You are on page 1of 10

Tranh chấp về việc triệu tập Đại hội đồng cổ đông, phát hành cổ phiếu mới và sửa đổi

điều lệ trong
cty cổ phần
Trên thực tế, các đơn vị đều đã gửi biên bản thảo luận điều lệ và danh sách đại biểu cổ đông
tham dự. Đồng thời, cũng không hề có khiếu nại nào của các cổ đông về việc không biết cuộc
họp ngày 15/03/2002.
Còn về lý do không triệu tập tất cả cổ đông mà chỉ "đại biểu cổ đông" vì Cty không có hội trường rộng.
Điều lệ Cty (cũ) cũng đã quy định: "Những cổ đông chiếm giữ ít nhất 1% vốn điều lệ là đại biểu đương
nhiên của đại hội. Các cổ đông khác không đủ 1% vốn điều lệ thì đơn vị có trách nhiệm nhóm họp và
chỉ định người thay mặt đi dự họp". HĐQT cũng đã có thông báo công khai để các cổ đông nhóm
thành các nhóm và cử đại diện của mình. Trên cơ sở đó mọi quyền lợi của các cổ đông vẫn được
đảm bảo.
Hội đồng xét xử nhận thấy rằng Điều lệ của công ty cổ phần Đại Dương đãhết hiệu lực kể từ ngày
01/01/2002, cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành vào ngày 15/03/2002, lúc này chưa có
Điều lệ mới. Do đó, các tranh chấp xảy ra trong nội bộ Cty cổ phần Đại Dương kể từ ngày 01/01/2002
được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp.
Điều 74 Luật Doanh nghiệp quy định: "1. Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông phải gửi giấy mời
họp đến tất cả cổ đông có quyền dự họp chậm nhất bảy ngày trước ngày khai mạc. 2. Kèm theo giấy
mời họp phải có chương trình họp, các tài liệu thảo luận làm cơ sở để thông qua quyết định."
Như vậy, theo quy định của Luật Doanh nghiệp, người triệu tập phải gửi "giấy mời họp" và về mặt
khái niệm, "giấy mời" hoàn toàn khác với "thông báo". Do vậy, thông báo về cuộc họp của Cty chưa
tuân thủ đúng quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ.
Bên cạnh đó, chương trình cuộc họp của Cty ngày 15/03/2002 gồm: thảo luận thông qua điều lệ sửa
đổi, báo cáo tài chính, báo cáo tổng kết, kế hoạch phát hành cổ phiếu mới... tuy nhiên, Cty chỉ gửi bản
dự thảo điều lệ cho các đơn vị để thảo luận trước. Người triệu tập cuộc họp chưa cung cấp đủ "các tài
liệu thảo luận làm cơ sở để thông qua quyết định" theo quy định của Luật DN.
Như đã nêu trong thông báo của Hội đồng quản trị Cty, cuộc họp ngày 15/03/2002 chỉ là cuộc họp đại
biểu Đại hội đồng cổ đông. Bị đơn cũng đã thừa nhận điều này. Theo quy định của Luật DN, chỉ có cổ
đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi hoàn lại mới không có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông
(Điều 56 khoản 3 và Điều 57 khoản 3 Luật DN), còn tất cả các cổ đông phổ thông dù có tỷ lệ cổ phần
bao nhiêu cũng đều có quyền tham dự cuộc họp Đại hội đồng cổ đông.
Tranh chấp về việc triệu tập Đại hội đồng cổ đông, phát hành cổ phiếu mới và sửa đổi điều lệ
trong cty cổ phần
Ngày: 3/12/2010
Điều 53, khoản 1 điểm a Luật DN quy định cổ đông phổ thông có quyền "tham dự và biểu quyết tất cả
các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông".
Cty cổ phần Đại Dương có 150 cổ đông phổ thông, do vậy, tất cả các cổ đông phổ thông đó hoàn
toàn có quyền được tham dự cuộc họp Đại hội đồng cổ đông của Cty. Cổ đông nào của Cty không
tham dự đại hội và uỷ quyền cho người khác là quyền của cổ đông đó. Do vậy, việc Hội đồng quản trị
(HĐQT) ra thông báo yêu cầu các đơn vị phải bầu chọn thành viên để cử đi tham dự cuộc họp Đại hội
đồng cổ đông của Cty là không hợp pháp. (Trên thực tế, tổng danh sách mà HĐQT của Cty cho phép
tham dự chỉ là 67 cổ đông, tổng số cổ đông thực tế theo danh sách cổ đông của Cty là 150 người).
Ngoài ra, Hội đồng xét xử nhận thấy cần xem xét một số vấn đề khác để Cty có những cân nhắc và
sửa đổi cho phù hợp với Luật DN.
Về bản Điều lệ sửa đổi và kế hoạch phát hành cổ phiếu mới của Cty cổ phần Đại Dương. Theo thông
báo của HĐQT và nghị quyết được công bố tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thì Cty sẽ nâng vốn
điều lệ từ 1,5 tỷ đồng lên 5 tỷ đồng. Việc phát hành cổ phiếu mới của Cty được tiến hành theo nguyên
tắc các cổ đông được mua theo tỷ lệ 1-1, tức là bằng hoặc nhỏ hơn số cổ phần hiện có của mình. Mỗi
thành viên HĐQT được mua 6% vốn điều lệ. Hội đồng xét xử nhận thấy rằng quy định này hoàn toàn
trái với Luật DN. Điều 53, khoản 1 Luật DN quy định quyền của cổ đông là: "Được ưu tiên mua cổ
phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong Cty". Toàn bộ các
cổ đông trong Cty cổ phần Đại Dương là cổ đông phổ thông. Tỷ lệ cổ phần tương ứng mà các cổ
đông phổ thông được mua có nghĩa làtỷ lệ % tương ứng với vốn điều lệ. Trước đây, cổ đông sở hữu
1% tổng số vốn điều lệ cũ thì nay được mua tương ứng với tỷ lệ 1% tổng số vốn điều lệ mới. Thành
viên HĐQT cũng như vậy. Trường hợp cổ đông nào khước từ quyền của mình thì số cổ phần đó cũng
được chào bán cho tất cả các cổ đông của Cty và các cổ đông đều có quyền mua theo tỷ lệ số cổ
phần của mình như trong Điều lệ. Nếu việc phát hành cổ phiếu được tiến hành theo phương án của
Cty cổ phần Đại Dương thì tỷ lệ cổ phần của thành viên HĐQT tăng lên còn tỷ lệ cổ phần của tất cả
các cổ đông khác giảm xuống. Điều này xâm phạm đến quyền lợi của các cổ đông khác không phải là
thành viên HĐQT. Do vậy, kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu mới của Cty cổ phần Đại Dương đã vi
phạm quy định của Luật DN.
Một số quy định khác của Điều lệ Cty cổ phần Đại Dương trái với Luật DN như: Điều lệ Cty cổ phần
Đại Dương tại Điều 17 quy định: "Đại hội đồng cổ đông hoặc Đại hội đại biểu cổ đông là cơ quan
quyết định cao nhất của Cty cổ phần Đại Dương". Quy định này trái với Luật DN tại Điều 69 khi quy
định Cty cổ phần chỉ có một cơ quan là Đại hội đồng cổ đông.
Điều 20 của Điều lệ quy định "Trong trường hợp Cty tổ chức Đại hội đại biểu cổ đông thì cổ đông sở
hữu cổ phần chiếm ít nhất 1% vốn điều lệ là đại biểu đương nhiên. Các cổ đông khác tự tập hợp
thành nhóm để có phiếu tiêu chuẩn 1% vốn điều lệ cử người đi họp". Quy định này của Điều lệ vi
phạm Điều 53 khoản 1 của Luật DN. Theo đo,á tất cả các cổ đông có quyền "tham dự và biểu quyết
tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông; mỗi cổ phần cổ đông có một phiếu
biểu quyết".
Điều 23 của Điều lệ quy định: "tiêu chuẩn của thành viên HĐQT là phải sở hữu 6% tổng số vốn điều lệ
trở lên". Hội đồng xét xử nhận thấy rằng đây là quy định hoàn toàn không trái với các quy định của
Luật DN. Khoản 4 Điều 80 Luật DN quy định: "HĐQT không quá mười một thành viên. Nhiệm kỳ, tiêu
chuẩn và số lượng cụ thể thành viên HĐQT do Điều lệ Cty quy định". Như vậy, việc thoả thuận các
tiêu chuẩn của thành viên HĐQT hoàn toàn là quyền của Đại hội đồng cổ đông và những tiêu chuẩn
đó có giá trị bắt buộc khi được đưa vào Điều lệ của Cty và Điều lệ đó được Đại hội đồng cổ đông
thông qua một cách hợp pháp.
Đại hội đồng cổ đông bất thường : Ai có quyền triệu tập ?
Xem tin gốc
Diễn đàn Doanh nghiệp - 13 tháng trước 74 lượt xem 1 tin đăng lại

Thời điểm này đang là “mùa” đại hội đồng cổ đông của các Cty đại chúng. Tuy
vậy, ĐHCĐ cũng gặp nhiều tranh chấp.
Facebook Twitter 0 bình chọn Viết bình luận Lưu bài này

Theo Luật DN, đại hội đồng cổ đông mỗi năm phải họp ít nhất một lần

(ảnh chỉ có tính minh họa)

Cty cổ phần Bạch Đằng (Cty Bạch Đằng) thành lập từ tháng 10/2004 trên cơ sở cổ phần
hóa (CPH) một bộ phận của Cty nhà nước, vốn điều lệ 8,92 tỷ đồng, chia thành 89.200 cổ
phần mệnh giá 100.000 đồng, 67 cổ đông sáng lập.

Diễn biến sự việc

Ngày 23/10/2004, ĐHĐCĐ thành lập, bầu ra HĐQT 5 người gồm ông Phúc, ông Lâm và các
bà Phương, Hiền, Oanh. Các thành viên HĐQT đều là cổ đông sáng lập của Cty.

Ngày 2/11/2004, ông Phúc – Chủ tịch HĐQT đã đứng ra bán 17.602 cổ phần, bán cho
người ngoài DN là ông Cường với giá hơn 3,363 tỷ đồng. Bà Hiền, kế toán trưởng cũng đã
chuyển nhượng 1.000 cổ phần trong tổng số 1.353 cổ phần của mình cho người khác.
Việc mua bán cổ phần này bị các cổ đông phát giác và đề nghị tổ chức đại hội cổ đông
thường niên. Tuy nhiên, ông Phúc, Chủ tịch, và một số thành viên HĐQT Cty Bạch Đằng
đã không tiến hành đại hội theo quy định của Luật DN. Theo điều 16, khoản 2 điều lệ Cty,
ĐHCĐ thường niên do chủ tịch HĐQT triệu tập vào quý I hàng năm, nhưng đến hết quý
II/2005, ông Phúc vẫn không triệu tập.
Ngày 4/5/2005, nhóm cổ đông nắm giữ 52,41% cổ phần liên tục sáu tháng đã gửi đơn đề
nghị HĐQT triệu tập Đại hội cổ đông bất thường. Ngày 13/5/2005, HĐQT do bà Phó Chủ
tịch HĐQT đại diện đã có thông báo không triệu tập họp ĐHĐCĐ. Ngày 17/6/2005, nhóm
cổ đông nắm giữ 52,41% cổ phần đã đứng ra triệu tập Đại hội cổ đông bất thường vào
ngày 2/7/2005.

Tại đại hội, các cổ đông tham dự đã bỏ phiếu bãi miễn 3 thành viên HĐQT, trong đó có
ông Phúc, bà Hiền. Do đó, ông Quang – Chủ tịch HĐQT (mới) – đồng thời là cổ đông trong
nhóm cổ đông 53,04% (nhóm cổ đông đã tham dự cuộc họp ngày 2/7/2005), đã kiện ra
tòa án yêu cầu: Công nhận kết quả Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 2/7/2005 là
hợp pháp. Buộc các thành viên HĐQT bị bãi miễn, các thành viên Giám đốc điều hành bị
bãi miễn phải bàn giao quyền, nghĩa vụ quản trị, điều hành, kiểm soát Cty cho HĐQT, GĐ
mới.

Tuy vậy, bên bị kiện lại đề nghị hủy bỏ toàn bộ nội dung ĐHĐCĐ bất thường ngày
2/7/2005 vì cho rằng đây là hoạt động bất hợp pháp.

Bài học cho các DN

Để giải quyết tranh chấp này, đầu tiên phải xác định, việc chuyển nhượng cổ phần của
hai thành viên HĐQT là ông Phúc và bà Hiền có hợp pháp hay không? Về việc chuyển
nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập, Điều 58 Luật DN 1999 quy định “1. Trong ba năm
đầu, kể từ ngày Cty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập
phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán; cổ phần
phổ thông của cổ đông sáng lập có thể chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông
nếu được sự chấp thuận của ĐHĐCĐ. Cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có
quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó. 2. Sau thời hạn ba năm quy
định tại khoản 1 Điều này, các hạn chế đối với CP phổ thông của cổ đông sáng lập đều bãi
bỏ”. Như vậy, việc chuyển nhượng cổ phần của ông Phúc và bà Hiền là không hợp pháp.

Về trình tự, và thẩm quyền triệu tập ĐHĐCĐ, Điều 71 Luật DN 1999 quy định:“...2.
ĐHĐCĐ được triệu tập họp: a) Theo quyết định của Hội đồng quản trị; b) Theo yêu cầu
của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật này hoặc của Ban
kiểm soát trong trường hợp HĐQT vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người quản lý quy
định tại Điều 86 của Luật này, HĐQT ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao, các
trường hợp khác quy định tại Điều lệ Cty. 3. HĐQT phải triệu tập họp Đại hội đồng cổ
đông trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu quy định tại điểm b
khoản 2 Điều này. Trường hợp HĐQT không triệu tập thì Ban kiểm soát phải thay thế
HĐQT triệu tập họp ĐHĐCĐ theo quy định của Luật này. Trường hợp Ban kiểm soát không
triệu tập thì cổ đông, nhóm cổ đông có yêu cầu quy định tại điểm b khoản 2 Điều này có
quyền thay thế HĐQT, Ban kiểm soát triệu tập họp ĐHĐCĐ theo quy định của Luật này”.

Như vậy, nhóm cổ đông 52,41% đề nghị HĐQT triệu tập họp ĐHĐCĐ là đúng thẩm quyền.
Đến ngày 17/6/2005, việc Nhóm cổ đông 52,41% triệu tập họp ĐHĐCĐ vì đã quá 30 ngày
kể từ khi đề nghị HĐQT triệu tập họp (ngày 04/05/2005) nhưng HĐQT không thực hiện, là
đúng quy định.

Về lý do yêu cầu triệu tập họp, có căn cứ để cho rằng, HĐQT, cá nhân ông Phúc (chủ tịch)
và bà Hiền (thành viên) có vi phạm nghĩa vụ của người quản lý. Với tư cách là Chủ tịch
HĐQT nhưng ông này lại chuyển nhượng cổ phần cho người không phải là cổ đông mà
không thông qua ĐHĐCĐ là vi phạm Điều 58 Luật DN 1999. Ông Phúc với tư cách là Chủ
tịch HĐQT không triệu tập ĐHĐCĐ thường niên năm 2005 là trái với Khoản 1 Điều 71 Luật
DN 1999 “ĐHĐCĐ mỗi năm họp ít nhất một lần”. Luật DN 1999 và Điều lệ Cty đều quy
định, cuộc họp ĐHĐCĐ là hợp pháp khi có số cổ đông, người đại diện cổ đông đại diện cho
ít nhất 51% tổng số phiêu biểu quyết tham dự. Cuộc họp ĐHĐCĐ ngày 2/07/2005 có số cổ
đông đại diện cho 53,04% tổng số cổ phần phổ thông tham dự. Như vậy, cuộc họp này đủ
điều kiện để tiến hành.

Các quyết định tại cuộc họp ĐHĐCĐ ngày 2/7/2005 về việc bãi miễn thành viên HĐQT,
bầu bổ sung thành viên HĐQT, bãi miễn và bầu bổ sung thành viên BKS đã được thông
qua với 100% cổ phần của những cổ đông dự họp. Như vậy là thỏa mãn quy định tại điểm
a khoản 2 Điều 77 Luật DN “Được số cổ đông đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu
quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận. Tỷ lệ cụ thể do Điều lệ Cty quy định”. Như
vậy, cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường và các quyết định được thông qua tại cuộc họp là hoàn
toàn đúng pháp luật.

Vì thế, tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đều quyết định công nhận ĐHĐCĐ bất thường do
nhóm cổ đông sở hữu 53,04% vốn điều lệ Cty tổ chức là hợp pháp, hợp lệ; Các quyết định,
nghị quyết của ĐHĐCĐ nói trên cũng hợp pháp, hợp lệ và có hiệu lực kể từ ngày ban
hành.

Hoài Huấn

PHÁP LUẬT GIẢI ĐÁP CHÍNH SÁCH

EmailPrint
Thứ Ba, 12/08/2003 - 09:35
Tranh chấp về việc triệu tập Đại hội đồng cổ đông, phát hành cổ phiếu mới và sửa đổi điều lệ trong
cty cổ phần
Giải quyết tình huống
Một số vấn đề về áp dụng pháp luật
• Từ tháng 09/1999 đến trước ngày 01/01/2000 (ngày Luật Doanh nghiệp có hiệu lực), việc tổ
chức và điều hành và mọi hoạt động của Cty cổ phần Đại Dương chịu sự điều chỉnh của Điều
lệ cũ và Luật Công ty 1990.
• Từ ngày 01/01/2000 đến ngày 31/12/2001 (là ngày Điều lệ cũ của Cty hết hiệu lực), việc tổ
chức quản lý và giải quyết những vấn đề nội bộ của Cty vẫn do Điều lệ cũ điều chỉnh. Tuy
nhiên, nếu Điều lệ của Cty không quy định cụ thể, thì có thể áp dụng các quy định của Luật
Doanh nghiệp.
• Từ ngày 01/01/2002, toàn bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động của Cty và những tranh
chấp xảy ra trong Cty hoàn toàn do Luật Doanh nghiệp điều chỉnh.
Về các vấn đề điều hành Cty từ tháng 09/1999 đến tháng 03/2001
- Xét đơn kiện của các Nguyên đơn về việc Cty không triệu tập cuộc họp Đại hội đồng cổ đông hai
năm 2000 và 2001, Hội đồng xét xử thấy rằng yêu cầu tiến hành cuộc họp Đại hội đồng cổ đông là
yêu cầu bắt buộc ít nhất mỗi năm một lần. Việc Cty không tổ chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông
hằng năm là vi phạm Điều lệ Cty và Luật Doanh nghiệp. Điều lệ Cty (Điều 17, khoản 3) quy định: "Đại
hội đồng thường được triệu tập vào cuối mỗi năm tài chính". Luật Doanh nghiệp 1999 cũng quy định
tại Điều 71, khoản 1: "Đại hội đồng cổ đông họp ít nhất mỗi năm một lần". Việc Bị đơn lập luận cho
rằng các cuộc họp tổng kết mà Cty tiến hành vào mỗi cuối năm chính là cuộc họp Đại hội đồng cổ
đông là không hợp pháp. Hai cuộc họp này khác nhau về bản chất, nội dung, trình tự, thủ tục triệu tập,
thẩm quyền và vấn đề quyết định:
Cuộc họp tổng kết cuối năm mà Cty Đại Dương tiến hành chỉ là cuộc họp của người sử dụng lao động
và người lao động. Còn cuộc họp Đại hội đồng cổ đông là cuộc họp của những người sở hữu Cty.
Theo quy định của Điều lệ Cty cũng như Luật Doanh nghiệp 1999, cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bắt
buộc phải tổ chức ít nhất mỗi năm một lần, trong khi đó cuộc họp tổng kết cuối năm không mang tính
chất bắt buộc.
Là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong Cty cổ phần, do vậy tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông của
Cty, các cổ đông tham dự được quyền biểu quyết về các vấn đề quan trọng của Cty. Số cổ phiếu mà
cổ đông nắm giữquyết định số phiếu biểu quyền của cổ đông đó. Các cuộc họp tổng kết cuối năm
không phải là cơ quan quyết định các vấn đề quan trọng của Cty cổ phần và không có cơ chế biểu
quyết theo số vốn này.
Không tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông do vậy các cổ đông không được tham gia thảo luận và biểu
quyết các vấn đề quan trọng trong tổ chức hoạt động của Cty, không thực hiện được các quyền của
cổ đông theo quy định tại Điều lệ Cty và Luật Doanh nghiệp.
- Do không tiến hành các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông trong năm 2000 và 2001, nên các cổ đông
của Cty không nắm được tình hình tài chính của Cty và thông qua báo cáo tài chính hàng năm. Các
báo cáo tài chính mặc dù không được Đại hội đồng cổ đông thông qua nhưng vẫn được gửi cho Cục
Thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh là vi phạm Điều lệ Cty và Luật Doanh nghiệp. Điều 18 khoản 2
Điều lệ Cty quy định thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông là "thảo luận và thông qua bảng tổng kết
năm tài chính". Điều 93 khoản 1 Luật Doanh nghiệp cũng quy định: "Trong thời hạn chín mươi ngày,
kể từ ngày kết thúc năm tài chính, Cty cổ phần phải gửi báo cáo tài chính hàng năm đã được Đại hội
đồng cổ đông thông qua đến cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh". Do vậy, các báo cáo tài
chính trên của Cty hoàn toàn không hợp pháp

BÌNH LUẬN VỤ VIỆC VỀ TRANH CHẤP NỘI BỘ CÔNG TY CỔ PHẦN


Posted on 13/04/2011 by Nguyễn Thế Dân

Rate This
TỪ THẢO – Cố vấn cao cấp Công ty Tư vấn Nam An Luật.
Diễn biến sự việc
Ngày 23/10/2004, Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) công ty cổ phần (CTCP) Bạch Đằng thành lập, bầu
ra Hội đồng quản trị (HĐQT) 5 người gồm ông Phúc, ông Lâm và các bà Phương, Hiền, Oanh. Các
thành viên HĐQT đều là cổ đông sáng lập của Công ty. Ngày 2/11/2004, ông Phúc – Chủ tịch HĐQT
đã đứng ra bán 17.602 cổ phần, bán cho người ngoài doanh nghiệp là ông Cường với giá hơn 3,363
tỷ đồng. Bà Hiền, kế toán trưởng cũng đã chuyển nhượng 1.000 cổ phần trong tổng số 1.353 cổ phần
của mình cho người khác.
Việc mua bán cổ phần này bị các cổ đông phát giác và đề nghị tổ chức Đại hội cổ đông thường niên.
Tuy nhiên, ông Phúc và một số thành viên HĐQT Công ty Bạch Đằng đã không tiến hành đại hội theo
quy định của Luật Doanh nghiệp. Theo điều 16, khoản 2 điều lệ Công ty, ĐHCĐ thường niên do chủ
tịch HĐQT triệu tập vào quý I hàng năm, nhưng đến hết quý II/2005, ông Phúc vẫn không triệu tập.
Ngày 4/5/2005, nhóm cổ đông nắm giữ 52,41% cổ phần liên tục sáu tháng đã gửi đơn đề nghị HĐQT
triệu tập Đại hội cổ đông bất thường. Ngày 13/5/2005, HĐQT do bà Phó Chủ tịch HĐQT đại diện đã
có thông báo không triệu tập họp ĐHĐCĐ. Ngày 17/6/2005, nhóm cổ đông nắm giữ 52,41% cổ phần
đã đứng ra triệu tập Đại hội cổ đông bất thường vào ngày 2/7/2005.
Tại đại hội, các cổ đông tham dự đã bỏ phiếu bãi miễn 3 thành viên HĐQT, trong đó có ông Phúc, bà
Hiền. Do đó, ông Quang – Chủ tịch HĐQT (mới) – đồng thời là cổ đông trong nhóm cổ đông 53,04%
(nhóm cổ đông đã tham dự cuộc họp ngày 2/7/2005), đã kiện ra toà án yêu cầu: Công nhận kết quả
Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 2/7/2005 là hợp pháp. Buộc các thành viên HĐQT bị bãi miễn,
các thành viên Giám đốc điều hành bị bãi miễn phải bàn giao quyền, nghĩa vụ quản trị, điều hành,
kiểm soát Công ty cho HĐQT, giám đốc mới.
Tuy vậy, bên bị kiện lại đề nghị hủy bỏ toàn bộ nội dung ĐHĐCĐ bất thường ngày 2/7/2005 vì cho
rằng đây là hoạt động bất hợp pháp.
Bình luận tình huống
Luật áp dụng. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn
bản đó đang có hiệu lực. Diễn biến tranh chấp trong nội bộ CTCP nêu trên diễn ra trong thời gian từ
năm 2004 đến 2005, do vậy Luật áp dụng để giải quyết tình huống này là Luật doanh nghiệp 1999
(Luật Doanh nghiệp 1999 chấm dứt hiệu lực từ 1/7/2006 và được thay thế bằng Luật Doanh nghiệp
2005).

Chuyển nhượng cổ phần của ông Phúc – Chủ tịch HĐQT và bà Hiền
Đầu tiên cần bàn đến là tư cách cổ đông sáng lập của hai đối tượng này. Khoản 10 điều 3 Luật Doanh
nghiệp 1999: “Cổ đông sáng lập là thành viên sáng lập công ty cổ phần”. Cũng theo điều luật này thì
“Thành viên sáng lập” là người tham gia thông qua Điều lệ đầu tiên của công ty. Người tham gia
thông qua điều lệ đầu tiên là người ký tên vào bản điều lệ đó. Do vậy, ông Phúc và bà Hiền chỉ là cổ
đông sáng lập nếu họ ký tên vào bản điều lệ đầu tiên của công ty. Cần lưu ý rằng, Công ty cổ phần
Bạch Đằng là công ty được thành lập trên cơ sở cổ phần hoá một bộ phận của Công ty nhà nước nên
không nhất thiết phải có cổ đông sáng lập.
Thứ hai, cổ phần của các CĐSL bị hạn chế chuyển nhượng trong ba năm đầu tiên kể từ ngày công ty
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chỉ là cổ phần phổ thông (CPPT). Do vậy, cần xem kỹ
cổ phần ông Phúc và bà Hiền chuyển nhượng là CPPT hay cổ phần ưu đãi thì mới có thể kết luận
chính xác việc chuyển nhượng không thông qua ĐHĐCĐ của họ là đúng hay sai.
Thứ ba, nếu ông Phúc và bà Hiền đều là cổ đông sáng lập và cổ phần họ chuyển nhượng là CPPT thì
việc chuyển nhượng này là không có giá trị pháp lý vì không thông qua ĐHĐCĐ (Khoản 1 điều 58
Luật Doanh nghiệp 1999). Giao dịch chuyển nhượng này vô hiệu, không làm phát sinh tư cách cổ
đông cho những người nhận chuyển nhượng, ông Phúc và bà Hiền vẫn là cổ đông với nguyên vẹn số
cổ phần mà họ nắm giữ ban đầu.
Thẩm quyền triệu tập ĐHĐCĐ
Đầu tiên cần lưu ý, Theo điểm b khoản 1 điều 71 Luật Doanh nghiệp 1999, các cổ đông hoặc nhóm cổ
đông sở hữu trên 10% số CPPT trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng chỉ có quyền yêu cầu họp
ĐHĐCĐ trong trường hợp Hội đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người quản lý quy
định tại Điều 86 của Luật này, Hội đồng quản trị ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao, các
trường hợp khác quy định tại Điều lệ công ty. Đối chiếu qui định này, có thể khẳng định việc ông Phúc
và bà Hiền chuyển nhượng CPPT với tư cách cá nhân một cổ đông, dù không đúng Luật nhưng đây
không phải là trường hợp làm phát sinh quyền yêu cầu họp ĐHĐCĐ của nhóm cổ đông nắm giữ
52,41% cổ phần. Cở sở duy nhất làm phát sinh quyền yêu cầu họp ĐHĐCĐ cho nhóm cổ đông này là
việc HĐQT đã không tiến hành họp dù đã sang quí II năm 2005, nghĩa là HĐQT đã vi phạm điều lệ
công ty.
Thứ hai, tình huống không nêu ra việc Ban kiểm soát có tham gia vào việc triệu tập ĐHCĐ hay không.
Bởi lẽ, theo khoản 3 điều 71 Luật Doanh nghiệp 1999: “Trường hợp Hội đồng quản trị không triệu tập
thì Ban kiểm soát phải thay thế Hội đồng quản trị triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông theo quy định của
Luật này. Trường hợp Ban kiểm soát không triệu tập thì cổ đông, nhóm cổ đông có yêu cầu quy định
tại điểm b khoản 2 Điều này (sở hữu trên 10% số CPPT trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng) có
quyền thay thế Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông theo quy định của
Luật này.” Như vậy, nhóm cổ đông nắm giữ 52,41% cổ phần chỉ có thể triệu tập ĐHĐCĐ nếu cả
HĐQT và Ban kiểm soát (BKS) không triệu tậu sau khi có yêu cầu hợp lệ từ nhóm cổ đông này. Cần
lưu ý là công ty CP Bạch đằng thời điểm đó có đến 67 cổ đông, nghĩa là thuộc trường hợp bắt buộc
phải có BKS (Khoản 1 điều 88 Luật Doanh nghiệp 1999). Do vậy, nếu nhóm cổ đông này đã “qua mặt”
BKS triệu tập ĐHCĐ trong trường hợp này là không đúng luật và do vậy các quyết định tại ĐHCĐ đó
không hợp lệ và có thể bị hủy bỏ bởi Tòa án theo qui định tại điều 79 Luật Doanh nghiệp 1999.
Bài học cho doanh nghiệp (áp dụng theo Luật Doanh nghiệp 2005)
- Về nguyên tắc cổ phần được tự do chuyển nhượng, chỉ có có hai trường hợp hạn chế: (i) CP ưu đãi
biểu quyết không được chuyển nhượng (muốn chuyển nhượng phải chuyển đổi sang CPPT); (ii) trong
3 năm đầu tiên thành lập công ty, CPPT của CĐSL được tự do chuyển cho CĐSL khác, nhưng chỉ
được chuyển nhượng CPPT của mình cho người không phải là CĐSL nếu được sự chấp thuận của
ĐHĐCĐ, người nhận chuyển nhượng đương nhiên trở thành CĐSL của công ty. Sau thời hạn ba năm
này, các hạn chế đối với CPPT của CĐSL đều được bãi bỏ.
- Thẩm quyền triệu tập ĐHĐCĐ đương nhiên thuộc về HĐQT, nếu HĐQT không triệu tập thì quyền
này thuộc về BKS, Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số CPPT trong thời hạn liên
tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty chỉ có quyền triệu tập
họp ĐHĐCĐ khi thỏa mãn 2 điều kiện: (i) họ đã yêu cầu HĐQT triệu tập; (ii)HĐQT và BKS không triệu
tập. Trong trường hợp này, cơ quan đăng ký kinh doanh có thể giám sát việc triệu tập.
- Các quyết định tại ĐHĐCĐ là hợp pháp và có hiệu lực ngay cả khi trình tự và thủ tục triệu tập, nội
dung chương trình họp và thể thức tiến hành họp không được thực hiện đúng như quy định nếu quyết
định được thông qua với số cổ đông trực tiếp và uỷ quyền tham dự đại diện 100% tổng số cổ phần có
quyền biểu quyết
PHÁP LUẬT GIẢI ĐÁP CHÍNH SÁCH
EmailPrint
Thứ Năm, 21/08/2003 - 09:35
Tranh chấp về việc triệu tập Đại hội đồng cổ đông, phát hành cổ phiếu mới và sửa đổi điều lệ trong
cty cổ phần (Tiếp theo)
Điều 53, khoản 1 điểm a Luật DN quy định cổ đông phổ thông có quyền "tham dự và biểu quyết
tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông".
Cty cổ phần Đại Dương có 150 cổ đông phổ thông, do vậy, tất cả các cổ đông phổ thông đó hoàn
toàn có quyền được tham dự cuộc họp Đại hội đồng cổ đông của Cty. Cổ đông nào của Cty không
tham dự đại hội và uỷ quyền cho người khác là quyền của cổ đông đó. Do vậy, việc Hội đồng quản trị
(HĐQT) ra thông báo yêu cầu các đơn vị phải bầu chọn thành viên để cử đi tham dự cuộc họp Đại hội
đồng cổ đông của Cty là không hợp pháp. (Trên thực tế, tổng danh sách mà HĐQT của Cty cho phép
tham dự chỉ là 67 cổ đông, tổng số cổ đông thực tế theo danh sách cổ đông của Cty là 150 người).
Ngoài ra, Hội đồng xét xử nhận thấy cần xem xét một số vấn đề khác để Cty có những cân nhắc và
sửa đổi cho phù hợp với Luật DN.
Về bản Điều lệ sửa đổi và kế hoạch phát hành cổ phiếu mới của Cty cổ phần Đại Dương. Theo thông
báo của HĐQT và nghị quyết được công bố tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thì Cty sẽ nâng vốn
điều lệ từ 1,5 tỷ đồng lên 5 tỷ đồng. Việc phát hành cổ phiếu mới của Cty được tiến hành theo nguyên
tắc các cổ đông được mua theo tỷ lệ 1-1, tức là bằng hoặc nhỏ hơn số cổ phần hiện có của mình. Mỗi
thành viên HĐQT được mua 6% vốn điều lệ. Hội đồng xét xử nhận thấy rằng quy định này hoàn toàn
trái với Luật DN. Điều 53, khoản 1 Luật DN quy định quyền của cổ đông là: "Được ưu tiên mua cổ
phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong Cty". Toàn bộ các
cổ đông trong Cty cổ phần Đại Dương là cổ đông phổ thông. Tỷ lệ cổ phần tương ứng mà các cổ
đông phổ thông được mua có nghĩa làtỷ lệ % tương ứng với vốn điều lệ. Trước đây, cổ đông sở hữu
1% tổng số vốn điều lệ cũ thì nay được mua tương ứng với tỷ lệ 1% tổng số vốn điều lệ mới. Thành
viên HĐQT cũng như vậy. Trường hợp cổ đông nào khước từ quyền của mình thì số cổ phần đó cũng
được chào bán cho tất cả các cổ đông của Cty và các cổ đông đều có quyền mua theo tỷ lệ số cổ
phần của mình như trong Điều lệ. Nếu việc phát hành cổ phiếu được tiến hành theo phương án của
Cty cổ phần Đại Dương thì tỷ lệ cổ phần của thành viên HĐQT tăng lên còn tỷ lệ cổ phần của tất cả
các cổ đông khác giảm xuống. Điều này xâm phạm đến quyền lợi của các cổ đông khác không phải là
thành viên HĐQT. Do vậy, kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu mới của Cty cổ phần Đại Dương đã vi
phạm quy định của Luật DN.
Một số quy định khác của Điều lệ Cty cổ phần Đại Dương trái với Luật DN như: Điều lệ Cty cổ phần
Đại Dương tại Điều 17 quy định: "Đại hội đồng cổ đông hoặc Đại hội đại biểu cổ đông là cơ quan
quyết định cao nhất của Cty cổ phần Đại Dương". Quy định này trái với Luật DN tại Điều 69 khi quy
định Cty cổ phần chỉ có một cơ quan là Đại hội đồng cổ đông.
Điều 20 của Điều lệ quy định "Trong trường hợp Cty tổ chức Đại hội đại biểu cổ đông thì cổ đông sở
hữu cổ phần chiếm ít nhất 1% vốn điều lệ là đại biểu đương nhiên. Các cổ đông khác tự tập hợp
thành nhóm để có phiếu tiêu chuẩn 1% vốn điều lệ cử người đi họp". Quy định này của Điều lệ vi
phạm Điều 53 khoản 1 của Luật DN. Theo đo,á tất cả các cổ đông có quyền "tham dự và biểu quyết
tất cả các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông; mỗi cổ phần cổ đông có một phiếu
biểu quyết".
Điều 23 của Điều lệ quy định: "tiêu chuẩn của thành viên HĐQT là phải sở hữu 6% tổng số vốn điều lệ
trở lên". Hội đồng xét xử nhận thấy rằng đây là quy định hoàn toàn không trái với các quy định của
Luật DN. Khoản 4 Điều 80 Luật DN quy định: "HĐQT không quá mười một thành viên. Nhiệm kỳ, tiêu
chuẩn và số lượng cụ thể thành viên HĐQT do Điều lệ Cty quy định". Như vậy, việc thoả thuận các
tiêu chuẩn của thành viên HĐQT hoàn toàn là quyền của Đại hội đồng cổ đông và những tiêu chuẩn
đó có giá trị bắt buộc khi được đưa vào Điều lệ của Cty và Điều lệ đó được Đại hội đồng cổ đông
thông qua một cách hợp pháp.
PHÁP LUẬT GIẢI ĐÁP CHÍNH SÁCH
EmailPrint
Thứ Năm, 07/08/2003 - 09:35
Tranh chấp về việc triệu tập Đại hội đồng cổ đông, phát hành cổ phiếu mới và sửa đổi điều lệ trong
cty cổ phần (phần II)
Tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 15/03/2002, chủ toạ cuộc họp (là Chủ tịch Hội đồng
quản trị) đã đọc báo cáo tổng kết năm 2001, phương hướng kinh doanh năm 2002, bản Điều lệ
sửa đổi và kế hoạch phát hành cổ phiếu mới. Sau đó, chủ toạ cuộc họp đã lấy biểu quyết của
các cổ đông tham dự cuộc họp một lần về tất cả các vấn đề được nêu trên.
Theo Nghị quyết được công bố tại cuộc họp và đã được biểu quyết thông qua, vốn điều lệ công ty
được nâng từ 1,5 tỷ đồng lên 5 tỷ đồng, tất cả các cổ phiếu chỉ được chào bán nội bộ cho các cổ
đông trong công ty. Các cổ đông được mua thêm số cổ phiếu cao nhất là bằng hoặc nhỏ hơn số cổ
phần hiện có của cổ đông đó (theo tỷ lệ 1- 1). Mỗi thành viên Hội đồng quản trị được quyền mua số cổ
phiếu tương đương 6% vốn điều lệ.Bản Điều lệ (được cuộc họp ngày 15/3/2002 thông qua) có một số
điểm sửa đổi. Điều 17 Điều lệ quy định: "Đại hội đồng cổ đông hoặc Đại hội đại biểu cổ đông là cơ
quan quyết định cao nhất của Công ty cổ phần Đại Dương". Điều 20 của Điều lệ quy định: "Trong
trường hợp Công ty tổ chức đại hội đại biểu cổ đông thì cổ đông sở hữu cổ phần chiếm ít nhất 1%
vốn điều lệ là đại biểu đương nhiên. Các cổ đông khác tự tập hợp thành một nhóm để có phiếu đủ
tiêu chuẩn 1% vốn điều lệ để cử người đi họp". Điều 23 Điều lệ quy định: "tiêu chuẩn của thành viên
Hội đồng quản trị là phải sở hữu 6% tổng số vốn điều lệ trở lên". Do bất đồng với Hội đồng quản trị
trong điều hành, quản lý công ty, không đồng ý với kế hoạch phát hành cổ phiếu mới và bản Điều lệ
sửa đổi, cho nên một nhóm 10 cổ đông của công ty cổ phần Đại Dương đã gửi đơn kiện lên Toà án
nhân dân thành phố K kiện Hội đồng quản trị công ty cổ phần Đại Dương về các vấn đề:
Hội đồng quản trị công ty cổ phần Đại Dương đã hành động không đúng thẩm quyền, vi phạm pháp
luật trong quản lý và điều hành công ty. các vấn đề được nêu cụ thể trong đơn kiện như không họp
Đại hội đồng cổ đông năm 2000 và 2001, không thông qua và công bố báo cáo tài chính cho các cổ
đông các năm 2000, 2001; chia cổ tức không thông qua Đại hội đồng cổ đông; tự ý mua sắm tài sản
giá trị lớn không thuộc thẩm quyền của mình. Hội đồng quản trị đã vi phạm Luật Doanh nghiệp và
Điều lệ Công ty về việc triệu tập, thủ tục tiến hành và thông qua các quyết định tại Đại hội đồng cổ
đông ngày 15/3/2002. Bản Điều lệ mới của Công ty có nhiều quy định trái với Luật Doanh nghiệp, vi
phạm quyền và lợi ích của các cổ đông phổ thông của Công ty. Trên cơ sở đó, nhóm cổ đông trên đã
yêu cầu Toà án bác bỏ kết quả cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 15/3/2002 và bản Điều lệ mới
của Công ty.
Bổ nhiệm và bãi miễn Tổng Giám Đốc: Thế nào là đúng?
Cty cổ phần S là một Cty niêm yết. Theo Điều lệ Cty thì TGĐ là người đại diện theo pháp luật.
Tháng 10/2007, Chủ tịch HĐQT Cty lấy ý kiến các thành viên HĐQT bằng văn bản về việc bãi
miễn TGĐ cũ (là thành viên HĐQT) và bổ nhiệm TGĐ mới. Kết quả kiểm phiếu cho thấy có 3/4
phiếu biểu quyết đồng ý, 1/4 phiếu không có ý kiến (theo Khoản 5 Điều 31 Điều lệ mẫu thì việc
bãi miễn TGĐ cũ phải được ít nhất 2/3 thành viên HĐQT biểu quyết tán thành và trong trường
hợp này không tính biểu quyết của TGĐ). Sau đó, Chủ tịch HĐQT đã ký Quyết định bãi miễn
TGĐ cũ và bổ nhiệm TGĐ mới.

PHẠM HUẤN

TGĐ là người đại diện theo pháp luật của một DN. Vậy, Hội đồng quản trị muốn bãi miễn chức vụ này cần có
tiêu chí nào để không xảy ra tranh chấp ?

Tuy vậy, TGĐ cũ tuyên bố việc bổ nhiệm TGĐ mới chưa có hiệu lực vì: Theo quy định tại Điểm e Khoản 2
Điều 14 Điều lệ mẫu thì việc bổ nhiệm TGĐ mới của HĐQT phải được Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) phê
chuẩn. Ngoài ra, TGĐ là người đại diện theo pháp luật, mà việc thay đổi người đại diện theo pháp luật theo
Khoản 3 Điều 29 Nghị định 88/2006/NĐ-CP cần phải có Biên bản và Quyết định của ĐHĐCĐ. Dựa vào các căn
cứ pháp lý trên, TGĐ cũ nhất định không chịu bàn giao công việc, sổ sách, con dấu Cty.

Chủ tịch HĐQT lập luận rằng theo quy định tại Điểm i Khoản 3 Điều 25 Điều lệ mẫu và Điểm h Khoản 2 Điều
108 Luật DN 2005 thì HĐQT có toàn quyền bãi miễn TGĐ cũ và việc bãi miễn này không cần phải phê chuẩn
của ĐHĐCĐ nên người bị bãi miễn không còn là TGĐ nữa. Còn đối với việc bổ nhiệm TGĐ mới cần phải có sự
phê chuẩn của ĐHĐCĐ mới có hiệu lực thì trong thời gian chờ phê chuẩn của ĐHĐCĐ, người được bổ nhiệm
giữ chức vụ quyền TGĐ.

Những vấn đề cần giải quyết

Vậy quyết định bãi miễn TGĐ cũ và bổ nhiệm TGĐ mới có hiệu lực khi nào? Tranh chấp xảy ra tại thời điểm
Luật DN 2005 có hiệu lực, nên căn cứ để giải quyết là Luật DN 2005 và Điều lệ Cty.

Theo quy định tại Điều lệ Cty thì TGĐ là người đại diện theo pháp luật nên việc thay đổi TGĐ đồng thời làm
thay đổi người đại diện theo pháp luật. Nhưng theo quy định tại Khoản 3 Điều 29 Nghị định 88/2006/NĐ-CP
thì việc thay đổi người đại diện theo pháp luật phải được ĐHĐCĐ thông qua nên việc thay đổi TGĐ cũng phải
được ĐHĐCĐ thông qua. Ngoài ra, theo quy định tại Điểm e, Khoản 2, Điều 14, Điều lệ Cty thì việc bổ nhiệm
TGĐ mới của HĐQT phải được ĐHĐCĐ phê chuẩn. Do đó, quyết định bãi miễn TGĐ cũ và bổ nhiệm TGĐ mới
chỉ có hiệu lực khi được ĐHĐCĐ thông qua.

Bài học đối với DN


Câu hỏi đặt ra là nếu ĐHĐCĐ không phê chuẩn việc bổ nhiệm Giám đốc/TGĐ của HĐQT thì sao? Theo Khoản
3, Điều 29 Nghị định 88/2006/NĐ-CP, hồ sơ thay đổi người đại diện theo pháp luật phải có bản sao biên bản,
quyết định của ĐHĐCĐ về việc thay thế người đại diện theo pháp luật. Đối chiếu với quy định của Luật DN ta
thấy chỉ có hai trường hợp thay đổi người đại diện theo pháp luật do ĐHĐCĐ cũng quyết định: Thay đổi Chủ
tịch là người đại diện theo pháp luật thành Giám đốc/TGĐ là người đại diện theo pháp luật và ngược lại. Chủ
tịch HĐQT do ĐHĐCĐ bầu trực tiếp và là người đại diện theo pháp luật. Các trường hợp khác, việc thay đổi
người đại diện theo pháp luật đều là thay đổi Chủ tịch HĐQT hoặc Giám đốc đều thuộc thẩm quyền quyết định
của HĐQT.

Nhưng cơ quan đăng ký kinh doanh lập luận rằng quy định này phù hợp với Khoản 15 Điều 22 Luật DN (quy
định rằng chữ ký của người đại diện theo pháp luật Cty cổ phần là một phần nội dung Điều lệ Cty cho nên nếu
Cty thay đổi người đại diện theo pháp luật thì chữ ký của người đại diện theo pháp luật trong Điều lệ Cty sẽ phải
thay đổi theo). Do đó, cơ quan đăng ký kinh doanh cho rằng việc thay đổi người đại diện theo pháp luật sẽ kéo
theo việc thay đổi nội dung Điều lệ Cty.

Như vậy, quy định chữ ký người đại diện theo pháp luật là một phần nội dung Điều lệ Cty tạo ra những hệ
quả pháp lý rất nghiêm trọng.
Tranh chấp trong điều hành cty: Bầu và bãi miễn HĐQT (tiếp theo)
Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 29/12/2000 chỉ có số cổ đông đại diện cho 1/2 (50%) tổng
số cổ phần của Công ty tham dự, trong khi Luật Doanh nghiệp và Điều lệ của Công ty quy định
tỷ lệ tối thiểu phải là 51%.
Điều 76, khoản 1 Luật Doanh nghiệp quy định: "Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có
số cổ đông dự họp đại diện cho ít nhất 51% số cổ phần có quyền biểu quyết".
Trên những cơ sở đó, Hội đồng xét xử nhận thấy rằng cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày
29/12/2000 của Công ty cổ phần Nam Vinh là không hợp pháp, do vậy mọi quyết định thông qua tại
cuộc họp này không được công nhận.
Tuy nhiên, theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty thì thẩm quyền bãi miễn, bổ
nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc Công ty là của Hội đồng quản trị và không yêu cầu phải
được Đại hội đồng cổ đông Công ty thông qua. Do vậy, quyết định miễn nhiệm, bổ nhiệm Chủ tịch Hội
đồng quản trị, Giám đốc Công ty cổ phần Nam Vinh vẫn hoàn toàn hợp pháp và có giá trị được thực
hiện.
Bình luận và lưu ý
- Căn cứ hợp pháp của việc bổ nhiệm và bãi nhiệm các chức danh trong công ty cổ phần dựa trên
thẩm quyền, trình tự, thủ tục ra quyết định. Yêu cầu phải chứng minh được vi phạm trước khi ra quyết
định bãi nhiệm không phải là yêu cầu bắt buộc.
- Theo quy định của pháp luật, quyết định của Bộ Y về việc không công nhận các quyết định miễn
nhiệm và bổ nhiệm các chức danh trong Công ty cổ phần Nam Vinh của Hội đồng quản trị là không
hợp pháp, bởi những lẽ sau:
Công ty Nam Vinh không phải là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Y tế mà là một công ty cổ
phần, hoạt động độc lập, theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Số vốn góp của Nhà nước trong Công ty cổ phần Nam Vinh chỉ chiếm 25% tổng số cổ phần của Công
ty, do vậy, Nhà nước cũng chỉ là một cổ đông trong Công ty, có quyền tương ứng với phần vốn góp
của mình.
Việc quyết định miễn nhiệm, bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc Công ty hoàn toàn thuộc
quyền của Hội đồng quản trị Công ty theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty.
Tuy nhiên, trên thực tế Việt Nam hiện nay, tình trạng cơ quan, công chức nhà nước can thiệp vào
hoạt động quản trị, điều hành công ty khá phổ biến. Quyền hạn của cơ quan đại diện quản lý phần
vốn nhà nước trong công ty cổ phần chỉ giới hạn trong phạm vi số vốn góp của Nhà nước đối với
công ty đó. Mọi trường hợp can thiệp khác vào hoạt động quản trị, điều hành của công ty đều được
xem là không hợp pháp.

Tình huống: Công ty cổ phần A tiến hành bầu Hội đồng quản trị nhiệm kỳ III gồm 5 thành viên. Trong quá trình
bầu, nhóm cổ đông thiểu số chiếm 22% cổ phần phổ thông đã đề cử một ứng viên là ông Trần Văn X và dồn
toàn bộ số phiếu bầu của mình cho ứng viên này. Ông X đã trúng cử vào Hội đồng quản trị. Sau 3 tháng làm
việc vì lý do nào đó, Hội đồng quản trị (đa số gồm các thành viên do nhóm cổ đông lớn chiếm 65,3% cổ phần
phổ thông) tiến hành triệu tập Đại hội đồng cổ đông để bãi miễn thành viên X do nhóm cổ đông 22% dồn phiếu
bầu ra và bầu thành viên mới để thay thế.

Như vậy, theo quy định tại Khoản 2 Điều 115 Luật Doanh nghiệp 2005, thành viên Hội đồng quản trị có thể bị
bãi miễn bất cứ lúc nào theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông nên không cần phải có điều kiện bãi miễn nào,
thành viên Hội đồng quản trị vẫn bị bãi miễn.

Tuy nhiên vấn đề chúng ta bàn trong tình huống này là tính hợp lý của việc bãi miễn thành viên Hội đồng quản
trị. Rõ ràng quy tắc bầu dồn phiếu quy định tại Điểm c Khoản 3 Điều 104 Luật Doanh nghiệp 2005 có mục đích
là đảm bảo cổ đông thiểu số cũng có thể có cử người của mình tham gia Hội đồng quản trị nhằm làm cho quản
trị điều hành được minh bạch. Nhưng chính quy định về bãi miễn thành viên Hội đồng quản trị vô tình đã làm vô
hiệu hóa ý nghĩa trên của bầu dồn phiếu. Rõ ràng nhóm cổ đông 22% trong tình huống trên là cổ đông nhỏ nên
phải dồn tất cả phiếu của mình mới cử được một người vào làm thành viên Hội đồng quản trị. Nhưng thành viên
này “ngồi chưa ấm chỗ” đã bị nhóm cổ đông lớn chiếm 65,3% bãi miễn bất chấp nhóm cổ đông thiểu số 22%
phản đối việc bãi miễn này. Đây chính là cách thức để nhóm cổ đông lớn hơn 65% dần dần độc chiếm quyền
quản lý điều hành.

Từ vấn đề này thiết nghĩ nên sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005 sao cho quyền của cổ đông thiểu số được bảo vệ.
Đáng lẽ Luật doanh nghiệp nên quy định một điều khoản theo đó thành viên Hội đồng quản trị chỉ bị bãi miễn
khi có những điều kiện nhất định, chứ không thể bị bãi miễn bất cứ khi nào theo quyết định của Đại hội đồng cổ
đông.

You might also like