You are on page 1of 25

LỜI MỞ ĐẦU

Trong lịch sử loài người, nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của
xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, nhà nước
xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để thực hiện các
chức năng để thực hiện chức năng và nhiệm vụ về nhiều mặt như quản lý
hành chính, chức năng kinh tế, chức năng trấn áp và các nhiệm vụ xã
hội.
Để thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của mình nhà nước cần
phải có nguồn lực tài chính đó là cơ sở vật chất cho nhà nước tồn tại và
hoạt động.
Ngày nay nền kinh tế thị trường càng phát triển thì vị trí và vai trò
của tài chính nhà nước ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
xã hội. Vì vậy xây dụng nền tài chính tự chủ vững mạnh là yêu cầu cơ
bản cấp bách trong thời kỳ công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở nước ta,
trong đó Ngân sách nhà nước (NSNN) đóng vai trò chủ đạo trong nền tài
chính quốc gia.
Ngân sách nhà nước là nơi tập trung quỹ tiền tệ lớn nhất trong nền
kinh tế, có mối quan hệ chặt chẽ vởi tổng sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân cùng mối quan hệ khăng khít với tất cả các khâu của hệ thống tài
chính đặc bịêt là tài chính doanh nghiệp và tín dụng. Hơn nữa NSNN là kế
hoạch tài chính vi mô là khâu chủ đạo trong hệ thống các khâu tài chính
quyết định sự phát triển kinh tế, công bằng xã hội, đảm bảo an ninh quốc
phòng thực hiện công bằng xã hội.
Trên cơ sở nhận thức quan trọng vai trò trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, em đã mạnh dạn trọn đề tài ‘’Vai trò của NSNN

1
trong việc điều chỉnh và ổn định thị trường ở Việt nam hiện nay ‘’ nhằm
mục đích nghiên cứu sử dụng hiệu quả và phát huy ngày càng tốt vai trò
của NSNN.
BÀI VIẾT GỒM 3 PHẦN:
A:Những lý luận cơ bản về NSNN.
B: Nhận thức về thị trường ở Việt nam hiện nay
C: Vai trò của NSNN trong điều chỉnh và ổn định nền KTTT
Tuy nhiên, NSNN là một vấn đề mang tính vĩ mô, với trình độ hiểu
biết cũng như trình độ lý luận có hạn nên bài viết của em không thể tránh
khỏi những khiếm khuyết. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy
cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn PGS – TS Dương Đăng Chinh đã hướng
dẫn và chỉ bảo tận tình để em hoàn thành bài viết của mình.

2
A : NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG CƠ BẢN VỀ NSNN
I.KHÁI NIỆM VỀ NSNN:

Trong hệ thống tài chính, NSNN là bộ phận chủ đạo, là điều kiện
vật chất quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước do hiến pháp
quy định, nó còn là công cụ quan trọng của Nhà nước có tác dụng điều tiết
vĩ mô nền kinh tế xã hội, muốn sử dụng tốt công cụ này phải nhận thức
được những vấn đề lý luận cơ bản về NSNN.
Thuật ngữ NSNN ‘’Budget’’ bắt nguồn từ tiếng anh có nghĩa là cái ví,
cái xắc . Tuy nhiên trong cuộc sống kinh tế thuật ngữ này đã thoát ly ý
nghĩa ban đầu và mang nội dung hoàn toàn mới, Do đó để đảm bảo khách
quan chúng ta sẽ tham khảo các tài liệu kinh điển của nước ngoài để rút ra
những kết luận cần thiết vừa phù hợp với chuẩn mực quốc tế, vừa phản
ánh được những đặc điểm cụ thể của nước ta.
Theo cuốn từ điển bách khoa toàn thư của Liên Xô ‘’cũ’’ thì NS là:
1.Bảng liệt kê các khoản thu chi bằng tiền trong giai đoạn nhất định
của NN.
2.Mọi kế hoạch thu chi bằng tiền bất kỳ một cơ q uan, cá nhân nào
trong một giai đoạn nhất định
Cuốn tư liệu xanh của Pháp được ấn hành nhằm hướng dẫn một số
luật định tài chính và thuế, trong đó NS được hiểu là:
1,Chứng từ dự kiến cho phép các khoản thu chi hàng năm của NN
2,Toàn bộ tài liệu kế toán mô tả, trình bày cá khoản chi phí củaNN
trong một năm.
3,Toàn bộ các khoản trình bày tiền mà một Bộ được cấp trong một
năm

3
Từ những tài liệu vừa nêu, có thể rút ra một số kết luận của NS như
sau:
Thứ nhất: NS là một bảng liệt kê, trong đó dự kiến cho phép thực
hiện các khoản thu, chi bằng tiền của một chủ thể nào đó ‘’Nhà nước,
Bộ…’’
Thứ hai: NS tồn tại trong khoảng thời gian nhất định thường là một
năm
Thứ ba: NSNN là những quan hệ kinh tế phát triển trong quá trình
NN huy động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau
Xét về nhiều mặt thì NSNN là một hoạt động tài chính cụ thể của
nhà nước, vì vậy khái niệm NSNN phải được xem xét trên các mặt hình
thức, thực thể và quan hệ kinh tế chứa đựng bên trong NSNN.
Xét theo hình thức biểu hiện bên ngoài và ở trạng thái tĩnh, NSNN
bao gồm những nguồn thu cụ thể, những khoản chi cụ thể và được định
hướng các nguồn thu đều được nộp vào một quỹ tiền tệ – quỹ NSNN và
các các khoản đều được xuất ra từ quỹ tiền tệ ấy.
Cũng cần phải thấy rằng, thu chi NSNN hoàn toàn không giống như

bất kỳ một hình thức thu chi nào khác. ở đây thu chi của NN luôn được
thực hiện bằng luật pháp do luật định ‘’về thu có các luật thuế và các văn
bản khác về chi có các tiêu chuẩn luật định’’. Trên cơ sở đó nhằm đạt mục
tiêu cân đối giữa thu và chi NSNN.
Mặt khác NSNN còn phản ánh các quan hệ kinh tế giữa một bên là
NN một bên là các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi nhà nước tham gia
phân phối các nguồn tài chính theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp
là chủ yếu. Những khoản thu nộp và cấp phát qua quỹ NSNN là các quan

4
hệ được xác định trước, được định lượng và NN sử dụng chúng để
điềuchỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Từ những phân tích trên, ta có thể xác định được ‘’NSNN phản ánh
các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập phân phối và sử
dụng quỹ tiền tệ chung của NN khi NN tham gia phân phối các nguồn tài
chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của NN trên cơ sở luật định’’
Để làm rõ thêm quan niệm về NSNN cần thiết phải chỉ ra các đặc
điểm và vị trí của NSNN, chúng ta sẽ đề cập vấn đề này trong phần
nghiên cứu tiếp theo.
II.ĐẶC ĐIỂM CỦA NSNN:
Qua nhận định cơ bản đã trình bày ở trên chúng ta đã hiểu được phần
nào vai trò của nó cụ thể trong việc điều chỉnh ổn định thị trường hiện nay
Để có được nhận thức đúng đắn về vấn đề này chúng ta đi tìm hiểu
đặc điểm của NSNN. Trong hệ thống tài chính quốc gia cũng như trong
khu vực tài chính NN nói riêng NSNN đóng vai trò quan trọng trong đảm
bảo nguồn tài chính cho sự tồn tại cũng như hoạt động của NN. NSNN bao
gồm quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tàI chính quốc
gia, gồm các quan hệ sau:
-Quan hệ tài chính NN với dân sự
-Quan hệ tài chính NN với các DN thuộc mọi thành phần kinh tế
-Quan hệ tài chính NN với các tổ chức xã hội
Các quan hệ trên mang 4 đặc điểm sau:
Thứ nhất: Tạo lập và sử dụng NSNN gắn liền quyền lực với việc
thực hiện các chức năng của NN, đây cũng chính là điểm khác biệt giữa
NSNN với các khoản tài chính khác. Các khoản thu NSNN đều mang tính
chất pháp lý, còn chi NSNN mang tính cấp phát ‘’không hoàn trả trực
tiếp’’. Do nhu cầu chi tiêu của mình để thực hiện nhiệm vụ kinh tế-Xã

5
hội NN đã sử dụng để quy định hệ thống pháp luật tài chính, buộc mọi
pháp nhân và thể nhân phải nộp một phần thu nhập của mình cho NN với
tư cách là một chủ thể.
Các hoạt động thu chi NSNN đều tiến hành theo cơ sở nhất định đó
là các luật thuế, chế độ thu chi…do NNban hành, đồng thời các hoạt
động luôn chịu sự kiểm tra của các cơ quan NN.
Thực vậy khi NN ban hành một loại thuế mới hay sửa đổi phải được
Quốc hội thông qua’’Ví dụ: luật thuế thu nhập DN đi vào thực hiện ngày
1/1/2004’’. Theo luật thuế mới này các DN chịu thuế suất 32% giảm 28%
riêng DNNN trước đây chịu 25% thì nay tăng 28% để chính xách thuế có
hiệu lực, trước đó Quốc hội đã họp thông qua ngày 17/6/2003 ‘’ Khóa XI’’
Thứ hai: NSNN luôn gắn chặt với NN chứa đựng lợi ích chung và
công, hoạt động thu chi NSNN là thể hiện các mặt KT-XH của NN, dù
dưới hình thức nào thực chất cũng là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế
giữa NN và XH thể hiện qua các khoản cấp phát từ NSNN cho các mục
đích tiêu dùng và đầu tư. Quan hệ kinh tế giữa NN và XH dó đó thể hiện ở
phạm vi rộng lớn.
Thứ ba: Cũng như các quỹ tiền tệ khác NSNN cũng có đặc điểm
riêng của một quỹ tiền tệ, nó tập chung lớn nhất của NN là nguồn tài
chính nên NSNN là giá trị thặng dư của xã hội do đó nó mang đặc đIểm
khác biệt.
Thứ tư: Hoạt động thu cho của NSNN được thể hiện theo nguyên
tắc không hoàn lại trực tiếp đối với người có thu nhập cao nhằm mục đích
rút ngắn khoản thời gian giữa người giàu và nghèo để công bằng xã hội,
‘’Ví dụ: Xây dựng đường xá, an ninh quốc phòng…’’người chịu thuế sữ
được hưởng lợi từ hàng hóa này nhưng hoàn trả một cách trực tiếp. Bên

6
cạnh đó NN còn trợ cấp cho gia đình chính sách, thương binh…’’từ nguồn
thu được.

III.THU VÀ CHI NSNN:


1.Thu NSNN:
Thu NSNN là một việc làm nhằm thỏa mãn các nhu cầu của mình
được tập trung từ nhiều nguồn khác nhau trong đó chủ yếu là thu nhập
quốc dân, giữa thu nhập quốc dân và thu nhập NSNN có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, tăng thu nhập cho NN cũng là kích thích sự tăng thu
nhập cho quốc dân.
Thu NSNN được hình thành từ nhiều phía, việc phân loại các khoản
thu có ý nghĩa thiết thực, đánh giá và quản lý các nguồn thu NSNN có
hai cách phân loại phổ biến như sau:
1.1.Phân loại nội dung kinh tế có thể chia làm 2 nhóm:
a.Nhóm thu thường xuyên có tính chất bắt buộc gồm thuế phí, lệ phí
với nhiều hình thức cụ thể của luật định
1-Thu từ thuế:
Thuế là khoản đóng góp theo quy định pháp luật bắt buộc mọi tổ
chức cá nhân có nghĩa vụ phảI nộp NSNN
Khác với các khoản vay NN thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá
nhân nhưng không hoàn trả trực tiếp cho người nộp sau khoảng thời gian
với khoản tiền mà họ đã nộp NSNN
Thuế còn là phương thức huy động chủ yếu, nó tạo lên bộ phận
quan trọng quyết định sự tồn tại NSNN của nhiều quóc gia trên thế giới,
theo số liệu thống kê của nhà nước Việt nam thì tỷ lệ thuế chiếm 91,6%
tổng số thu NSNN đến năm 1999 tỷ lệ này là 95,1% ( trích theo số liệu năm
1999).

7
Nó bao gồm các khoản sau:
1.Thuế tiêu thụ đặc biệt
2.Thuế GTGT ( VAT)
3.Thuế nhà đất
4.Thuế DN
5.Thuế tài nguyên
6.Thuế xuất nhập khẩu
7.Thuế sử dụng đất nông nghiệp
8.Thuế môn bài
9.Thuế chuyển quyền sử dụng đất
10.Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
2-Thu từ lệ phí:
Khác với thuế, lệ phí là khoản thu mang tính bắt buộc nhưng có
tính chất dân bỏ ra trả Nhà nước khi họ hưởng những dịch vụ hành chính do
Nhà nước cấp ví dụ: lệ phí trước bạ, công chứng, xác nhận, cấp visa…lệ
phí thu từ cơ quan công quyền thu và nó có tính điều tiết cao.
3-Thu từ phí:
Phí là khoản thu có tính chất bắt buộc do dân chúng trả cho Nhà nước
khi hưởng dịch vụ, hàng hóa cũng như lệ phí nó có tính chất đối giá.
Nhưng phí mang tính chất bù đắp các khoản chi phí đầu tư mà Nhà nước
bỏ ra, đây là điểm khác biệt với lệ phí, phí do các đơn vị hoạt động thu như
phí cầu đường, phí chợ…
b.Nhóm thu không thường xuyên:
+Thu từ hoạt động kinh tế
+Thu từ vón đóng góp của NN
+Thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế
+Thu tiền cho vay của Nhà nước ( cả gốc và lãi)

8
+Phần nộp cho NSNN theo quy định của pháp luật từ các hoạt động
sự nghiệp
+Thu từ bán hoặc cho thuê tàI nguyên thuộc sở hữu của NN
+Thu từ viện trợ không hoàn lại của chính phủ các nước, tổ chức cá
nhân, tự nguyện của các cá thể trong và ngoài nước
+Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật như từ: phạt, tịch
thu, tịch biên tài sản…
1.2.Phân loại theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN có thể chia
thành:
-Thu trong cân đối NSNN: bao gồm các khoản thu thường xuyên và
không thường xuyên trừ thu từ vay nợ và viện trợ
-Thu để bù đắp thiếu hụt NSNN không đáp ứng nhu cầu chi tiêu NN
phải đi vay, bao gồm vay trong nước, các tầng lớp dân cư, NH…
2.Chi NSNN
Chi NSNN là việc phân phối sử dụng quỹ NSNN nhằm thực hiện các
chức năng của NN theo nguyên tắc nhất định
Chi NSNN là sự phối hợp giữa hai quá trình phân phối và sử dụng
NSNN, quá trình phân phối là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để
hình thành các quỹ trước khi đưa ra sử dụng, quá trình sử dụng là quá trình
trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ NSNN ví dụ như: Dùng quỹ
NSNN đầu tư xây dựng cơ bản, các chương trình kinh tế có mục tiêu….
Việc phân biệt hai quá trình trong chi tiêu NSNN có ý nghĩa trong
quản lý NSNN
Có nhiều tiêu thức để phân loại các khoản chi tiêu NSNN theo mục
đích nhất định ở đây ta chỉ xét căn cứ theo yếu tố và phương thức quản lý
nội dung của khoản chi, người ta có thể phân khoản chi thành các nhóm sau:
2.1.Nhóm chi thường xuyên:

9
Là khoản chi có tính chất hàng năm mà Chính phủ phải lên kế hoạch
và dự tính đầu mỗi năm tài chính, nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của
NN nó bao gồm:
+Chi phí quản lý hành chính bộ máy NN (Chi trả lương và tiền công )
+Chi mua sắm hàng hóa, dịch vụ…
+Các khoản thanh toán có tính chất một chiều : BHXH, BHYT…
2.2.Nhóm chi đầu tư phát triển:
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các NN hiện đại,
để đạt sự phát triển, chính phủ hoạch định chiến lược đúng đắn, phù hợp
vốn đầu tư của NN cho nên các nhóm chi đó có thể chi cho từng đơn vị cá
nhân hay DN Nhà nước để xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng….
Để đạt được điều đó NSNN cần phải đối chiếu sao cho phù hợp với
mọi hình thức như: Hóa đơn, chứng từ , và các hạng mục đầu tư để từ đó đầu
tư cho các công trình, xí nghiệp, hoặc là các cá thể.
2.3.Chi trả nợ và viện trợ:
ở nước ta mặc dù cơ cấu chi NSNN được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên
như sau: Chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên và chi trả nợ nhưng tỷ lệ
chủ đầu tư còn chiểm một tỷ lệ khiêm tốn khoảng 20% tổng chi NSNN và
trong một số năm gần đây còn có xu hướng giảm. Trong đó tỷ lệ chi
thường xuyên còn quá lớn gần 70% tổng số chi NSNN, theo thống kê thì
đến cuối năm 2004 khoảng 14 tỷ (74% GDP ) trong đó 70% của chính phủ
và các khoản gắn nợi ( đây là số tiền giãn nợ khoảng 1,7 tỷ USD, hàng
năm chính phủ phải dành khoảng 10% tổng chi phí NSNN để trả nợ cho
các chủ đến hạn.
3.Cân đối NSNN:
NSNN của mỗi quốc gia có thể ở một trong ba tình trạng sau:
Thặng dư NS thu > chi

10
Cân bằng NS khi thu = chi
Thâm hụt NS khi thu < chi
Tuy nhiên trong tình trạng dư và cân bằng rất ít khi hoạt động mà
thâm hụt NSNN là phổ biến ở tất cả các nước. Cân đối thu chi NSNN là
điều mong muốn của mọi chính phủ ở các nước, nguyên tắc cân đối ngân
sách bền vững với công thức tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí lớn hơn
tổng số chi thường xuyên, dành phần tích lũy cho đầu tư phát triển, số bội
thu nhỏ hơn tổng chi đầu tư phát triển và tiến tới cân bằng thu chi NSNN là
một hướng đi đúng đã và đang được các quốc gia hết sức coi trọng và giữ
vững. Tránh tình trạng khủng hoảng sản xuất thừa năm 1929 – 1933 ở
những nước tư bản phát triển mặc dù sau gần 80 năm nhưng hậu quả cũng
như bài học nó để lại thì nhiều thế hệ sau đo nhắc tới.
-Về mặt xã hội, trong nền kinh tế thị trường mục tiêu cao nhất là lợi
nhuận, do đó có thể các DN’’ doanh nghiệp ‘’ không chú ý tới các vấn đề
giải quyết vấn đề chung về mặt xã hội, từ đó dẫn đến việc sử dụng tài
nguyên thiên nhiên môi trường lãng phí, gây ô nhiễm môi trường, khai thác
không hợp lý và có quy hoạch các nguồn khoáng sản, đất đai vùng biển ….
Tuy nhiên sự phát triển độc quyền và sự phát triển tự phát tình trạng
phân hóa xã hội vẫn đang tồn tại và đang thách thức chính phủ đặc biệt là
chính phủ các nước đang phát triển.
4..Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay:
Bước vào thời kỳ đổi mới, nước ta đang thực hiện chuyển mới nền
kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế kế hàng hóa’’ Mô hình
của nền kinh tế Việt nam là nền kinh tế nhiều thành phần, vận động cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa ‘’ nói
tóm lại là kinh tế thị trường định hướng.

11
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang ở độ kém phát triển bởi cơ sở vật
chất, máy móc nghèo nàn lạc hậu. Theo UNDP thì Việt nam đang đứng 2/7
nước có công nghệ lạc hậu nhất bởi vì máy thường thường dùng từ 2-3 thế
hệ cho nên năng xuất lao động chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới và
chất lượng sản phẩm thì chưa cao, nó thể hiện ở: Nông nghiệp vẫn sử dụng
khoảng 70% lực lượn lao động nhưng chỉ sản xuất 26% GDP, các ngành
kinh tế công nghệ cao chiểm tỷ trọng thấp.
Từ nguyên nhân ở trên cho ta thấy sự bất ổn lớn trong kinh tế, thị
trường hàng hóa là một minh chứng cho vấn đề này, nhiều hiện tượng tiêu
cực vẫn xảy ra như: nhãn mác giả, hàng giả, nhập lậu …do bắt nguồn từ
bản chất của nền kinh tế thị trường nên kinh tế thị trường có mặt tốt là cho
phép các DN cạnh tranh, từ đó kích thích tăng trưởng sản xuất tăng năng
xuất lao động.
Cụ thể là tăng giá một số mặt hàng thiết yếu quan trọng trong đời
sống kinh tế người dân đó là giá xăng dầu tăng nhanh ‘’ hiện nay xăng là
8.800đ/l’’ Các dịch vụ khác tăng từ 2% - 5%, điện tăng 0,3%, đường sắt
tăng 0,7%, đường bộ tăng 0,2%…Việc điều chỉnh lương cán bộ không bù
đắp cho sự tăng giá của các dịch vụ hàng hóa như: thịt bò, thịt lơn, cá….
tăng cao. Ngoài ra cúm ra cầm còn hoành hành trong cả nước và bùng phát
bệnh SARS cũng đã tác động đến giá cả thị trường.
Tuy nhiên đến nay Nhà nước cũng đang tiến hành từng bước cổ phần
hóa cac DNNN và cho phép các DNTN cùng tham gia cung cấp các loại
hàng hóa ví dụ như: Bưu chính viễn thông, tới đây điện sinh hoạt cũng đi
vào hoạt động…
Để tham gia APTA và gia nhập WTO Việt nam cần tiến hành cắt
giảm thuế xuất nhập khẩu và từng bước xóa bỏ chi phí không cần thiết
trong nhiều loại thuế góp phần đẩy giá lên cao so với hàng hóa các nước

12
ASEAN. Vì vậy nhà nước cần có biện pháp tích cực nhằm ổn định nền kinh
tế giai đoạn thời mở cửa.

B. NHẬN THỨC VỀ THỊ TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

Có thể nói việc thực hiện NSNN năm 2001 diễn ra trong điều kiện kinh
tế thế giới và trong nước có nhiều diễn biến không thuận. Kinh tế toàn cầu
tăng trưởng thấp, trong khi nền kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, tồn
tại như: chất lợng tăng trưởng thấp và chưa vững chắc, năng lực cạnh tranh
của nhiều sản phẩm còn yếu, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, giá cả hàng
hoá xuất khẩu, nhất là nông sản giảm mạnh làm ảnh hưởng đến sản xuất và
đời sống một bộ phận lớn nông dân. Thiên tai lớn đã diễn ra tại nhiều địa
phương gây thiệt hại về tính mạng và tài sản cho nhân dân, tác động xấu đến
sản xuất - kinh doanh. Tuy nhiên, ngay từ đầu năm, các Bộ, ngành, chính
quyền các cấp, các doanh nghiệp và đơn vị đã khẩn trương triển khai thực
hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự
toán NSNN năm 2001, chủ động đối phó với các diễn biến phức tạp, phát
sinh trong quá trình điều hành. Nhờ vậy mà nhiều mục tiêu quan trọng trong
kế hoạch năm 2001 đã đạt mức dự kiến, tốc độ tăng trởng GDP tuy không
đạt kế hoạch đề ra nhưng cao hơn năm 2000, sản xuất công nghiệp tiếp tục
tăng trưởng với nhiều sản phẩm chủ yếu tăng khá (như xi măng, điện, thép
cán, than sạch...), sản xuất nông nghiệp đã có sự chuyển dịch về cơ cấu cây
trồng, vật nuôi (nhất là thuỷ sản); hoạt động dịch vụ, du lịch, vận tải, bưu
chính viễn thông... đã có bước phát triển; các nhiệm vụ phát triển sự nghiệp

13
xã hội, xoá đói giảm nghèo, lao động việc làm v.v. đạt được nhiều kết quả
quan trọng.

Theo chỉ đạo của Chính phủ thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ bản năm
2001, nhiều công trình đợc đầu tư bằng vốn NSNN và vốn tín dụng Nhà nớc
đã hoàn thành và đa vào sử dụng trong năm nay nh: ngành Điện hoàn thành
và hoà vào lới điện quốc gia 6 tổ máy của các nhà máy thuỷ điện Yaly, Hàm
Thuận - Đa Mi và nhiệt điện Phú Mỹ với tổng công suất 1.375 MW; hoàn
thành hàng trăm Km đường dây 220 KV và 110 KV, cùng nhiều trạm biến
thế với tổng công suất trên 1.300 KVA. Ngành Giao thông vận tải đã hoàn
thành đã vào sử dụng nhà ga Hàng không T1 Nội Bài, thông xe toàn tuyến
Hà Nội - Lạng Sơn, đoạn Thường Tín - Cầu Giề; nút giao thông Nam cầu
Chương Dơng; hoàn thành các cầu sông Phan, Phú Quới, Lộc Hà, Ngân Sơn,
Sa Đéc. Ngành Nông nghiệp đã đắp trên 2,1 triệu m2 đê; trồng 16,5 vạn ha
rừng... đã xây dựng mới trên 10.000 phòng học phổ thông, thêm gần 1.500
cơ sở bưu điện - văn hoá xã, đa vào sử dụng thêm khoảng 5.000 giường
bệnh.

Với phương thức "Nhà nước và nhân dân cùng làm", trong năm 2001
cùng với các nguồn NSĐP và huy động từ dân cư theo quy định Chính phủ
đã bổ sung 1.500 tỷ đồng cho địa phương vay không lãi suất thực hiện kiên
cố hoá kênh mương và phát triển giao thông nông thôn, nhờ đó đã góp phần
làm mới và nâng cấp hàng nghìn km đường giao thông liên thôn, liên xã;
kiên cố hoá trên 8.000 km kênh mương, đa tổng số kênh mương được kiên
cố hoá lên khoảng 32.000 km.

NSNN cũng hỗ trợ cho việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu, thực hiện
hỗ trợ ngân sách để tăng tín dụng ưu đãi phát triển các sản phẩm quan trọng;
hỗ trợ phát triển làng nghề tạo việc làm cho người lao động. Trong quá trình

14
thực hiện đã bổ sung 900 tỷ đồng vốn cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh các mặt hàng trọng điểm (điện tử, đóng tàu, cơ khí, giao thông vận
tải, dệt...) và doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu để tăng năng lực sản
xuất của các doanh nghiệp; dành gần 900 tỷ đồng để thưởng xuất khẩu theo
kim ngạch đối với 4 mặt hàng (gạo, cà phê, rau quả hộp, thịt lợn), hỗ trợ lãi
suất tạm trữ gạo, cà phê, đối với những doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm
mới, tìm và mở rộng thị trường mới. Đồng thời NSTW đã hỗ trợ NSĐP gần
1.000 tỷ đồng để đảm bảo điạ phương ổn định nguồn vốn đầu tư phát triển
nông nghiệp - nông thôn khi thực hiện việc miễn, giảm thuế sử dụng đất
nông nghiệp đối với nông dân. Ngoài nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ NSNN,
Chính phủ còn bổ sung thêm nguồn thực hiện cho vay đầu tư ưu đãi qua hệ
thống Quỹ hỗ trợ phát triển và một số ngân hàng thương mại.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của ngân sách nhà nước
cũng như cơ chế quản lý , điều hành ngân sách nhà nước đến nay cũng còn
bộc lộ một số hạn chế cụ thể là :

-Thu ngân sách nhà nước mới chỉ đáp ứng nhu cầu chi tối thiểu cần
thiết ngày càng tăng : nguồn tăng thu cũng khá nhưng thiếu vững chắc ,gần
50% tổng thu ngân sách nhà nước từ xuất khẩu dầu thô và thuế xuất nhập
khẩu là những khoản thu phụ thuộc nhiều vào yếu tố thị trường và giá cả
quốc tế ; tỷ trọng thuế trực thu tăng chậm do hiệu quả sản xuất- kinh doanh
trong nền kinh tế nói chung còn thấp ; tình trạng thất thu vẫn còn, nhất là
khu vực kinh tế công thương nghiệp , dịch vụ ngoài quốc doanh và xuất
nhập khẩu qua biên giới.

-Chi ngân sách nhà nước còn phân tán, dàn trải ; hiệu quả chi ngân sách
(cả chi xây dựng cơ bản và chi thường xuyên) còn thấp chưa chú trọng đến
kết quả đầu ra, do đó hiệu quả kinh tế không đạt mức mong muốn.Tiến trình

15
xã hội hoá ,cải cách thủ tục hành chính, tinh giản biên chế thực hiện chậm,
dẫn đến gánh nặng chi thường xuyên, đặc biệt là chi trả tiền lương , ngày
càng lớn, (mặc dù mức lương của cán bộ công nhân viên chức còn thấp )

trong khi đó tình trạng chi tiêu lãng phí , kém hiệu quả chưa được khắc
phục.Chế độ công khai ngân sách nhà nước đã được qui định,nhưng ở nhiều
nơi thực hiện còn có tính hình thức.

C.VAI TRÒ CỦA NSNN TRONG ĐIỀU CHỈNH VÀ ỔN ĐỊNH


NỀN KTTT:
I.Tại sao NSNN trong việc ổn định nền KTTT mà các khâu tài
chính khác không có:
Chúng ta đã biết NSNN là khâu chủ đạo trong tài chính là công cụ để
Nhà nước thực hiện kiểm soát Vĩ mô và cân đối vĩ mô nền kinh tế, bởi lẽ
NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước, là tông sản phẩm
quốc nội (GDP ) theo số liệu thống kê thì tỷ trọng động viên GDP vào
NSNN vào giai đoạn 2001 – 2004 là 25,4% ; 1996 – 2000 là 19,7% ‘’trích
thời báo kinh tế Việt nam’’
Mặt khác NSNN còn là công cụ tài chính quan trọng, có thể nói
NSNN còn là một ‘’tụ điểm’’ trong nguồn tài chính Việt nam, nó có vai trò
lớn trong hoạt động kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại của đất
nước…Thông qua NSNN, các nguồn tàI chính tập trung vào nhà nước như
hình thức: thu thuế, lệ phí, phí….sẽ được Nhà nước sử dụng để thực hiện
các chức năng nhiệm vụ của mình. Từ đó Nhà nước điều chỉnh vĩ mô nền
kinh tế thị trường.

16
II.Giải pháp ổn định thị trường:
Vai trò của NSNN được xác định trên cơ sở các đặc điểm, bản chất
nhiệm vụ của nó trong từng giai đoạn, có thể khẳng định vai trò của NSNN
như sau:
-NSNN có vai trò là công cụ điều chỉnh ổn định nền kinh tế thị
trường, vị trí của nó rất quan trọng bởi thị trường cần sự đIều tiết vĩ mô từ
phía Nhà nước, song Nhà nước cũng chỉ hoàn chỉnh vai trò của mình bằng
việc điều chỉnh thành công nguồn tài chính, tức là sử dụng hiệu quả NSNN
trong nền kinh tế thị trường, thể hiện hai công cụ chủ yếu sau:

1.Thông qua công cụ thuế:

1.1.Với tác động nền kinh tế: Thuế chính là khoản chuyển giao thu
nhập bắt buộc từ các cá nhân, pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và
thời hạn pháp luật qui định nhằm sử dụng mục đích công cộng. Vì vậy thuế
không chỉ là nguồn thu quan trọng của NSNN mà còn là công cụ đIều tiết vĩ
mô, trên cơ sở đó Nhà nước kích thích các hoạt động sản xuất kinh doanh,
định hướng đầu tư trên thị trường. Nhà nước đã sử dụng thuế để tác động
đến lợi ích của chủ thể kinh doanh vì lợi ích nền kinh tế quốc dân.

Việc đặt ra các loại thuế với thuế ưu đãi, qui định miễn, giảm thuế…
có tác dụng thu hút được các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào nơi cần thiết
ở nước ta nhằm phát triển các ngành nghề thủ công theo quyết định 132 của
chính phủ các ngành nghề thủ công được hưởng ưu đãI, nếu là dự án xuất
khẩu 30% thì miễn thuế thu nhập doanh nghiệp ba năm đầu và giảm 50%
cho 5 năm tiếp theo.

1.2.Tác động thị trường:

17
1.2.1.Thị trường hàng hóa: Thuế có tác dụng bình ổn giá cả thị trường,
chu trình bình ổn của xã hội gồm 4 khâu: Sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng. Thuế thuộc khâu phân phối có tác động vào tiền công và lợi
nhuận làm thay đổi nhu cầu thị trường, qua đó tác động đến sản xuất và tiêu
dùng và thu nhập của mỗi cá nhân, thuế gián tiếp vào thu nhập thông qua
giá cả thị trường, vì thế có thể làm tăng hoặc giảm đi số lượng và yếu tố
‘’cầu’’ trên thị trường, đối với sản xuất phụ thuộc vào hai yếu tố chính đó
lànhu cầu và giá cả. Thông có tác động thu gián tiếp và trực tiếp, thông
qua đó Nhà nước có thể áp dụng ưu đãi về thuế cho các hàng hóa dịch vụ
làm cho giá cả hàng hóa tăng khuyến khích hàng nhập khẩu nhờ đó mà hạ
giá thành so với hàng nhập khẩu. Thông qua đó mà quan hệ tiêu dùng trên
thị trườngthay đổi, đảm bảo sự cân đối giữa các ngành nghề.

1.2.2. Thị trường tiền tệ.


Như vậy, tuy thuế ở khâu phân phối nhưng Nhà nước đã sử dụng thuế
như một công cụ điều tiết sản xuất và tiêu dùng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế
thể hiện ở cả thu và chi ngân sách. Tuy nhiên Nhà nước đã không làm thay
chức năng của thị trường mà chỉ thông qua các công cụ kinh tế, chính sách
đòn bẩy kinh tế để tác động vào thị trường mà thuế chính là công cụ sắc bén
nhất.
2. Thông qua công cụ chi NSNN.
2.1. Tác động tới kinh tế.
Vai trò của NSNN trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế còn được
thể hiện thông qua chính sách đầu tư của Nhà nước. NSNN cung cấp nguồn
kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp
then chốt, trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời

18
và phát triển các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, từ đó tác
động đến việc hình thành cơ cấu kinh tế mới.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng một nền kinh tế muốn tăng trưởng
nhanh, không thể không tạo dựng những tiền để cần thiết như hệ thống kết
cấu hạ tầng, khả năng cung ứng các loại vật tư cơ bản như sắt, thép,
ximăng… So với các nước khác thì Việt Nam đi lên xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa tự xuất phát điểm rất thấp, cơ sở
vật chất nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế qua hai cuộc chiến tranh bị tàn phá
nặng nề do đó các khoản chi kinh tế và chi đầu tư xây dựng các công trình
kết cấu hạ tầng kinh tế là một việc làm hết sức cần thiết. Thông qua các
khoản chi này Nhà nước ưu tiên phát triển các nhành, các lĩnh vực có tỉ suất
lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh, ưu tiên các ngành mũi nhọn có khả năng
cạnh tranh trên thị trường, đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng thuộc thế mạnh
xuất khẩu… Các khoản chi này của NSNN không thu hồi trực tiếp, nhưng
hiệu quả của nó lại được tính bằng sự tăng trưởng GDP, sự phân bố chung
hợp lý của nền kinh tế hoặc bằng các chỉ tiêu khác như tạo ra khả năng tăng
tốc độ lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ, tăng lượng cung ứng hàng hoá trên
thị trường, thu hút được một số lượng lao động nhất định…
2.2. Tác động tới thị trường.
Về mặt thị trường NSNN có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện
các chính sách ổn định về giá cả thị trường và chống lạm phát. Bằng công cụ
chi NSNN, công cụ thuế và sử dụng quỹ dự trữ Nhà nước có thể điều chỉnh
được giã cả thị trường một cách chủ động.
Đối với thị trường hàng hoá, hoạt động điều tiết của chính phủ được
thực hiện thông qua việc sử dụng các quỹ dự trữ của Nhà nước (bằng tiền,
bằng ngại tệ, các loại hàng hoá, vật tư chiến lược) được hình thành từ nguồn
thu của NSNN. Trong cơ chế thị trường, Nhà nước không thể bắt buộc các

19
doanh nghiệp bán hàng hoá theo giá cả quy định mà ngược lại, giá cả là do
thị trường quyết định, phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu và các yếu tố khác.
Trong quá trình biến đổi của mình, sẽ có lúc giá cả lên cao, gây ra những
cơn sốt nhất thời và có lúc giá cả lại xuống quá thấp. Để bảo vệ quyến lợi
của người tiêu dùng và kích thích sản xuất, Nhà nước phải theo dõi sự biến
động của giá cả trên thị trường và phải có nguồn dự trữ về hàng hoá và tài
chính. Nguồn dự trữ này được hình thành từ kinh phí cấp phát của Nhà
nước. Một cách tổng quát, cơ chế điều tiết là:
- Khi giá cả của một hàng hoá nào đó lên cao, để kìm hãm và chống
đầu cơ, chính phủ đưa dự trữ hàng hoá đó ra thị trường để tăng cung, trên cơ
sở đó sẽ bình ổn được giá cả và hạn chế khả năng tăng giá đồng loạt, gây
nguy cơ lạm phát chung cho nền kinh tế.
- Còn khi giá cả một loại hàng hoá nào đó bị giảm mạnh, có khả
năng gây thiệt hại cho người sản xuất và tạo ra xu hướng di chuyển vốn sang
lĩnh vực khác, chính phủ sẽ bỏ tiền để mua các hành hoá đó theo một giá
nhất định đảm bảo quyền lợi cho người sản xuất.
Năm 2004 là một ví dụ cho vấn đề này, trong bối cảnh kinh tế - xã hội
luôn có nhiều biến động khác thường: dịch cúm gia cầm diễm ra trên diện
rộng, hạn hán lớn ở cả hai miền Nam - Bắc, thị trường nguyên liệu biến
động mạnh, giá cả hàng hoá, vật tư (săng dầu, sắt thép…) gia tăng khôn
lường. Những biến động đó của thị trường cần tới sự can thiệp của Nhà nước
và công cụ chi NSNN đã xuất nhiều khoản chi bù lỗ xăng dầu nhập khẩu
(5700 tỷ đồng); bố trí ngân sách cho cải cách tiền lương (7000 tỷ đồng), chi
xử lý nợ tồn đọng trong xây dựng cơ bản…
2.3. Kiềm chế làm phát.
Chống lạm phát cũng là một nội dung quan trọng trong quá trình điều
chỉnh thị trường. Nguyên nhân gây ra và thucd đẩy làm phát có nhiều và

20
xuất phát từ nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thu, chi tài chính của Nhà
nước. Chính vì vậy, NSNN phải được nhìn nhận như một công cụ nhằm góp
phần khống chế và đẩy lùi lạm phát. Về mặt tổng hợp thì vai trò này của
NSNn thể hiện ở tất cả các mặt thu, chi và cân đối NSNN. Thu, chi NSNN
phải nhằm mục đích kích thích sản xuất ơhát triển chóng tình trạng bao cấp
lãng phí. Khi đồng tiền được sử dụng chặt chẽ và có hiệu quả thì tác dụng
của nó rất lớn, trong trường hợp ngược lại sẽ gây ra bất ổn trên thị trường,
thúc đẩy làm phát tăng lên.
Đối với các khoản chi NSNN có thể kiềm chế làm phát thông qua các
khoản chi tiêu dùng và chi cho đầu tư.
Thứ nhất: Với các khoản chi tiêu dùng để kiềm chế lạm phát
phải tăng cường khối lượng tiêu dùng của Nhà nước, được thực hiện thông
qua các biện pháp tằng cường chi thường xuyên, chủ yếu là tăng chi mua
sắm trang thiết bị của các bộ, ngành. Điều này có liên quan chặt chẽ đến bội
chi NSNN, đến hậu quả quản lý chi NSNN.
Thứ hai: Với các khoản chi đầu tư để kiềm chế lạm phát phải tăng tập
trung đầu tư của Nhà nước. Việc kích cầu thông qua tăng khống lượng đầu
tư trước tiên nhất phải có hai loại:
- Loại đầu tư có khả năng tạo thêm cung và loại đầu tư không có khả
năng tạo ra cung mới cho nền kinh tế. Sử dụng các biện pháp kích cầu nhằm
vào tăng đầu tư tập trung Nhà nước cũng cần xem xét kỹ cho phù hợp với
từng loại đầu tư. Tuy nhiên, loại đầu tư không có khả năng tạo thêm cung
cho nền kinh tế (xây dựng trụ sở hành chính…) sẽ kèm theo làm phát.
- Loại đầu tư có khả năng tạo thêm cung (đầu tư xây dựng nhà ở cho thuê, xây
dựng có sở hạ tầng cho thuê như đường giao thông, kho tàn, bến bãi…) thì
tổng cung của nền kinh tế tăng lên, cân đối cung cầu được cải thiện, ngay cả
làm phát cũng sẽ được kiềm chế.

21
Bên cạnh đó, việc dùng biện pháp phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt
ngân sách là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng lạm phát gia tăng. Ngược
lại, biện pháp vay nợ từ dân sẽ gáp phần làm giảm lượng tiền mặt trong lưu
thông, tạo ra sự cân đối tiền hàng và làm giảm tốc độ lạm phát.
Từ năm 1992 Nhà nước đã chấm dứt việc phát hành tiền bù đắp bội
chi NSNN, chuyển sang hình thức vay nợ từ dân (52%) và vay nợ nước
ngoài (48%) đến năm 1993 tỷ lệ tương ứng là 71% và 29%. Tuy nhiên biện
pháp vay nợ này có hạn chế là gánh nặng về lãi suất, nếu vốn vay sử dụng
không có hiệu quả thì không những không có khả năng trả gốc và việc trả lãi
cũng gặp rất nhiều khó khăn, tạo ra sự tiềm ẩn nguy cơ lạm phát của chu kỳ
sau. Do đó, hạn chế bội chi NSNN luôn luôn là biện pháp tài chính quan
trọng nhất để kiềm chế lạm phát.
Việc đổi mới cơ cấu ngân sách, tăng tỷ trọng các khoản chi đầu tư, đổi
mới hệ thống thuế, đảm bảo mức động viên hợp lý và khuyến khích các
thành phần kinh tế phát triển…là những giải pháp đảm bảo sự thành công
của công cuộc đấu tranh chống lạm phát.

22
Kết luận
Qua nghiên cứu đề tài đã giúp em thấy được tầm quan trọng của
NSNN đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Trên cơ sở xem xét bản chất,
đặc điểm của NSNN và mối quan hệ tài chính tiềm ẩn bên trong NSNN thì
quyền lực tài chính của Nhà nước đã được biểu hiện thông qua vai trò điều
chỉnh và ổn định thị trường của NSNN. Vài trò đó mang tính toàn diện trên
nhiều lĩnh vực. Thông qua việc hình thành và sử dụng NSNN, Nhà nước đã
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình như điều tiết hướng dẫn thị
trường, định hướng đầu tư, đảm bảo công bằng xã hội, ổn định và tăng
trưởng kinh tế.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, cùng với chính sách mở cửa
của Đảng và Nhà nước, sự phát triển của nền kinh tế đa thành phần với quan
hệ hàng hoá tiền tệ, quan hệ thị trường và cơ chế tự chủ tài chính tự chịu
trách nhiện ngày càng được khẳng định và phát huy vai trò của mình. Tuy

23
nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì trong quản lý NSNN đang
còn tồn tại nhiều hạn chế. Bởi vậy, việc đổi mới NSNN không chỉ liên quan
đến việc đổi mới hoạt động thu chi tài chính Nhà nước mà còn gắng liền với
việc đổi mới cơ chế phân cấp ngân sách, các phương pháp cân đối ngân sách
và đổi mới quy trình ngan sách. Tất cả các vấn đề đó có liên quan chặt chẽ
với nhau đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ và nhất quán nhằm nâng cao hơn
nữa vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường để NNNN thực sự trở
thành công cụ quản lý vĩ mô số một của Nhà nước

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………….1
A.NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG CƠ BẢN VỀ NSNN………………1
I.KHÁI NIỆM VỀ NSNN:…………………………………………….…….1
II.ĐẶC ĐIỂM CỦA NSNN:…………………………………………………5
III.THU VÀ CHI NSNN:…………………………………………………….7
1.Thu NSNN:……………………………………………………..7
2.Chi NSNN………………………………………………………9
2.1.Nhóm chi thường xuyên:……………………………………………9
2.2.Nhóm chi đầu tư phát triển:……………………………………….10
2.3.Chi trả nợ và viện trợ:………………………………………………10
3.Cân đối NSNN: …………………………………………………10

24
4.Thực trạng thị trường kinh tế......................................................11

B: NHẬN THỨC VỀ THỊ TRƯỜNG………………………………………….13

C.VAI TRÒ CỦA NSNN TRONG VIỆC ĐIỀU CHỈNH VÀ ỔN ĐỊNH

NỀN KTTT………………………………………………………………………16

KẾT LUẬN………………………………………………………………………23

25

You might also like