You are on page 1of 16

MỘT SỐ NHIỆM VỤ VÀ BIỆN PHÁP CẦN THỰC HIỆN

TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Hội nhập kinh tế quốc tế có thể mang lại nhiều lợi ích kinh tế. Việc nhập khẩu các sản phẩm
trung gian và thu hút đầu tư mà trong nước không thể cung cấp với giá tương ứng, việc chuyển
giao công nghệ và các ý tưởng từ những nước phát triển hơn, và việc tiếp cận thị trường vốn và
hàng hóa quốc tế có thể giúp chúng ta giải quyết một số hạn chế cố hữu để tăng trưởng và phát
triển nhanh hơn. Nhưng đó là những lợi ích tiềm năng chỉ có thể phát huy đầy đủ tác dụng khi
trong nước chúng ta có nội lực vững mạnh với những chính sách và thể chế bổ trợ. Kinh nghiệm
của những nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai
đến nay là phải kết hợp tốt giữa việc mở cửa tự do hóa với việc duy trì mức tiết kiệm - đầu tư
cao, ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển nguồn nhân lực và quản lý nhà nước tốt.
Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị đã đề ra chín nhiệm vụ quan trọng cần được thực hiện trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
1. Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức đảng, chính
quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được nhận thức và
hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó là nhu cầu vừa bức xúc,
vừa cơ bản và lâu dài của nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của
nhân dân ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 cũng
như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược
tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp
khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có
hiệu quả. Trong khi hình thành chiến lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự phát triển
của các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, viễn thông... là những lĩnh vực quan trọng mà
ta còn yếu kém.
3. Chủ động và khẩn trương trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế , đổi mới công nghệ và trình độ
quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của nước ta, ra sức
phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay
đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để
hàng hóa và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn ở trong nước cũng như trên thế
giới, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tiến trình điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, từng dịch vụ,
từng doanh nghiệp, từng địa phương để có biện pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả và tăng
cường khả năng cạnh tranh. Gắn quá trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba
khóa IX về tiếp tục, sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình hội nhập cần quan tâm tranh thủ những tiến bộ mới của khoa học, công nghệ;
không nhập khẩu những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
Đi đôi với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của các doanh
nghiệp, cần ra sức cải thiện môi trường kinh doanh, khả năng cạnh tranh quốc gia thông qua việc
khẩn trương đổi mới và xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật phù hợp với đường lối của Đảng,
với thông lệ quốc tế, phát triển mạnh kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính
nhằm xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch về phẩm chất, vững mạnh về chuyên môn.
4. Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng
hóa, dịch vụ, lao động, khoa học - công nghệ, vốn, bất động sản...; tạo môi trường kinh doanh
thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế
của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính, ngân
hàng.
5. Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực , vững vàng về chính trị,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp
vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân
lực theo những tiêu chuẩn chung nói trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh
doanh hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh những
chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm được kỹ năng thương thuyết và
có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó, cần hết sức coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân có
trình độ tay nghề cao.
Cùng với việc đào tạo nguồn nhân lực, cần có chính sách thu hút, bảo vệ và sử dụng nhân tài;
bố trí, sử dụng cán bộ đúng với ngành nghề được đào tạo và với sở trường năng lực từng
người.
6. Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại . Cũng như trong lĩnh
vực chính trị đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững
đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường và đối tác, tham gia
rộng rãi các tổ chức quốc tế. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng
mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng,
công bằng, cùng có lợi, bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển.
Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cần coi việc phục vụ công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế của đất nước là một nhiệm vụ hàng đầu.
7. Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng ngay
từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện, nhằm làm
cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội;
mặt khác, các cơ quan quốc phòng và an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường
thuận lợi cho quá trình hội nhập.
8. Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) theo các
phương án và lộ trình hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh của nước ta là một nước đang phát triển ở
trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Gắn kết quá trình đàm phán với
quá trình đổi mới mọi mặt hoạt động kinh tế ở trong nước.
9. Kiện toàn ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm quyền giúp Thủ
tướng Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế. ủy ban gồm hai bộ
phận: một bộ phận chuyên trách, một bộ phận kiêm nhiệm bao gồm đại diện có thẩm quyền của
các Bộ, Ban, ngành hữu quan.
Bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ trên, chúng ta cũng cần tiến hành các biện pháp bổ trợ
sau đây nhằm tạo khả năng tốt nhất cho việc thực hiện các cam kết hội nhập của ta và bảo đảm
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thực sự đưa lại kết quả tích cực đối với sự phát triển của đất
nước:
1. Tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước
Đổi mới bên trong và hội nhập là hai quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy
lẫn nhau. Đổi mới bên trong tạo tiền đề và điều kiện thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Ngược lại,
hội nhập một mặt đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh đổi mới, cải cách bên trong, mặt khác cũng tạo
điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình đổi mới đó. Để hội nhập đạt được kết quả tích cực, cần tiếp
tục đẩy mạnh quá trình đổi mới, cải cách thị trường theo những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường, đặc
biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như thị
trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công
nghệ. Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua
của thị trường trong nước cả ở thành thị và nông thôn; mở rộng thêm thị trường mới ở nước
ngoài; xác định thời hạn bảo hộ hợp lý và có điều kiện với một số sản phẩm quan trọng, tích cực
chuẩn bị để hội nhập thị trường quốc tế; xóa bỏ độc quyền kinh doanh của các doanh nghiệp lớn.
Mở rộng thị trường lao động trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu lao động; hoàn thiện hệ thống
pháp luật và chính sách để tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động, tạo điều kiện
thuận lợi và khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình độ, đào tạo lại và học
nghề mới. Sớm tổ chức thị trường khoa học - công nghệ và bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh
phát triển các dịch vụ về thông tin, chuyển giao công nghệ. Phát triển nhanh thị trường vốn, nhất
là vốn dài hạn và trung hạn; vận hành thị trường chứng khoán an toàn và hiệu quả; hình thành
đồng bộ thị trường tiền tệ; tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Tổ chức, phát triển
thị trường bất động sản; Nhà nước giao quyền sử dụng đất dài hạn cho người sản xuất, kinh
doanh và cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường theo quy định của pháp
luật.
Thứ hai, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục những yếu kém hiện nay, gỡ bỏ những vướng mắc cản trở sự phát triển. Cơ
chế quản lý kinh tế cần được đổi mới sâu rộng, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị
trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô
của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tiêu cực, lãng phí, tham nhũng, gây
phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh
tranh và hợp tác để phát triển; định hướng phát triển kinh tế - xã hội; duy trì ổn định kinh tế vĩ mô;
điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Cơ chế
thị trường kết hợp với cơ chế kế hoạch, quy hoạch; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội
trong nước và quốc tế, công tác thống kê; ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ trong
công tác dự báo; kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Chi ngân sách
nhà nước cần bảo đảm tính minh bạch, công bằng; gắn chi ngân sách với tốc độ tăng trưởng
kinh tế và hiệu quả quản lý kinh tế, tài chính. Nhà nước đầu tư vốn phát triển từ ngân sách nhà
nước căn cứ vào hiệu quả kinh tế - xã hội thông qua các công ty đầu tư; chuyển cơ chế phân bổ
nguồn vốn vay nhà nước mang tính hành chính sang có chế cho vay theo nguyên tắc thị trường,
xóa bỏ bao cấp thông qua tín dụng đầu tư. Hệ thống thuế tiếp tục được cải cách phù hợp với tình
hình đất nước và các cam kết quốc tế; đơn giản hóa các sắc thuế; từng bước áp dụng hệ thống
thuế thống nhất không phân biệt đầu tư trong nước và nước ngoài; hiện đại hóa công tác quản lý
thuế. Cải tổ các ngân hàng thương mại quốc doanh thành những doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả, có sức cạnh tranh; xóa bỏ sự can thiệp hành chính đối với các hoạt động cho vay của các
ngân hàng này; mở rộng để tiến tới xóa bỏ quy định khung lãi suất, tự do hóa lãi suất đi đôi với
việc hình thành thị trường tiền tệ hoạt động theo cung cầu; thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt
theo cung cầu ngoại tệ, từng bước tự do hóa tỷ giá hối đoái; nâng cao năng lực giám sát của
Ngân hàng Nhà nước.
2. Cải thiện chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Về lâu dài, đầu tư và tích tụ vốn có ý nghĩa quyết định đối với đối với sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Đối với một nước có trình độ phát triển thấp, đầu tư tư nhân còn yếu và cơ cấu sản
xuất chưa phát triển đa dạng như Việt Nam, theo kinh nghiệm quốc tế, mức đầu tư trong nước
phải cao hơn mức tích lũy nội bộ 25% GDP của ta hiện nay. Mở cửa hội nhập có tác động thúc
đẩy đầu tư, nhưng một mình nó không quyết định được mức đầu tư và tích tụ vốn. Do đó, cần
phải bổ trợ cho định hướng hội nhập bằng một chiến lược đầu tư đồng bộ trong nước nhằm làm
tăng hiệu suất đầu tư cho các doanh nghiệp, khơi dậy và phát huy ý thức tự chủ kinh doanh của
họ. Các chính sách khuyến khích đầu tư cần ưu tiên cho việc xóa bỏ các biện pháp, chính sách
có tác động làm tăng giá các tư liệu sản xuất, trong đó có các biện pháp hạn chế thương mại;
tăng các biện pháp trợ cấp cho đầu tư sản xuất được áp dụng theo nguyên tắc không phân biệt
đối xử; đơn giản hóa chế độ khuyến khích đầu tư theo hướng làm rõ các mục tiêu, công khai hóa
và giảm bớt thủ tục hành chính; chú ý hơn đến đầu tư sản xuất các ngành hàng phục vụ cho tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu; đa dạng hóa cơ cấu nền kinh tế; đầu tư nhà nước vào cơ sở hạ
tầng, thủy lợi, cảng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất có tác dụng khuyến khích đầu tư tư
nhân phát triển; kết hợp tốt giữa các biện pháp tăng cường xuất khẩu với thay thế nhập khẩu ở
một số lĩnh vực nhất định.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư cần phải dựa trên việc phát huy các thế mạnh,
các lợi thế so sánh quốc tế của đất nước, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước
thì mới phát huy được hiệu quả và hỗ trợ cho tiến trình hội nhập. Việc xây dựng chương trình
chuyển dịch cơ cấu đòi hỏi phải xác định được về cơ bản cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong 10-
20 năm tới (bao gồm cả cơ cấu ngành, hàng và cơ cấu vùng), xác định được những ngành mũi
nhọn, những ngành cần ưu tiên phát triển trong một thời gian nào đó, những ngành ta nên
chuyên môn hóa... để làm cơ sở xây dựng các lộ trình mở cửa và các chính sách bảo hộ cụ thể
theo phương châm có chọn lọc, hợp lý và có thời hạn. Ngược lại, sự chuyển dịch cơ cấu xuất
nhập khẩu về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động... với nước ngoài cũng sẽ tác động tích cực tới
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Xây dựng chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế phải
gắn với việc thành lập cơ chế rà soát và điều chỉnh các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung
và dài hạn, các hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2010 và năm 2020 cho phù hợp
hơn với các lợi thế so sánh tĩnh và động của ta nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
Việt Nam để cuối cùng xác định rõ các ngành, hàng, lĩnh vực nào sẽ mở, mặt hàng, lĩnh vực nào
cần được bảo hộ và lịch trình của quá trình mở cửa đối với từng lĩnh vực, từng mặt hàng đó.
Trước mắt, chính sách đầu tư và phát triển kinh tế cần phải khai thác mọi nguồn lực hiện có (lợi
thế so sánh tĩnh), đặc biệt lao động dôi dư để đẩy mạnh xuất khâut và tạo thêm công ăn việc làm
là một yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa quan trọng không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị - xã hội.
Về trung và dài hạn, sự chuyển dịch cơ cấu cần thuận chiều với sự chuyển dịch của cơ cấu kinh
tế thế giới, bám sát với tín hiệu của thị trường, phù hợp với nhu cầu không ngừng biến đổi của
người tiêu dùng trong và ngoài nước. Theo đó, chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong
nước phải làm cho tỷ trọng hàng thô hoặc sơ chế không ngừng giảm tương đối, sản phẩm công
nghiệp chế biến và chế tạo tăng mạnh, dịch vụ và sản phẩm của các ngành có công nghệ cao,
hàm lượng chất xám nhiều chiếm vị trí ngày một tăng. Hơn nữa, biện pháp để thực hiện sự
chuyển dịch này là phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng thiết bị vật tư nội
địa chứ không thể trông chờ vào sự bảo hộ quá mức.
3. Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính chủ động,
hiệu quả và khả năng cạnh tranh
Việc đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước có một ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và việc nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của bản
thân các doanh nghiệp nhà nước. Điều này thể hiện ở các mặt sau: 1/ Chúng ta không thể hội
nhập thực sự nếu cứ duy trì mãi cơ chế quản lý hành chính, bao cấp đối với các hoạt động của
các doanh nghiệp nhà nước, vì như vậy là vi phạm "luật chơi chung" quy định là không phân biệt
đối xử, nhất là đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên, đối xử công bằng và bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế, và các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo nguyên
tắc hạch toán kinh doanh; 2/ Doanh nghiệp nhà nước cũng không thể hội nhập được nếu không
được tự chủ hạch toán kinh doanh và kinh doanh không có hiệu quả, bởi vì hiện nay trong số
5.429 doanh nghiệp nhà nước, tuy 71,1% báo cáo có lãi nhưng chỉ có 40% là có hiệu quả nếu
tính thêm các yếu tố như thời gian kéo dài, lượng lỗ lãi, tỷ lệ khấu hao; 3/ Các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh cũng khó có điều kiện để vươn lên dù làm ăn có hiệu quả vì bị phân biệt đối
xử, đặc biệt trong vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, vay tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh...
Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục tăng cường cải cách, đổi mới một cách toàn diện các doanh
nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính tự chủ, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của những
doanh nghiệp này, góp phần thực hiện chủ trương kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đồng
thời tạo thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tới. Theo đó, chúng ta
cần thực hiện một số giải pháp đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo
các hướng sau đây:
Thứ nhất, về số lượng doanh nghiệp, xây dựng lịch trình hằng năm giảm bớt số lượng doanh
nghiệp, lĩnh vực và ngành/nghề hoạt động của các DNNN, trước mắt phấn đấu chỉ còn các
doanh nghiệp công ích, các tổng công ty và các doanh nghiệp độc lập có ý nghĩa quan trọng.
Các DNNN chỉ nên tập trung hoạt động trong các lĩnh vực, ngành/ nghề then chốt mà Nhà nước
cần nắm hoặc tư nhân không có khả năng làm, như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, một số
ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng và công nghiệp công nghệ cao.
Thứ hai, về hình thức sắp xếp, thực hiện cổ phần hóa hoặc đa dạng hóa sở hữu ở các DNNN
mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả; mở rộng việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong và ngoài
nước. Thực hiện việc bán, khoán, cho thuê các DNNN loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm
giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản các DNNN hoạt động không có hiệu quả.
Thứ ba , xúc tiến thành lập cơ quan mua bán nợ để giải phóng nợ đọng cho doanh nghiệp, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp lành mạnh hóa tài chính và bảo đảm sản xuất kinh doanh bình
thường; nghiêm cấm các doanh nghiệp đi vay các khoản vay ngắn hạn để đầu tư cho các dự án
trung, dài hạn; nghiên cứu lại thời hạn cho vay trung, dài hạn phù hợp với thời gian thu hồi vốn
của dự án.
Thứ tư, xây dựng hệ thống chính sách để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước; từng bước tạo khung pháp lý bình đẳng giữa
DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, tiến tới xây dựng một luật chung
cho các loại hình doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp kinh doanh sang hoạt động theo cơ
chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần; phân biệt quyền của chủ sở hữu và
quyền kinh doanh của doanh nghiệp; bảo đảm cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như khi quyết định đầu tư, quyết
định phương án kinh doanh, tự chủ về tài chính, tự quyết về nhân sự và tự chịu trách nhiệm
trước pháp luật.
Thứ năm, về đầu tư cho DNNN, thẩm định, kiểm tra thật chặt chẽ, nghiêm ngặt việc thành lập
mới các DNNN; thực hiện đầu tư cho DNNN thông qua công ty đầu tư tài chính của Nhà nước và
thông qua thị trường vốn; giảm dần sự ưu đãi, bao cấp và bảo hộ đối với các DNNN, đồng thời
tạo điều kiện khuyến khích và bảo đảm cho khu vực tư nhân phát triển trong sự cạnh tranh lành
mạnh và được đối xử bình đẳng như các doanh nghiệp quốc doanh;
Thứ sáu , bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển doanh nghiệp nhà nước;
hoàn thiện hệ thống đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là
giám đốc; thực hiện chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm, gắn quyền lợi, nghĩa vụ của giám đốc với kết
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
4. Giải quyết vấn đề mất việc làm và thay đổi ngành nghề của người lao động
Hội nhập là mở cửa tham gia vào quá trình toàn cầu hóa - cũng có nghĩa là quá trình cạnh
tranh và phân công lao động quốc tế. Việc phá sản hoặc thu hẹp sản xuất kinh doanh, thu hẹp
quy mô sử dụng lao động của một bộ phận doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực, ngành
nào đó kéo theo sự mất việc của một bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp đó là
không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, bên cạnh việc có thể một hoặc một số ngành, nghề bị mất hoặc
teo đi, sẽ có những ngành, nghề mới ra đời hoặc được tập trung phát triển hơn, thu hút lao động
làm việc nhiều hơn trong các doanh nghiệp thuộc khu vực ngành, nghề này. Như vậy, trong xã
hội ở những thời điểm nhất định có thể sẽ có tình trạng một bộ phận người lao động mất việc và
phải tìm việc làm mới. Nhà nước cần chủ động có chính sách và biện pháp thích hợp giải quyết
vấn đề này, tránh để nó trở thành một vấn đề có thể gây bùng nổ xã hội bằng việc hỗ trợ cho sự
hình thành mạng lưới an sinh xã hội nhằm giải quyết các nhu cầu của những người không có
khả năng tự lo cho mình và có các chương trình đầu tư xã hội để giúp mọi người được đào tạo
những kỹ năng cần phải có trong một nền kinh tế hiện đại. Nhà nước cần sử dụng vai trò điều tiết
phân phối lại thu nhập xã hội để hỗ trợ những người bị thất nghiệp (Qũy bảo hiểm xã hội, Qũy hỗ
trợ thất nghiệp...) và có chính sách tái đào tạo nghề nghiệp giúp người lao động bị mất việc có
thể chuyển sang nghề khác.
Cần bổ sung điều chỉnh và chi tiết hóa các quy định của Luật Lao động về các chế độ bảo
hiểm xã hội bao gồm về hưu, bệnh tật, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, sinh đẻ, áp dụng
cho các khu vực thành thị và các doanh nghiệp. Luật chỉ quy định những nguyên tắc chung, còn
các biện pháp tổ chức thực hiện giao cho chính quyền các cấp xử lý. Về nguyên tắc, mỗi chế độ
có một qũy riêng. Nguồn qũy gồm hai khoản do người sử dụng lao động đóng được chia thành
hai tài khoản riêng gồm hai khoản trên và tài khoản chung chỉ do doanh nghiệp đóng góp để chi
dùng chung trong những trường hợp đặc biệt. Chỉ khi nào mất cân đối thu - chi do các nguyên
nhân bất khả kháng thì Nhà nước mới hỗ trợ từ ngân sách, còn bình thường thì doanh nghiệp và
người lao động phải bảo đảm. Với cách làm này, Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động
đều thấy rõ các khoản tiền của từng loại chủ thể, cơ bản khắc phục được tình trạng sử dụng sai
mục đích, lẫn lộn giữa qũy của chế độ này sang qũy của chế độ khác, hoặc bị thất thoát. Vì mỗi
cá nhân đều có tài khoản nên ngân hàng và bưu điện chịu trách nhiệm chi trả các khoản bảo
hiểm xã hội, không cần đến một hệ thống chi trả đông người. Người lao động biết được mình có
bao nhiêu tiền trong các tài khoản bảo hiểm xã hội, số tiền đó trước sau họ cũng được hưởng
toàn bộ (nhất là tài khoản hưu trí) nên tự họ có sự điều chỉnh sử dụng thế nào cho có hiệu quả,
do đó tránh được tình trạng đóng ít hưởng nhiều hoặc đóng nhiều mà không hưởng. Đồng thời,
người lao động sẽ tích cực đóng góp hơn do họ biết là tiền trong tài khoản cá nhân thực chất là
tiền tích cóp và còn được hưởng phần qũy chung.
5. Tăng cường cải cách hành chính
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã phân tích sâu sắc nội dung vấn đề cải cách hành chính.
Mặc dù công cuộc cải cách hành chính ở nước ta trong những năm qua đã đạt được những
thành tựu đáng kể, nhưng vẫn còn một số tồn tại chủ yếu sau:
1. Thể chế hành chính vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của phát triển kinh tế, xây dựng nhà
nước, mở cửa hội nhập và phục vụ nhân dân, thể hiện ở thể chế pháp luật không đồng bộ, chậm
đi vào cuộc sống, trật tự kỷ cương bị vi phạm nghiêm trọng; cải cách thủ tục hành chính chưa
được tiến hành thường xuyên, chậm tổng kết việc thực hiện "một cửa, một dấu", chậm công bố
những văn bản pháp luật hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp; số vụ khiếu nại, tố cáo hành
chính vẫn còn tồn đọng nhiều; những phiền hà, sách nhiễu trong thực thi công vụ chưa được
khắc phục triệt để;
2. Tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng lớp trung gian, chất lượng
hoạt động và hiệu quả thấp. Đặc biệt, sự phân cấp thẩm quyền trách nhiệm giữa Chính phủ với
các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa phương chưa cụ thể, thiếu nhất quán, dẫn đến tranh
chấp thẩm quyền, đùn đẩy trách nhiệm và thiếu sự phối hợp giữa các ngành, các cấp;
3. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập. Đội ngũ đông nhưng không mạnh, không đồng bộ, vừa
thừa vừa thiếu; trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu của
nhiệm vụ quản lý kinh tế thị trường. Một bộ phận cán bộ thoái hóa, tham nhũng, quan liêu, cục
bộ, cơ hội trong thực thi công vụ. Chính sách đối với cán bộ, công chức, nhất là về tiền lương,
còn nhiều bất hợp lý. Nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa
bảo đảm, chậm đổi mới.
Những tồn tại trên trong cải cách hành chính đã làm tăng các chi phí trong quá trình sản xuất
kinh doanh, gây ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế của các doanh
nghiệp và nền kinh tế quốc gia. Để hỗ trợ cho quá trình hội nhập mang lại hiệu quả thiết thực,
một trong những yêu cầu quan trọng cấp thiết hiện nay đối với nước ta là tiếp tục đẩy mạnh cải
cách hành chính theo hướng: đẩy mạnh cải cách hành chính đồng bộ với đổi mới kinh tế, đổi mới
hệ thống chính trị và mở cửa hội nhập nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng một nền hành chính
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội và
nhân dân tốt hơn. Theo đó, cần tập trung thực hiện một số việc chính sau:
1. Thực hiện triệt để việc tách chức năng quản lý hành chính nhà nước (hành chính công
quyền) với hoạt động sản xuất kinh doanh và sự nghiệp;
2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng và phát triển sản xuất, tháo gỡ khó khăn
cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tạo khung pháp lý phù hợp với luật lệ quốc tế, bảo
đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh
doanh. Để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, hiện thực, khách quan, quy trình xây dựng thể chế,
pháp luật cần được đổi mới, tạo cơ chế phản biện, thẩm định hợp lý, nâng cao năng lực, thu hút
đội ngũ cán bộ, chuyên gia, kể cả chuyên gia tư vấn nước ngoài vào xây dựng thể chế;
3. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước cần được cải cách trên cơ sở phân công, phân cấp
rõ ràng cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm; tinh giản, kiện toàn tổ chức theo mô hình quản lý nhà
nước đa ngành, đa lĩnh vực bao quát trong phạm vi cả nước đối với tất cả các thành phần kinh
tế; cải tiến phương thức hoạt động, sự chỉ đạo của các cơ quan nhà nước để nâng cao chất
lượng, hiệu quả và đáp ứng những biến động của cơ chế thị trường và những thách thức của
quá trình hội nhập;
4. Xây dựng và hoàn chỉnh thể chế, hệ thống văn bản tiêu chuẩn nghiệp vụ, làm cơ sở pháp lý
và khoa học cho việc xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức theo tinh thần của chiến lược
cán bộ trong thời kỳ mới. Công tác cán bộ, công chức cần được đổi mới từ khâu quy hoạch, thi
tuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá sử dụng, quản lý, đến xây dựng các chế độ chính sách.
Chính sách tiền lương cần được cải cách theo hướng: trả tương xứng với nhiệm vụ, gắn với sự
phát triển kinh tế - xã hội; trả đúng là thực hiện đầu tư phát triển.
5. Cải cách tài chính công trên cơ sở phân cấp mới theo luật định, nguyên tắc công khai, minh
bạch trong thu chi.
(Nguồn: Việt Nam: Hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa -Vấn đề và giải pháp, NXB
Chính trị quốc gia, H. 2002, tr.408-424.)
Bạn tham khảo tài liệu này nhé 1. Giá trị thặng dư và bóc lột là vấn đề có thật, có từ lâu,
nhiều người cho rằng nó đã “xưa như trái đất”. Ngược dòng lịch sử, từ mấy thế kỷ qua,
lớp lớp người lao động đã vùng lên đấu tranh chống áp bức, chống đánh đập công nhân,
đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện làm việc. Từ trong máu lửa đấu tranh,
phong trào công nhân rồi giai cấp công nhân ra đời và lớn mạnh, ngày Quốc tế Lao động
1-5 ra đời và ngày Quốc tế Phụ nữ cũng ra đời từ đây.

Giá trị thặng dư và bóc lột trở thành vấn đề lớn của nhân loại. Trong thế kỷ XX, có rất
nhiều công trình khoa học đã luận giải về giá trị thặng dư và bóc lột. Từ điển của các
quốc gia (trong đó có Việt Nam) đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về nó. Nếu muốn
tìm nhanh, “chỉ cần lên Internet, vào Google và gõ từ “exploitation” (sự bóc lột) trong
vòng 0,1 giây, chúng ta có hàng chục triệu mục liên quan đến sự bóc lột, trong đó có
hàng ngàn định nghĩa khác nhau về bóc lột”[1]. Xem ra, nhân loại đã tốn khá nhiều công
sức, giấy mực để luận giải vấn đề giá trị thặng dư và bóc lột, thế nhưng sự hiểu biết vấn
đề này có lẽ còn ít. Dự đoán, sẽ còn tốn rất nhiều thời gian và giấy mực nữa cho vấn đề
“gai góc” này của thời đại.

2. Lý luận mác xít cho rằng “Giá trị thặng dư là giá trị mới do lao động của người công
nhân tạo ra ngoài giá trị sức lao động, là kết quả lao động không công của người công
nhân cho nhà tư bản... Bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản là ở đó” [2]. Hãy khoan
khẳng định đúng sai. Thế nhưng, nhìn nhận giá trị thặng dư và bóc lột như trên dễ làm
cho người ta ngộ nhận. Thực ra, giá trị thặng dư được tạo ra không hoàn toàn thuộc
quyền sở hữu của nhà tư bản. Đặt vấn đề như vậy, vì mấy lẽ:

Thứ nhất, bất cứ doanh nghiệp tư nhân nào, ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải thực hiện
nghĩa vụ với nhà nước bằng việc đóng thuế. Thuế lấy ở đâu? Từ giá trị thặng dư (m). Vậy
là, m phải chia thành nhiều khoản (m = m1 + m2 + m3 + m4 + ... + mn) và khoản đầu
tiên (là m1) được dùng để nộp thuế.

Thứ hai, quy luật của phát triển đòi hỏi phải đầu tư cho tái sản xuất mở rộng. Vậy phải có
khoản m2 để đầu tư ròng, nghĩa là mua sắm thêm yếu tố sản xuất, thuê thêm công nhân,
tức là thực hiện tái sản xuất mở rộng.

Thứ ba, chi tiêu cho quản lý. Có câu chuyện, xin tóm tắt như sau: một cậu bé miền quê,
lần đầu tiên trong đời được bố gửi tặng chiếc quần. Khó nói hết niềm vui của cậu trong
buổi học ngày mai. Tiếc là quần lại dài quá. Cậu mang đến nhờ bà sửa, bà nói còn quá
bận việc nhà. Cậu mang đến nhờ mẹ, mẹ nói phải qua bác ba bàn chuyện làm ăn. Cậu
mang đến nhờ chị mới biết đã đến giờ hẹn hò, không thể “hy sinh” cho em được. Buồn
quá, cậu lăn ra ngủ. Làm việc xong, thương cháu, bà mang quần ra cắt ngắn đi. Đi chơi
về, thương em, chị mang quần ra cắt ngắn đi. Hãy xem, sáng mai, mặt cậu bé sẽ thế nào
với chiếc quần hai lần bị cắt ngắn. Câu chuyện dạy ta rằng, cho dù lao động tự giác với
động cơ thánh thiện thế nào chăng nữa, nếu không quản lý, hậu quả sẽ khôn lường. Vậy
ai quản lý vốn đầu tư? Tất nhiên là chủ doanh nghiệp. Thế là cần có khoản thứ ba (m3) để
trả công cho nhà quản lý.

Thứ tư, dân ta có câu “có chí thì làm quan, có gan thì làm giàu”. Cái “gan” được hiểu đó
là sự táo bạo, sáng tạo trong kinh doanh, là giải pháp kỹ thuật tối ưu, là quyết định khôn
ngoan trong việc lựa chọn chi phí và sản lượng cung ứng, là tài trí thông minh trong quản
trị rủi ro... Vậy phải “thưởng” cho họ? Khoản m4 phải được xem là phần thưởng hay thu
nhập đương nhiên. Đại bộ phận các nhà đầu tư giàu lên từ đây, xã hội cũng phát triển nhờ
đây.

Nhìn từ góc độ pháp luật, nếu khoản mn có được từ việc buôn gian bán lận, trốn thuế, lậu
thuế, bớt xén tiền công, kéo dài ngày lao động, không đóng bảo hiểm cho người lao
động... nghĩa là vi phạm pháp luật thì đây chính là bóc lột.

3. Ngày xưa, noi gương Minh Trị duy tân, “hậu duệ ngàn năm” của Chư Đạo Tổ [3] đã
làm cuộc Duy Tân. Phong trào Duy Tân thật sự là cuộc cách mạng vĩ đại về doanh
thương và doanh nghiệp trong điều kiện lịch sử Việt Nam lúc đó. Nhằm thức tỉnh tinh
thần dân tộc về lợi ích của việc kinh doanh, các nhà nho như Phan Châu Trinh, Lương
Văn Can, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Cao Vân... là những người có công đặt nền móng
đầu tiên. Để làm gương cho quốc dân, các cụ đã dũng cảm vứt bỏ học vị tiến sĩ, phó
bảng,... kể cả từ quan để mở trường, viết sách, dạy kinh doanh.[4] Các cụ cũng là người
đi đầu trong việc mở cửa hàng buôn, lập công ty, lập thương hội. Với các lãnh tụ Duy
Tân, việc làm giàu đồng nghĩa với việc làm hưng thịnh quốc gia dân tộc; muốn non nước
hùng cường phải mở mang công - nông - thương - tín, phải phát triển khoa học kỹ thuật,
phải kinh doanh nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, lập các hội buôn để làm giàu. Đây thật sự là
tư tưởng khai dân trí, chấn dân khí.

Từ năm 1904, tại Bình Thuận, các cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn
Trọng Lợi, Hồ Tá Bang... đã thành lập Công ty thương mại Liên Thành, cụ Huỳnh Thúc
Kháng thành lập Công ty Thương Hội (Hội An), cụ Trần Chánh Chiếu lập Minh Tân
khách sạn (Mỹ Tho), lập Nam kỳ Minh Tân Công nghệ theo phương thức cổ đông...

Thực dân Pháp run sợ Duy Tân, chúng đàn áp rất dã man. Nhưng ngọn cờ Duy Tân đã
kịp bay khắp ba miền Trung Nam Bắc. Làn gió Duy Tân đã thổi vào hồn Việt. Theo thời
gian, nhiều nghề mới xuất hiện và cũng xuất hiện nhiều doanh nhân tên tuổi như cụ Bạch
Thái Bưởi, cụ Trương Văn Bền, cụ Nguyễn Sơn Hà, cụ Trịnh Văn Bô... Nhà buôn Trịnh
Văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ, người đã đóng góp cho chính phủ Cụ Hồ trong “tuần lễ
vàng” ngay sau ngày đất nước giành được độc lập 1.200.000đồng, tương đương 5.000
lượng vàng đã phát biểu: “Đã là nhà buôn thì phải có uy tín làm ăn. Chẳng ai dại gì mua
danh ba vạn bán danh ba đồng. Chúng tôi buôn bán được 10 thì chỉ giữ lại 7, còn lại giúp
đỡ người nghèo, làm những việc phúc đức. Đó là lẽ thường tình”. Thiết nghĩ, đây là quan
niệm chung về đạo kinh doanh của nhiều nhà tư sản dân tộc thời ấy.

Ngày nay, thế hệ con cháu của các thủ lĩnh Duy Tân làm cuộc đổi mới. Để phục hưng đất
nước, Nhà nước đã ban hành Luật Doanh nghiệp, Đảng đã có nghị quyết về “Tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Nghị
quyết của Đảng đã đi vào cuộc sống, Luật Doanh nghiệp trở thành “bà đỡ” cho kinh tế tư
nhân phát triển nhanh. Năm 1991 cả nước có 130 doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh
doanh, đến năm 2001 là 66.780 doanh nghiệp và năm 2003 đã có khoảng 120.000 doanh
nghiệp đăng ký đi vào hoạt động. Riêng các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, tính đến
tháng 5/ 2004 có 12.000 doanh nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh là 17.000 doanh nghiệp.
Cần nhấn mạnh là, các doanh nghiệp trên thành lập theo Luật Doanh nghiệp và chịu sự
điều chỉnh của hàng loạt quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Cũng
như nhiều quốc gia khác, ở Việt Nam, thương trường cũng là chiến trường nên không ít
doanh nghiệp kiếm lời bằng mọi giá. “Pháp luật không có lỗi, chỉ có con người có lỗi”,
những người trốn thuế pháp luật xử phạt, những kẻ buôn lậu pháp luật đã đưa vào tù. Đại
bộ phận các chủ doanh nghiệp làm giàu chính đáng bằng “trí tuệ và hùng tâm” trong
khuôn khổ pháp luật. Đảng đã đánh giá rất cao kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển.
Đóng góp nổi trội nhất của kinh tế tư nhân trong thời gian qua là tạo thêm được nhiều
việc làm, thu hút nhiều lao động trong xã hội, nhất là thanh niên đến tuổi lao động chưa
có việc làm; góp phần giải quyết số lao động dư dôi từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà
nước do tinh giảm biên chế hay giải thể. Năm 2000 có hơn 21 triệu lao động trong khu
vực kinh tế tư nhân, chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước.
Kinh tế tư nhân huy động ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất
kinh doanh. Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư
phát triển. Năm 2000 vốn đăng ký kinh doanh tăng rất nhanh, đạt mức gần 14 ngàn tỷ
đồng, gấp 4,5 lần so với năm 1996. Sự đóng góp vào GDP của kinh tế tư nhân ngày càng
nhiều và ổn định. Năm 2000 đạt mức 42,3% GDP toàn quốc. Kinh tế tư nhân góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy cạnh tranh, tăng
thêm số lượng công nhân và doanh nhân Việt Nam.[5] Tấm huân chương nào cũng có
mặt trái, dù vậy, tình hình trên cho thấy không nên nói một cách giản đơn rằng làm kinh
tế tư nhân là bóc lột.

4. Từ đời Hùng Vương thứ ba, Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã đồng lòng buôn bán (làm
cả nội thương và ngoại thương) nên trở nên giàu có. Đầu thế kỷ XX, các nhà Duy Tân nói
đi đôi với làm cốt để hưng nghiệp phú quốc. Ngày nay, Đảng làm cuộc đổi mới (đã được
nhân dân đồng tình), nên đảng viên cũng phải được đổi mới. Đảng viên là công dân (mà
phải là công dân gương mẫu) thì phải sống và làm việc theo pháp luật, phải phấn đấu cho
mục tiêu dân giàu nước mạnh bằng nhiều cách, trong đó có việc làm kinh tế tư nhân. Với
tư cách công dân, nếu làm giàu bằng việc vi phạm pháp luật trong kinh doanh, Nhà nước
sẽ điều chỉnh theo pháp luật; với tư cách đảng viên, Đảng sẽ điều chỉnh theo kỷ luật của
Đảng. Theo logíc này, Đảng cho đảng viên làm kinh tế tư nhân là việc làm “thuận theo tự
nhiên”, là cách làm gia tăng nguyên khí quốc gia, vì trong Đảng có rất nhiều người tài
giỏi. Tuy vậy, cũng xin nhớ rằng, lịch sử cận đại và hiện đại đã có nhiều bài học lớn: khi
quyền lực của đồng tiền kết hợp với quyền lực chính trị, nhiều khi hậu quả thật khôn
lường.

Bạn tham khảo tài liệu này nhé 1. Giá trị thặng dư và bóc lột là vấn đề có thật, có từ lâu,
nhiều người cho rằng nó đã “xưa như trái đất”. Ngược dòng lịch sử, từ mấy thế kỷ qua,
lớp lớp người lao động đã vùng lên đấu tranh chống áp bức, chống đánh đập công nhân,
đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện làm việc. Từ trong máu lửa đấu tranh,
phong trào công nhân rồi giai cấp công nhân ra đời và lớn mạnh, ngày Quốc tế Lao động
1-5 ra đời và ngày Quốc tế Phụ nữ cũng ra đời từ đây.

Giá trị thặng dư và bóc lột trở thành vấn đề lớn của nhân loại. Trong thế kỷ XX, có rất
nhiều công trình khoa học đã luận giải về giá trị thặng dư và bóc lột. Từ điển của các
quốc gia (trong đó có Việt Nam) đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về nó. Nếu muốn
tìm nhanh, “chỉ cần lên Internet, vào Google và gõ từ “exploitation” (sự bóc lột) trong
vòng 0,1 giây, chúng ta có hàng chục triệu mục liên quan đến sự bóc lột, trong đó có
hàng ngàn định nghĩa khác nhau về bóc lột”[1]. Xem ra, nhân loại đã tốn khá nhiều công
sức, giấy mực để luận giải vấn đề giá trị thặng dư và bóc lột, thế nhưng sự hiểu biết vấn
đề này có lẽ còn ít. Dự đoán, sẽ còn tốn rất nhiều thời gian và giấy mực nữa cho vấn đề
“gai góc” này của thời đại.

2. Lý luận mác xít cho rằng “Giá trị thặng dư là giá trị mới do lao động của người công
nhân tạo ra ngoài giá trị sức lao động, là kết quả lao động không công của người công
nhân cho nhà tư bản... Bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản là ở đó” [2]. Hãy khoan
khẳng định đúng sai. Thế nhưng, nhìn nhận giá trị thặng dư và bóc lột như trên dễ làm
cho người ta ngộ nhận. Thực ra, giá trị thặng dư được tạo ra không hoàn toàn thuộc
quyền sở hữu của nhà tư bản. Đặt vấn đề như vậy, vì mấy lẽ:

Thứ nhất, bất cứ doanh nghiệp tư nhân nào, ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải thực hiện
nghĩa vụ với nhà nước bằng việc đóng thuế. Thuế lấy ở đâu? Từ giá trị thặng dư (m). Vậy
là, m phải chia thành nhiều khoản (m = m1 + m2 + m3 + m4 + ... + mn) và khoản đầu
tiên (là m1) được dùng để nộp thuế.

Thứ hai, quy luật của phát triển đòi hỏi phải đầu tư cho tái sản xuất mở rộng. Vậy phải có
khoản m2 để đầu tư ròng, nghĩa là mua sắm thêm yếu tố sản xuất, thuê thêm công nhân,
tức là thực hiện tái sản xuất mở rộng.

Thứ ba, chi tiêu cho quản lý. Có câu chuyện, xin tóm tắt như sau: một cậu bé miền quê,
lần đầu tiên trong đời được bố gửi tặng chiếc quần. Khó nói hết niềm vui của cậu trong
buổi học ngày mai. Tiếc là quần lại dài quá. Cậu mang đến nhờ bà sửa, bà nói còn quá
bận việc nhà. Cậu mang đến nhờ mẹ, mẹ nói phải qua bác ba bàn chuyện làm ăn. Cậu
mang đến nhờ chị mới biết đã đến giờ hẹn hò, không thể “hy sinh” cho em được. Buồn
quá, cậu lăn ra ngủ. Làm việc xong, thương cháu, bà mang quần ra cắt ngắn đi. Đi chơi
về, thương em, chị mang quần ra cắt ngắn đi. Hãy xem, sáng mai, mặt cậu bé sẽ thế nào
với chiếc quần hai lần bị cắt ngắn. Câu chuyện dạy ta rằng, cho dù lao động tự giác với
động cơ thánh thiện thế nào chăng nữa, nếu không quản lý, hậu quả sẽ khôn lường. Vậy
ai quản lý vốn đầu tư? Tất nhiên là chủ doanh nghiệp. Thế là cần có khoản thứ ba (m3) để
trả công cho nhà quản lý.

Thứ tư, dân ta có câu “có chí thì làm quan, có gan thì làm giàu”. Cái “gan” được hiểu đó
là sự táo bạo, sáng tạo trong kinh doanh, là giải pháp kỹ thuật tối ưu, là quyết định khôn
ngoan trong việc lựa chọn chi phí và sản lượng cung ứng, là tài trí thông minh trong quản
trị rủi ro... Vậy phải “thưởng” cho họ? Khoản m4 phải được xem là phần thưởng hay thu
nhập đương nhiên. Đại bộ phận các nhà đầu tư giàu lên từ đây, xã hội cũng phát triển nhờ
đây.

Nhìn từ góc độ pháp luật, nếu khoản mn có được từ việc buôn gian bán lận, trốn thuế, lậu
thuế, bớt xén tiền công, kéo dài ngày lao động, không đóng bảo hiểm cho người lao
động... nghĩa là vi phạm pháp luật thì đây chính là bóc lột.
3. Ngày xưa, noi gương Minh Trị duy tân, “hậu duệ ngàn năm” của Chư Đạo Tổ [3] đã
làm cuộc Duy Tân. Phong trào Duy Tân thật sự là cuộc cách mạng vĩ đại về doanh
thương và doanh nghiệp trong điều kiện lịch sử Việt Nam lúc đó. Nhằm thức tỉnh tinh
thần dân tộc về lợi ích của việc kinh doanh, các nhà nho như Phan Châu Trinh, Lương
Văn Can, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Cao Vân... là những người có công đặt nền móng
đầu tiên. Để làm gương cho quốc dân, các cụ đã dũng cảm vứt bỏ học vị tiến sĩ, phó
bảng,... kể cả từ quan để mở trường, viết sách, dạy kinh doanh.[4] Các cụ cũng là người
đi đầu trong việc mở cửa hàng buôn, lập công ty, lập thương hội. Với các lãnh tụ Duy
Tân, việc làm giàu đồng nghĩa với việc làm hưng thịnh quốc gia dân tộc; muốn non nước
hùng cường phải mở mang công - nông - thương - tín, phải phát triển khoa học kỹ thuật,
phải kinh doanh nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, lập các hội buôn để làm giàu. Đây thật sự là
tư tưởng khai dân trí, chấn dân khí.

Từ năm 1904, tại Bình Thuận, các cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn
Trọng Lợi, Hồ Tá Bang... đã thành lập Công ty thương mại Liên Thành, cụ Huỳnh Thúc
Kháng thành lập Công ty Thương Hội (Hội An), cụ Trần Chánh Chiếu lập Minh Tân
khách sạn (Mỹ Tho), lập Nam kỳ Minh Tân Công nghệ theo phương thức cổ đông...

Thực dân Pháp run sợ Duy Tân, chúng đàn áp rất dã man. Nhưng ngọn cờ Duy Tân đã
kịp bay khắp ba miền Trung Nam Bắc. Làn gió Duy Tân đã thổi vào hồn Việt. Theo thời
gian, nhiều nghề mới xuất hiện và cũng xuất hiện nhiều doanh nhân tên tuổi như cụ Bạch
Thái Bưởi, cụ Trương Văn Bền, cụ Nguyễn Sơn Hà, cụ Trịnh Văn Bô... Nhà buôn Trịnh
Văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ, người đã đóng góp cho chính phủ Cụ Hồ trong “tuần lễ
vàng” ngay sau ngày đất nước giành được độc lập 1.200.000đồng, tương đương 5.000
lượng vàng đã phát biểu: “Đã là nhà buôn thì phải có uy tín làm ăn. Chẳng ai dại gì mua
danh ba vạn bán danh ba đồng. Chúng tôi buôn bán được 10 thì chỉ giữ lại 7, còn lại giúp
đỡ người nghèo, làm những việc phúc đức. Đó là lẽ thường tình”. Thiết nghĩ, đây là quan
niệm chung về đạo kinh doanh của nhiều nhà tư sản dân tộc thời ấy.

Ngày nay, thế hệ con cháu của các thủ lĩnh Duy Tân làm cuộc đổi mới. Để phục hưng đất
nước, Nhà nước đã ban hành Luật Doanh nghiệp, Đảng đã có nghị quyết về “Tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Nghị
quyết của Đảng đã đi vào cuộc sống, Luật Doanh nghiệp trở thành “bà đỡ” cho kinh tế tư
nhân phát triển nhanh. Năm 1991 cả nước có 130 doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh
doanh, đến năm 2001 là 66.780 doanh nghiệp và năm 2003 đã có khoảng 120.000 doanh
nghiệp đăng ký đi vào hoạt động. Riêng các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, tính đến
tháng 5/ 2004 có 12.000 doanh nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh là 17.000 doanh nghiệp.
Cần nhấn mạnh là, các doanh nghiệp trên thành lập theo Luật Doanh nghiệp và chịu sự
điều chỉnh của hàng loạt quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Cũng
như nhiều quốc gia khác, ở Việt Nam, thương trường cũng là chiến trường nên không ít
doanh nghiệp kiếm lời bằng mọi giá. “Pháp luật không có lỗi, chỉ có con người có lỗi”,
những người trốn thuế pháp luật xử phạt, những kẻ buôn lậu pháp luật đã đưa vào tù. Đại
bộ phận các chủ doanh nghiệp làm giàu chính đáng bằng “trí tuệ và hùng tâm” trong
khuôn khổ pháp luật. Đảng đã đánh giá rất cao kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển.
Đóng góp nổi trội nhất của kinh tế tư nhân trong thời gian qua là tạo thêm được nhiều
việc làm, thu hút nhiều lao động trong xã hội, nhất là thanh niên đến tuổi lao động chưa
có việc làm; góp phần giải quyết số lao động dư dôi từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà
nước do tinh giảm biên chế hay giải thể. Năm 2000 có hơn 21 triệu lao động trong khu
vực kinh tế tư nhân, chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước.
Kinh tế tư nhân huy động ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất
kinh doanh. Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư
phát triển. Năm 2000 vốn đăng ký kinh doanh tăng rất nhanh, đạt mức gần 14 ngàn tỷ
đồng, gấp 4,5 lần so với năm 1996. Sự đóng góp vào GDP của kinh tế tư nhân ngày càng
nhiều và ổn định. Năm 2000 đạt mức 42,3% GDP toàn quốc. Kinh tế tư nhân góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy cạnh tranh, tăng
thêm số lượng công nhân và doanh nhân Việt Nam.[5] Tấm huân chương nào cũng có
mặt trái, dù vậy, tình hình trên cho thấy không nên nói một cách giản đơn rằng làm kinh
tế tư nhân là bóc lột.

4. Từ đời Hùng Vương thứ ba, Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã đồng lòng buôn bán (làm
cả nội thương và ngoại thương) nên trở nên giàu có. Đầu thế kỷ XX, các nhà Duy Tân nói
đi đôi với làm cốt để hưng nghiệp phú quốc. Ngày nay, Đảng làm cuộc đổi mới (đã được
nhân dân đồng tình), nên đảng viên cũng phải được đổi mới. Đảng viên là công dân (mà
phải là công dân gương mẫu) thì phải sống và làm việc theo pháp luật, phải phấn đấu cho
mục tiêu dân giàu nước mạnh bằng nhiều cách, trong đó có việc làm kinh tế tư nhân. Với
tư cách công dân, nếu làm giàu bằng việc vi phạm pháp luật trong kinh doanh, Nhà nước
sẽ điều chỉnh theo pháp luật; với tư cách đảng viên, Đảng sẽ điều chỉnh theo kỷ luật của
Đảng. Theo logíc này, Đảng cho đảng viên làm kinh tế tư nhân là việc làm “thuận theo tự
nhiên”, là cách làm gia tăng nguyên khí quốc gia, vì trong Đảng có rất nhiều người tài
giỏi. Tuy vậy, cũng xin nhớ rằng, lịch sử cận đại và hiện đại đã có nhiều bài học lớn: khi
quyền lực của đồng tiền kết hợp với quyền lực chính trị, nhiều khi hậu quả thật khôn
lường.

Bạn tham khảo tài liệu này nhé 1. Giá trị thặng dư và bóc lột là vấn đề có thật, có từ lâu,
nhiều người cho rằng nó đã “xưa như trái đất”. Ngược dòng lịch sử, từ mấy thế kỷ qua,
lớp lớp người lao động đã vùng lên đấu tranh chống áp bức, chống đánh đập công nhân,
đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện làm việc. Từ trong máu lửa đấu tranh,
phong trào công nhân rồi giai cấp công nhân ra đời và lớn mạnh, ngày Quốc tế Lao động
1-5 ra đời và ngày Quốc tế Phụ nữ cũng ra đời từ đây.

Giá trị thặng dư và bóc lột trở thành vấn đề lớn của nhân loại. Trong thế kỷ XX, có rất
nhiều công trình khoa học đã luận giải về giá trị thặng dư và bóc lột. Từ điển của các
quốc gia (trong đó có Việt Nam) đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về nó. Nếu muốn
tìm nhanh, “chỉ cần lên Internet, vào Google và gõ từ “exploitation” (sự bóc lột) trong
vòng 0,1 giây, chúng ta có hàng chục triệu mục liên quan đến sự bóc lột, trong đó có
hàng ngàn định nghĩa khác nhau về bóc lột”[1]. Xem ra, nhân loại đã tốn khá nhiều công
sức, giấy mực để luận giải vấn đề giá trị thặng dư và bóc lột, thế nhưng sự hiểu biết vấn
đề này có lẽ còn ít. Dự đoán, sẽ còn tốn rất nhiều thời gian và giấy mực nữa cho vấn đề
“gai góc” này của thời đại.

2. Lý luận mác xít cho rằng “Giá trị thặng dư là giá trị mới do lao động của người công
nhân tạo ra ngoài giá trị sức lao động, là kết quả lao động không công của người công
nhân cho nhà tư bản... Bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản là ở đó” [2]. Hãy khoan
khẳng định đúng sai. Thế nhưng, nhìn nhận giá trị thặng dư và bóc lột như trên dễ làm
cho người ta ngộ nhận. Thực ra, giá trị thặng dư được tạo ra không hoàn toàn thuộc
quyền sở hữu của nhà tư bản. Đặt vấn đề như vậy, vì mấy lẽ:

Thứ nhất, bất cứ doanh nghiệp tư nhân nào, ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải thực hiện
nghĩa vụ với nhà nước bằng việc đóng thuế. Thuế lấy ở đâu? Từ giá trị thặng dư (m). Vậy
là, m phải chia thành nhiều khoản (m = m1 + m2 + m3 + m4 + ... + mn) và khoản đầu
tiên (là m1) được dùng để nộp thuế.

Thứ hai, quy luật của phát triển đòi hỏi phải đầu tư cho tái sản xuất mở rộng. Vậy phải có
khoản m2 để đầu tư ròng, nghĩa là mua sắm thêm yếu tố sản xuất, thuê thêm công nhân,
tức là thực hiện tái sản xuất mở rộng.

Thứ ba, chi tiêu cho quản lý. Có câu chuyện, xin tóm tắt như sau: một cậu bé miền quê,
lần đầu tiên trong đời được bố gửi tặng chiếc quần. Khó nói hết niềm vui của cậu trong
buổi học ngày mai. Tiếc là quần lại dài quá. Cậu mang đến nhờ bà sửa, bà nói còn quá
bận việc nhà. Cậu mang đến nhờ mẹ, mẹ nói phải qua bác ba bàn chuyện làm ăn. Cậu
mang đến nhờ chị mới biết đã đến giờ hẹn hò, không thể “hy sinh” cho em được. Buồn
quá, cậu lăn ra ngủ. Làm việc xong, thương cháu, bà mang quần ra cắt ngắn đi. Đi chơi
về, thương em, chị mang quần ra cắt ngắn đi. Hãy xem, sáng mai, mặt cậu bé sẽ thế nào
với chiếc quần hai lần bị cắt ngắn. Câu chuyện dạy ta rằng, cho dù lao động tự giác với
động cơ thánh thiện thế nào chăng nữa, nếu không quản lý, hậu quả sẽ khôn lường. Vậy
ai quản lý vốn đầu tư? Tất nhiên là chủ doanh nghiệp. Thế là cần có khoản thứ ba (m3) để
trả công cho nhà quản lý.

Thứ tư, dân ta có câu “có chí thì làm quan, có gan thì làm giàu”. Cái “gan” được hiểu đó
là sự táo bạo, sáng tạo trong kinh doanh, là giải pháp kỹ thuật tối ưu, là quyết định khôn
ngoan trong việc lựa chọn chi phí và sản lượng cung ứng, là tài trí thông minh trong quản
trị rủi ro... Vậy phải “thưởng” cho họ? Khoản m4 phải được xem là phần thưởng hay thu
nhập đương nhiên. Đại bộ phận các nhà đầu tư giàu lên từ đây, xã hội cũng phát triển nhờ
đây.

Nhìn từ góc độ pháp luật, nếu khoản mn có được từ việc buôn gian bán lận, trốn thuế, lậu
thuế, bớt xén tiền công, kéo dài ngày lao động, không đóng bảo hiểm cho người lao
động... nghĩa là vi phạm pháp luật thì đây chính là bóc lột.

3. Ngày xưa, noi gương Minh Trị duy tân, “hậu duệ ngàn năm” của Chư Đạo Tổ [3] đã
làm cuộc Duy Tân. Phong trào Duy Tân thật sự là cuộc cách mạng vĩ đại về doanh
thương và doanh nghiệp trong điều kiện lịch sử Việt Nam lúc đó. Nhằm thức tỉnh tinh
thần dân tộc về lợi ích của việc kinh doanh, các nhà nho như Phan Châu Trinh, Lương
Văn Can, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Cao Vân... là những người có công đặt nền móng
đầu tiên. Để làm gương cho quốc dân, các cụ đã dũng cảm vứt bỏ học vị tiến sĩ, phó
bảng,... kể cả từ quan để mở trường, viết sách, dạy kinh doanh.[4] Các cụ cũng là người
đi đầu trong việc mở cửa hàng buôn, lập công ty, lập thương hội. Với các lãnh tụ Duy
Tân, việc làm giàu đồng nghĩa với việc làm hưng thịnh quốc gia dân tộc; muốn non nước
hùng cường phải mở mang công - nông - thương - tín, phải phát triển khoa học kỹ thuật,
phải kinh doanh nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, lập các hội buôn để làm giàu. Đây thật sự là
tư tưởng khai dân trí, chấn dân khí.

Từ năm 1904, tại Bình Thuận, các cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn
Trọng Lợi, Hồ Tá Bang... đã thành lập Công ty thương mại Liên Thành, cụ Huỳnh Thúc
Kháng thành lập Công ty Thương Hội (Hội An), cụ Trần Chánh Chiếu lập Minh Tân
khách sạn (Mỹ Tho), lập Nam kỳ Minh Tân Công nghệ theo phương thức cổ đông...

Thực dân Pháp run sợ Duy Tân, chúng đàn áp rất dã man. Nhưng ngọn cờ Duy Tân đã
kịp bay khắp ba miền Trung Nam Bắc. Làn gió Duy Tân đã thổi vào hồn Việt. Theo thời
gian, nhiều nghề mới xuất hiện và cũng xuất hiện nhiều doanh nhân tên tuổi như cụ Bạch
Thái Bưởi, cụ Trương Văn Bền, cụ Nguyễn Sơn Hà, cụ Trịnh Văn Bô... Nhà buôn Trịnh
Văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ, người đã đóng góp cho chính phủ Cụ Hồ trong “tuần lễ
vàng” ngay sau ngày đất nước giành được độc lập 1.200.000đồng, tương đương 5.000
lượng vàng đã phát biểu: “Đã là nhà buôn thì phải có uy tín làm ăn. Chẳng ai dại gì mua
danh ba vạn bán danh ba đồng. Chúng tôi buôn bán được 10 thì chỉ giữ lại 7, còn lại giúp
đỡ người nghèo, làm những việc phúc đức. Đó là lẽ thường tình”. Thiết nghĩ, đây là quan
niệm chung về đạo kinh doanh của nhiều nhà tư sản dân tộc thời ấy.

Ngày nay, thế hệ con cháu của các thủ lĩnh Duy Tân làm cuộc đổi mới. Để phục hưng đất
nước, Nhà nước đã ban hành Luật Doanh nghiệp, Đảng đã có nghị quyết về “Tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Nghị
quyết của Đảng đã đi vào cuộc sống, Luật Doanh nghiệp trở thành “bà đỡ” cho kinh tế tư
nhân phát triển nhanh. Năm 1991 cả nước có 130 doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh
doanh, đến năm 2001 là 66.780 doanh nghiệp và năm 2003 đã có khoảng 120.000 doanh
nghiệp đăng ký đi vào hoạt động. Riêng các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, tính đến
tháng 5/ 2004 có 12.000 doanh nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh là 17.000 doanh nghiệp.
Cần nhấn mạnh là, các doanh nghiệp trên thành lập theo Luật Doanh nghiệp và chịu sự
điều chỉnh của hàng loạt quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Cũng
như nhiều quốc gia khác, ở Việt Nam, thương trường cũng là chiến trường nên không ít
doanh nghiệp kiếm lời bằng mọi giá. “Pháp luật không có lỗi, chỉ có con người có lỗi”,
những người trốn thuế pháp luật xử phạt, những kẻ buôn lậu pháp luật đã đưa vào tù. Đại
bộ phận các chủ doanh nghiệp làm giàu chính đáng bằng “trí tuệ và hùng tâm” trong
khuôn khổ pháp luật. Đảng đã đánh giá rất cao kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển.
Đóng góp nổi trội nhất của kinh tế tư nhân trong thời gian qua là tạo thêm được nhiều
việc làm, thu hút nhiều lao động trong xã hội, nhất là thanh niên đến tuổi lao động chưa
có việc làm; góp phần giải quyết số lao động dư dôi từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà
nước do tinh giảm biên chế hay giải thể. Năm 2000 có hơn 21 triệu lao động trong khu
vực kinh tế tư nhân, chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước.
Kinh tế tư nhân huy động ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất
kinh doanh. Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư
phát triển. Năm 2000 vốn đăng ký kinh doanh tăng rất nhanh, đạt mức gần 14 ngàn tỷ
đồng, gấp 4,5 lần so với năm 1996. Sự đóng góp vào GDP của kinh tế tư nhân ngày càng
nhiều và ổn định. Năm 2000 đạt mức 42,3% GDP toàn quốc. Kinh tế tư nhân góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy cạnh tranh, tăng
thêm số lượng công nhân và doanh nhân Việt Nam.[5] Tấm huân chương nào cũng có
mặt trái, dù vậy, tình hình trên cho thấy không nên nói một cách giản đơn rằng làm kinh
tế tư nhân là bóc lột.

4. Từ đời Hùng Vương thứ ba, Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã đồng lòng buôn bán (làm
cả nội thương và ngoại thương) nên trở nên giàu có. Đầu thế kỷ XX, các nhà Duy Tân nói
đi đôi với làm cốt để hưng nghiệp phú quốc. Ngày nay, Đảng làm cuộc đổi mới (đã được
nhân dân đồng tình), nên đảng viên cũng phải được đổi mới. Đảng viên là công dân (mà
phải là công dân gương mẫu) thì phải sống và làm việc theo pháp luật, phải phấn đấu cho
mục tiêu dân giàu nước mạnh bằng nhiều cách, trong đó có việc làm kinh tế tư nhân. Với
tư cách công dân, nếu làm giàu bằng việc vi phạm pháp luật trong kinh doanh, Nhà nước
sẽ điều chỉnh theo pháp luật; với tư cách đảng viên, Đảng sẽ điều chỉnh theo kỷ luật của
Đảng. Theo logíc này, Đảng cho đảng viên làm kinh tế tư nhân là việc làm “thuận theo tự
nhiên”, là cách làm gia tăng nguyên khí quốc gia, vì trong Đảng có rất nhiều người tài
giỏi. Tuy vậy, cũng xin nhớ rằng, lịch sử cận đại và hiện đại đã có nhiều bài học lớn: khi
quyền lực của đồng tiền kết hợp với quyền lực chính trị, nhiều khi hậu quả thật khôn
lường.

-------------------------------

[1] Báo Tuổi Trẻ, ngày 28/2/2006

[2] Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác - Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999,
tr. 162,

[3] Trong Lĩnh Nam chích quái liệt truyện có chuyện tình của Chử Đồng Tử – Tiên
Dung. Qua chuyện này, Chử Đồng Tử được người đời sau tôn là ông tổ (Chư Đạo Tổ)
của nghề buôn bán.

[4] Các sĩ phu không giỏi kinh doanh mà chỉ giỏi viết sách và dạy học. Các nhà Duy Tân
đã biên soạn một số sách tóm tắt về văn minh phương Tây, về nghệ thuật kinh doanh.
Trong số sách này phải kể đến bộ Văn minh tây học sách của Đông Kinh Nghĩa Thục.

[5] Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết lần thứ 5 BCH TW Đảng khoá IX, tr. 48 - 51.

You might also like