Professional Documents
Culture Documents
Cây khoai tây ( Solanum tuberosum) là một trong những cây lương
thực chính của thế giới, xếp thứ tư sau lúa mỳ, gạo và ngô. Sản lượng
khoai tây hằng năm vào cuối những năm 1990 từ 270 triệu tấn đã tăng
đến 312 triệu tấn, chiếm 24% tổng sản lượng lương thực các loại, chiếm
50% sản lượng các loại cây có củ làm lương thực. Ở các nước khu vực
Châu Á và Thái Bình Dương, trong thế kỷ XX, cây khoai tây đã được
phát triển toàn diện với tốc độ nhanh so với các vùng khác trên thế giới.
Ở Australia, sản lượng khoai tây đã tăng gấp đôi, do năng suất đã tăng từ
14 tấn lên 29 tấn/ha. Ở Nhật Bản, diện tích trồng khoai tây đã giảm từ
214.000 còn 111.000 ha, nhưng sản lượng vẫn ở mức ổn định với 3,6
triệu tấn do năng suất tăng gần 80. Năm 2000, Trung quốc đã trở thành
nước dẫn đầu về sản xuất khoai tây trên thế giới.
Ở Việt Nam khoai tây là cây trồng mới nhập nội từ châu Âu do
người Pháp đưa vào năm1890. Trước năm 1970, diện tích trồng khoai tây
chỉ khoảng 2000 ha, sau đó tăng dần lên tới 102.000 ha ở năm 1979 -
1980 và cho đến nay đạt 180.000 ha. Năng suất khoai tây tăng rõ rệt từ 15
- 20 tấn/ha đến 35 - 40 tấn/ha. Hiện nay, khoai tây ở Việt Nam được sử
dụng làm thực phẩm cho người, được coi là loại rau sạch trên thị trường.
Là cây trồng ngắn ngày, khoai tây được nông dân Bắc Việt Nam sử dụng
để tăng vụ, cho hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất vụ đông. Để cây khoai
tây đạt được năng suất cao thì chất lượng củ giống có vai trò quyết định.
Tuy nhiên trong thực tế, nông dân thường dùng khoai tây thương phẩm
để làm giống nên chất lượng không được bảo đảm, năng suất không
cao.Vì thế, để có những vụ khoai tây được mùa bội thu thì yếu tố về
giống là rất quan trọng và có rất nhiều cách bảo quản giống khoai tây
như: bảo quản trong hộ gia đình dùng giàn, hoặc quy mô công nghiệp thì
dùng kho lạnh... Việc bảo quản khoai tây giống bằng kho lạnh rất hiệu
quả và đã giúp tỷ lệ hao hụt trong quá trình bảo quản giống giảm xuống
dưới 10%, tăng năng suất thu hoạch từ 10% đến 15% so với trước. Đặc
biệt, đã giúp các địa phương chủ động về giống khoai tây trong sản xuất.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của kho lạnh như vậy, qua môn học
công nghệ bảo quản củ do Thầy Nguyễn Mạnh Khải là giảng viên chính,
chúng tôi đã được tìm hiểu hệ thống bảo quản khoai tây giồng trong kho
lạnh của trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
Trong quá trình tìm hiểu, nhóm chúng tôi đã tiếp thu được một số kiến
thức như sau:
1.Một số biến đổi của khoai tây sau quá trình thu hoạch:
1.1.Hô hấp của củ:
Hô hấp là quá trình trao đổi chất chủ yếu của các loại củ tươi với môi
trường. Nghĩa là củ tươi sử dụng gluxit dự trữ ở củ để oxi hoá, phân huỷ
các chất sinh ra năng lượng, cung cấp cho tế bào trong củ duy trì sự sống
.Quá trình hô hấp làm cho củ tiêu tốn vật chất, củ toả nhiệt và thoát mất
nước ra khỏi củ làm cho củ khô dần đi.
1.2.Mọc mầm ở củ:
Mọc mầm trong giai đoạn bảo quản củ tươi là quá trình biến đổi sinh
lý và kết thúc giai đoạn ngủ nghỉ của củ. Thời gian ngủ nghỉ của các loại
củ khác nhau là khác nhau. Khoai tây có thời gian ngủ nghỉ khoảng 3
tháng sau thu hoạch. Khi ở điều kiện nhiệt độ thích hợp thì củ chuyển từ
giai đoạn ngủ nghỉ sang nảy mầm từ các mắt ở vỏ củ, thành những chồi
cao-thấp khác nhau và mọc lá dần, tuỳ theo từng loại giống củ. Khi củ đã
nảy mầm thì giảm giá trị rõ rệt và có thể mất hẳn giá trị như không ăn,
không sử dụng được.Vì lúc này củ thường sinh độc tố tập trung nhiều ở
mầm và xung quanh mầm. Ở khoai tây mọc mầm không nên ăn vì có độc
tố solanin hại máu và ăn nhiều dẫn đến tử vong.
1.3.Thối hỏng:
Do sự xâm nhập của vi sinh vật: nấm, vi khuẩn...gây ra hiện tượng thối
hỏng:
+ Do nấm mốc (Helminthiospornim Solana gây bệnh bạc vỏ;
Thanatephorus cocumeric gây bệnh ung thư củ và Fusarium gây bệnh
thối củ).
+ Do vi khuẩn (Erwinia gây bệnh thối mềm; Corynebacterium
Sepedonium gây bệnh thối vòng thượng tầng; Seudomona solamaceraum
gây bệnh thối nâu.