Professional Documents
Culture Documents
0 COMMENTAIRES
Tags:
• flavonoid
• hoạt chất sinh học
Vì thế flavonoid được xem là một nhóm hoạt chất lớn trong dược liệu.
Phần lớn các flavonoid có màu vàng. Ngoài ra, còn có những chất màu xanh, tím, đỏ, hoặc không màu.
Flavonoid có mặt trong tất cả các bộ phận của các loài thực vật bậc cao, đặc biệt là ở hoa, tạo cho hoa
những màu sắc rực rỡ để quyến rũ các loại côn trùng giúp cho sự thụ phấn của cây. Trong cây, flavonoid
giữ vai trò là chất bảo vệ, chống oxy hoá, bảo tồn acid ascorbic trong tế bào, ngăn cản một số tác nhân
gây hại cho cây (vi khuẩn, virus, côn trùng,…), một số còn có tác dụng điều hoà sự sinh trưởng của cây
cối.
- Hyaluronidase là enzym làm tăng tính thấm của mao mạch, khi thừa enzym này sẽ xảy ra hiện tượng
xuất huyết dưới da. Flavonoid ức chế sự hoạt động của hyaluronidase, vì thế, nếu được bổ sung
flavonoid, tình trạng trên sẽ cải thiện. Phối hợp với vitamin C, flavonoid của hoa Hoè (rutin) sẽ tăng
cường tác dụng trị liệu.
- Những nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra những tác động của thực phẩm giàu flavonoid với những nguy
cơ về tim mạch như huyết áp cao. Flavonoid làm bền thành mạch, được dùng trong các trường hợp rối
loạn chức năng tĩnh mạch, giãn hay suy yếu tĩnh mạch, trĩ, rối loạn tuần hoàn võng mạc…
- Flavonoid còn có tác dụng chống độc, làm giảm thương tổn gan, bảo vệ chức năng gan.
- Nhiều flavonoid thuộc nhóm flavon, favanon, flavanol có tác dụng lợi tiểu rõ rệt, đó là các flavonoid có
trong lá Diếp cá, trong cây Râu mèo…
- Trên hệ tim mạch, nhiều flavonoid như quercetin, rutin, myricetin, hỗn hợp các catechin của Trà có tác
dụng làm tăng biên độ co bóp tim, tăng thể tích phút của tim…
- Cao chiết từ lá Bạch quả (Ginko biloba) chứa các chất của kaempferol, quercetin, isorhammetin có tác
dụng tăng tuần hoàn máu trong động mạch, tĩnh mạch và mao mạch, dùng cho những người có biểu
hiện lão suy, rối loạn trí nhớ, khả năng làm việc đầu óc sút kém, mất tập trung, hay cáu gắt…
Theo nghiên cứu mới đây, bác sĩ Lee Hooper, giảng viên trường đại học East Anglia tại bang Norwich,
U.K., và cộng sự đã sàng lọc hơn 133 nghiên cứu đã tìm ra được mối liên kết giữa những phân lớp
flavonoid khác nhau và thực phẩm giàu flavonoid trên những tác nhân gây nguy cơ cho bệnh tim mạch,
như cholesterol có hại, huyết áp cao hay máu chảy chậm.
- Ăn chocolate hoặc ca cao làm tăng sự giãn nở mạch máu. Chúng cũng làm giảm áp suất của máu, tâm
thu (phản ánh áp lực tối đa khi tim co lại) bằng khoảng 6 điểm, và tâm trương (phản ánh áp lực tối đa khi
tim giãn) khoảng 3.3 điểm. Nhưng điều này dường như không có ảnh hưởng gì đến cholesterol LDL xấu.
- Protein đậu nành cũng làm giảm áp lực máu tâm trương gần bằng 2 điểm thủy ngân và cải thiện protein
xấu, nhưng không ảnh hưởng đến cholesterol HDL tốt. Những ảnh hưởng này được tìm thấy trong
protein đậu nành đơn, không có trong những sản phẩm từ đậu nành khác.
- Thói quen uống trà xanh cũng làm giảm lượng cholesterol xấu trong máu, nhưng uống trà đen sẽ làm
tăng áp suất của cả tâm thu và tâm trương, tăng lên 5.6 điểm cho tâm thu và 2.5 điểm cho tâm trương.
Trong dân gian từ lâu đã sử dụng những dược liệu giàu flavonoid để giữ gìn sức khoẻ bằng cách dùng
đơn giản là trà thuốc, thuốc sắc như nước trà (chè), trà artichaut,… vừa rẻ tiền vừa hiệu quả. Những
dược liệu có hàm lượng cao flavonoid đã được khai thác và chiết xuất lấy flavonoid để phục vụ nền công
nghiệp dược: hoa Hoè, vỏ Cam, Núc nác, Hoàng cầm, lá Xoài, bồ Kết… và một số flavonoid đã được
nghiên cứu, sản xuất thành sản phẩm: thuốc viên, thuốc nước,… rất tiện sử dụng.
Nhưng vẫn còn nhiều điều chúng ta vẫn chưa tìm ra được đối với nhóm hợp chất flavonoid.
Trong lúc đó, chúng ta phải làm gì? Chúng ta cần ăn nhiều thực phẩm giàu flavonoid, bao gồm thật các
loại hoa quả, một miếng chocolate đen (ít nhất 70% cacao), dùng thêm hành, trà xanh và thỉnh thoảng
uống một ly rượu vang đỏ.
Nghiên cứu tác dụng chống viêm của flavonoid chiết xuất từ rễ
cây cao cẳng (Radix Ophiopogonis confertifolius) trên thực
nghiệm
26/02/2008
Đề tài do các tác giả Nguyễn Thị Vinh Huê, Nguyễn Duy Thuần (Viện Dược liệu),
Phạm Thị Vân Anh, Nguyễn Trọng Thông (Bộ môn Dược lý – Trường ĐH Y Hà Nội)
thực hiện nhằm đánh giá tác dụng chống viêm của flavonoid chiết từ rễ cao cẳng trên
thực nghiệm.
Cây cao cẳng là cây thuốc mới của Việt Nam, đã được xác định tên khoa học là
Ophiopogonis confertifolius. Dịch chiết nước rễ cao cẳng dùng chữa nhiều bệnh như nhức
mỏi chân tay, viêm đau khớp, thận suy… Để có kết quả đánh giá kỹ hơn về tác dụng sinh
học của cây cao cẳng, nhóm tác giả tập trung nghiên cứu tác dụng của rễ thông qua các
nhóm chất có trong rễ cao cẳng, phân tích thành phần hoá học và tách chiết được 2 nhóm
hoạt chất chính là saponin và flavonoid.
Nghiên cứu tiến hành với flavonoid toàn phần chiết từ rễ cao cẳng hoà trong dung môi
nước thành dung dịch có tỷ lệ 2,98%, các hoá chất prednisolon, carragenin…; động vật
thí nghiệm là chuột nhắt trắng khoẻ mạnh, trọng lượng 18-22g, chuột cống trắng khoẻ
mạnh, trọng lượng 120 ± 20g; phương pháp gây viêm cấp (gây phù hân chuột bằng
carragenin, gây viêm màng bụng với 4 lô: lô 1 đối chứng - uống NaCl 9‰, thể tích
1ml/100g; lô 2 uống indomethanin liều 25mg/kg; lô 3 uống flavonoid liều 8mg/kg; lô 4
uống flavonoid liều 24mg/kg); gây viêm mạn (gây u hạt)…
Kết quả cho thấy, flavonoid có tác dụng chống viêm rõ rệt. Trên mô hình gây phù chân
chuột, flavonoid rễ cao cẳng liều 8mg/kg và 24mg/kg có tác dụng ức chế phản ứng phù ở
các thời điểm sau 2 giờ, 4 giờ và 24 giờ so với chứng. Trên mô hình gây tràn dịch màng
bụng, flavonoid rễ cao cẳng ức chế rõ rệt sự tạo thành dịch rỉ viêm, làm giảm số lượng
bạch cầu trong dịch rỉ viêm và làm giảm hàm lượng protein trong dịch rỉ viêm. So với các
kết quả nghiên cứu trước về tác dụng chống viêm của saponin chiết xuất từ rễ cao cẳng,
flavonoid có tác dụng chống viêm trên mô hình gây tràn dịch màng bụng tốt hơn trên mô
hình gây phù chân chuột. Trong thử nghiệm về tác dụng chống viêm mạn trên mô hình
gây u hạt ở chuột nhắt trắng, flavonoid với liều 13mg/kg và 39mg/kg không làm giảm
một cách có ý nghĩa trọng lượng u hạt.
Flavonoid
• Cấu trúc hoá học, phân loại flavonoid
• Flavan, Flavon, Flavonol, Isoflavon: vẽ khung cấu tạo, cho 1 chất làm ví dụ.
• Proanthocyanidin là ǵ ? Tên khác đồng nghĩa ? Cho 1 chất làm ví dụ (tên khác , nguồn gốc
• Sự giống nhau , khác nhau về cấu trúc hoá học , các phản ứng định tính giữa flavonoid và c
• Tính chất, định tính, định lượng flavonoid
• Chiết xuất flavonoid
• Tác dụng sinh học và công dụng của flavonoid
• Các dược liệu chứa flavonoid: Hoa hoè; Núc nác, Kim ngân, Hồng hoa; Actis
• Vẽ công thức cấu tạo của Rutin, tác dụng, công dụng, nguồn nguyên liệu có thể khai thác R
• Nguồn nguyên liệu chứa Flavonoid có thể khai thác ở quy mô lớn . Phương pháp chiết xuất
• Nêu 2 dược liệu chứa flavonoid độc (tên, họ Việt Nam , tên, họ khoa học , bộ
Cây đỏ ngọn (Cratoxylon prunifolium Kurtz, họ Ban Hypericaceae) là loại cây gỗ nhỏ mọc chủ
yếu ở vùng trung du và đồi núi phía Bắc với trữ lượng khá lớn. Theo tài liệu "Những vị thuốc và
cây thuốc Việt Nam" của Đỗ Tất Lợi (1995), cây đỏ ngọn mới thấy dùng trong phạm vi nhân dân
làm thuốc bổ, kích thích tiêu hóa, phục hồi sức khỏe khi đau yếu hay sau khi sinh đẻ. Gần đây
một số tác giả đã nghiên cứu và cho thấy lá cây đỏ ngọn có hoạt tính chống gốc tự do, có thể so
sánh được với Tanakan (là thuốc được dùng để bảo vệ thành mạch, chống lão hoá, tăng trí nhớ ở
người lớn tuổi) (Nguyễn Liêm và CS, 1996).
Với mục đích góp phần nghiên cứu để có thể chế ra một loại thuốc từ dược liệu trong nước có tác
dụng chống gốc tự do (antioxydant), tăng cường khả năng bảo vệ của cơ thể, nhất là với hệ thần
kinh trung ương, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu này.
MỤC TIÊU ĐỀ TÀI :
1. Đánh giá ảnh hưởng của dịch chiết toàn phần và flavonoid lá đỏ ngọn lên một số chức năng
của hệ thần kinh trên động vật thực nghiệm.
2. So sánh tác dụng của các chất trên với Tanakan.
Đề tài được thực hiện tại bộ môn Sinh lý học, HVQY.
2. TỔNG QUAN
UốngTanakan
10 1,93 ? 0,14 2,06 ? 0,34 10 19,86 ? 1,42 32,62 ? 6,30
UốngCratonin
10 2,10 ? 0,19 2,22 ? 0,17 15 20,01 ? 1,12 31,98 ? 6,42
Uống dịch
flavonoid 6 2,07 ? 0,12 2,20 ? 0,10 10 19,72 ? 1,64 32,56 ? 7,12
Uống nước
muối sinh lý 15 20,02 +1,54 31,76 + 6,60
Các số liệu từ bảng 1 cho thấy: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về chỉ số trọng lượng
giữa các lô thỏ uống thuốc khác nhau. Sau 10 ngày uống thuốc trọng lượng thỏ thay đổi không
đáng kể, mức tăng trung bình từ 0,11kg đến 0,14kg.
Kết quả tương tự cũng quan sát được ở các nhóm chuột nghiên cứu. Mức tăng trọng lượng của
các nhóm chuột uống thuốc sau 10 ngày và nghiên cứu kéo dài 30 ngày đạt trung bình 11,97g
đến 12,86g, song khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê giữa các lô (p > 0,05).
Bảng 2: Nồng độ Catecholamin (mg%) trong máu thỏ ở các lô nghiên cứu.
Uống Tanakan
(n=10) 3,93 ? 0,51 5,33 ? 0,40 + 35,62 < 0,001
Uống Cratonin
(n=10) 3,97 ? 0,62 5,14 ? 0,64 + 29,47 < 0,001
UỐNG FLAVONOID
(N=6) 2,99 ? 0,81 4,60 ? 1,28 + 53,85 <0,01
Phân tích các số liệu ở bảng 2 chúng tôi nhận thấy: Hàm lượng Catecholamin trong máu thỏ sau
khi uống thuốc Tanakan, Cratonin, dịch flavonoid lá đỏ ngọn đều tăng rõ so với trước uống
thuốc (p < 0,01 - 0,001).
Tuy nhiên, mức tăng hàm lượng Catecholamin này ở các lô động vật có khác nhau: thấp nhất
quan sát thấy ở lô thỏ uống Cratonin là 29,47%, lô uống Tanakan 35,62% và cao nhất ở lô uống
dịchflavonoid 53,85%.
Mức độ tăng hàm
lượng Catecholamin t
rong máu thỏ các
nhóm nghiên cứu có
thể quan sát thấy ở
biểu đồ 1.
1 - LÔ
UỐNG CRATONIN
2 - LÔ
UỐNG TANAKAN
3 - Lô
uống flavonoid lá đỏ
ngọn
Biểu đồ 1: Mức tăng
(%) hàm lượng Catecholamin trong máu thỏ các nhóm nghiên cứu.
Bảng 3: Tỷ lệ các sóng cơ bản điện não đồ ghi từ thể lưới thân não và vùng vỏ não cảm giác-
vận động ở thỏ uống Tanakan và Cratonin
Cấu trúc Tỷ lệ các sóng Uống Tanakan (n=10) Uống Cratonin (n=10)
não (%)
Trước uống Sau uống Trước uống Sau uống
Thể lưới Delta 36,4 ? 6,9 32,2 ? 5,3 36,8 ? 6,3 36,2 ? 7,1
thân não Theta 40,0 ? 9,9 41,2 ? 7,6 41,1 ? 8,6 39,2 ? 10,5
Alpha 7,1 ? 1,2 9,8 ? 1,6 * 7,3 ? 1,5 7,6 ? 1,6
Beta 16,4 ? 5,5 16,6 ? 2,9 14,8 ? 5,3 17,1 ? 6,0
Vỏ não Delta 35,2 ? 7,9 28,3 ? 4,4** 36,5 ? 8,6 35,9 ? 8,4
cảm giác- Theta 43,2 ? 12,2 45,8 ? 7,5 41,1 ? 9,1 42,2 ? 9,6
vận động
Alpha 6,1 ? 1,1 9,2 ? 0,9 *** 7,7 ? 1,1 6,8 ? 1,2
Beta 15,4 ? 3,6 16,7 ? 2,4 14,5 ? 3,6 15,0 ? 3,8
Bảng 4: Tỷ lệ các sóng cơ bản điện não đồ ghi từ thể lưới thân não và vùng vỏ não cảm giác-
vận động ở thỏ uống flavonoid lá đỏ ngọn
KẾT QUẢ TRÌNH BÀY Ở BẢNG 4 CHO THẤY: Ở THỎ SAU UỐNG FLAVONOID LÁ
ĐỎ NGỌN THÀNH PHẦN CÁC SÓNG ĐIỆN NÃO THAY ĐỔI TƯƠNG TỰ NHƯ
NHÓM THỎ UỐNG TANAKAN:
* THÀNH PHẦN SÓNG DELTA GIẢM, THÀNH PHẦN SÓNG ALPHA TĂNG Ở CẢ
THỂ LƯỚI THÂN NÃO VÀ VỎ NÃO VÙNG CẢM GIÁC - VẬN ĐỘNG (P 0,05 - 0,01).
(CÓ THỂ QUAN SÁT RÕ SỰ BIẾN ĐỔI NÀY TRÊN BIỂU ĐỒ 2 VÀ BIỂU ĐỒ 3).
* THÀNH PHẦN SÓNG THETA CÓ TĂNG NHƯNG CHƯA CÓ Ý NGHĨA THỐNG KÊ
(P 0,05), THÀNH PHẦN SÓNG BETA THAY ĐỔI KHÔNG ĐÁNG KỂ Ở CẢ HAI CẤU
TRÚC NÃO ĐƯỢC NGHIÊN CỨU.
Hình 1. Điện não đồ thỏ ghi từ thể lưới thân não (1) và vỏ não cảm giác vận động (2) vào các
thời điểm trước (A) và sau ( B) uống dịch flavonoid lá đỏ ngọn.
Bảng 5: Biên độ biến đổi chung (µ V) của điện não đồ ghi từ thể lưới thân não và vỏ não cảm
giác- vận động của thỏ trước và sau uống thuốc.
Biên độ chung p
Uống Tanakan(n=10) 1-
121,54 ? 97,62 ? 7,86 125,42 ? 96,24 ? 8,76 2<0,01
19,12 16,36 3-
4<0,01
Uống Cratonin(n=10) 1-
114,67 ? 111,05 ? 9,95 112,74 ? 108,30 ? 2>0,05
12,32 13,26 10,29 3-
4>0,05
Uống flavonoid lá đỏ 1-
ngọn (n=6) 105,71 ? 87,16 ? 7,24 104,50 ? 82,60 ? 6,94 2<0,01
13,25 14,10 3-
4<0,01
Các số liệu từ bảng 5 cho thấy: Trừ lô thỏ uống Cratonin, các lô thỏ uống Tanakan, flavonoid lá
đỏ ngọn có biên độ chung các sóng điện não ghi ở thể lưới thân não và vỏ não cảm giác- vận
động sau uống đều giảm rõ so với trước uống (p < 0,01). Mức độ giảm biên độ chung các sóng
điện não ở hai nhóm thỏ là tương đương nhau. Có thể quan sát rõ hiện tượng này qua biểu đồ 2.
1-Lô
uống Tanakan 2-Lô uống Cratonin
3-Lô uống Flavonoid lá đỏ ngọn
Biểu đồ 2: Mức độ giảm (%) biên độ chung thành phần các sóng điện não ghi từ
thể lưới thân não và vỏ não vùng cảm giác- vận động ở các nhóm thỏ nghiên
cứu.
Bảng 6: Tốc độ hình thành phản xạ có điều kiện tìm thức ăn trong mê lộ của các lô chuột nghiên
cứu
UỐNG TANAKAN (N=10) (2) 13,2 ? 1,6 23,4 ? 3,7 27,1 ? 0,8 17,1 ? 3,1
UỐNG CRATONIN
16,3 ? 4,2 38,5 ? 7,5 38,6 ? 4,6 19,2 ? 5,6
(N=15) (3)
5. BÀN LUẬN
* Qua theo dõi các lô động vật sau 10 ngày uống Cratonin, flavonoid lá đỏ ngọn cũng
như Tanakan trọng lượng của thỏ và chuột không giảm, mà có sự tăng trưởng (bảng 1). Điều này
cho thấy các dược chất nghiên cứu là rất ít độc đối với cơ thể. Kết quả phù hợp với nghiên cứu
về LD50 của dịch chiết toàn phần lá đỏ ngọn rất cao (122,1 ? 33,6g/ kg thể trọng) (Nguyễn Bích
Luyện và CS, 1996).
* Theo chỉ số hàm lượng Catecholamin trong máu thỏ thí nghiệm cho thấy cả 3 loại dược
chất: Tanakan, Cratonin và flavonoid lá đỏ ngọn đều có tác dụng hoạt hoá hệ thần kinh thực vật,
thể hiện hàm lượng Catecholamin trong máu thỏ tăng một cách có ý nghĩa so với trước uống
thuốc ( p < 0,05 - 0,001, bảng 2).
Tác dụng của Tanakan làm giải phóng Catecholamin trong máu thỏ thí nghiệm của chúng tôi là
phù hợp với các nhận định đã nêu trong y văn (Vidal Việt Nam, 2001). So sánh mức tăng này ở
thỏ sau uốngCratonin (29,4%) và thỏ uống Tanakan (35,92%) là thấp hơn so với ở thỏ
uống flavonoid lá đỏ ngọn (53,85%) (biểu đồ 1).
* Theo sự biến đổi của các chỉ số điện não lại nhận thấy có sự khác nhau trong tác dụng của các
loại dịch nghiên cứu. Dịch flavonoid lá đỏ ngọn và Tanakan có tác dang làm giảm thành phần
sóng chậm delta (có biên độ lớn), tăng thành phần sóng alpha - sóng thể hiện sự hoạt động đồng
bộ của các tế bào não. Sự biến đổi này quan sát thấy ở cả thể lưới thân não và vùng não cảm
giác- vận động (bảng 3, 4). Điều này nói lên rằng dịch flavonoid của cây đỏ ngọn có tác dụng
hoạt hoá các tế bào thần kinh trong não bộ ở mức đồng bộ tốt tạo điều kiện cho não tiếp nhận và
xử lý thông tin (Vaciliev và CS,1982; Đỗ Công Huỳnh, 1991, 1993).
Trong khi đó, ở thỏ uống Cratonin, thành phần tất cả các sóng điện não thỏ thuộc thể lưới thân
não và vỏ não vùng cảm giác - vận động hầu như không có thay đổi đáng kể.
Điều này cũng được thể hiện ở các chỉ số nghiên cứu đánh giá về hoạt động thần kinh cấp cao
trên chuột nhắt (bảng 6, 7). Ở tất cả các lô chuột uống thuốc có chỉ số tốc độ hình thành phản xạ
và dập tắt phản xạ đều tốt hơn rõ so với lô chuột uống nước muối sinh lý song giữa các lô có
khác nhau. Trong đó, tốc độ để phản xạ tìm thức ăn trong mê lộ trở nên bền vững ở chuột uống
dịch flavonoid lá đỏ ngọn nhanh hơn so với chỉ tiêu này ở chuột uống Tanakan và Cratonin (p <
0,05 - 0,001), còn tốc độ dập tắt phản xạ chậm hơn so với chuột uống Tanakan. Điều này cho
thấy tuy ở mức độ khác nhau nhưng dịchflavonoid lá đỏ ngọn, Tanakan, Cratonin đều có tác
dụng làm tốt hai quá trình hưng phấn và ức chế trong hoạt động của não bộ.
Từ những kết quả nêu trên cho thấy: Tác dụng hoạt hoá hệ thần kinh trung ương, làm tốt hai quá
trình hưng phấn và ức chế trong não bộ của dịch flavonoid từ cây đỏ ngọn là tương đương với tác
dụng củaTanakan và tốt hơn Cratonin.
6. KẾT LUẬN
Dịch chiết toàn phần lá đỏ ngọn (Cratonin), dịch flavonoid lá đỏ ngọn đều có ảnh hưởng lên hoạt
động của hệ thần kinh ở các mức độ khác nhau:
1- Flavonoid và dịch chiết toàn phần lá đỏ ngọn, Tanakan đều có tác dụng hoạt hoá hệ thần kinh
thực vật, thể hiện ở sự tăng rõ hàm lượng Catecholamin trong máu động vật thí nghiệm sau uống
các thuốc này (p < 0,01- 0,001).
2- Flavonoid lá đỏ ngọn có tác dụng tương đương Tanakan gây hoạt hoá đồng bộ các tế bào não
ở thỏ thực nghiệm, thể hiện làm giảm thành phần sóng chậm delta, tăng thành phần sóng alpha
trên điện não đồ, còn dịch chiết toàn phần lá đỏ ngọn không thể hiện rõ tác dụng hoạt hoá hệ thần
kinh trung ương.
3- Flavonoid lá đỏ ngọn có tác dụng làm tốt cả hai quá trình hưng phấn và ức chế có điều kiện ở
não bộ động vật thí nghiệm (thông qua hoạt động phản xạ có điều kiện), tương đương
với Tanakan và tốt hơn tác dụng này của dịch chiết toàn phần lá đỏ ngọn.
4- Mức độ ảnh hưởng làm tăng cường chức năng hệ thần kinh trung ương của các chất theo thứ
tự giảm dần: flavonoid lá đỏ ngọn, Tanakan, dịch chiết toàn phần lá đỏ ngọn.
KIẾN NGHỊ
Qua kết quả nghiên cứu của đề tài, chúng tôi có kiến nghị sau:
- Nghiên cứu các dạng bào chế khác nhau của flavonoid lá đỏ ngọn để có thể sử dụng trong lâm
sàng với mục đích tăng cường hoạt động chức năng của hệ thần kinh trung ương nói riêng và khả
năng chịu đựng của cơ thể nói chung.
1. Lê Khả Kế
2. Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam, tập 2. NXB khoa học và kỹ thuật, 1974, Tr. 189
3. Nguyễn Liêm, Triệu Duy Điệt, Đỗ Văn Bình
Nghiên cứu tác dụng chống oxy hoá (antioxydant in vitro) của một số cây thuốc Việt
Nam. Công trình nghiên cứu khoa học quân sự, số 3- 1996, 30-33.
4. Nguyễn Liêm và CS
Nghiên cứu tác dụng chống oxy hoá (antioxydant) của cây đỏ ngọn để phòng và chữa các
bệnh về rối loạn huyết động. Đề tài cấp Bộ quốc phòng, Hà Nội, năm 1996.
5. Đỗ Tất Lợi
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam - NXB khoa học và kĩ thuật, Hà Nội, 1995.
6. Nguyễn Bích Luyện, Vũ Mạnh Hùng
Nghiên cứu độc tính cấp của Cratonin. Trong "Đề tài cấp bộ Quốc phòng: nghiên cứu
tác dụng chống oxy hoá (antioxydant) của cây đỏ ngọn đề phòng và chữa các bệnh về rối
loạn huyết động". 1996, 41-42.
7. Phạm Hoàng Hộ
Cây cỏ miền Nam Việt Nam, quyển 1. NXB Bộ giáo dục Trung tâm dược liệu, 1970, Tr.
305.
8. Đỗ Công Huỳnh và CS
Tìm hiểu tác dụng của nhung hươu sao (dạng bột khô) lên một số chỉ tiêu sinh lý ở động
vật. Công trình nghiên cứu y học quân sự, số phụ trương, 1996, 29-37.
9. Nguyễn Văn Minh và CS
Nghiên cứu cải tiến dạng bào chế thuốc Cratonin từ cây đỏ ngọn có tác dụng chống oxy
hoá. Đề tài cấp Bộ quốc phòng, Hà Nội, 2000.
10. Lê Thị Toàn, Dương Đình Bi, Đỗ Trung Đàm, Vũ Thị Tâm
Nghiên cứu tác dụng tăng lực của Linh chi trong thí nghiệm chuột bơi. Tạp chí dược học
số 2/1996, 14-15.
11. Nguyễn Quang Thường, Nguyễn Thị Bích, Nguyễn Gia Chân, Đỗ Ngọc Sơn
Thăm dò hoạt tính chống oxy hoá của Linh chi. Tạp chí dược học số 8/1996, 18-21.
12. Vidal Việt Nam, 2001, 557
13. Vaciliev và CS
Nghiên cứu giá trị đồng bộ của điện thế vỏ não khi mức hoạt hoá của vỏ đại não
tăng. Tạp chí Sinh lý người, T8, N01, 1982, 3-10 (Tiếng Nga).
14. Trần Cẩm Vinh
Tác dụng của cây đỏ ngọn trong quá trình đông máu. Công trình nghiên cứu y học quân
sự, số 3, 1997, Tr. 7 - 9.
15. Trần Cẩm Vinh
Tác dụng kháng đông của Flavonoid lá đỏ ngọn. Trong đề tài cấp Bộ quốc phòng "Nghiên cứu
cải tiến dạng bào chế thuốc Cratonin từ cây đỏ ngọn có tác dụng chống oxy hoá", Hà Nội, 2000.
vihuco.com http://vihuco.com
Công dụng của FLAVIN7
04/01/2009
Vào năm 1928, nhà Bác học Szent Gyorgyi Albert người Hungary phát minh ra chất
Flavonoid. Chất này có tác dụng tăng sức đề kháng cơ thể và tiêu diệt mầm mống ung
thư, giảm đau đối với các bệnh nhân ung thư giai đoạn 2, hỗ trợ tim mạnh và bổ gan...
Flavin7 là loại Thực phẩm Chức năng được chiết xuất từ nhiều loại hoa quả, cây... quý
hiếm giầu chất Flavonoid, được dùng phổ biến tại Âu - Mỹ và nay có mặt tại Việt nam.
VIHUCO xin giới thiệu một số đoạn viết đã được đăng tải về lịch sử phát triển và công
dụng của Flavin7.
Lịch sử của Flavin7.
Ông Sabor, tốt nghiệp đại học Sư phạm tại Hungary năm 1994. Ông đã trăn trở bởi bệnh nhồi
máu cơ tim. Bệnh nhồi máu cơ tim rất nguy hiểm, giảm quy trình tạo máu và tăng huyết áp
của bố ông. Giảm quy trình tạo máu Trong suốt 20 năm, cứ 1 năm thì 8 tháng ông lại phải
truyền 3.5 lít máu vào cơ thể. Và vì vậy, cùng với vợ, Ông Sabor đã ngày đêm nghiên cứu
thực vật và hoa quả, và chiết xuất thành công Flavin7 từ 7 loại hoa quả khác nhau trong đó
hàm lượng Flavonoid là chủ yếu. Thành phần của nó giàu chất đạm, chất béo, gluxit và
polifenol. Khoa học đã chứng minh tác dụng quý báu của Flavonoid vào năm 1928 cũng do
một nhà Bác học Szent Gyorgyi Albert người Hungary phát minh ra. Chất này có tác dụng
tăng sức đề kháng cơ thể và tiêu diệt mầm mống ung thư, giảm đau đối với các bệnh nhân
ung thư giai đoạn 2, hỗ trợ tim mạnh và bổ gan. Sử dụng loại nước hoa quả trên, Bố ông
Sabor đã dần hồi phục sức khỏe, tình trạng ngày một tốt hơn, ông không còn phải đến bệnh
viện để truyền máu. Ông hoàn toàn khỏi bệnh và đi làm được. Một kết quả thật sự đáng
mừng và vì vậy, ông Sabor đã quyết định sản xuất loại nước hoa quả này và tiếp tục nghiên
cứu sản xuất ra 36 loại sản phẩm khác nhau góp phần vào hỗ trợ điều trị bệnh. Ban đầu, ông
cho sử dụng miễn phí và thử nghiệm tại các bệnh viện của Hung, 100 bác sỹ và 800 bệnh
nhân đã được cấp miễn phí. Các bệnh nhân sau khi sử dụng đã cho kết quả như sau:
- Bệnh nhân ung thư vú sau khi điều trị hóa chất tóc đã mọc trở lại sau 6 tuần và mọc dày lên.
- Bệnh nhân đá bị ung thư phổi: Khối u ban đầu là 6cm và sau 6 tháng đã giảm xuống còn
1.5cm. Sức khỏe đã khôi phục.
- Bệnh nhân u mắt 8 năm nếu không có flavin7 đã không còn khả năng tồn tại.
- Bệnh nhân ung thư vòm họng: sau 3 tháng đã đỡ và sau 15 tháng thì khỏi hẳn. Cơ thể đã
hoàn toàn khỏe mạnh.
- Bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, di căn: Kéo dài tuổi thọ, tăng sức đề kháng cơ thể và
giảm đau hiệu quả.
Lúc đầu thì Flavin7 được lưu hành trên thị trường như một loại hoa quả bổ dưỡng bồi bổ sức
khỏe, giảm nguy cơ bị ung thư, bao vây các tế bào ung thư, tăng sức đề kháng cơ thể, hỗ trợ
huyết áp, tim mạch, các bệnh về gan và dị ứng do gan. Bởi nghiên cứu cho thấy uống 10ml
Flavin7 tương đương với việc ăn 10kg hoa quả. Đến nay, sản phẩm đã được Viện dinh dưỡng
Quốc Gia của nước Hungary chứng nhận là thực phẩm chức năng và đạt tiêu chuẩn an toàn
sức khỏe theo quy định của EU. Các cuộc hội thảo về Flavin7 thường xuyên được tổ chức tại
các nước trên thế giới và ngày càng được các bác sỹ, các chuyên gia đầu ngành về sức khỏe,
y tế quan tâm. Hiện nay, Flavin7 đã được xuất sang các nước Châu Âu – Châu Mỹ, Nam Phi
và được Công ty Cổ phẩn Thương mại và dịch vụ Việt - Hung nhập khẩu phân phối độc
quyền tại Việt nam từ năm 2002 cho đến nay. Công ty đã tham gia chương trình “Hỗ trợ
bệnh nhân nghèo tại Viện K Trung Ương” bằng sản phẩm Flavin7. Với sự tham gia của 55
bác sỹ và 500 bệnh nhân sử dụng, đã một lần nữa khẳng định được công dụng của sản phẩm.
Nghiên cứu của Công ty Vital Crystal - Kết quả thử nghiệm lâm sàng.
(Trích từ tài liệu của Tiến sỹ Erdos Sándor. Bác sỹ chuyên khoa đầu ngành về ung thư -
Giám đốc thử nghiệm lâm sàng)
Chúng tôi vui mừng thông báo rằng ngày 01/05/2003, Viện thực phẩm và khoa học dinh
dưỡng Quốc gia (OETI) đăng ký các sản phẩm mới của Gia đình sản phẩm Flavin7. Do các
thủ tục cấp phép nghiêm ngặt, các sản phẩm bổ sung chế độ ăn uống này cũng đáp ứng được
các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Châu âu. Các sản phẩm này và tên của chúng được đăng ký
bản quyền tại Văn phòng đăng ký giấy phép độc quyền nhãn hiệu của Hungary.
Chúng tôi tự hào rằng từ năm 1998, cùng với những người lao động và thương nhân, chúng
tôi tiến hành thí nghiệm nhiều nhất trong việc ứng dụng flavonoids. Trong 5 năm qua, cùng
với 300.000 sản phẩm được sử dụng, nghiên cứu và phát triển đang được tiến hành trong
chương trình nghiên cứu con người có sự gắn kết chặt chẽ với 300 bác sỹ và 2.000 bệnh
nhân. Chúng tôi vui mừng bởi tác động tích cực của Flavonoids tới sức khỏe của con người
ngày một rõ rệt. Các thử nghiệm lâm sàng kiểm tra và sự nghiên cứu y học có liên quan tới
flavonoid đã thuyết phục ngày càng nhiều bệnh nhân và bác sỹ về sự gìn giữ sức khỏe, sự
phòng ngừa bệnh tật và các tác dụng tăng cường sự phục hồi của sản phẩm bổ dưỡng Flavin7
và các sản phẩm có chứa flavonoids.
Năm 2002. Flavin7 vì sức khỏe con người đã cùng với 55 Bác sỹ tình nguyện, bác sỹ chuyên
gia, nhóm các bác sỹ lâm sàng tiến hành thử nghiệm lâm sàng trên 295 bệnh nhân (100%).
Trong đó:
Các bệnh về u: 232 bệnh nhân (220 u ác tính, 12 bệnh nhân u giai đoạn đầu) chiếm 78,2%
Kết quả: Tình trạng 70 % bệnh nhân bị u ác tính có chất lượng cuộc sống tốt, được ổn định
chắc chắn. Trong quá trình kiểm tra lâm sàng, chúng tôi thấy rằng Flavin7 cải thiện đáng kể
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, Flavin7 giảm hoặc loại bỏ tác dụng không mong muốn
của phương pháp chữa trị hóa học phóng xạ, có tác dụng bảo vệ gan và tác dụng bảo vệ
cardio -toxicty. Sản phẩm giúp giảm đau ở các bệnh nhân bị di căn vào xương, và theo
phương pháp điều trị hóa học phóng xạ, các kết quả máu của họ (các tế bào máu trắng và số
lượng chứng huyết khối) mất ít thời gian để trở lại trạng thái bình thường hơn. Chúng tôi
ngạc nhiên khi thấy rằng nó đã tác động đến tâm trạng của bệnh nhân theo cách tích cực,
chúng tôi đã kiểm tra các tác dụng chống chán nản với 1 vài bệnh nhân.
Nhóm các bệnh khác: bệnh xơ gan, viêm gan, viêm phổi mãn tính, bệnh hen suyễn, bệnh dị
ứng. 32 bệnh nhân chiếm 11,3%.
Kết quả: Chức năng bảo vệ gan của Flavin7 được chứng minh rõ ràng bởi sự thật là các kết
quả về chức năng gan của các bệnh nhân bị xơ gan (sự mất bù) trở nên bình thường. Trong
trường hợp bệnh đái tháo đường, mức độ đường trong máu giảm dần, và tình trạng cân bằng
đã xảy ra. Hơi thở nito-oxy của các bệnh nhân bị viêm phổi mãn tính và viêm phế quản được
giảm đáng kể. Sự thật đó cũng dẫn đến việc giảm chứng viêm bộ phận hô hấp. Rất thú vị khi
kiểm tra bệnh nhân bị hẹp động mạch chủ do các bệnh đái tháo đường nặng. Những bệnh
nhân này đang ở giai đoạn kiểm tra ban đầu chỉ có thể đi 10m mà không bị đau, 5 – 6 tháng
sau khoảng cách này tăng 200- 250m. Sự thay đổi này kèm với sự nâng cao đáng kể tình
trạng thể chất và tinh thần của bệnh nhân.
Chúng tôi muốn nói lời cảm ơn tới Ban quản trị của Flavin7 vì sức khỏe. Chúng tôi cũng
muốn nói lời cảm ơn tới những bác sỹ này, những người đóng góp vào việc kiểm tra lâm
sàng Flavin7 đa trung tâm với công việc có ý thức của họ.
Vai trò của Flavonoids trong việc duy trì sức khỏe và chữa bệnh ung thư
(Tiến sĩ Laszlo Szabo - Hungary)
Trong những năm 1990 và cả trong năm 2001, các hoạt động liên quan đến các chất chống
oxy hóa, flavonoids và resveratrol giải quyết 1 cách cụ thể các khối u ác tính cùng với các
bệnh xơ cứng động mạnh, mạch vành và các bệnh về máu.
Tổ chức ung thư Quốc tế (văn phòng đại diện tại Lyon) đã đưa ra một quyết định đáng chú ý
trong tháng 12/1997. Họ cho rằng sự rủi ro của những khối u ác tính giảm đi rõ rệt giữa
những người dùng nhiều rau quả và hoa quả.
Những nghiên cứu khoa học gần đây về flavonoids và resveratrol khẳng định rằng những
chất thực phẩm tự nhiên này có khả năng ngăn chặn sự hình thành các gốc tự do, chúng làm
giảm stress của quá trình ô xy hóa và chúng có tác dụng chống mitomic trong các chất sinh
ung thư.
- Resveratrol là chất miễn dịch dưỡng sinh tự nhiên. Chất này ngăn cản sự di căn và sự sinh
sôi của tế bào ung thư và có tác dụng chống sự hình thành mạch trong quá trình phân bổ
mạch mới.
- Resveratrol và quercetine ngăn chặn một cách hiệu quả sự mở rộng và sự phát triển các u
biểu bì. Resveratrol ngăn chặn quá trình chuyển đổi COX-2 trong các tế bào ung thư vú.
Cả flavonoids apigenine và quercetine đều ngăn cản sự mở rộng và sự xâm lấn của khối u ác
tính.
Quercetine ngăn chặn sự ấn P21 – RAS trong ung thư biểu mô ruột kết. Nó cũng đóng vai trò
ngăn chặn chemo trong chất sinh ung thư colorectalis
Silyamrin có tác dụng chống angiogenetic cũng như ngăn chặn lipo-porexidantion bởi khả
năng chống peroxidative. Khả năng này có thể trói buộc các gốc tự do. Nó cũng ngăn chặn
những mối hại trong màng tế bào. Trong nhân tế bào, nó làm tăng sự tổng hợp RNA
ribosomal qua hoạt động RNA 1 - polymerase.
Phương châm làm việc của chúng tôi có thể là các nguyên tắc cơ bản của ”nil nocere” (không
hại bất kỳ ai) và “salus aegroti suprema lex” (chữa khỏi cho những người bệnh). Và dưới đây
là tác dụng của Flavonoids đã được khoa học chứng minh:
Chúng ngăn chặn quá trình ô xy hóa, giảm nguy cơ tai biến mạch máu và mạch vành, và
thrombocyte aggregation.
Flavin7 là sản phẩm bổ sung dinh dưỡng, không phải dược phẩm. Nó được cô đặc các phần
tử riêng biệt của các loại hoa quả. Những cây này được lấy ở các vùng mà không bị ô nhiễm
môi trường và được phân loại dựa vào nơi trồng và loại hoa quả. Giống như nước hoa quả cô
đặc, nó bao gồm vitamin các yếu tố vi lượng và khoáng chất.
Các khảo thực nghiệm có liên quan đến ứng dụng Flavin7
(TS.BS Sandor Erdos)
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 20 bệnh nhân, chủ yếu bị ung thư vú, dạ dày, bụng, ruột
kết, trực tràng. Theo quy tắc chuyên môn, bên cạnh thí nghiệm vật lý, chúng tôi đã áp dụng
các thông số thí nghiệm, các vật dùng để ghi khối u, các kiểm tra bàn soi và phương pháp
chẩn đoán đặc biệt thông qua phân tích chất lượng các chức năng cuộc sống.
Chúng tôi nhấn mạnh rằng trong chiến lược điều trị u ác tính phức tạp và riêng lẻ, các nhân
tố chủ yếu là thuộc hiện đại và phép chữa bệnh (cytostatic, kích thích tố, miễn dịch, kích
thích) bằng thuốc, chiếu sáng, phẫu thuật, nhưng các hoạt động chữa vi lượng dồng cân hỗ
trợ và thuốc bổ dưỡng là những nhân tố quan trọng nhất. Tuy nhiên việc ứng dụng cách điều
trị và phương pháp tổng quát, chính thức là rất quan trọng trong trường hợp u ác tính.
Sau đây là điều ngạc nhiên đầu tiên trong thử nghiệm lâm sàng. Một bệnh nhân bị ung thư
vú, không thể mổ vì bị bệnh tim, uống loại nước cô đặc đặc biệt này cùng với phép chữa
bệnh kích thích tố. Sau năm tháng, qua chụp tia X vú đã chỉ rõ sự thuyên giảm.Từ đó, một
năm đã qua đi và khối u ác tính có nhiều thùy con từ 30mm nay giảm xuống còn 14mm. Bên
cạnh đó, tuyến bạch huyết di căn ở lá nách đã giảm xuống. Một cơ cấu vỏ não chừng 2 –
3mm vây quanh các tuyến bạch huyết mà có thể nhìn thấy được. Bệnh nhân ở trong điều kiện
được cân bằng tốt. Mỗi ngày bệnh nhân uống 2x5ml thì tình trạng tim của họ khá tốt.
Trong trường hợp các bệnh nhân bị ung thư vú, chúng tôi nhận thấy ảnh hưởng của phép
chữa hóa học không còn hoặc giảm đi theo cấp độ đã đề cập trên đây.
Một trong các bệnh nhân của chúng tôi uống Flavin7 trong 3 tháng, G- GT cao của bệnh
nhân bây giờ chỉ còn bằng 1/10 so với trước khi sử dụng.
Trong trường hợp khác, bệnh xơ gan mất bù đã được đền bù. Trong một trường hợp nữa, một
bệnh nhân bị ung thư bụng, không thể mổ được, phải dùng đến thủ thuật mở bụng để thăm
dò. Sau khi sử dụng Flavin7, qua việc kiểm tra bụng, đã thấy rõ khối u giảm đi. Từ tháng 9
năm 2000. bệnh nhân ở trong điều kiện rất tốt, anh ta tăng lên 10kg, có thể làm việc và lái xe
được.
Chúng tôi có một số mình chứng rất tốt có liên quan đến các bệnh khác như bệnh Alzheimer,
bệnh vẩy nến, gravis arteriosclerosis, bệnh đái thái đường và các bệnh lây nhiễm virut. Gần
100 bác sỹ đa khoa và 20 chuyên gian đã tiến hành các cuộc khảo sát sâu hơn. Chỉ dùng mỗi
os thì không thấy có tác dụng không mong muốn. Số lượng dùng hàng ngày là 5ml (2x 5ml
cho những người từ 40 tuổi trở đi) để phòng ngừa. Trong trường hợp chẩn đoán là có bệnh
thì số lượng phụ thuộc vào từng bệnh cụ thể. Đối với các bệnh về lưu thông máu thì số lượng
dùng là 2x5ml. Đối với các u ác tính, sau khi mổ cơ bản, số lượng dùng thông thường là
2x10ml, hoặc có thể lên tới 3x10ml. Dùng Flavin7 có thể ngăn ngừa các bệnh về lưu thông
máu, hình vành và các u ác tính, nó giảm cả sự hoành hành của bệnh tật và tỷ lệ người chết.
URL của bản tin này::http://vihuco.com/modules.php?name=News&file=article&sid=11
© vihuco.com contact: sonhai937@gmail.com
Theo TS Thuận, sự thành công của một ca ghép tạng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
bảo quản thận trước ghép và sử dụng thuốc ức chế phản ứng thải ghép cho bệnh nhân sau
ghép thận đóng vai trò quan trọng. Tin từ TTXVN, các thuốc ức chế phản ứng thải ghép sử
dụng cho bệnh nhân sau ghép thận tại VN hầu hết được nhập ngoại với giá thành cao, do đó
chi phí điều trị sau ghép khá lớn. Từ thực tế đó, TS Dũng đã nghiên cứu tác dụng của
flavonoid trong lá cây chay để bảo quản mô thận và ức chế phản ứng thải ghép trên thực
nghiệm, tạo cơ sở khoa học sản xuất ra các thuốc mới ít độc, giá thành rẻ hơn so với thuốc
nhập ngoại.
Lá cây chay tươi được rửa sạch, sấy khô ở 80 độ C trong tủ sấy có thông khí với các thiết bị
chuyên dụng như máy sắc ký lỏng, máy ghi phổ, tủ nuôi cấy, kính hiển vi và các hoá chất,
thuốc khử để tách chiết flavonoid từ lá cây chay và thí nghiệm đối với một số loại chuột nhắt,
chuột cống và chuột lang.
Tiến hành hàng loạt các thí nghiệm, tác giả thu được kết quả: có thể sử dụng flavonoid như
một yếu tố bảo vệ thận ghép, hạn chế tổn thương tế bào thận do thiếu máu - tưới máu lại bởi
khả năng chống oxy hoá của flavonoid. Đồng thời, chất này cũng có tác dụng ức chế phản
ứng thải ghép thận, đặc biệt là phản ứng thải ghép mạn (khi ghép thận mà bắt đầu xuất hiện
những triệu chứng thải ghép) nhờ hoạt tính sinh học ức chế miễn dịch.
Qua nghiên cứu này, bằng phương pháp sắc khí cột (cho hỗn hợp từ 3-4 chất chảy qua cột sắc
khí), tác giả phân lập và xác định được các chất kaempferol (dạng bột vô định hình, màu
vàng) và ampelopsin (dạng tinh thể hình kim, màu vàng) từ lá chay. Đề tài mở ra hướng
nghiên cứu mới trong việc sử dụng flavonoid như một yếu tố bảo vệ mô trong tình trạng thiếu
máu - tưới máu trở lại, bởi ý nghĩa thực tiễn trong ghép tạng và trong các phẫu thuật có sử
dụng thủ thuật kẹp mạch máu tạm thời.
B.T.S
HOÀNG CẦM
Radix Scutellariae
Là rễ phơi khô của cây Hoàng cầm Scutellaria baicalensis. Georg. Họ hoa
môi Lamiaceae.
Tính vị: Vị đắng, tính hàn.
Qui kinh: vào các kinh Tâm, Phế, Can, Đởm, Đại tràng, Tiểu tràng.
Ứng dụng lâm sàng:
1. Thanh thấp nhiệt, trừ hỏa độc ở tạng phế: dùng cho các bệnh phế ung,
phế có mủ, viêm phổi. gây sốt cao; hoặc trường hợp hàn nhiệt vãng lai
(lúc sốt, lúc rét), trị ho do phế nhiệt.
2. Lương huyết an thai: dùng trong các trường hợp thai động chảy máu
phối hợp với Ngãi diệp, Chư ma căn.
3. Trừ thấp nhiệt ở vị tràng: dùng trong các bệnh tả lî, đau bụng, phối hợp
với Hoàng liên.
4. Chỉ huyết: dùng trong bệnh thổ huyết, chảy máu cam, đại tiểu tiện ra
máu, băng huyết, hoặc bí tiểu tiện.
5. Thanh can nhiệt: dùng chữa đau mắt đỏ.
Liều dùng: 4-12g
Kiêng kî: những người tỳ vị hư hàn; phụ nữ có thai không động thai không
dùng.
Chú ý:
○ Tác dụng dược lý: nước sắc Hoàng cầm có tác dụng giải nhiệt,
phần Genin của Flavonoid có tác dụng lợi niệu. Dịch ngâm hoặc
thuốc sắc có tác dụng hạ huyết áp, cầm máu.
○ Tác dụng kháng khuẩn: Hoàng cầm có tác dụng kháng khuẩn khá
rộng, ức chế trực khuẩn bạch hầu, tụ cầu, song cầu khuẩn, viêm
não, song cầu khuẩn, viêm phổi, liên cầu khuẩn dung huyết, trực
khuẩn thương hàn, ho gà, lî. Đáng chú ý là phần tác dụng lại
chính là phần Genin của flavonoid.
○ Hoàng cầm chưa qua chế biến bị ẩm, thường xuất hiện màu
xanh, nguyên nhân gây ra hiện tượng đó là do men Baicalinase
có trong bản thân Hoàng cầm, thủy phân một số flavonoid thành
sản phẩm khi gặp oxy của không khí, sẽ bị oxy hóa thành sản
phẩm có màu xanh. Sản phẩm này có tác dụng thanh nhiệt kém
đi, tác dụng kháng khuẩn giảm hẳn. Do đó, trong quá trình chế
biến, khi làm mềm, cần đồ vị thuốc để diệt men, đảm bảo hoạt
chất của thuốc.
Tãm t¾t
Khảo sát thành phần hóa học một số cây thuốc có tác dụng chống oxy hóa ở khu vực Hà
Nội.
Lựa chọn cây thuốc có tác dụng chống oxy hóa để định tính và định lượng flavonoid, sàng
lọc tác
dụng chống oxy hóa. Kết quả cho thấy: tất cả các cây thuốc chống oxy hóa đều có phản
ứng dương
tính với thuốc thử flavonid và có hàm lượng flavonoid cao. Dịch chiết của những cây thuốc
này đều
có tác dụng chống oxy hóa, thể hiện qua hoạt tính chống oxy hóa (HTCO%), trong đó cây
Đỏ ngọn
areas of Hanoi
Summary
The chemical composition of medicinal plants that have anti-oxidant activity in the Hanoi
area
were surveyed. Some medicinal plants were selected to conduct to determine flavonoid and
antioxidant effects. Results showed that all plants contained high concentration of
flavonoid. Extracts
prunifolium.
ĐÆt vÊn ®Ò
viêm, giảm đau, kháng khuẩn chống oxy hóa, hỗ trợ điều trợ điều trị ung thư của các
nghiªn cøu
* Nguyên liệu:
* Hóa chất:
Ethanol, ethyl acetat, n-hexan, FeCl3
* Thiết bị:
(chiết 3
- Định lượng:
liệu, xác định độ ẩm, cho vào túi giấy lọc, rồi cho vào dụng cụ Shoxlet. Thêm
sấy cắn ở 80
[flavonoid]
tp (%) = x 100
ứng ở 37
a.(100% - x%)
in vitro:
[6, 7]:
100
hóa (HTCO):
HTCO % = [(ODc -
ODt
) - (ODc -
ODDMSO)/ODc] x 100.
ODt
DMSO.
* Phương pháp xử lý số liệu: xử lý số liệu
Excel 2003.
Với 3 mẫu được thu hái ở ba khu vực khác nhau (Ba Vì, Mỹ Đức và Sóc Sơn) thuộc
khu vực đồi núi Hà Nội, mỗi mẫu định tính 3 lần.
Bảng 1: Kết quả định tính flavonoid bằng phản ứng hóa học.
tªn c©y thuèc ph¶n øng 1 Ph¶n øng 2 Ph¶n øng 3 kÕt qu¶
Các mẫu cây thuốc đều cho phản ứng dương tính với thuốc thử dùng định tính flvonoid,
chứng tỏ tất cả đều chứa flavnoid. Trong đó các mẫu: Đỏ ngọn, Rau má, Chó đẻ răng cưa
* Định lượng:
Với 3 mẫu thu hái ở Ba Vì (mẫu 1), Mỹ Đức (mẫu 2), Sóc Sơn (mẫu 3), mỗi mẫu tiến
hành định lượng flavonoid toàn phần 3 lần rồi lấy trung bình.
Đơn kim 1,08 ± 0,16 1,07 ± 0,10 1,10 ± 0,12 Nghể bông 1,25 ± 0,13 1,22 ± 0,13
1,26 ± 0,13
Hoạt tính chống oxy hóa của các dịch chiết Đỏ ngọn, Đơn kim, Kim ngân, Diệp hạ châu,
Hạ khô thảo, Nghể bông, Bán chi liên, Thổ phục linh, Chè, Cối xay được trình bày ở bảng 3.
Bảng 3: Hoạt tính chống oxy hóa (HTCO%) của các dịch chiết thông qua định lượng
DPPH và MDA.
Dịch chiết Cối xay 19,81 36,15 Tất cả dịch chiết của các cây thuốc đều thể hiện tác dụng
chống oxy hóa trên cả hai thử
nghiệm DPPH và MDA. Trong đó, dịch chiết Đỏ ngọn thể hiện hoạt tính chống oxy hóa mạnh
Bµn luËn
Khu vực đồi núi Hà Nội là khu vực có tiềm năng lớn về tài nguyên cây thuốc. Đây cũng là
vùng có sự đa dạng sinh học với nhiều loài cây thuốc. Dưới sự giúp đỡ của các chuyên gia
về Dược liệu, Dược học cổ truyền, Thực vật, đề tài hướng đến những cây thuốc có tác dụng
chống oxy hóa. Kết quả nghiên cứu (bảng 1) cho thấy tất cả cây thuốc chống oxy hóa đều
chứa flavonoid. Đã từ lâu, người ta đã biết đến tác dụng chống oxy hóa như Đỏ ngọn, Kim
ngân, Chè... [1, 3]. Như vậy, có thể sơ bộ xác định: flavonoid là hợp chất đóng vai trò chính
tạo nên tác dụng chống oxy. Nghiên cứu cũng góp phần làm sáng tỏ kinh nghiệm của nhân
dân địa phương về sử dụng những cây thuốc để điều trị bệnh liên quan đến tác dụng chống
oxy hóa.
Kết quả xác định hàm lượng flavonoid toàn phần của 10 cây thuốc phổ biến được bà con
sử dụng nhiều với những tác dụng như điều trị mẩn ngứa, giải độc gan, điều trị rắn cắn, giải
rượu (liên quan đến tác dụng chống oxy hóa)... cho thấy: những cây thuốc này đều chứa
hàm lượng flavonoid khá cao. Trong đó, cây thuốc có hàm lượng cao là Chè, Rau má, Kim
ngân với hàm lượng lần lượt là 4,42%, 4,50% và 3,51%. Tiếp theo là Đỏ ngọn (2,1%), các
cây còn lại phần lớn đều có hàm lượng lớn hơn 1%. Với hàm lượng flavonoid như vậy, có
thể sử dụng những cây thuốc này làm nguyên liệu để chiết xuất flavonoid.
Hàm lượng flavonoid của mỗi cây ở những khu vực khác nhau. 3 địa điểm mà đề tài
nghiên cứu là khu đồi núi ở Sóc Sơn, Mỹ Đức và Ba Vì. Các địa điểm này cách xa nhau và
giữa chúng có sự khác biệt về điều kiện khí hậu, địa chất. Kết quả (bảng 2) cho thấy, hàm
lượng flavonoid giữa các khu vực có sự khác nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt này không lớn
và chưa có ý nghĩa thống kê. Như vậy, có thể khai thác những cây thuốc này ở cả 3 khu vực
trên mà không có sự khác biệt lớn về hàm lượng flavonoid toàn phần.
Từ kết quả nghiên cứu về flavonoid, đề tài tiến hành sàng lọc tác dụng chống oxy hóa
của dịch chiết cây thuốc này trên in vitro. Hai chỉ số để đánh giá tác dụng chống oxy hóa
thường được sử dụng là DPPH và MDA [5]. Thông qua xác định hàm lượng những chất này
bằng phương pháp đo mật độ quang, có thể đánh giá được tác dụng chống oxy hóa. Dịch
chiết các cây thuốc đều có hoạt tính chống oxy hóa, trong đó cao nhất với DPPH là Đỏ ngọn
(HTCO = 70,34%), còn với MDA là dịch chiết Hạ khô thảo (71,25%). Kết quả nghiên cứu
này
phù hợp với kết quả định flavonoid toàn phần có trong dịch chiết, chứng tỏ có mối liên quan
giữa hàm lượng flavonoid với hoạt tính chống oxy hóa của dịch chiết cây thuốc được thu hái
KÕt luËn - Các cây thuốc có tác dụng chống oxy hóa đều có chứa flavonoid. Trong đó, cây
có
hàm lượng cao flavonoid là Chè, Đỏ ngọn, Rau má (> 3%). Các cây có hàm lượng thấp
là Thổ phục linh (0,67%). Hàm lượng flavonoid toàn phần của mỗi cây thu hái ở những
khu vực khác nhau có sự khác biệt, tuy nhiên sự khác biệt này không rõ rệt.
- Dịch chiết của những cây thuốc nghiên cứu đều có tác dụng chống oxy hóa thể hiện
trên 2 thử nghiệm DPPH và nồng độ hàm lượng MDA. Trong đó, dịch chiết cây Đỏ ngọn có
tác dụng chống oxy hóa mạnh hơn dịch chiết của các cây còn lại, HTCO % tương ứng là
70,34 % và 68,76%.
1. Đỗ Tất Lợi. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học. 2005.
2. Nguyễn Văn Đàn, Nguyễn Viết Tựu. Phương pháp nghiên cứu hóa học cây thuốc. NXB Y
học. Hà
Nội. 1985.
3. Viện Dược liệu. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam. NXB Khoa học Kỹ thuật. Hà
Nội.
4. Trần Lưu Vân Hiền. Tính chất hóa lý và sinh học của bioflavonoid chiết xuất từ cây kim
ngân
(Lonicera dasystyla). Luận án Phó Tiến sỹ Khoa học Y Dược. Trường Đại học Dược khoa Hà
Nội.
1992.
5. Đoàn Thị Nhu, Đỗ Trung Đàm, Phạm Duy Mai, Nguyễn Thượng Dong, Nguyễn Thị Thu
Hương. Phương
pháp nghiên cứu tác dụng dược lý của thuốc từ dược thảo. NXB Khoa học Kỹ thuật. Hà Nội.
2006.
6. Cheseman K.H. Studies on lipid peroxidation in normal and tumor tissues. J Biol Chem.
1985, 235,
pp.507-514.
7. Stroev E.A, Makarova V.G. Determination of lipid peroxidation rate in tissue homogenate