hiện
đại hoá đất nước.
-Thực hiện đồng bộ, từng bước và có trọng điểm việc điều hoà quan hệ giữasố lượng với chất lượng dân số, giữa phát triển
dân số với phát triển nguồn nhânlực, giữa phân bố và di chuyển dân cư với phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụquan
trọng của công tác dân số; tập trung ưu tiên cho các vùng có mức sinh cao,vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa để giải quyết
các vấn đề dân số và nâng cao mứcsống nhân dân.
-Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho sự phát triển bền vững và manglại hiệu quả kinh tế - xã hội trực tiếp, gián tiếp
và rõ rệt. Nhà nước đảm bảo đủnguồn lực cho công tác dân số, đồng thời vận động sự đóng góp của cộng đồng vàtranh
thủ sự viện trợ của quốc tế.
-Đẩy mạnh công tác truyền thông - giáo dục về dân số và phát triển, kết hợpvới việc thực hiện đầy đủ, có hiệu quả
Chương trình chăm sóc sức khoẻ sinh sản - kếhoạch hoá gia đình, tăng cường vai trò của gia đình và thực hiện bình đẳng
giớitrong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ sinh sản/kế hoạch hoá gia đình là các giải phápcơ bản để đảm bảo tính bền vững của
chương trình dân số và phát triển.
-Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối vớicông tác dân số, đẩy mạnh xã hội hoá là yếu tố
quyết định sự thành công củachương trình dân số và phát triển.
2.2.Cơ sở pháp lý:
Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình hiện nay được tập trung thực hiệntheo quy định tại các văn bản sau:
-Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 14/01/1993 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấphành Trung ương Đảng khoá VII về chính
sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
-Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 06/3/1995 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnhthực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về chính sách
dân số, kế hoạch hoá gia đình.
-Chỉ thị số 37-CT/TTg ngày 17/01/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việcđẩy nhanh thực hiện chiến lược dân số - kế hoạch
hoá gia đình.
-Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng.
-Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Ban Chấp hành Trung ươngvề việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách
dân số và kế hoạch hoá gia đình.
-Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chínhphủ về việc ban hành Chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyếtsố 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiệnchính sách
dân số và kế hoạch hoá gia đình.
-Nghị định số 114/NĐ-CP ngày 03/10/2006 của Chính phủ quy định xửphạt hành chính về dân số và trẻ em.
-Chỉ thị số 13/2007/CT-TTg ngày 06/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ vềviệc tăng cường thực hiện Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghịquyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thựchiện
chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
-Quy định số 94-QĐ/TW ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luậtđảng viên vi phạm.
-Hướng dẫn số 11/HD-UBKTTW ngày 24/03/2008 của Ban Chấp hànhTrung ương về việc thực hiện Quy định số 94-QĐ/TW
ngày 15/10/2007 của BộChính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.Thông báo kết luận số 160-TB/TW ngày 04/6/2008
của Ban Bí thư về thựchiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình và một số giải pháp cấp bách.
-Quyết định 170/2007/Qđ-TTg ngày 08/11/2007 của Thủ tướng Chính phủvề Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia
dân số - kế hoạch hoá gia đình giaiđoạn 2006 - 2010.Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg ngày 04/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ
vềviệc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.
-Kết luận số 44-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về kết quả 3 nămthực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày
22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tụcđẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
II.THỰC TRẠNG DÂN SỐ VÀ CHÍNH SÁCH DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH:
1.Thực trạng dân số:
Dân số thế giới tăng trưởng ngày một nhanh, thời gian tăng thêm một tỷ người ngày càng rút ngắn trong thế kỷ XX nhưng
đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ gia tăng dân số trong thế kỷ XXI.
Thế kỷ XX thường được gọi là “Thế kỷ dân số” hoặc thế kỷ của “Bùng nổ dân số”. Nhân loại đã chứng kiến dân số tăng phi
thường từ 1,65 tỷ người vào đầu thế kỷ lên 6,06 tỷ người vào năm 2000, tăng 3,7 lần trong vòng 100 năm. Trong khi đó,
vào thế kỷ XIX dân số thế giới chỉ tăng 1,7 lần từ gần 1 tỷ người lên 1,65 tỷ người cũng trong cùng khoảng thời gian 100
năm. Tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm ngày một tăng lên khoảng 0,5% vào năm 1850, khoảng 1,78% vào giai đoạn 1950
đến 1955, khoảng 2,04% vào giai đoạn từ 1965 đến năm 1970, khoảng 1,57% vào giai đoạn 1990 đến năn 1995 và hiện
nay là 1,3%.
Quy mô dân số lớn vẫn tiếp tục gia tăng về số lượng tuyệt đối, song tốc độ gia tăng có xu hướng giảm. Theo số liệu Tổng
điều tra dân số ngày 01/4/1989 nước ta có 64.412.000 người, đến năm 2007 số dân đã tăng lên tới 85.154.000 người,
năm 2008 tăng lên 86.160.000 người. Đến tổng điều tra dân số và nhà ở tại thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2009 dân số nước
ta còn 85.789.573 người.
Từ nửa sau thế kỷ XX đến nay dân số Việt Nam tăng nhanh hoặc quá nhanh như giai đoạn 1954-1960 với tỷ lệ gia tăng
dân số hàng năm là 3,93%; 1960-1970: 3,24%; 1970-1976: 3%. Năm 1992 nhịp độ tăng dân số của nước ta là 2,26%,
năm 1997: 1,88%. Tốc độ tăng dân số đã giảm từ 2,34% vào năm 1979 xuống còn 1,51% vào năm 1999 và 1,21% vào
năm 2007. Với tỷ lệ gia tăng dân số quá nhanh nói trên, mỗi ngày nước ta có them 3.100 người (tương đương dân số 1 xã
nhỏ), mỗi tháng thêm khoảng 97.000 người (khoảng 1 huyện) và mỗi năm thêm khoảng 1,1 triệu người (tương đương dân
số 1 tỉnh trung bình).
Sự gia tăng dân số quá nhanh đã tạo nên sức ép rất lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nâng cao
chất lượng cuộc sống của từngthành viên trong xã hội.
III.PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀCHÍNH SÁCH DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH
1.Phương hướng:
Năm 2010 là năm cuối cùng thực hiện Chiến lược Dân số giai đoạn 2001 - 2010 của Chính phủ với mục tiêu tổng quát là ổn
định quy mô dân số, nâng cao chất lượng dân số, tiến tới đạt mức sinh thay thế. Để phát huy những kết quả đạt được
trong năm qua và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu về DS-KHHGĐ trong thời gian tới, cấp uỷ Đảng, chính quyền địa
phương cần quan tâm các phương hướng sau:
-Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và Nhà nước đối với công tác DS-KHHGĐ, xem đây là nhiệm vụ chính trị mà
cả hệ thống chính trị của địa phương cần phải quan tâm thực hiện.
-Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức của Ban DS-KHHGĐ xã, đảm bảo ổn định số lượng và chất lượng hoạt động của đội
ngũ cộng tác viên các ấp. Tiếp tục đưa đi đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác dân số.
-Thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát công tác quản lý địa bàn của cộng tác viên, thực hiện tốt phương
châm “Đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” để tránh những thiếu sót trong quá trình cập nhật thông tin về dân số
- kế hoạch hoá gia đình.
-Xây dựng kế hoạch thực hiện mô hình đưa chính sách DS-KHHGĐ vào quy ước xóm, ấp theo hướng dẫn của cơ quan
chuyên môn cấp trên.
2.Giải pháp:
Thực trạng và đặc điểm nêu trên của dân số Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt
ra cho công tác dân số của nước ta nhiều cơ hội và thách thức mới. Để củng cố, phát huy những thành tựu đã đạt được;
đồng thời, tiếp tục có được những thành công mới trong công tác dân số thời gian tới, cần tập trung giải quyết một số vấn
đề cốt yếu sau:
-Tranh thủ sự lãnh chỉ đạo của các cấp Ủy Đảng, chính quyền cơ sở qua côngtác xây dựng kế hoạch, tham mưu đề xuất
các giải pháp thực hiện có hiệu quả.
-Phối hợp với các ngành thành viên một cách chặt chẽ và đồng bộ nhằmthực hiện tốt các mục tiêu theo Nghị quyết và các
văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ trong lĩnh vực DS-KHHGĐ.
-Tiếp tục củng cố hoàn thiện bộ máy hoạt động của Ban Dân số, nâng caochất lượng nghiệp vụ đội ngũ cán bộ chuyên
trách, cộng tác viên, chuyên môn hóacông tác quản lý chương trình đối với CBCT và CTV.Tăng cường công tác kiểm tra
giám sát thường xuyên các hoạt động vềcông tác quản lý, theo dõi cập nhật, thu thập các thông tin biến động DS-KHHGĐở
địa bàn các ấp.
-Tăng cường công tác tư vấn tại trạm về các BPTT hiện đại, chăm sóc sứckhoẻ sinh sản vị thành niên, chăm sóc thai
nghén, sản phụ sau sinh và phòng chốngcác bệnh lây truyền qua đường sinh sản.
-Đầu tư nguồn lực đủ để đáp ứng nhu cầu thực hiện các mặt công tác dânsố, kế hoạch hoá gia đình, nâng cao hiệu quả
hoạt động sớm hoàn thành các mụctiêu đề ra.
-Đầu tư cho chất lượng dịch vụ qua các hoạt động tư vấn, cung cấp các dịchvụ tránh thai có chất lượng cao, đảm bảo an
toàn thuận tiện đối với người sử dụng,đa dạng hoá các phương tiện tránh thai để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
-Tiếp tục vận động người sử dụng các BPTT thuốc viên, thuốc tiêm tránhthai, bao cao su tiếp cận nguồn cung cấp các sản
phẩm tiếp thị ngoài xã hội để tạothói quen vì nhu cầu lợi ích của bản thân, giảm chi phí của nhà nước trong việc đầutư cho
chương trình.
-Tăng cường các hoạt động phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể thànhviên thông qua kế hoạch liên tịch hàng năm.
-Tăng cường và có sự đổi mới trong công tác tuyên truyền, vận động, tưvấn, giáo dục các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước vềDS-KHHGĐ trong cộng đồng bằng nhiều hình thức cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, tập
trung nhiều hơn nữa cho các vùng khó khăn về 2 lĩnh vực chăm sóc sức khỏesinh sản và KHHGĐ. Lấy sự chuyển biến từ
nhận thức sang hành vi thực hiện làmthước đo hiệu quả.
3.Kiến nghị:
Nhằm phát huy những mặt đạt được, khắc phục những khó khăn, hạn chếtrong thời gian qua, để nâng cao chất lượng hoạt
động về công tác dân số - kếhoạch gia đình trong năm 2010 và những năm tiếp theo, người viết xin đề xuất mộtsố kiến
nghị sau:
-Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan đến công tác dân số- kế hoạch hoá gia đình, đảm bảo khi ban
hành có thể thực hiện được ngay.
-Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp Uỷ đảng, chính quyền địa phương đốivới công tác này, hàng năm cần đưa các mục
tiêu về DS-KHHGĐ vào Nghị quyếtcủa Đảng uỷ - HĐND để thực hiện.
-Các ban ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội cần quan tâm hơn nữacông tác phối hợp thực hiện các hoạt động của
công tác này; đưa nội dung, chươngtrình, mục tiêu về DS-KHHGĐ vào kế hoạch hoạt động của từng ban ngành để
tiếnhành thực hiện.
-UBND xã thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá từng hoạt động củachương trình dân số nhằm rút ra những kinh
nghiệm, kịp thời chấn chỉnh những saisót trong quá trình thực hiện; có hình thức khen thưởng các tổ chức, đơn vị, cánhân
gương mẫu thực hiện chính sách DS-KHHGĐ, xử lý nghiêm những trườnghợp vi phạm chính sách dân số theo quy định của
Đảng và Nhà nước.
-Tăng mức đầu tư về kinh phí cho chương trình dân số nhằm đảm bảo thựchiện hoàn thành các chỉ tiêu được cấp trên giao.
-Thường xuyên tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tácdân số và đội ngũ cộng tác viên nhằm nâng
cao kiến thức, kỹ năng tuyên truyền vềcông tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.
-Điều chỉnh mức thù lao cho cộng tác viên nhằm đảm bảo cuộc sống cũngnhư tạo điều kiện cho việc tham gia công tác lâu
dài. Quan tâm đến việc khuyếnkhích thi đua khen thưởng cho từng tập thể, cá nhân đạt được nhiều thành tích cũng như có
sự cống hiến cho công tác DS-KHHGĐ.
-Đa dạng hoá các sản phẩm truyền thông về DS-KHHGĐ, cung cấp tài liệu,tờ bướm, pa nô, áp phích…cho tuyến cơ sở
nhằm phục vụ cho công tác tuyêntruyền được sinh động, phong phú hơn, phù hợp hơn với từng nhóm đối tượng.
IV.KẾT LUẬN:
Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là bộ phận quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước cũng góp
phần một nhỏ trong công cuộc xây dựng và tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng
người, từng gia đình và của toàn xã hội. Việc xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước với các ngành,
đoàn thể, tổ chức xã hội, chính trị - xã hội là yếu tố quan trọng đảm bảo cho việc kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng
hoạt động về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình ở cở sở, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và Nhà
nước giao cho công tác này đó là “Ổn định quy mô dân số, nâng cao chất lượng dân số, tiến tới đạt mức sinh thay thế”
trong năm 2010 và những năm tiếp theo./.