You are on page 1of 6

Câu 1:Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.

phân tích vì sao hàng


hoá sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫnđó?

1.Mọi tư bản đều xuất hiện với một khối lượng tiền tệ nhất định và vận động
theo công thức T-H-T’ ,trong đó T’=T+t. số tiền trội lên so với số tiền ứng ra
ban đầu được Mac gọi là giá trị thăng dư,kí hiệu là m. đây là công thức
chung của tư bản

*Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản

Lí luận giá trị khẳng định rằng giá trị hàng hoá là do lao động XH của người
sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá, nghĩa là nó chỉ được tạo ra trong
sản xuất. Nhưng mới thoạt nhìn vào công thức chung ta lại có cảm giác giá
trị thặng dư đựơc tạo ra trong lưu thong.Có fải lưu thong tạo ra giá trị thặng
dư k? Sự lưu thông thuần tuý dù trao đổi ngang giá hay trao đổi không
ngang giá cũng không hề làm tăng them giá trị.

-Trường hợp trao đổi ngang giá, những người tham gia trao đổi chỉ có lợi về
mặt giá trị sử dụng chứ không có lợi về mặt giá trị, nên không tạo ra m.
Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, người này được lợi trong mua
và bán, thì người khác sẽ mất đi khi bán và mua, còn xet them phạm vi toàn
Xh thì đó chỉ là sự phân phối lại giá trị mà thôi.

Sự phân tích trên cho thấy trong lưu thông không làm cho T lớn lên, nhưng
nếu nằm ngoài lưu thông (tức là tiền tệ để trong két) thì tiền tệ cũng không
làm tăng them giá trị.Như vậy mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
biểu hiện ở chỗ: tiền tệ vừa lớn lên trong lưu thông vừa không được tạo ra
trong lưu thông.

Để giải quyết được mâu thuẫn này phải tìm trên thị trường 1 hàng hoá có
khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản than nó. Đó là hàng hoá
sức lao động.

2. Hàng hoá sức lao động :

Sức lao động là toàn bộ thể lực, trí lực của con người, là khả năng lao động
của con người.

Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá: người có sức lao động tự
dovề than thể, được quyền làm chủ sức lao động của mình để có thể đi làm
thuê (bán sức lao động). Họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác trong
điều kiện đó bụôc họ phải đi làm thuê tức là bán sức lao động của mình.

Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động:hàng hoá sức lao động cũng có hai
thuộc tính như hàng hoá thông thường:

-Giá trị sức lao động cũng do số lượng lao động XH cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất ra nó quyết định. Sức lao động tồn tại trong cơ thể sống con
người, muốn sản xuất và tái sản xuất ra nó con người cần phải tiêu dùng một
lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Vì vậy giá trị hàng hoá sức lao động được
tính bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết về mặt vật chất và tinh
thần để duy trì đời sống bình thường của người công nhân và gia đình anh ta
kể cả những phí tổn học tập để người công nhân có một trình độ nhất định.

Việc xác lập giá trị hàng hoá sức lao động như trên là tất yếu đối với quá
trình tái sản xuất XH. Giá trị hàng hoá sức lao động có được phụ thuộc vào
yếu tố tinh thần và lịch sử, nghĩa là nó phụ thuộc vào các điều kiện cụ thể
của từng nước: khí hậu, tập quán, trình độ văn minh, nguồn gốc, hoàn cảnh
ra đời và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.

-Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là công dụng của hàng hoá sức
lao động, nó nhằm thoả mãn nhu cầu của người mua để sử dụng vào quá
trình lao động sản xuất. Khác với hàng hoá thông thường khi được sử dụng
nó có khả năng tạo ra một lượng giá trị mới hơn giá trị ban đầu của bản thân
nó. Đó chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Đây là đặc điểm riêng có
của hàng hoá sức lao động. Đặc điểm này là chìa khoá để giải quyết mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản.

Cây 2

: Phân tích nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư và các phương
pháp bóc lột giá trị thặng dư trong CNTB ?

- Nguồn gốc bản chất của giá trị thặng dư:

+ Trong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố sản xuất chủ yếu, sức lao
động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một
con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng. Ví dụ như:
Phát minh khoa học, cãi tiến kỷ thuật hay lao động sản xuất ra của cải
vật chất, ... khi sức lao động trở thành hàng hoá giá trị sử dụng của
hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao
động, tức là quá trình lao dộng tạo ra hàng hoá. Trong quá trình ấy,
chính lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản
thân hàng hoá sức lao động , tức là tạo ra giá trị thặng dư.

+ Giá trị thặng dư là một bộ phận giá trị mới do lao động của công
nhân tạo ra, dôi ra ngoài giá trị sức lao động , là kết quả lao động
không công của người lao động. Do đó, nếu quá trình lao động dừng
lại ở điểm mà giá trị sức lao động thì chỉ có sản xuất giá trị giãn đơn,
khi quá trình lao động vượt quá điẻm đó mới có sản xuất giá trị thặng
dư.

+ Vậy nhân tố quyết định việc sản xuất giá trị thặng dư theo quan
điểm chủ nghĩa Mac là nhân tố sức lao động của người công nhân
(Chủ yếu là giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động).

+ Muốn sản xuất ra giá trị thặng dư (m), trước hết nhà tư bản ra thị
trường những thứ cần thiết như: Tư liệu sản xuất, sức lao động của
người công nhân, ... Sau khi có được hai loại hàng hoá đó, nhà tư bản
kết hợp với nhau trong quá trình sản xuất và tạo ra giá trị mới lớn hơn
giá trị ban đầu mà nhà tư bản bỏ ra, phàn lớn hơn đó gọi là giá trị
thặng dư (m).

Ví dụ: .............

- Giá trị thặng dư tuyệt đối, tương đối và siêu ngạch

+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Là phương pháp
sản xuát giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động vượt
quá thời gian lao động tất yếu; trong khi năng suất lao động, giá trị
sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.

· Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ tư
bản chủ nghĩa. Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở giai
đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi lao động còn thấp.

· Với lòng tham không đáy, nhà tư bản mọi cách kéo dài ngày lao
động để nâng cao trình độ bóc lột. Nhưng do giới hạn về ngày tự
nhiên, về sức lực con người nên không thể kéo dài vô hạn. Mặt
khác, còn do đấu tranh quyết liệt những giai cấp công nhân đòi rút
ngắn thời gian lao động cũng không thể rút ngắn chỉ bằng thời
gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối là tăng cường lao động vì tăng cường lao động
cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày trong khi
thời gian lao động càn thiết không thay đổi.

+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Là phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng
cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian loa động thặng
dư lên trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động cũng
như cũ.

· Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm bớt giá trị các tư
liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy,
phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư
liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra
các tuw liệu sản xuất tiêu dùng.

- Giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối có điểm giống nhau đều làm tăng
thời gian lao động thặng dư của người công nhân không chỉ đủ
nuôi sông mình, mà còn tạo ra phần thặng dư. Song, hai phương
pháp này có sự khác nhau về cách thức làm tăng thời gian lao động
thặng dư.

+ Giá trị thặng dư siêu ngạch: Là giá trị thặng dư thu được do người
áp dụng công nghẹ mới sớm hơn các xí nghiệp khác, làm cho giá trị
cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi đa số các
xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ thì giá trị thặng dư sieu
ngạch của doanh nghiệp đó không còn nữa.

· Xét từng đơn vị sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư siêu
ngạch là hiện tượng tạm thời, cục bộ. Nhưng xét về toàn bộ tư bản,
giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng thường xuyên. Vì vậy, giá
trị thặng dư siêu ngạch là một động lực thúc đẩy các nhà tư bản cải
tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.

· Giá trị thăng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư tương đối giống
nhau ở chỗ đều là tăng năng suất lao động. Vì vậy giá trị thặng dư
siêu ngạch là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Nhưng
giữa chúng có sự khác nhau: giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên
cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt; còn giá trị thặng dư tương
đối thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.

Câu 3
Tư bản là phần giá trị mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách bóc lột sức
lao động của công nhân làm thuê. Tư bản là một quan hệ sản xuất phản ánh mối quan
hệ giữa tư sản và vô sản.

Tư bản cố định' là một khái niệm trong kinh tế chính trị cổ điển chỉ bộ phận tư bản
biểu hiện dưới hình thái giá trị của những máy móc, thiết bị, nhà xưởng.... Tuy có
tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một
lần mà chuyển dần từng phần vào sản phẩm trong quá trình sản xuất. Đặc điểm của tư
bản cố định là về hiện vật, nó luôn cố định trong quá trình sản xuất, chỉ có giá trị của
nó là tham gia vào quá trình lưu thông cùng sản phẩm. Hơn nữa cũng chỉ lưu thông
từng phần, một phần vẫn bị cố định trong tư liệu lao động, phần này không ngừng
giảm xuống cho đến khi nó chuyển hết giá trị vào sản phẩm.
'Tư bản bất biến' là một khái niệm mới được phát hiên ra bởi kinh tế chính trị
Marxism. Nếu tư bản cố định không bao gồm các nguyên liệu mà giá trị chuyển hết
một lần vào sản phẩm trong quá trình sản xuất, thì tư bản bất biến bao gồm cả nguyên
liệu. Tư bản bất biến là tư bản vật chất, để phân biệt với 'tư bản khả biến' là tư bản bỏ
ra mua sức lao động. Khái niệm tư bản cố định tương tự khái niệm chi phí cố định
trong kinh tế học vi mô hay còn gọi định phí trong kinh doanh và kế toán. Ta có thể
diễn giải cụ thể như sau:
1. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tiền ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao
động, nghĩa là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất. Các yếu tố
này có vai trò khác nhau trong việc tạo ra giá trị thặng dư.
- Trong sản xuất, công nhân sử dụng tư liệu sản xuất để chế tạo ra sản phẩm. Tư liệu
sản xuất có nhiều loại, có loại như nhà xưởng, kho tàng, thiết bị, máy móc được sử
dụng trong một thời gian dài, hao mòn dần qua nhiều chu kỳ sản xuất, nên giá trị của
nó được chuyển từng phần vào sản phẩm. Có loại như nguyên liệu nhiên liệu, vật liệu
phụ tiêu hao toàn bộ qua một chu kỳ sản xuất, nên giá trị của nó được chuyển nguyên
vẹn ngay vào sản phẩm mới.
Như vậy, dù giá trị tư liệu sản xuất được chuyển dần từng phần hay chuyển nguyên
vẹn ngay vào sản phẩm, bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất có đặc
điểm chung là giá trị của chúng được bảo tồn không có sự thay đổi về lượng và
chuyển vào sản phẩm mới trong quá trình sản xuất.Bộ phận tư bản này gọi là tư bản
bất biến (ký hiệu bằng C).
- Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức sức lao động có tính chất khác với bộ phận tư
bản bất biến (C).
Trong quá trình sản xuất, bộ phận tư bản này có sự thay đổi về lượng, tăng lên về số
lượng giá trị, vì đặc điểm của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là khi được
đem tiêu dùng thì nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó - gọi là
tư bản khả biến (ký hiệu bằng V).
- Việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến vạch rõ nguồn gốc
của giá trị thặng dư là do lao động làm thuê của công nhân tạo ra và bị nhà tư bản
chiếm không. Hiện nay, giai cấp tư sản sử dụng máy móc hiện đại tự động hóa quá
trình sản xuất đối với một số sản phẩm. Trong điều kiện sản xuất như vậy, tư bản bất
biến có vai trò quan trọng quyết định việc tăng năng suất lao động, nhưng cũng không
thể coi đó là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Suy đến cùng, bộ phận tư bản khả biến
tồn tại dưới hình thức sức lao động (chân tay và trí óc) mới là nguồn gốc sinh ra giá
trị thặng dư tư bản chủ nghĩa.
2. Tỷ suất giá trị thặng dư: Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị
thặng dư và tư bản khả biến. Tỷ suất giá trị thặng dư ký hiệu là m' và được xác định
bằng công thức: m' =(m/v)x100%. Tỷ suất giá trị thặng dư vạch rõ trình độ bóc lột
của nhà tư bản đối với lao động làm thuê, đồng thời nó cũng nói lên ngày lao động
được phân chia thành hai phần - thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động
thặng dư.

Câu 4
Học thuyết giá trị thặng dư là phát minh quan trọng thứ hai sau biện luận duy vật lịch
sử của Marx. Nội dung chính của học thuyết phát biểu rằng sản xuất và chiếm hữu giá
trị thặng dư là hình thức đặc biệt trong chủ nghĩa tư bản về sản xuất và chiếm hữu sản
phẩm thặng dư, nghĩa là hình thức cao nhất của sự tha hóa con người đối với hoạt
động của mình, đối với sản phẩm từ hoạt động đó, đối với chính mình, đối với người
khác.

Trong học thuyết này Marx đưa ra công thức T-H-T’ (tiền-hàng hóa-tiền) để minh
họa cho sự biến đổi của vốn (tư bản) dạng tiền sang dạng hàng hóa và cuối cùng quay
trở lại dạng tiền ở mức cao hơn mức ban đầu một lượng ΔT (nghĩa là T’=T+ ΔT). Bởi
tất cả giá trị được tạo thành trong quá trình biến đổi thông qua sản xuất hàng hóa là
do lao động (theo Thuyết giá trị về lao động), mà chủ yếu là lao động của người làm
thuê, nên giá trị thặng dư ΔT cũng là giá trị do lao động kết tinh. Tuy nhiên, giá trị
này không được chia đều cho những người trực tiếp làm ra nó, mà thuộc quyền sở
hữu của chủ tư bản.

Khác với công thức H-T-H (hàng hóa-tiền-hàng hóa) phản ánh chức năng trung gian
của tiền trong trao đổi, công thức T-H-T’ phản ánh sự luân chuyển và tự phát triển
của tư bản. Tư bản dưới dạng tiền trở thành một chủ thể tự thân, đối lập với sức lao
động, bóc lột sức lao động để nuôi lớn mình lên. Marx chỉ ra rằng đó là quy luật vận
động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Theo công thức đã dẫn thì tư bản có khả năng lớn lên vô giới hạn. Tuy nhiên Marx
cũng chỉ ra giới hạn nhất định của phát triển tư bản do chi phối của quy luật lợi nhuận
trung bình. Lợi nhuận trung bình xảy ra do sự cạnh tranh tư bản giữa các ngành kinh
tế khác nhau. Mặc khác, do khả năng chi trả trong thị trường cho nhu cầu tiêu dùng là
có hạn, nên điều đó cũng kìm hãm tốc độ vận động của tư bản.

Hình thức cao nhất của sự phát triển tư bản là cho vay lãi. Chủ nhân của tư bản vay
lãi có cảm giác rằng tiền đẻ ra tiền và công thức vận động của tư bản biến thành T-T’.
Câu 5

You might also like