You are on page 1of 49

Phân tích bài thơ "Nói với con" của Y Phương (Nguồn

Lê Bá Duy)
wwwkimson | 18 December, 2010 20:00

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Trùng Khánh - Cao Bằng ,thấm
nhuần những tinh hoa, cái đẹp của dân tộc Tày , Y Phương (1948) là
một nhà thơ tiêu biểu cho các dân tộc miền núi ."Thơ Y Phương như
một bức tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau ,phong phú
và đa dạng ,nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo ,âm điệu chính là
bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo .Nét độc đáo đó nằm ở cả nội
dung và hình thức .Với Y Phương ,thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ
Việt Nam nói chung có thêm một giọng điệu mới ,một phong cách mới
"( Từ điển tác giả ,tác phẩm văn học Việt Nam ).

Đi từ đề tài quen thuộc :tình cảm cha con ,phụ tử thiêng liêng ,nhưng
với Y Phương ,trong làng thơ Việt Nam đã có thêm một lối đi ,1 giai
điệu mới . Khác với "Chiếc lược ngà ",tình cha con được đặt trong hoàn
cảnh éo le của chiến tranh ,tình cha con trong bài thơ được thể hiện
qua lời tâm tình của người cha .Người cha đã bộc lộ lòng yêu thương
con qua ước mong con sống xứng đáng ,phát huy truyền thống của,gia
đình , quê hương.

Mượn lời người cha nói với con về tình yêu thương của cha mẹ ,sự đùm
bọc của quê hương với con ,nhà thơ đã gợi về nguồn sinh dưỡng trong
mỗi người chúng ta .Mở đầu bài thơ là khung cảnh gia đình ấm cúng
,đầy ắp tiếng nói cười .Mười một câu thơ như tràn đầy những đầm
ấm ,yên vui của tình cảm gia đình ,tình cảm quê hương :
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ caì nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời ."

Một mái nhà có mẹ có cha và con hạnh phúc vì được sống hạnh phúc
trong tình yêu thương .Cha mẹ đã dìu dắt ,nâng đỡ con từ những
bướcđi đầu tiên ,đã tìm thấy niềm vui từ con .Hơn thế nữa ,con còn
được sinh ra ,lớn lên trong tình yêu thương ,vẻ đẹp của "đồng mình ".
"Người đồng mình" yêu lắm con ơi !" Lao động tuy vất vả nhưng cuộc
sống của "người đồng mình"tươi vui, mà rất ngọt ngào . Dáng vẻ tuy
thô sơ , công việc tuy nặng nhọc (đan lờ , ken vách ) nhưng tâm hồn
"người đồng mình "lãng mạn biết bao nhiêu :Họ làm một cách nghệ
thuật những công việc của mình (cài nan hoa ,câu hát ) .Con thật hạnh
phúc vì con được sống giữa những con người như vậy -- những con
người khéo tay ,yêu thiên nhiên ,yêu lao động, lạc quan và nhân hậu
.Thiên nhiên đồng mình cũng rất đẹp : Rừng núi quê hương thơ mộng
đã dành cho con những gì tinh tuý nhất (hoa ) ,đã nuôi dưỡng con về
cả tâm hồn ,lối sống ,"tấm lòng ". Và từng ngày ,con đã lớn lên ...có
cha mẹ nâng đón và mong chờ ,có thiên nhiên thơ mộng, có cuộc sống
lao động gắn bó .Con đã trưởng thành trong nghĩa tình của quê hương
như vậy đó . Nói với con những điều đó ,cha mong cho con hiểu những
tình cảm cội nguồn đã sinh dưỡng con ,để con yêu cuộc sống hơn .

Dặn dò con về quê hương ,về "đồng mình ", cha càng muốn con phải
khắc cốt ghi xương nơi mình đã sống ,đã trưởng thành . Cuộc sống của
"người đồng mình " vất vả ,gian nan "thương lắm con ơi ": "Sống trên
đá ..đá gập ghềnh / Sống trong thung ..thung nghèo đói ../Lên thác
xuống ghềnh ..cực nhọc .." Nhưng tự hào lắm con ơi ,người đồng mình
đã,đang và sẽ luôn sống đẹp .Họ có sức sống mạnh mẽ :vất vả nhưng
khoáng đạt ,gắn bó với quê hương .Họ " ko chê ,ko lo "gian khổ, mà
vẫn sống tràn đầy "như sông như suối " .Họ mộc mạc,chân chất nhưng
giàu ý chí ,niềm tin ,mong xây dựng quê hương tốt đẹp hơn :
"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục ".

Sự đối lập giữa bên ngoài :"thô sơ da thịt" nhưng bên trong ko hề nhỏ
bé về tâm hồn ,người đồng mình có ý chí tự làm chủ cuộc sống của
mình. Qua "sự liên tưởng phong phú sáng tạo "tự đục đá kê cao quê
hương ",người đồng mình là những con người lao động cần cù ,có nghị
lực ,niềm tin ,mà tầm vóc ,nỗi buồn ,chí hướng của họ là cái cao ,xa
chiều kích của trái đất (Cao đo nỗi buồn /Xa nuôi chí lớn ) .Họ giữ gìn
bản sắc dân tộc mà vẫn làm rạng rỡ quê hương như vậy bởi họ yêu quê
hương sâu nặng và luôn lấy quê hương làm chỗ dựa tinh thần .Người
cha muốn con yêu là yêu những điều đó , yêu những đức tính cao đẹp
của người đồng mình .

Cả đoạn thơ như âm vang trong những lời tự hào ,sự gắn bó và tình yêu
tha thiết của người cha về quê hương .Nó như trở thành một hành khúc
mạnh mẽ ngợi ca quê hương .Và ,lời nhắc nhở của người cha với con
chính là một nốt nhấn kết lại bản hành khúc của quê hương :
"Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Ko bao giờ được nhỏ bé
Nghe con ".

Cho con thấy tình yêu thương ,niềm tin tưởng của cha ,người cha mong
con biết sống sao cho tốt ,cho xứng đáng với tình cảm của cha .Cho
con hiểu cuộc sống của người đồng mình ,người cha muốn con cảm
thương với những khó khăn ,vất vả để khao khát đi xây dựng quê
hương .Ca ngợi những đức tính cao đẹp của người đồng mình ,cha đã
truyền cho con vẻ đẹp sức mạnh của truyền thống quê hương ,mong
con sống có tình nghĩa ,biết chấp nhận gian khó ,vươn lên bằng ý chí
của mình ,vững vàng trên đường đời.

Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con chính là lòng tự
hào với quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời .Nói với con mà
chính là cha đã trao tặng cho con .Cha đã vun đắp cho con những tình
cảm tốt đẹp , cho con một hành trang quý và đã sẵn sàng tung cánh
cho con bay đi khắp mọi nơi .

Bài thơ ko dài với 28 câu thơ tự do ,có câu 2 chữ ,có câu 10 chữ ,tất cả
bay theo cảm xúc tự nhiên ,dạt dào của ý thơ .Giọng thơ tha thiết ,trìu
mến . Ngọt ngào làm sao từng tiếng nhắc nhở ,dặn dò " yêu lắm con ơi
", "thương lắm con ơi " ,"Con ơi ..nghe con !" .Đẹp làm sao các hình
ảnh thơ vừa cụ thể, mộc mạc,cô đọng mà vừa phong phú ,sinh
động,giàu chất thơ."Rừng cho hoa / Con đương cho những tấm
lòng ...".Những đặc sắc về nghệ thuật cộng hưởng hài hoà với những
cung bậc tình cảm khác nhau của cha đã tạo nên dư âm sâu lắng cho
bài thơ .Tiếng thơ trong "Nói với con " là tiếng lòng của Y Phương ,tiếng
lòng về tình yêu và niềm tự hào đối với quê hương ,dân tộc .
Tiếng cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hệ vậy !
* Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng những
bài thơ về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với con" cuả Y
Phương là 1 trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài thơ thể hiện tình
cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca
truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền
núi.
Cảm nhận đầu tiêntrong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong tình
yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc, che chở của người đồng mình,
của quê hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ấp
giọng nói tiếng cười:
Chân phải....
....tiếng cười.
Khung cảnh ấy đẹp như 1 bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ lẫm
chẫm tập đi, bi bô tập nói trong vòng tay, trong tình yêu thương, chăm
sóc, nâng niu của cha mẹ; hình ảnh cha mẹ giang rộng vòng tay, chăm
chút từng bước đi, từng bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia
đình chính là cái nôi êm ái, tổ ấm để con sống, lớn khôn và trường
thành trong niềm yêu thương con cái. Đó là không khí thường thấy
trong các gia đình hạnh phúc. Nhưng cách diễn đạt ở đay có nét độc
đáo riêng cảu người miền núi: nói bằng hình ảnh cụ thể. Điệp ngữ
"bước tới", trong tình cảm người cha, ko khỏi niềm sung sướng, tự hào.
Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống
lao động, trong quê hường sâu nặng nghĩa tình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
...........tấm lòng
Một cách nói rất riêng, rất ngộ : "người đồng mình", là người miền
mình, người vùng mình, là những người cùng sống trên 1 miền đất,
cùng quê hương, cùng 1 dân tộc. Đó là cách nói mộc mạc, mang túnh
địa phương của dân tộc Tày nhưng giàu sức biểu cảm, Tác giả vận
dụng lối diễn đạt của người dân tộc miền núi để xây dựng hình ảnh thơ.
Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều được diễn tả trực tiếp bằng
hình ảnh. Đan lờ để bắt cá, dưói bàn tay của người Tày, những nan
trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà ko chỉ ken bằng gỗ mà
còn đc ken bằng "câu hát". Rừng đâu chỉ cho nhìu gỗ quý, lâm sản mà
còn cho hoa. Ba đông từ "đan", "cài", "ken" còn thể hiện sự đoàn kết,
gắn bó cảu quê hương. Lao động đã đem đến cho con bao điều tốt đẹp,
"người đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương
yuê, trong tình đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi mà nó
còn cho "những tấm lòng" nhân hậu, bao dung, nghĩa tình. Con đường
đó là hình bóng thân thuôc của quê hương, còn in dấu những bước
chân đi xuôi ngược, làm ăn sinh sống của buôn làng, nên nó mang 1 ý
nghĩa thật to lớn trong quá trình khôn lớn của con. Sung sứong nhìn
con khôn lớn, nha thơ suy ngẫm về tình làng bản quê nhà, về cội
nguồn hạnh phúc:
Cha mẹ ...
....trên đời
Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về
những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" và ước mơ của cha về
con. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là
sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt wa mọi khó khăn, gian khổ.
Người đồng mình thương lắm con ơi
...........Không lo cực nhọc
Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói mộc mạc mà
chứa đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi lặp lai như một
điệp khúc trong bài ca. Chính tình thưong đó là sức mạnh để "người
đồng mình" vượt wa bao gian khổ cuộc đời. Những câu thơ ngắn, đối
xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa nuôi chí lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí
khí của "người đồng mình": sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ
nhưng có chí lớn, luôn yêu quý tự hào, gắn bó với quê hương. Đó là
phẩm chất thứ hai. Thứ ba, về cách sống, người cha muốn giáo dục con
sống phải có nghĩa tình, chung thủy với quê hương, bit chấp nhận vượt
wa gian nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Không chê
bai, phản bội quê hưong : "không chê...không chê....không lo" dù quê
hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng đạt, hồn
nhiên, mạnh mẽ "như sông như suối-lên thác xuống ghềnh-ko lo cực
nhọc". Lời cha nói với con mà cũng là lời dạy con về bài học đạo lý làm
người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi điệp từ, điệp ngữ,
điệp cấu trúc câu và nhịp thơ rất linh họat , lúc vươn dài, khi rút ngắn,
lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay độg, thấm thía, có tác dụng truyền
cảm manh mẽ.
Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của
người đồng mình:
Người đồng mình thô sơ da thịt
.......Nghe con
Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da thịt", ăn mặc giản dị,
áo chàm, khăn piêu, cuộc sống mộc mạc thiếu thốn... nhưng ko hề nhỏ
bé về tâm hồn, ý chí nghị lực và đặc biệt là khát vọng xây dựng quê
hương. Họ xây dựng quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của
mình: "tự đục đá kê cao quê hương". Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ
phong tục tốt đẹp của mình biết tự hào với truyền thống quê hương,
dặn dò con cần tự tin, vững bước trên đường đời, ko bao giờ được sống
tầm thường, nhỏ bé, ích kỷ. Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với
tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình
của nhười cha đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân
thương trìu mến wá.
Bài thơ có giọng điệu nhò nhẹ, chân tình và rất mới lạ trong phong
cách, một phong cách miền núi với ngôn ngữ "thổ cẩm" rất độc đáo,
với cảm xúc, tư duy rất riêng. Qua đó, Y Phương đã thể hiện tình cảm
gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của
quê hưong và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ
đẹp tâm hồn của 1 dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với
truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

Phân tích "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê


(Lê Bá Duy)
wwwkimson | 18 December, 2010 20:03

1. Trong đội ngũ cả dân tộc ra trận thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, có
sự góp mặt của một "binh chủng" đặc biệt: Thanh niên xung phong.
Trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại nối liền Bắc - Nam, lực lượng
thanh niên xung phong có một vai trò hết sức quan trọng: tham gia mở
đường, phá bom, san lấp hố bom, bảo đảm cho con đường huyết mạch
ấy luôn được thông suốt cho những đoàn quân, đoàn xe ra trận. Viết về
Trường Sơn, không thể thiếu hình ảnh các cô gái thanh niên xung
phong - bởi chiếm số đông trong lực lượng này là nữ thanh niên. Văn
học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã ghi lại được nhiều hình ảnh đẹp,
chân thực, cao cả của các cô gái thanh niên xung phong, trong thơ
Phạm Tiến Duật (Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây; Gửi em, cô gái
thanh niên xung phong), Lâm Thị Mỹ Dạ (Khoảng trời - hố bom),
Nguyễn Đình Thi (Lá đỏ), truyện ngắn của Đỗ Chu (Ráng đỏ), tiểu
thuyết của Đào Vũ (Con đường mòn ấy)... Truyện ngắn Những ngôi sao
xa xôi của Lê Minh Khuê góp thêm những chân dung đẹp, chân thực và
sinh động vào loại hình tượng nhân vật khá quen thuộc ấy của văn học
một thời.
2. Truyện kể về cuộc sống và công việc thường ngày của một tổ trinh
sát mặt đường gồm ba cô gái thanh niên xung phong tại một trọng
điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Nhiệm vụ của họ là quan sát địch
ném bom, đo khối lượng đất đá phải san lấp do bom địch gây ra, đánh
dấu vị trí các trái bom chưa nổ và phá bom. Công việc của họ hết sức
nguy hiểm vì thường xuyên phải chạy trên cao điểm, giữa ban ngày và
máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào. Họ ở trong một cái hang,
dưới chân cao điểm, tách xa đơn vị. Cuộc sống của ba cô gái ở nơi
trọng điểm giữa chiến trường dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng vẫn
có những niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thanh thản,
mơ mộng và đặc biệt là rất gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng
đội dù mỗi người một cá tính.
Cũng như nhiều tác phẩm văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
truyện Những ngôi sao xa xôi đã làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng và vẻ
đẹp tâm hồn của thế hệ trẻ Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh.
Nhưng điều gì làm nên sức hấp dẫn riêng của truyện ngắn này, và
cũng là đóng góp riêng của tác giả? Theo tôi, đó là nghệ thuật trần
thuật và miêu tả tâm lý nhân vật.
3. Truyện được trần thuật theo ngôi thứ nhất - nhân vật xưng tôi,
Phương Định, cũng là một nhân vật chính. Lựa chọn cách kể như vậy,
mọi hình ảnh và sự kiện, con người ở nơi trọng điểm ác liệt của chiến
tranh sẽ được hiện lên qua cái nhìn và thái độ của chính người trong
cuộc. Đồng thời, cách kể ấy cũng tạo thuận lợi để tác giả miêu tả thế
giới nội tâm nhân vật qua những độc thoại nội tâm. Nhưng lựa chọn
cách trần thuật này cũng là một thử thách không dễ với tác giả, vì
người viết phải thực sự am hiểu nhân vật của mình và có khả năng hóa
thân cao độ vào nhân vật xưng tôi trong truyện. Tác giả Lê Minh Khuê
có thể làm được điều đó, thậm chí đã nhập vai nhân vật Phương Định
một cách thuần thục, bởi vì nhà văn đã từng sống cuộc sống của những
thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
Sự lựa chọn vai kể như trên đi liền với một đặc điểm nữa trong nghệ
thuật trần thuật của truyện. Đó là mạch truyện được triển khai theo
dòng tâm trạng của nhân vật kể chuyện, không theo trình tự thời gian
sự kiện, mà thường đan xen giữa hiện tại và hồi tưởng quá khứ. Có thể
coi, đó là kiểu cốt truyện tâm lý. Riêng ở phần cuối, truyện được kể tập
trung vào sự kiện một lần phá bom của tổ trinh sát, rồi Nho bị thương,
và đoạn kết là cảnh các cô gái hồn nhiên, háo hức trước một cơn mưa
đá đến bất chợt giữa vùng trọng điểm.
Thống nhất với sự lựa chọn vai kể như trên, truyện đã có một thứ ngôn
ngữ và giọng điệu rất phù hợp với nhân vật. Truyện thường dùng các
câu ngắn, loại câu kể xen với câu tả và cách diễn đạt rất gần với khẩu
ngữ. Ví dụ đây là lời nhân vật Phương Định kể về công việc của các cô:
Còn chúng tôi thì chạy trên cao điểm cả ban ngày. Mà ban ngày chạy
trên cao điểm không phải là chuyện chơi. Thần chết là một tay không
thích đùa. Hắn ta lẩn trong ruột những quả bom. Mối hiểm nguy và sự
căng thẳng luôn phải đối mặt với cái chết đã được các cô gái cảm nhận
với sự bình tĩnh, không chút sợ hãi, qua cái giọng bình thản pha một
chút hóm hỉnh, nhưng vẫn rất tự nhiên, không hề lên gân, cao giọng.
Đấy đúng là ngôn ngữ của tuổi trẻ ở giữa chiến trường. Chúng ta nhớ
đến chi tiết về cô thanh niên xung phong trong thơ Phạm Tiến Duật:
Em ở Thạch Kim sao lại đùa anh nói là Thạch Nhọn... Cái miệng em
ngoa cho chúng bạn cười giòn.
4. Truyện có ba nhân vật: Phương Định, Nho và Thao. Ba cô gái có
nhiều nét giống nhau và họ là một tập thể nhỏ rất gắn bó, yêu thương
nhau. Nhưng mỗi nhân vật vẫn là một cá tính, và đó chính là thành
công của tác giả trong xây dựng nhân vật.
Ba cô gái từ những miền quê khác nhau đến với con đường Trường Sơn,
tại một vùng trọng điểm ác liệt và ở họ đều hình thành những phẩm
chất chung của người chiến sĩ thanh niên xung phong: Tinh thần trách
nhiệm cao đối với nhiệm vụ, lòng dũng cảm không sợ hy sinh, tình
đồng đội gắn bó. Ở họ còn có những nét chung của các cô gái trẻ: dễ
xúc cảm, nhiều mơ ước, hay mơ mộng, dễ vui mà cũng dễ trầm tư. Họ
cũng thích làm đẹp cho cuộc sống của mình, ngay cả trong hoàn cảnh
chiến trường (Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm chép bài hát, Định
thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ mộng và hát). Trong ba
người thì Nho và Phương Định trẻ hơn nên cũng hồn nhiên và giàu mơ
mộng, còn chị Thao lớn tuổi hơn nên những mơ ước và dự định về
tương lai cũng thiết thực hơn. Người tổ trưởng ấy chiến đấu rất dũng
cảm, chỉ huy rất kiên cường nhưng lại rất sợ khi phải nhìn thấy máu và
còn sợ cả vắt nữa. Phương Định là nhân vật kể chuyện, đồng thời cũng
là nhân vật trung tâm của truyện. Ở nơi trọng điểm ác liệt, hàng ngày
giáp mặt với hiểm nguy và cái chết, chiến đấu dũng cảm, nhưng ở cô
vẫn không mất đi sự hồn nhiên, nhạy cảm, tâm hồn trong sáng và
nhiều mơ mộng. Cũng như các cô gái mới lớn, Phương Định nhạy cảm
và quan tâm đến hình thức của mình. Cô tự đánh giá: Tôi là con gái Hà
Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá, hai bím tóc dày
tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn
mắt tôi thì các anh lái xe bảo: "Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!". Cô biết
mình được nhiều người, nhất là các anh lính để ý và có thiện cảm. Điều
đó làm cô thấy vui và cả tự hào, nhưng chưa dành riêng tình cảm cho
một ai. Nhạy cảm, nhưng cô lại không hay biểu lộ tình cảm của mình,
tỏ ra kín đáo giữa đám đông, tưởng như là kiêu kỳ. Phương Định là cô
gái hồn nhiên, hay mơ mộng và thích hát (Tôi mê hát. Thường cứ thuộc
một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ
ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình, Tôi
thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả
đường mặt trận. Tôi thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng. Thích
Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng).
Phương Định là con gái Hà Nội vào chiến trường. Cô có một thời học
sinh hồn nhiên, vô tư bên người mẹ, một căn buồng nhỏ ở một đường
phố yên tĩnh trong những ngày thanh bình trước chiến tranh ở thành
phố của mình. Những kỷ niệm ấy luôn sống lại trong cô ngay giữa
chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm
hồn trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến trường. (Để đỡ
dài, văn bản truyện đưa vào sách giáo khoa đã lược đi nhiều đoạn hồi
tưởng của nhân vật).
Tâm lý nhân vật Phương Định được bộc lộ qua những lời kể, lời tự bạch
một cách tự nhiên như lời trò chuyện với bạn đọc - một kiểu độc thoại
nội tâm đơn giản. Đây là cảm giác của một người chạy trên cao điểm
giữa ban ngày và giữa những loạt bom của máy bay địch. Có ở đâu như
thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm
ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân
chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ.
Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ... Rồi khi
xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy
về hang.
Tâm lý nhân vật Phương Định trong một lần phá bom đã được miêu tả
rất cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác, ý nghĩ dù chỉ thoáng qua trong
giây lát. Mặc dù đã rất quen công việc nguy hiểm này, thậm chí một
ngày có thể phải phá tới năm quả bom, nhưng mỗi lần vẫn là một thử
thách với thần kinh cho đến từng cảm giác. Từ khung cảnh và không
khí chứa đầy sự căng thẳng đến cảm giác là các anh cao xạ ở trên kia
đang dõi theo từng động tác, cử chỉ của mình, để rồi lòng dũng cảm ở
cô như được kích thích bởi sự tự trọng: Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy
có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không
đi khom. Các anh ấy không thích kiểu đi khom khi có thể cứ đàng
hoàng mà bước đi. Ở bên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất
ngờ, từng cảm giác của con người như cũng trở nên sắc nhọn hơn:
Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai
người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm
quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng
lành. Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom.
Đoạn kết truyện cũng là một sáng tạo rất thành công của tác giả. Sau
một trận chiến đấu của ba cô gái để phá bốn quả bom giữa vùng trọng
điểm, căng thẳng, hồi hộp và cả sự lo lắng khi Nho bị sập hầm, bị
thương, thì bất chợt một cơn mưa kéo đến, mà lại là một trận mưa đá.
Cơn mưa ấy làm dịu cả bầu không khí ngột ngạt ở bên ngoài hang và
cũng làm dịu mát tâm hồn ba côn gái sau những căng thẳng của một
trận chiến đấu, nó đánh thức dậy sự hồn nhiên, vô tư của tuổi trẻ và
gợi về những kỷ niệm tuổi thơ với những trận mưa nơi thành phố quê
hương. Đến đây thì người đọc đã cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của
Những ngôi sao xa xôi - vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng và tâm hồn
trong sáng của những cô gái thanh niên xung phong ở nơi trọng điểm
ác liệt trên đường Trường Sơn, cũng là tiêu biểu cho vẻ đẹp của cả thế
hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Những ngôi sao lấp lánh một
thứ ánh sáng không rực rỡ mà sáng trong, tưởng như xa mà lại rất gần.
Phân tích truyện ngắn "Bến quê" của Nguyễn Minh
Châu
wwwkimson | 18 December, 2010 20:05

Đề : Phân tích truyện ngắn "Bến quê" của Nguyễn Minh Châu.
DÀN Ý CHI TIẾT :
I. Mở bài :
- Giới thiệu tác phẩm : Bến quê ; tác giả : Nguyễn Minh Châu.
- Giới thiệu khái quát tác phẩm.
* Đoạn văn mở bài : Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của văn học
Việt Nam hiện đại. Hàng loạt những truyện ngắn trăn trở, day dứt đã ra đời và
đã một thời gây xôn xao dư luận : từ Bức tranh mở đường cho sự đổi mới văn
học vào những năm đầu của thập kỷ 80 ở thế kỷ trước cho đến Phiên chợ Giát
là tác phẩm cuối cùng viết trên giường bệnh. Nhà văn đã từng bước khám phá
cái thế giới nội tâm ở mỗi con người trong những tình huống đầy mâu thuẫn và
nghịch lý mà Bến quê là một truyện ngắn xuất sắc trong tập truyện ngắn cùng
tên được xuất bản năm 1985, bốn năm trước khi nhà văn từ giã cõi đời.
II. Thân bài :
1. Tóm tắt truyện: Cốt truyện thật đơn giản nhưng mang tính triết lý, mang tính
trải nghiệm sâu sắc có ý nghĩa tổng kết về cuộc đời của một con người : Nhĩ
mắc bệnh hiểm nghèo, nằm liệt giường, phải nhờ vào sự chăm sóc của vợ con...
Một buổi sáng đầu thu, từ cửa sổ nhìn ra, đất trời lúc giao mùa với hoa bằng
lăng tím thẫm, với nước con sông Hông một màu đỏ nhạt...Rồi cái bãi bồi bên
kia sông hiện ra ...Nơi gần gũi mà cả đời Nhĩ dù đã đi khắp mọi nơi trên trái đát
lại chưa bao giờ đi tới đó...Nhĩ khao khát được một lần đặt chân lê cái bờ bên
kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình ...để rồi cuối cùng nhận ra cái quy
luật đầy nghịch lý của đời người : con người ta trên ường đời thật khó tránh
khỏi được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình.
2. Những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ trên giường bệnh :
a. Cảm nhận của nhân vật Nhĩ về vẻ đẹp thiên nhiên : buổi sáng đầu thu được
nhìn từ khung cửa sổ căn phòng mình :
- Cảnh vật được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ, từ gần đến xa, tạo thành một
không gian có chiều sâu, rộng : từ những bông hoa bằng lăng ngay phía ngoài
cửa sổ đến con sông Hồng với màu đỏ nhạt lúc đã vào thu, đến vòm trời và sau
cùng là bãi bồi bên kia sông.
- Tất cả đều được cảm nhận bằng những cảm xúc tinh tế. Không gian và những
cảm xúc ấy vốn quen thuộc, gần gũi nhưng lại rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng như
lần đầu tiên anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó.
b. Cảm nhận về Liên :
- Lần đầu tiên Nhĩ "để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá", cảm nhận "những
ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai" và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu
thương, sự tần tảo và đức hy sinh thầm lặng của vợ. Chính trong những ngày
cuối đời, Nhĩ mới thực sự thấu hiểu với lòng biết ơn sâu sắc người vợ của mình
:"cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ
nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa, và cũng
chính nhờ có điều đó mà sau những ngày tháng bôn tẩu tìm kiếm...Nhĩ đã tìm
thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này".
c. Cảm nhận về bản thân :
- Khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông :
+ Buổi sáng hôm ấy, lần đầu tiên Nhĩ nhận ra vẻ đẹp của cảnh vật bình dị và
gần gũi xung quanh mình. Và trớ trêu thay, với con người "đã từng đi tới không
sót một xó xỉnh nào trên trái đất như Nhĩ, "cái bờ bên kia sông Hồng ngay
trước cửa nhà mình" lại là "một chân trời gần gũi mà lại xa lắc vì chưa hề bao
giờ đi đến". Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Điều khao
khát ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường mà sâu xa
của đời sống - những giá trị thường bị người ta lãng quên, vô tình, nhất là lúc
còn trẻ, khi con người còn lao theo nhữgn ham muốn xa vời. Sự thức nhận này
chỉ đến được với người ta ở cái độ đã từng trải, đã thấm thía những sướng vui
và cay đắng ; và cùng với sự thức tỉnh ấy thường là những ân hận xót xa ...
+ Lại càng trớ trêu hơn nữa khi anh nhờ thằng con trai thựchiện ước muốn của
mình, thằng con trai anh cũng không hiểu được niềm khao khát của cha nó, nên
làm một cách miễn cưỡng và ròi bị cuốn hút vào trò chơi hấp dẫn nó gặp trên
đường đi, để rồi có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Từ hoàn cảnh
của mình, từ đứa con trai, Nhĩ đã chiêm nghiệm được cái quy luật phổ biến của
đời người :"con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái vòng
vèo hoặc chùng chình ". Anh không trách đứa con trai bởi giống như anh ngày
trước,"nó đã thấy có gì hấp dẫn ở bên kia sông đâu".
+ Hành động kỳ quặc của Nhĩ cuối truyện khi thấy con đò ngang vừa chạm mũi
vào bờ đất bên này sông, Nhĩ đã thu hết tàn lực dồn vào một cử chỉ có vẻ kỳ
quặc :" Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu
mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát
khoát - y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó.". Anh đang nôn
nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.
Không nên sa vào những cái vòng vèo, chùng chình trên đường đời dứt ra khỏi,
hướng tới những giá trị đích thực giản dị, gần gũi, bền vững.biểu hiện sự nôn
nóng thúc giục cậu con trai hãy mau lên kẻo lỡ chuyến đò càng tô đậm niềm
khao khát của anh.
3. Nghệ thuật truyện :
- Xây dựng nhân vật tư tưởng. Nhân vật Nhĩ là nhân vật tư tưởng, một loại
nhân vật nổi lên trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975.
Nhà văn đã gửi gắm qua nhân vật nhiều điều quan sát, suy ngẫm, triết lý về
cuộc đời và con người. Nhân vật không bị biến thành cái loa phát ngôn cho tác
giả. Những chiêm nghiệm, triết lý đã được chuyển hoá vào trong đời sống nội
tâm của nhân vật, với diễn biến tâm trạng .
- Hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng. Một đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật
truyện : Sáng tạo hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng . Trong Bến quê, hầu như
mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa : nghĩa thực và ý nghĩa biểu tượng. Bãi
bồi, bến sông, khung cảnh thiên nhiên : là vẻ đẹp của đời sống trong những cái
gần gũi, bình dị, thân thuộc. Bông hoa bằng lăng cuối mùa ; tiếng những tảng
đất lở ởû bờ sông bên này, khi cơn lũ đầu nguồn dồn về, đổ ụp vào trong giấc
ngủ của Nhĩ lúc gần sáng :Sự sống của nhân vật Nhĩ đã ở vào những ngày cuối
cùng. Đứa con trai của Nhĩ đã sa vào một đám chơi phá cờ thế trên lề đường :
sự chùng chình, vòng vèo mà trên đường đời người ta khó tránh khỏi. Hành
động và cử chỉ của Nhĩ :thức tỉnh con người.
- Miêu tả tâm lý tinh tế.
- Cách xây dựng tình huống nghịch lý. Đi hầu hết khắp nơi trên thế giới, bị liệt
toàn thân, không thể đi đâu được.
- Trần thuật theo dòng tâm trạng của nhân vật.
III. Kết bài :
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn đi được xa nhất trên con đường đổi mới văn
học.
- Tác phẩm mang tính hiện đại, tính nhân văn sâu sắc.
* Đoạn văn kết bài : Có thể ở đâu đó những điều cảm nhận của Nguyễn Minh
Châu chưa phải đã đạt đến độ khái quát sâu sắc. Nhưng trong cách cảm, cách
nghĩ của ông trong "Bến quê" là có cơ sở hợp với tính nhân văn và đáp ứng
được yêu cầu thời đại. Tiếc thay cái chết đã đến khi sức sáng tạo của nhà văn
đang tràn đầy, khi tư tưởng nghệ thuật của ông đã trở nên sâu sắc, đầy hứa hẹn,
làm cho những ai yêu mến Nguyễn Minh Châu bỗng cảm thấy hụt hẫng tiếc
nuối. Ông như một ngôi sao băng vút qua bầu trời, sáng loà rồi tan biến vào cõi
vĩnh hằng nhưng với di sản văn học ông để laiï cho đời, đặc biệt là với truyện
ngắn Bến quê cũng đáng để cho chúng ta tự hào và đủ để an ủi linh hồn ông ở
thế giới bên kia.
bài viết thứ 2

Bước ra khỏi chiến tranh, mỗi người lính có một ngã rẽ riêng để trở về với cuộc
đời thường nhật. Trong vô vàn cái bãng lặng lẽ trở về ấy, ta bắt gặp như vô tình
cái bãng hình nhà văn Nguyễn Minh Châu. Trở về lặng lẽ, tiếp tục tìm tòi lặng
lẽ, ngòi bút Nguyễn Minh Châu vẫn chứa đựng những khám phá mới mẻ, sâu
sắc, vẫn mang cái nhìn từng trải chắc chắn của con người đã tôi luyện qua lò
lửa chiến tranh. Chính bằng ngòi bút ấy, nhà văn đã dựng lên một "Bến quê"
mang ý nghĩa triết lí, mang đầy trải nghiệm về một đời người. Có lẽ sẽ chẳng ai
gấp lại trang sách "Bến quê" mà không cảm thấy một nỗi buồn bồi hồi, xúc
động trào dâng. Có chút gì đó se sẽ buồn, có chút gì đó se sẽ xót xa, ân hận
nhưng những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình dị, gần gũi của quê hương thì
vẫn còn lắng đọng mãi mãi trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người đọc chúng ta.

Cũng như nhiều tác phẩm của mình, trong "Bến quê", Nguyễn Minh Châu đã
khai thác rất thành công tình huống truyện mang đầy nghịch lí. Có lẽ những
nghịch lí ấy, dưới ngòi bút tài hoa là thứ công cụ đắc lực nhất, thể hiện một
chiều sâu triết lí, tư tưởng. Mở đầu trang truyện, hình ảnh Nhĩ -nhân vật chính-
hiện lên trong hoàn cảnh thật đángthương."Suốt cuộc đời, Nhĩ đã từng đi tới
không sót một xó xỉnh nào trên Trái Đất. Vậy mà, gần một năm nay căn bệnh
quái ác đã cột chặt lấy anh vào giường bệnh. Liệt toàn thân, tự nhích người di
chuyển vài chục phân trên tấm nệm khó bằng bay nửa vòng Trái Đất, sinh hoạt
chủ yếu nhờ vào sự giúp đỡ của Liên. Anh giờ đây dâu có khác một đứa trẻ là
mấy. Chiếc giường bệnh dường như là chiếc nôi, còn đôi bàn tay người vợ tần
tảo dường như là đôi bàn tay người mẹ thủa nào, vẫn hiện về trong miªn man kí
ức. §ã có lần anh nhận ra trong một dòng suy nghĩ hài hước cái hoàn cảnh
không biết phải gọi là bi kịch hay hài kịch của bản thân:"Nhĩ nhận thấy hoàn cảnh
của mình thật buồn cười, y như một đứa bé mới đẻ đang toa toét cười với tất cả, tận
hưởng sự thích thú được chăm sóc và chơi với"

Đó là nghịch lí hay số mệnh? Đã là số mệnh sao lại phũ phàng đến thế?Có lẽ
nào nghịch lí cuộc đời đã nhiều lần bắt anh day dứt thế chăng? Trong những
ngày như thế, anh có nhiều thời gian hơn để suy ngẫm và chiªm nghiệm về
cuộc đời trong những ngày tháng đã qua. Và số mệnh lại một lần nữa cất cao
tiếng nói, vẫn là nghịch lí, nhưng là một nghịch lí con người đã quên bẵng bấy
lâu. Nhĩ nhận ra vẻ đẹp của cái bãi bồi bên kia s«ng Hồng, ngay trước khung cửa sổ.
"Cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng, lúc này đang phô ra trước
cửa sổ gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen lẫn với màu xanh non-Những sắc
màu quen thuộc quá, như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ".

Có ngờ đâu cả cuộc đời Nhĩ đã từng in gót khắp năm châu mà chưa tùng một
lần đặt chân lên cái bờ sông trước mặt mình. Như một định mệnh, miền đất
cuộc đời anh mãi mãi chẳng thể đặt chân lên. Nghịch lí cuộc đời, bất chấp lời
khẩn khoản tha thiết nhất của Nhĩ, vẫn sắp đặt một ®ịnh mệnh để Tuấn- con
anh- sà vào đám cờ phá thế ven đường và m¬ ước cháy bỏng đến cuối cuộc đời
anh mới chiêm nghiệm ra tắt vụt trong vô vọng. Đó có lẽ cũng là một nhận thức
về cuộc đời mà nhà văn lặng lẽ gửi vào tình huống mang nghịch lí phũ phàng
với cái tâm hồn khắc khoải trong những ngày tháng cuối cuộc sống và số phận
con người chứa đầy những ngẫu nhiên, những nghịch lí vượt khỏi dự định, ước
muốn, sự hiểu biết và cả toan tính của con người. Bằng suy ngẫm, bằng tổng
kết qua biết bao trải nghiệm con người mới nhận ra triết lí mà cuộc đời nào rồi
cũng phải đón nhận : Con người ta, bước trên đường đời khó tránh khỏi những
vòng vèo, chùng chình cuộc sống giăng ra trước lối. Chỉ có những vẻ đẹp gần
gũi thiêng liêng là có thể cho ta chỗ dựa, nâng cho ta tiếp bước trên đường đời.
Với Nhĩ, đó là cái bãi bồi bên kia s«ng, là người vợ tần tảo giàu đức hi sinh,
đến lúc này anh mới thấm thía.

"Bến quê" được viết theo cách nhìn và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, nó mang
màu sắc và chiều sâu nội tâm rất chủ quan của cá nhân nhân vật trữ tình. Ngòi
bút Nguyễn Minh Châu đã tạo nên một sức hút mạnh mẽ khi xây dựng nhân vật
Nhĩ mang những tình cảm, suy ngẫm sâu sắc, chan chứa trải nghiệm, triết lí về
đời người, về ý nghĩa của những điều ta chiêm nghiệm được từ cuộc sống và
cuộc đời mỗi con người. Những ngày cuối cuộc đời, trong cái dòng chảy của
suy ngẫm và tình cảm mới xuất hiện nơi Nhĩ, thiên nhiên như đẹp hơn, chiếu
vào cuộc đời Nhĩ cái nhìn gần gũi, trìu mến hơn tất cả những gì anh đã từng
được biết. Sáng đầu thu hiện lên trong không gian gần xa như một bức tranh
lên cái thần của cảnh sắc. Đó là những b«ng hoa bằng lăng nở muộn sắc đang
phai giữa không gian vời vợi trong vắt của bầu trời. Nắng soi lên dòng s«ng
uốn lượn mềm mại, đỏ nhàn nhạt màu nước phù sa, soi lên cái chiều rộng,
chiều sâu của bãi bồi ngay trước khung cửa sổ. Nó là tâm điÓm cũng là cái
thần sắc của bức tranh... Nhĩ say sưa chiêm ngưỡng vẻ đẹp đến kì lạ áy, chiêm
ngưỡng trong sự bất ngờ, ngạc nhiên đến thích thú. Cũng phải thôi, sau bao
ngày in gót khắp năm châu, đây là những phút cuối cùng anh được sống thanh
thản giữa quê hương, giữa những cảnh vật, con người đã ngàn lần phô ra trước
mắt. Anh thấy nó đẹp đến kì lạ, bởi vì đó là lần đầu tiên anh say sưa chiêm
ngưỡng nó, say sưa khám phá cái ẩn mình bên trong lớp vỏ gần gũi, hiền lành
đã quen thuộc bấy lâu.

Có lẽ anh đã yêu, yêu tha thiết sự giàu có, đơn sơ, gần gũi mà vô cùng mới mẻ
của thiên nhhiên. Nhưng khi tình yêu ấy chớm nở, cũng là lúc con người Nhĩ
nhận ra nó đã nhen lên trong vô vọng. Anh có thời gian để ngắm nhìn nó nhưng
thời gian để bước đi, số phận đã cướp đoạt khỏi tay anh. Cay đắng nào bằng khi
nhận ra cảnh vật kia, dù chỉ cách đôi bờ ngầu đỏ của con song quen thuộc mãi
mãi là miền đất xa lắc. Đến với nó chỉ là giấc mơ xa vời tầm tay. Nếu thiên
nhiên khiến Nhĩ say mê và thất vọng thì những người thân gợi lên trong anh nỗi
buỗn xen lẫn những mặc cảm, xót xa tê tái. "Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên
đang mặc tấm áo vá" đó cũng là lần đầu tiên nỗi buồn về gia đình quặn lên
trong anh. Cái nghèo khó của gia đình không giấu được qua mảnh vá trên chiếc
áo Liên đang mặc, trên đôi tay gầy gò. Nhĩ đã thấu hiểu sự vất vả, hi sinh thầm
lặng của người vợ hiền thảo. Trong câu nói của anh với Liên có sự bỏ lửng như
sự tắc nghẽn của tâm hồn, của trái tim:
"Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm...mà em vẫn nín thinh" Nhĩ không nói mà
cũng không dám nói. Cái ngắt quãng ấy là bao vất vả, khó khăn Liên lặng lẽ
gánh vác để lo cho gia đình. Nó âm thầm như cái âm điệu câm lặng của dấu ba
chấm. Trong có dường như còn chứa chan cả mồ hôi, nước mắt đắng cay Liên
đã nuốt thầm, đã chịu đựng. Nhĩ không dám nói điều đó, vì nó là lưỡi dao cứa
vào long anh, cứa cả vào long vợ. Anh là trụ cột của gia đình mà chưa một lần
anh làm cho gia đình ấy được sung sướng. Cuộc đời Liên từ khi sống với anh
cũng đâu có khác trước. Qua những lời dịu dàng của Liên anh đã hiểu tình yêu
Liên dành cho mình nhưng điều đó càng khiến anh day dứt vì trách nhiệm của
người chồng, người cha chưa bao giờ trọn ven. Ở nơi anh trào dâng bao xúc
cảm. Đó là sự thương cảm với cuộc đời tần tảo, lặng lẽ của vợ, "Một đời người
đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm", Đó là sự xúc động khi anh tìm được cho
mình nơi nương tựa là gia đình, là người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh, mãi mãi
trọn vẹn nguyên phẩm chất: :Cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên
kia , tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh
từ bao đời xưa". Vào cái buổi sáng đầu thu ấy, khi đã nhận ra vẻ đẹp rất đỡi
bình dị gần gũi của cảnh vật, trong tâm hồn Nhĩ cháy lên một cái gì đó mơ hồ
như một dự cảm, một cái gì đó cháy bỏng như một khát khao. Dường như bằng
trực giác Nhĩ đã nhận ra thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu nữa. Câu hỏi
anh bất chợt hỏi vợ như một sự tính toán thời gian vể cái ngày anh biết chắc sẽ
đến nay mai. Nhà văn Giắc Lân-đơn từng viết:

"Thiên nhiên có nhiều cái nhắc nhở con người về cái chết".

Với Nhĩ có lẽ cũng vậy thôi. Có lẽ anh cũng hiểu rằng màu sắc của những
chùm bằng lăng bỗng trở nên đậm sắcc hơn, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ,
chúng cũng như cuộc đời anh, tàn tạ, héo hắt dần, chuẩn bị cho sự đứt lìa khỏi
cuộc sống. Cảm giác về cái chết treo lơ lửng dường như thôi thúc cái khát khao
trong anh cháy bỏng hơn, gấp gáp hơn trước khi những đốm tàn của ngọn lửa
sự sống tắt lịm hẳn. Những ngày cuối cùng này anh chỉ có một khát khao duy
nhất: được đặt chân lên bờ đất phía bên kia sông.Mới đây thôi anh đã khám phá
ra cái vẻ đẹp diệu kì của cái bên kia song.Một miền đất của trù phú và mơ
ước.Cái tưởng chừng dễ dàng nhất người ta thường hay bỏ qua và rồi sau này
lại phải hối tiếc về điều đó. Rất nhiều, rất nhiều nơi xa xăm Nhĩ đã bước chân
qua vậy mà, cái bãi bồi ngay bên kia thôi chưa một lần anh đặt bàn chân tới.
Đến khi mơ ước, đến khi khát khao thì anh không thể cất bước để tiến về miền
đất ấy nữa. Anh như một nhà thám hiểm, them khát khám phá chân trời mới
nhưng con tàu đi tới thì đã mãi mãi ở lại với biển khơi. Mơ ước rồi cũng là vô
vọng. Tuy khoảng trời kia chỉ cách ô cửa sổ của Nhĩ thôi nhưng dường như mãi
mãi xa vô cùng tận. Có lẽ trong những lần khắc khoải hướng ánh mắt sang bãi
bồi bên kia song, không ít lần Nhĩ mang trong lòng những suy ngẫm, những trải
nghiệm về chính bản thân. Cái bờ bên kia không dừng lại ở ý nghĩa hiện thực
nữa, nó hàm chứa những giá trị biểu tượng vô cùng thiêng liêng. Bến bờ ấy
cũng có thể làcuộc đời chưa đi tới, phần cuộc mà mỗi con người đều muốn
khám phá dù biết rằng nó là không giới hạn. bến bờ ấy cũng có thể là bến đậu
quê hương, bến đậu cuộc đời, bến đậu của những giá trị tinh thần gẫn gũi mà ý
nghĩa. Bãi bồi, bến song, con đò như một phần vẻ của cuộc sống, đơn sơ, giản
dị gắn bó như chính gia đình, như chính quê hương. Khao khát tìm đến những
giá trị gần gũi nhưng đích thực trong cuộc sống, nơi quê hương mà con người
bồng bột với nhiều ham muốn thời trai trẻ đã bỏ qua. Nó là một sự thức tỉnh có
xen niềm ân hận và nỗi xót xa. Niềm ân hận và xót xa khi con người đã nhận
thức được quy luật khắc nghiệt của cuộc đời. Cánh buồn chỉ một lần duy nhất
qua song. Đường đời cũng như thế, chỉ có ai không do dự, không chậm chạp
dềnh dàng mới có thể bước vững vàng đi tới phía trưoiức. Nhĩ không thể đặt
chân lên con đò đưa đến khát khao. Anh đành gửi gắm tất cả tình cảm, tất cả
niềm tin vào Tuấn, nhờ Tuấn giúp anh đặt chân lên cái bên kia song ước mơ.
Tiếng nện dép ra bờ xa dần mang theo bao háo hức của tâm hồn người cha tội
nghiệp. Nhĩ đã hi cọng, đã tưởng tượng thấy Tuấn, như một nhà thám hiểm
chậm rãi bước khoan thai trên cái bãi bồi trước khung cửa sổ. Nhưng ở đời
người ta khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình. Tuấn đâu có thể
hiểu được ý nghĩa thiêng liêng chứa trong ước muốn của cha. Cậu sà vào ván
cờ phá thế trên đường tự nhiên như cách con người vướng phải những cám dỗ
trong cuộc sống. Nhĩ không trách Tuấn. Anh đã từng một thời như Tuấn, anh
hiểu ở cái tuổi như Tuấn, Người ta chưa đủ chin chắn để nhận ra vẻ đẹp thưc
sự, vẻ đẹp vẹn nguyên cả trong những nét tiêu sơ của cuộc đời. Chỉ có anh, đã
từng trải, đã đi qua rất nhiều phương trời, đã nếm trải rất nhiều tình cảm, cảm
xúc mới thấy yêu thấy quý, những giá trị bình dị giản đơn kia. Chỉ có anh mới
hiểu nó ý nghĩa đến nhường nào với mỗi con người trong cuộc sống. Đó cũng
là chân lí cuộc đời. Nhĩ đã phát hiện chân lí ấy để rồi hồi hộp và say mê chờ đợi
được khám phá nó trong tấm gương cuộc đời. Với anh đó phải chăng là niềm
hạnh phúc cuối cùng anh có thể hưởng trước khi nhắm mắt xuôi tay, một niềm
hạnh phúc giản đơn chiêm nghiệm từ cả cuộc đời. Anh giữ trọn trong tâm hồn
khao khát và ước mơ. Thu hết mọi sức tàn Nhĩ bấu chặt vả mười đầu ngón tay
vào cái hậu cửa sổ, vừa run lẩy bẩy. anh dường như đang níu giữ cho mình một
cái gì đó? Có thể là niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà tha thiết kia chăng? Hay đó
còn là một lẽ sống, một giá trị tinh thần thiêng liêng anh đã rút ra trong những
ngày cuối cùng trước khi giã từ cuộc sống. Nhưng kìa, Nhĩ đang đu mình ra
ngoài, "giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang
khẩn thiết ra hiệu cho ai đó". Hành động cuối cùng của giấc mơ. Ngay khi đó
con đò ước mơ cập bến. Nhĩ dã cố hết sức để thúc giục đứa con giúp anh hoàn
thành nốt cái khát khao còn dang dở. Nhĩ đã cố hết sức để gửi đến mọi người
lời nhắn nhủ thức tỉnh, thoát khỏi sự vòng vèo, chùng chình chúng tax a vào để
hướng đến những giá trị đích thực mà gần gũi trong cuộc sống. Lời nhắn nhủ
của Nhĩ cũng có thể là lời cuối cùng của cuộc đời anh. Nó thiêng liêng như cô
đúc cả cuộc đời con người vậy. Sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Nguyễn
Minh châu hoá thân vò nhân vật để nhắn nhủ những lời tha thiết chân thành đến
như thế. Nó chứa trong biểu tượng nhung cũng đẹp, cũng gần gũi như chinh
cuộc đời.

Có lẽ, qua "Bến quê", Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm những suy ngẫm là trải
nghiệm của cả cuộc đời. Một cuộc đờia đã trải qua mưa bom bão đạn chiến
tranh. Mot cuộc đời đã có những tháng ngày vất vả, nhọc nhằn giữa dòng đời
bon chen. Suy nghĩ ấy hẳn sâu sắc lắm, hẳn thiết tha lắm, hẳn sẽ có những
khoảng lặng trầm lắng chứa cả cay đắng lẫn giọt nước mắt sót xa. Bằng trái tim
đầy xúc cảm của một nhà văn, Nguyễn Minh châu đã gửi gắm trải nghiệm ấy
đến cả cuộc đời, đến tất cả mọi người như để thưc tỉnh, như để nhắc nhơ con
người về tình cảm đẹp đẽ nhất. Đáng quý trọng biết bao một trái tim như thế,
một trái tim chỉ biết tìm cái đẹp, cái hay tô điểm cho cuộc đời chung của chúng
ta. Tại sao chúng ta không thể song đẹp hơn nữa, để tô điểm them cho cuộc đời
mỗi chúng ta, cuộc đời chung và đáp lại những công hiến to lớn như thế?
Phân tích "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của
Phạm Tiến Duật (Thầy Lê Bá Duy)
wwwkimson | 18 December, 2010 20:07

Đề : Phân tích "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm
Tiến Duật.
DÀN Ý :
I. Mở bài :
- Hoàn cảnh sáng tác : năm 1969, trong cuộc chiến đấu gian khổ của
những chiến sĩ lái xe đường Trường Sơn thời chống Mỹ.
- Bài thơ hay trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ
năm 1969 - 1970, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật.
II. Thân bài :
1. Từ hình ảnh những chiếc xe không kính độc đáo, bài thơ khắc hoạ vẻ
đẹp hình ảnh, tính cách dũng cảm, lạc quan, yêu nước, giàu tình đồng
chí đồng đội của những người chiến sĩ lái xe.
2. Trên những chiếc xe bị bom đạn ác liệt của kẻ thù tàn phá, không
còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước,...các chiến
sĩ lái xe vẫn hiên ngang, bất chấp gian khổ hy sinh, quyết tâm hoàn
thành nhiệm vụ để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3. Bút pháp hiện thực, tả thực không cường điệu không mỹ lệ hóa.
Ngôn ngữ thơ mộc mạc như lời nói hàng ngày, như văn xuôi, nhưng
giàu nghệ thuật, nhịp điệu, nhạc điệu linh hoạt.
- Giọng điệu sôi nổi, tinh nghịch, vui tươi, có chút ngang tàng của chất
lính.
- Lời thơ giàu suy tưởng, câu thơ cuối toả sáng chủ đề, đặc sắc với
nhãn tự trái tim.
III. Kết bài :
- Bài thơ tái hiện hành trình gian khổ nhưng rất anh hùng của các chiến
sĩ vận tải đoàn 559 trên tuyến lửa Trường Sơn những năm chống Mỹ.
- Kết hợp giữa hiện thực hào hùng với cảm hứng lãng mạn cách mạng,
âm hưởng sử thi chặng đường 30 năm chống xâm lược của dân tộc
1945 - 1975.
DÀN Ý CHI TIẾT :
I. Mở bài :
- Hoàn cảnh sáng tác : năm 1969, trong cuộc chiến đấu gian khổ của
những chiến sĩ lái xe đường Trường Sơn thời chống Mỹ.
- Bài thơ hay trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ
năm 1969 - 1970, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật.
Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những
năm chống Mỹ "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy
tương lai"(Tố Hữu), Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang chất lính, khoẻ,
dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. "Bài thơ về tiểu
đội không kính" (trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn
nghệ năm 1969-1970) được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ
tự do mang phong cách đó.
II. Thân bài :
1. Cái độc đáo dã bộc lộ ngay từ nhan đề bài thơ .
- Hai chữ bài thơ nói lên cách khai thác hiện thực : không phải chỉ viết
về những chiếc xe không kính, chỉ viết về hiện thực khốc liệt của chiến
tranh mà chủ yếu khai thác chất thơ vút lên từ hiện thực ấy, chất thơ
của tuổi trẻ Việt Nam vượt lên những khắc nghiệt của chiến tranh.
2. Sáng tạo độc đáo nhất là hình ảnh những chiếc xe không kính :
- "Không có kính không phải vì xe không có kính" : câu thơ như một câu
văn xuôi.
- Hình ảnh thơ lạ :
+ Hình ảnh xe cộ tàu thuyền đi vào trong thơ thường là được "mỹ lệ
hoá", "lãng mạn hoá" và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn tả
thực :
Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay
(chiếc xe đưa Thuý Kiều ra đi với Mã Giám Sinh ; Truyện Kiều - Nguyễn
Du)
Tế Hanh trong bài Quê hương tả con thuyền rất lãng mạn :Chiếc
thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Chính Phạm Tiến Duật trong bài thơ "Trường Sơn Đông, Trường Sơn
Tây" :
Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ.
+ Hình ảnh những chiếc xe không kính là hình ảnh thực, giọng thơ thản
nhiên , chất thơ rất đẹp từ hình ảnh ấy.
- Nguyên nhân : "Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi"
- Không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước.
3. Vẻ đẹp của hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn:
- Tư thế ung dung mà hiên ngang :
+ Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
+ Điệp từ "nhìn" như một niềm sảng khoái bất tận ; "nhìn thẳng" :hiên
ngang.
+ Diễn tả cụ thể cảm giác của người lính lái xe :
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Ấn tượng thực, qua cảm nhận của tác giả trở thành hình ảnh lãng mạn.
- Thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy :
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo


Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi
+ "Không có kính, ừ thì...,"chưa cần ..."điệp khúc tạo nên giọng điệu
ngang tàng, bất chấp.
+ Niềm vui , lạc quan của người lính :
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
"Lại đi, lại đi, trời xanh thêm" :câu thơ với năm thanh bằng và điệp ngữ
lại đi tạo âm điệu thanh thản, nhẹ nhàng. Hình ảnh bầu trời xanh phơi
phới một niềm lạc quan, yêu đời.
- Điều làm nên sức mạnh để người lính vượt qua khó khăn chính là tình
yêu nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc :
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước :
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
+ Nghệ thuật tương phản giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và
bên trong, giữa cái không có và cái có.
+ Sức mạnh để chiếc xe băng mình ra trận chính là sức mạnh của trái
tim người lính, một trái tim nồng nàn tình yêu nước và sôi trào ý chí
chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
* Liên hệ thơ Tố Hữu :
Tố Hữu đã ca ngợi :
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo
III. Kết bài :
- Đánh giá bài thơ.
- Phong cách thơ Phạm Tiến Duật.
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho
phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu
của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,...Chất
giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế
hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải
nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự
linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá
con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng
sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm
lược 1945 - 1975.

BÀI VIẾT THAM KHẢO :


Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những
năm chống Mỹ "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy
tương lai"(Tố Hữu), Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang chất lính, khoẻ,
dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. "Bài thơ về tiểu
đội không kính" (trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn
nghệ năm 1969-1970) được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ
tự do mang phong cách đó.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió - hình
ảnh có sức hấp dẫn đặc biệt vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay,
hình ảnh xe cộ trong chiến tranh đi vào thơ ca thường được mỹ lệ hoá,
tượng trưng ước lệ chứ không được miêu tả cụ thể, thực tế đến trần trụi
như cách tả của Phạm Tiến Duật. Với bút pháp hiện thực như bút pháp
miêu tả "anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp" của Chính Hữu trong bài
Đồng chí (1948), Phạm Tiến Duật đã ghi nhận, giải thích về "những
chiếc xe không kính" thật đơn giản, tự nhiên :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban
đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng : không còn kính chắn gió, không
mui không đèn, thùng xe bị xước. Hìmh ảnh những chiếc xe không kính
không hiếm trong chiến tranh chống Mỹ trên đường Trường Sơn lửa
đạn nhưng phải là một chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy cảm, trực
tiếp sẵn sàng chiến đấu cùng những người lính lái xe thì nhà thơ mới
phát hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để đưa vào thơ ca một cách
sáng tạo, nghệ thuật. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực,
nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt
của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ.
Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những
chiến sĩ lái xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi
thường gian khổ, hy sinh. Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có
cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài.
Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua
những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ :
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến
người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra trận. Tất cả sự
vật, hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm
nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm
của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh
nhìn thấy từ "gió","con đường" đến cả "sao trời", "cánh chim". Thế giới
bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác
đột ngột cho người lái. Hình ảnh "những cánh chim sa, ùa vào buồng
lái" thật sinh động, gợi cảm. Hình ảnh "con đường chạy thẳng vào tim"
gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con
đường cách mạng.
Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan
tin tưởng chiến thắng. Những câu thơ lặp cấu trúc tự nhiên như văn
xuôi, lời nói thường ngày thể hiện hình ảnh đẹp, tự tin, có tính cách
ngang tàng:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo


Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô, mau thôi.
Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở
Trường Sơn nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ.
Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà
trái lại "tiếng hát át tiếng bom", họ xem đây là cơ hội để thử thách sức
mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những
nguy hiểm. Câu thơ "nhìn nhau mặt lấm cười ha ha" biểu lộ sâu sắc sự
lạc quan ấy.
Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính.
Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính
trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ, lý tưởng
đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình :
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
"Trời xanh thêm" vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng
đường đã đi và đang đến. "Trời xanh thêm" vì lòng người luôn có niềm
tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe hiên ngang,
dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có
lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí
quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống
nhất Tổ quốc :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối cùng vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất
đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để
hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải Trường
Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú
vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo
xuống, do đường trường gây ra : xe không kính, không đèn, không mui,
thùng xe bị xước ... Điệp ngữ "không có" nhắc lại ba lần như nhân lên
những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc "không có
kính/ rồi xe không có đèn / Không có mui xe / thùng xe có xước" như
bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn. Hai câu
cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã
chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình
cảm thiêng liêng "vì miền Nam", vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống
nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình ảnh
"trong xe có một trái tim" . Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ
anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở "trái tim" gan góc,
kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Aån sau ý nghĩa câu thơ "chỉ
cần trong xe có một trái tim" là chân lý của thời đại chúng ta :sức
mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con
người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể cả bài thơ
hay nhất là câu cuối, "con mắt của thơ", làm bật lên chủ đề, toả sáng
vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ. Thiếu phương tiện vật
chất nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang
nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng như Tố
Hữu đã ca ngợi :
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho
phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu
của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,...Chất
giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế
hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải
nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự
linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá
con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng
sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm
lược 1945 - 1975.
Sang thu" của Hữu Thỉnh
wwwkimson | 19 December, 2010 11:34

Mùa thu quả nhiên là mùa nhạy cảm bậc nhất trong năm. Con người cùng Tạo
vật thảy đều nhạy cảm. Tuy nhiên, cái thời điểm mà sự nhạy cảm của hồn tạo
vật luôn thách thức với sự nhạy cảm của hồn người vẫn là thời khắc giao mùa -
chớm thu. Các kênh cảm giác và cả tâm cảm nữa của mỗi hồn thơ dường như
đều được huy động tối đa để nắm bắt những làn sóng, những tín hiệu mơ hồ
nhất từ những giao chuyển âm thầm trong vạn vật.

Chả thế mà, bao đời nay luôn có sự đua ganh giữa hồn thơ với hồn tạo vật. Chỉ
cần điểm sơ qua những tín hiệu từng được hồn thơ từ cổ chí kim nắm bắt trong
những thi ảnh không thôi, cũng khó đủ giấy mực rồi. Gọn nhẹ hơn, chỉ điểm
qua những thi tứ nổi bật dành cho nhịp chuyển mùa thôi, chắc cũng không xuể.
Cho nên, tôi sẽ không nấn ná làm cái việc rút tỉa những thi ảnh và thi tứ tiêu
biểu về thời điểm nhạy cảm ấy của thơ ca các thời, nghĩa là không tái hiện lại
một truyền thống, một tiền đề nữa. Mà cùng Hữu Thỉnh, bước ngay... Sang thu

Bỗng nhận ra hương ổi


Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng


Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Thu, 1977
Tôi mừng cho Hữu Thỉnh và bài thơ, nó vừa giành được một chỗ xứng đáng
trong chương trình Văn và Tiếng Việt của nhà trường. Kể từ nay, hương ổi của
thi phẩm sẽ phả vào tâm hồn của nhiều thế hệ học trò, sẽ được những tâm hồn
ấy mang tới bao nẻo thu, đến cả những miền chưa từng có mùa thu nữa.

1. Từ cấu trúc ...

Trước tiên, thử đi vào cấu trúc của thi phẩm.


Hình thái tổ chức của Sang thu đâu dễ nhận diện. Về bố cục, ai chẳng thấy
chính tác giả đã tự chia bài thơ thành ba khổ khúc chiết. Nhưng về ý tứ ? Xem
chừng ý khổ này cứ "dính" vào khổ kia, chả chịu rành mạch gì cả. Thì quanh đi
quẩn lại vẫn là thế : hương ổi, gió se, sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim
vội vã, nắng vẫn còn, mưa đã vơi, sấm bớt bất ngờ, hàng cây đứng tuổi... chẳng
dáng nét thu về, thì hình sắc thu sang, đấy thay đổi tinh vi, đây đổi thay tinh tế.
Ý đâu có khác gì nhau. Đến nỗi, ngay cả "Sách giáo viên" hướng dẫn người
dạy khai thác và soạn giảng chừng như cũng " bí" trong việc phân định . Hay
việc chia thành ba khổ thế chỉ hoàn toàn do cảm tính lúc viết của thi sĩ, còn ý
thơ thì vốn thiếu rành mạch, vô tổ chức ? Không hẳn.
Đọc kĩ hơn thì thấy rằng: cùng viết về thiên nhiên lúc giao mùa, nhưng mỗi khổ
thơ vẫn nghiêng về một ý. Về cảnh vật, khổ một nghiêng về những tín hiệu
mách bảo sự hiện diện đây đó của mùa thu, từ góc nhìn vườn ngõ : Bỗng nhận
ra hương ổi /Phả vào trong gió se /Sương chùng chình qua ngõ /Hình như thu
đã về. Khổ hai lại nghiêng về những cảnh sắc trời mây sông nước đang chuyển
mình sang thu, với tầm nhìn rộng xa vào bầu trời mặt đất : Sông được lúc dềnh
dàng / Chim bắt đầu vội vã/Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu. Trong
khi đó, khổ ba lại nghiêng về những biến đổi bên trong các hiện tượng thiên
nhiên và tạo vật : Vẫn còn bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn mưa/Sấm cũng bớt
bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi. Như vậy, ba khổ thơ đã được liên kết thành
một chỉnh thể nhuần nhị nhờ vào một trật tự khá tự nhiên : từ gần đến xa, từ
thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ ngoài vào trong, với các lớp cảnh càng ngày
càng đi vào chiều sâu... Một trật tự hợp lí tự nhiên bao giờ cũng là điều sinh tử
để một sản phẩm nghệ thuật hiện ra như một sinh thể !
Nhưng, cả người khờ khạo nhất cũng phải thấy rằng : thơ thiên nhiên không
đơn thuần chỉ có cảnh. Cùng với cảnh, bao giờ cũng là tình, dù đậm hay nhạt,
dù kín hay lộ. Tình trong cảnh, cảnh trong tình. Cho nên, đồng hành với mạch
cảnh sắc trên đây, là tâm tư của thi sĩ. Cụ thể là mạch cảm nghĩ trước mùa thu.
Sự đan xen các mạch này là một khía cạnh phức tạp không thể thiếu của cấu
trúc. Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một (... Hình như thu đã về), là đến niềm
say sưa ở khổ hai (...Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu), và kết lại ở
khổ ba với vẻ trầm ngâm(... Sấm cũng bớt bất ngờ / trên hàng cây đứng tuổi).
Không chỉ có thế. Tương ứng với những cung bậc của mạch cảm, là các cấp độ
của mạch nghĩ. Khổ đầu : bất giác, khổ hai : tri giác, khổ ba : suy ngẫm. Mạch
cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng song hành và chuyển hoá sang nhau trong cùng
một dòng tâm tư . Chúng đan bện với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh
vi phức tạp. Rõ ràng, từ khổ một đến khổ ba, thi phẩm là sự đồng hành và hoá
thân vào nhau của ba mạch nội dung vừa rõ nét vừa sống động. Có thể nôm na
hoá qua sơ đồ sau :

Thế đấy, cấu trúc của thi phẩm này, bề ngoài, có vẻ "dính", nhưng bề sâu, đâu
phải là thiếu rành mạch. Trái lại là đằng khác ấy chứ ! Rõ ràng, qua phân tích
trên đây cũng đủ thấy rằng : một tiếng thơ dù bình dị hồn nhiên thế nào đi nữa,
vẫn là một kiến trúc ngôn từ với một cấu trúc thật tinh vi.

2. ... đến điệu tâm hồn

Cảm nhận tạo vật lúc sang thu, đa phần các thi sĩ nghiêng về vẻ biến suy một
chiều của cảnh. Vì thế, thần thái của cảnh thu thường hiện lên qua vẻ tiêu sơ.
Ví như bài Thu cảm, tiếng thơ khá tinh tế của một thi sĩ đương thời : Mướp tàn
sen cũng đi tu / Lá tre đã thả một mùa heo may / Con sông không ốm mà gầy /
Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn. Cảm nhận của Hữu Thỉnh khác, không đơn
tuyến. Tôi cho rằng, một trong những nét đặc sắc của bài Sang thu là có hai hệ
thống tín hiệu báo mùa có vẻ phản trái nhau, song cả hai đều thuộc về thần thái
của mùa thu. Tạm đặt tên là nhịp mạnh và nhịp nhẹ. Nhịp mạnh bao gồm
những động thái, sắc thái dương tính (mạnh, nhanh, nhiều...) : hương ổi phả -
chim vội vã - vẫn còn bao nhiêu nắng... Nhịp nhẹ thì nghiêng về âm tính (êm,
chậm, ít...) : sương chùng chình, sông dềnh dàng, mưa vơi dần... Lúc bất giác
nhận ra hương ổi "phả" vào trong gió se, thì cũng là lúc bắt gặp sương "chùng
chình" qua ngõ. Chính lúc sông "dềnh dàng" là lúc chim "vội vã". Khi nắng
"còn" cũng là khi mưa "vơi". Đừng nghĩ thi sĩ cố ý đặt bày hai mạch tương
phản nhằm chơi trò lạ hoá. Nó chính là hiện tượng trái chiều mà cùng hướng ta
vẫn thường thấy trong mỗi cuộc đổi thay. Chẳng phải thế sao ? Chẳng phải bao
mạch sống đang cần mẫn chuyển lưu trong lòng tạo vật làm nên cõi sống
trường cửu này vốn vẫn tương sinh tương khắc như vậy sao ? Và chẳng phải
những vận động trái chiều mà cùng hướng vẫn thường đem đến cho sự sống thế
quân bình ngay trong lòng mỗi nhịp biến thiên hay sao ? Cho nên, thật thú vị
mà cũng thật hiển nhiên là hai nhịp mạnh - nhẹ với hệ thống hưng - suy, tiêu -
trưởng kia lại đan dệt trong nhau khá nhuần nhuyễn tạo nên cái bản giao hưởng
gợi cảm của đất trời thu. Có thể xem đó là nét phức điệu trong cảm nhận ngoại
giới của hồn thơ Hữu Thỉnh. Toàn cảnh thu trong bước chuyển mùa, nhờ lối
cảm ấy, đã hiện ra không chỉ có biến thiên, mà đây đó còn cả thế quân bình.
Luôn thấy được thế quân bình ngay giữa những biến thiên thì ít bất ngờ chao
đảo. Trong thiên nhiên đã vậy. Trong cuộc đời cũng thế. Và, tôi ngờ rằng cảm
quan quân bình về đời sống đã ngấm ngầm xui thi sĩ tìm đến cái kết điềm tĩnh
trước ba động, giấu cương sau nhu này : Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây
đứng tuổi ? Nói đến câu kết kia, không thể không thêm vài lời về cách lập tứ
dẫn tới kết. Nó rõ nhất ở khổ ba : Vẫn còn bao nhiêu nắng /Đã vơi dần cơn mưa
/Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Để ý một chút, sẽ thấy rằng
đến đây, tâm thế thi sĩ không còn ngỡ ngàng bất giác như khổ một, say sưa tri
giác như khổ hai, mà lòng đã nặng hơn, đã ra chiều trầm ngâm với suy ngẫm
rồi. Lớp từ mang sắc thái đong đếm ở đây mách với ta điều đó. Hệ thống các từ
còn (-hết), vơi (-đầy), bớt (-thêm) bảo rằng thi sĩ đang suy xét, đúc kết, chiêm
nghiệm. Chiêm nghiệm điều gì ? Về một lẽ đời trong hai chiều biến đổi trái
nhau. Ba câu trên : nắng "vẫn còn", tức là đã giảm ; mưa "vơi dần" rõ là giảm ;
sấm "bớt bất ngờ" càng giảm. Cả ba nghiêng về chiều giảm. Nhưng, khi câu ba
nối vào câu kết, thì chiều giảm đột ngột thành chiều tăng, một chiều tăng kín
đáo : Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Ấy là sự từng trải tăng
lên, là cây đã trưởng thành. Nhờ lối viết nén, mấy chữ "bớt bất ngờ" như một
nút buộc, câu thơ bỗng có "cú pháp dính", lời thơ súc tích hẳn nhờ các làn
nghĩa giao nhập ràng néo nhau : sấm bớt gây bất ngờ (sấm đã e cây), hay cây
bớt bị bất ngờ (cây thôi e sấm)? Có lẽ là cả hai, nhưng xem chừng, cái vế sau
mới là chốt hạ. Nhờ ngữ pháp ấy mà cái ý cương kia liền được giấu kín nhẹm,
thậm chí được nhu hoá. Có thể nói, đây là lối kết theo kiểu "đảo phách". Một cú
đảo phách ngoạn mục. Bởi đảo mà cứ như không.
*
Sang thu là bài thơ tinh tế. Điều này khỏi bàn thêm. Chẳng thế mà các chi tiết
gợi cảm của thi phẩm đã cuốn hút nhiều người yêu thơ. Nào những hương ổi
phả vào trong gió se, nào sương chùng chình qua ngõ, rồi thì sông được lúc
dềnh dàng... xem ra, thi ảnh nào cũng tài hoa. Mà ấn tượng nhất hẳn phải là
cảnh tượng Có đám mây mùa hạ/Vắt nửa mình sang thu. Làm xác định cái
không xác định, khiến cái vô hình thành hữu hình, làm định dạng cái vốn mơ
hồ, là lối viết đâu có gì lạ về thi pháp. Thế mà thi ảnh lại mới, hình sắc lại gợi.
Đám mây thực thế mà ảo thế ! Cái cách "vắt nửa mình" kia sao mà thi vị ! Có
thật chăng một đám mây vốn của mùa hè đang mải mê lấn sân sang mùa thu ?
Có mà không có, thật mà không thật. Cứ y như giữa mùa thu và mùa hè vẫn có
một lằn ranh làm bằng sợi dây vô hình giăng ra giữa thinh không, khiến đám
mây yêu kiều và đỏng đảnh kia có thể vắt nửa mình qua đó mà khoe sắc phô
duyên vậy !
Mà đâu chỉ trong quan sát, ở thi phẩm này, Hữu Thỉnh còn tỏ ra tinh hơn nữa
trong sự đồng điệu với nhịp chuyển mùa. Những hiện tượng riêng lẻ thì gồm cả
hai hệ thống tín hiệu trái chiều, có chậm có nhanh. Nhưng cái nhịp luân chuyển
chung chi phối vạn vật thì bao giờ cũng khẩn trương và mau lẹ. Nhịp luân
chuyển ấy dường như đã nhập vào mấy chữ tưởng rất không đâu mà lại thần
tình này: Sông được lúc dềnh dàng/Chim bắt đầu vội vã ; Vẫn còn bao nhiêu
nắng/Đã vơi dần cơn mưa". Mấy chữ ấy đi với nhau thành cặp, hô ứng và tiếp
ứng nhau làm hiển thị cái nhịp luân chuyển trong tạo vật vốn mải mê mà vô
hình. Người đọc cũng dễ say với những nét tài hoa trong việc sử dụng nhuần
nhuyễn yếu tố cổ điển của thi sĩ. Đọc Hữu Thỉnh, có một chất rất dễ nhận : dân
gian. Còn có một chất khác, luôn cặp kè, mà xem ra lại khó thấy : Đường thi.
Sao lại cặp kè ? Thì một trong những chiêu rất Hữu Thỉnh chẳng phải là chế tác
thi liệu dân gian bằng thi pháp Đường ư ? Cố nhiên, anh không chỉ có chiêu
này. Ở Sang Thu, cái súc tích Đường thi kết hợp với chất hồn nhiên thơ trẻ cứ
loáng thoáng đâu đó trong cách nhìn tạo vật, trong cách kiệm lời, mà hiển lộ
nhất là ở phép đối ngẫu được dùng khá nhuyễn : Sông được lúc dềnh dàng-
Chim bắt đầu vội vã ; Vẫn còn bao nhiêu nắng-Đã vơi dần cơn mưa. Có lẽ khi
đọc các cặp ấy, tâm trí ta bị trôi theo lời thơ bình đạm, ít ai để ý đến nghệ thuật
tổ chức, chỉ lúc chợt ngoái lại, thì mới vỡ lẽ: ồ, ra là phép đối ! Thế là nhuyễn,
là tinh chứ sao !
Tuy nhiên, đó vẫn là những tinh tế tiểu tiết và dễ viết.
Đôi khi quá chú mục vào cái tinh tế trong tiểu tiết có thể quên sự tinh vi trong
đại cục. Tôi muốn nói đến điều khác : ý tưởng bao trùm. Nó mới là nét tinh vi
thuộc về đại cục. Ý tưởng Sang thu được gói kín vào thi tứ. Một thi tứ đa tầng
khiến hình tượng thơ thành đa nghĩa. Nhờ đó, thi phẩm nhỏ đã mang thi tứ lớn.
Sang thu đa nghĩa, vì ít nhất, có sự chất chồng và giao thoa của ba lớp nghĩa :
trời đất sang thu, đời sống sang thu và đời người sang thu. Lớp nghĩa thứ nhất
dễ thấy. Vì nó ở bề nổi của văn bản thơ. Nó khiến bài thơ như một bức tranh
thiên nhiên. Không. Có lẽ như những thước phim về cảnh vật thiên nhiên thì
phải hơn. Tranh thì tĩnh, phim mới động. Sự mẫn cảm của tâm hồn thi sĩ đã
được dịp phô diễn qua những thi ảnh giàu mỹ cảm trong việc nắm bắt bao vận
động, chuyển động, biến động âm thầm và sâu kín của thiên nhiên. Nhưng, nếu
chỉ thế thôi, Sang thu cũng mới là thơ tạo vật. Hữu Thỉnh chưa đem đến cái gì
mới hơn so với các tiếng thơ thuộc thi đề thu của những người đi trước. Đồng
thời, cũng chưa phổ được vào đó hơi thở của thời mình, tinh thần của thế hệ
mình.
Hai lớp nghĩa sau mới thật là thứ hương ổi riêng mà Hữu Thỉnh phả vào trong
thi đề này. Tất nhiên, những hàm ý kín đáo kia toát lên trước hết từ nghĩa bóng
đây đó của các thi ảnh. Ai cũng có thể thấy những ẩn ý nào đó thấp thoáng sau
lối viết ẩn dụ trong các thi ảnh rải rác ngay từ đầu sương chùng chình, sông
dềnh dàng, chim vội vã v.v... Nhưng nếu chỉ có thế thì ý nghĩa của chúng còn
lờ mờ, chưa xa gì hơn một lối nói sinh động về sự vật, chưa đủ tạo hẳn ra một
lớp nghĩa khác cho văn bản. Lớp nghĩa kia chỉ thực sự bật hầm khi hình ảnh
cuối cùng đột hiện : Sấm cũng bớt bất ngờ / Trên hàng cây đứng tuổi. Chữ
"đứng tuổi" bật sáng, phát động một lớp nghĩa khác cho bài thơ. Nó đâu chỉ nói
cây, mà còn nói người. Nhân hoá cây là bề nổi, giấu người vào cây là bề sâu.
Tự dưng, chúng ta thấy từ mạch hình ảnh thiên nhiên rải khắp bài thơ bỗng
bừng dậy một lớp nghĩa khác gắn với con người và cuộc đời.
Có thể thấy rõ hơn nữa, khi nhìn trong tương quan khác.
Cảm thụ nghệ thuật, căn cứ quan trọng nhất là văn bản. Nhưng, chỉ bó hẹp
trong văn bản không thôi, dễ làm nghèo nghệ thuật. Trong thực tế, thông điệp
nghệ thuật của một tác phẩm không chỉ cất lên từ những gì thuộc nội bộ văn
bản, mà còn vang lên cả từ tương quan giữa văn bản với những thứ bên ngoài
vốn thiết thân với nó nữa. Ví như hoàn cảnh sáng tác . Tác giả cho biết thời
điểm viết Sang thu là mùa thu 1977, ở nhiều lần in cũng ghi rõ như vậy. Điều
này ngẫu nhiên chăng ? vô nghĩa chăng ? Không hẳn. Bấy giờ, cuộc sống vừa
qua khỏi thời chiến đầy khốc liệt đang chuyển sang thời bình êm ả. Nghĩa là,
đời sống cũng vừa sang thu. Đây là lúc trong lòng đời có bao trăn trở xao động.
Nhìn bài thơ trong tương quan với thời điểm ấy, tự dưng chúng ta thấy các hình
ảnh đó đây nhấp nháy lên những nghĩa khác : nghĩa thế sự. Đặc biệt từ khổ hai
trở đi. Nếu ở khổ đầu, thơ còn nặng về tạo vật, thì từ khổ thứ hai đã bảng lảng
cái bóng đời. Hèn chi, cùng diễn tả nhịp vận động chầm chậm, nhưng Sương
chùng chình qua ngõ thật khác với Sông được lúc dềnh dàng. "Chùng chình"
còn dễ ưa, "dềnh dàng" đã khó ưa. "Dềnh dàng" đâu chỉ nói về nét riêng của
dòng chảy đã chậm hơn khi con sông vào thu. Dường như nó còn ngầm tỏ thái
độ về cái điệu sống của những đối tượng nào đó hồi mùa hạ hăng hái xông pha
là thế, giờ vào thu đã tự cho phép mình được dềnh dàng, được xả hơi chăng ?
Chả phải vô cớ mà thi sĩ đem chữ "được lúc" gắn với cái thói "dềnh dàng" ấy
của sông. Cũng như thế, Chim bắt đầu vội vã có phải chỉ đơn thuần nói về các
loài chim lúc sang thu đang gấp gáp bay đi lánh rét không thôi ? Xem ra, nó
còn muốn nói tới đối tượng sống tuỳ thời, xu thời nào đó nữa ấy chứ ? Đến khổ
thứ ba, cái lớp nghĩa thế sự bảng lảng này còn tỏ hơn nữa. Tôi ngờ rằng đây là
khổ thơ mà anh chàng thi sĩ cũng vừa trải qua một mùa hè bỏng rát đang kín
đáo nói về thế hệ mình và chính mình ? Vâng, tuy đã sang thu, nhưng lòng vẫn
còn bao nhiêu nắng. Đồng thời, bao tủi sầu yếu đuối, bao cơn mưa thở than nay
cũng đã vơi dần. Bước sang thu, hàng cây trẻ hồi nào giờ đã đứng tuổi. Sự từng
trải đã giúp cây trưởng thành, đủ vững trãi đối đầu với mọi ba động, mọi cú
giáng của cuộc đời : Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Không có
chữ "đứng tuổi" cứ như lạc hệ thống này, mọi suy cảm trên sẽ thành võ đoán,
lớp nghĩa thời sự vốn khuất mình không thể phát sáng được. Không có nó, ý
ngầm của kẻ viết vừa khó phát lộ vừa khó gói ghém.
Một cái kết quá là khôn ngoan.
Thì ra, mùa thu đâu chỉ có chuyện tiêu sơ. Mùa thu còn là chuyện trưởng thành.
Mùa thu đâu chỉ có biến thiên. Mùa thu còn tàng ẩn cả những quân bình tự tại
nữa. Chẳng phải đó là những nét độc đáo mà Hữu Thỉnh đã đem đến cho một
thi đề tưởng đã quá ư quen thuộc hay sao ?
Từ thơ tạo vật, Sang thu đã lẳng lặng thành thơ cuộc đời ! Chu Văn Sơn
Phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh (Bài tham khảo)

Có lẽ vì nàng thu "thơ mộng muôn thủa" luôn có xu hướng "rủ rê" ngòi bút
theo những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo những
con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của văn chương...

Nói về đề tài mùa thu, một tác giả đã nhận định: "Đề tài "Mùa Thu" bao giờ
cũng có vẻ là dễ viết. Mùa thu dường như luôn luôn nấp sẵn trong ngòi bút của
chúng ta, nhất là những ngòi bút thơ: hễ động bút là mùa thu cứ chực đổ ùa ra
trên mặt giấy. Tưởng như với đề tài thơ mộng muôn thuở này có thể dễ dàng
chắp bút. Chỉ đến khi bắt đầu cầm bút ngồi trước mặt giấy, tôi mới thấy đề tài
này thật là khó" Tại sao lại có nghịch lí trong kinh nghiệm của người sáng tác
như vậy? Có lẽ vì nàng thu "thơ mộng muôn thủa" luôn có xu hướng "rủ rê"
ngòi bút theo những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo
những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của văn chương...

"Sang thu" của Hữu Thỉnh xuất hiện khi trước nó đã có rất nhiều bài thơ nổi
tiếng đông tây kim cổ: Thu hứng (Đỗ Phủ), Chùm thơ thu (Nguyễn Khuyến),
Đây mùa thu tới (Xuân Diệu)... Nhưng nó vẫn có cái hay, cái độc đáo riêng của
một hồn thơ sâu lắng, nhạy cảm khi mùa thu tới.

Ngay từ tiêu đề, tác giả đã tự xác định một thời điểm miêu tả: thời điểm giao
mùa. Đó không phải là chính thu, khi bầu trời xanh ngắt lơ lửng những tầng
cao, không phải cuối thu, khi nắng trời đã nhuộm đỏ lá bàng, hay khi cái rét
mùa đông đã lẩn vào trong gió...Sang thu nghĩa là mới chớm thu thôi, cái tứ kết
buộc hệ thống hình ảnh trong bài cũng chỉ gói gọn trong chút "chớm" mỏng
manh đó.

Đặc biệt ở góc độ miêu tả tạo vật. Không hề có một từ định tính để miêu tả thế
giới thu. Có hương ổi, mùi hương vừa đặc trưng cho mùa vừa đặc trưng cho
làng thôn ngõ xóm. Nhưng hương ổi "thơm" như thế nào thì thi sĩ hoàn toàn
không miêu tả. Có gió, nhưng gió se chứ không phải là gió lạnh. Se gợi một
động thái, hơn là gợi một cảm giác. Làn sương giăng phủ ngõ thôn chẳng được
đặc tả ở mức độ (mù mịt) hay màu sắc (trắng mờ)... Dòng sông, cánh chim, hay
đám mây cũng không tô điểm cho phong cảnh thu bằng những gam màu đặc
trưng của nó. Truyền thống thơ thường kiến trúc ngôi nhà thu bằng những chất
liệu quen thuộc như cúc, liễu, ngô đồng hay màu trời, sắc nước...Hữu Thỉnh
hầu như khơi gợi cảm giác về mùa trong trạng thái mơ hồ của tạo vật. Thành
công nổi bật nhất của bài cũng là ở một hệ thống những động từ miêu tả rất
giàu cảm giác: "phả", "se", "chùng chình" "dềnh dàng" "bắt đầu vội vã" "vắt
nửa mình"... "Chùng chình" trước hết gợi tả chính xác những làn sương như
ngưng lại và nhẹ nhàng tỏa lan ngõ xóm. Dòng nước thu vốn trong trẻo và sâu
hút làm người ta khó mà thấy rõ được sự chuyển động nó nên cảm giác sông
lững lờ trôi cũng rất hiện thực. Đám mây như tấm khoăn voan của người thiếu
nữ, duyên dáng nối hai mùa là một liên tưởng thực sự độc đáo. Song trên hết,
hệ thống động từ toàn bài còn đặc sắc ở chỗ, nó không chỉ miêu tả chính xác
trạng thái của tạo vật mà còn thổi vào tạo vật những cảm giác rất người. Tinh tế
và sống động sao một buổi sáng chớm thu, sương như người khách ngập ngừng
nơi đầu ngõ, gió se lại bởi chút lạnh xa xăm, những cánh chim vội vã tìm về
phương ấm áp...

Song thời điểm chớm thu không phải chỉ hiển hiện ở những dấu hiệu mơ hồ
trong trạng thái biến chuyển của cảnh vật, mà ở cả chút ngỡ ngàng bâng khuâng
của lòng người: "Bỗng nhận ra hương ổi"; "Hình như thu đã về"...

Tiếp tục thể hiện những dấu hiệu mùa thu rõ rệt hơn nhưng ý nghĩa của khổ
cuối không chỉ dừng lại ở đó:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Con người cảm thấy biết bao biểu hiện khác biệt của thời tiết khi mùa thu tới:
mưa và sấm thưa dần, không còn dữ dội nữa. Sang thu, tất cả các dấu hiệu của
mùa hạ vẫn còn nhưng đã giảm dần mức độ, cường độ... Hàng cây như đã quá
quen với nắng lửa mưa giông, được gọi một cách hình ảnh là "hàng cây đứng
tuổi". Chính các từ "bất ngờ", "đứng tuổi" khiến ý nghĩa của câu thơ không
dừng lại ở nét nghĩa tả thực mà có chiều sâu hơn. Nắng, mưa, sấm chớp... hay
là những vang động của cuộc đời? Trong tương quan ấy, hàng cây tượng trưng
cho con người từng trải mà bao dâu bể biến đổi không còn đáng ngạc nhiên.
Cảnh như sâu lắng hơn bởi liên tưởng suy tư về mùa thu đời người.

Không hiểu sao, khi đọc bài thơ này, tôi chợt thấy nhớ rất nhiều những năm
tháng đã qua của mình. Miền kí ức tuổi thơ được đánh thức bởi mùi hương ổi,
bởi ngõ xóm thân quen ấy. Và có lẽ cũng nhờ giọng điệu êm nhẹ dễ cuốn người
đọc vào dòng cảm xúc, suy nghĩ tự nhiên của tác giả. Nét độc đáo nhất của bài
là những hình ảnh chính xác và giàu sức gợi tạo nên một bức tranh thu giản dị
mà sống động. Đây xứng đáng là một bài thơ thu hay trong thế giới thi ca!

Phân tích tình cảm cha con trong truyện "Chiếc lược
ngà" của Nguyễn Quang Sáng
wwwkimson | 19 December, 2010 11:48

Có câu nói: "Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ


trong tâm hồn mỗi người!"Vì lòng yêu cha,một cô bé nhỏ mới
tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận người khác làm bố,
cho dù bị đánh. Vì lòng thương con,một người chiến sỹ dù ở
sa trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa
con gái bé bỏng.Có người nhận xét rằng "tình phụ tử không
thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử". Song nếu đọc truyện
ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng, có thể bạn
sẽ phải có cái nhìn khác mới mẻ và chân thực hơn. Câu
chuyện khắc họa hình ảnh một nhân vật bé Thu đầy ấn
tượng và tinh tế, hơn thế lại ca ngợi tình cha con thiêng
liêng, vĩnh cửu dù trong chiến tranh.

Nguyễn Quáng Sáng sinh năm 1933 ở An Giang.Thời kỳ


kháng chiến chống Pháp ông tham gia bộ đội và hoạt động ở
chiến trường Nam Bộ.Sau năm 1945, ông tập kết ra Bắc và
bắt đầu viết vănn.Có lẽ vì sinh ra va hoạt động chủ yếu ở
miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về
cuộc sống và con người Nam Bộ.Các tác phẩm chính là Chiếc
lược ngà(1968),Mùa gió chướng(1975),Dòng sông thơ
ấu(1985),...Nguyễn Quang Sáng có lỗi viết văn giản dị,mộc
mạc nhưng sâu sắc,xoay quanh những câu truyện đời thường
nhưng ý nghĩa.Chiếc lược ngà viết năm 1966 tại chiến trường
Nam Bộ chống Mỹ ,là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng, khẳng định nghệ thuật
miêu tả tâm lý đặc sắc,xây dựng tình huống bất ngờ và ca
ngợi tình cha con thắm thiết.Vẫn viết về một đề tài dường
như đã cũ song truyện mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.

Câu truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và
ông Sáu.Khi ông Sáu đi kháng chiên chống Pháp,lúc đó bé
Thu chưa đầy một tuổi.Khi ông có dịp thăm nhà thì con gái
đã lên 8 tuổi.Song bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo
trên má làm ông Sáu không giống như bức ảnh chụp chung
với má.Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng mọi cách để gần
gũi nhưng con bé vẫn không chịu gọi một tiếng "Ba". Đến khi
bé Thu nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi.
Ông hứa sẽ mang về tặng con một cái lược ngà.Những ngày
chiến đầu trong rứng, ông cặm cụi làm chiếc lược cho con
gái.Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã
hi sinh.Trước khi nhắm mắt ông chỉ kịp trao cây lược cho
người bạn nhờ chuyển lại cho con mình.

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được
tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén,là một cô bé
giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc.Bé Thu gây ấn tượng cho
người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,khi
mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi
tiếng "Ba" ,hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho
xuống,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về
nhà bà ngoại.Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng
nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu,nhưng điều
khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách
của bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh,dù là bị dồn vào thế
bí,dù là bị ông Sáu đánh,bé Thu luôn bộc lộ một con người
kiên quyết ,mạng mẽ.Có người cho rằng tác giả đã xây dựng
tính cách bé Thu hơi "thái quá",song thiết nghĩ chính thái độ
ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con
dành cho người cha yêu quý.Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy
nhất hình ảnh của một người cha "chụp chung trong bức ảnh
với má".Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi
thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má.Vết
thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng
khuôn mặt ông Sáu.Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc
trở của chiến tranh,nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc
liệt của bom lửa đạn,biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng
và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ.Cái cảm giác
đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng
đảnh,nhiễu sách mà là sự kiên định,thẳng thắn ,có lập
trường bền chặt,bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan
cường của cô gian liên giải phóng sau này.

Nhưng xét cho cùng,cô bé ấy có bướng bỉnh,gan góc,tình


cảm có sâu sắc,mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa
trẻ mới 8 tuổi,với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con
trẻ.Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả
rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách
đẹp đẽ,thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy.Khi bị
ba đánh,bé Thu "cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén
rồi lặng lẽ đứng dậy,bước ra khỏi mâm".Có cảm giác bé Thu
sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính
tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình
có lỗi?Lại một loạt hành động tiếp theo "Xuống bến nó nhảy
xuống xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn
rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông".Bé Thu bỏ đi lúc
bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ co
bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà chạy ra vỗ
về,dỗ dành.Có một sự đối lập trong những hành động của bé
Thu,giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi,nhưng ở
khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về.Song khi
"Chiều đó,mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu
về",cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác
giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế.Dù như thế thì bé Thu
vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng
rắn và mạnh mẽ trước tuổi.

Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ


nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm.Tình cha con trong Thu
giữ gìn bấy lâu nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con
phải tạm biệt nhau.Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha
từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh
liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó,cưng
nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ chơi
kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như
chưa có chú ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó
đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường
nào,cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng
ra sao?Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận
một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến ngày ông Sáu phải
đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại "như thể bị bỏ
rơi","lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi
người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát cái sự ấm
áp của tình cảm gia đình ,nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn
cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng
nó,làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra
sự có mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi
đi,có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào
dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng
kêu hét lên "Ba...","vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một
con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba
nó","Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn
cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa".Tiếng kêu "Ba" từ
sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi
cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi
lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập
nói,tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần.Bao
nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra tring một tiếng
gọi cha.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn
mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu tiên nó cảm
nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có
cha.Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của
nó.Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình
cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn hồn
nhiên,ngây thơ:Nhân vật bé Thu.

Không chỉ khắc họa thành công nhân vật bé Thu,truyện ngắn
"Chiếc lược ngà" ca ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp
đẽ.Bên cạnh hình ảnh bé Thu,hình ảnh ông Sáu được giới
thiệu là người lính chiến tranh,vì nhiệm vụ cao cả mà phải
tham gia chiến đấu,bỏ lại gia đình,quê hương;và đặc biệt ông
là người yêu con tha thiết.Sau ngần ấy năm tham gia kháng
chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là
được gặp con và nghe con gọi một tiếng cha.Nhưng cái ngày
gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không
nhận cha. Ông Sáu càng muốn gần gũi thì dường như sự lạnh
lùng,bướng bỉnh của con bé làm tổn thương những tình cảm
da diết nhất trong lòng ông.Còn gì đau đớn hơn một người
cha giàu lòng thương con mà bị chính đứa con gái ấy từ
chối.Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như
một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà bấy lâu nay
ông dồn nén,chứa chất trong lòng.Có lẽ ông biết rằng mình
cũng không đúng vì suốt bảy năm trời chẳng thể về thăm
con,chẳng làm gì được cho con,nên nhân những ngày này
ông muốn bù đắp cho con phần nào.Giá gì không có cái bi
kịch ấy,giá gì bé Thu nhận ra ông Sáu sớm hơn,thì có thể ông
Sáu và bé Thu sẽ có nhiều thời gian vui vẻ,hạnh phúc.Nhưng
sợ rằng một câu truyện như vậy sẽ chẳng thể gây được cảm
động cho người đọc với những xúc cảm khác nhau,có lúc dồn
nén,có lúc lại thương xót,có lúc lại "mừng mừng tủi tủi" cho
ông Sáu khi mà bé Thu cất tiếng gọi "Ba",tiếng gọi muộn
màng nhưng lại có ý nghĩa đẹp đẽ! Ai có thể ngờ được một
người lính dạn dày nơi chiến trường,quen với cái chết cận kề
lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình.Những giọt
nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ
vất vả,song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm
áp của cha con thực sự!("Không ghìm được xúc động và
không muôn cho con thấy mình khóc,anh Sáu một tày ôm
con,một tay rút khăn lau nước mắt")."Ba về!Ba mua cho con
một cây lược nghe ba!", đó là mong ước đơn sơ của con gái
bé bỏng trong giây pút cha con từ biệt.Nhưng đối với người
cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất,cho nên nó cứ thôi
thúc trong lòng ông.Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở
nên thiêng liêng,cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự
tay làm chiếc lược ngà cho con."Khi ông Sáu tùm được khúc
ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà"," Ông thận trọng
tỉ,mỉ...","Ông gò lưng khắc từng nét..."Một loạt hành động
cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm.Tất cả tình
yêu,nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông
nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của
mình.Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một
nghệ nhân sáng tạo tài tình,dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm
duy nhất trong đời.Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay
vào túi,móc lấy cây lược,đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu.
Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì,chỉ có một ánh
mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của
mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với
con.Tình cảm của ông sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng
và cảm động sâu sắc.

Người mất,người còn nhưng kỷ vật duy nhất,gạch nối giữa


cái mất mát và sự tồn tại,chiếc lược ngà vẫn còn ở đây.Chiếc
lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm
thắm,kỳ diệu,là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông
Sáu và bé Thu;và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương
vô bờ bến của ông Sáu với con.Có thể chiếc lược ấy chưa
chải đượcmais tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm
trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết
cấu vòng tròn cho câu chuyện,và cũng là bài ca đẹp tồn tại
vĩnh cửu của tình cha con. (Nhan đề của chuyện cũng là
"Chiếc lược ngà"!)

Cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập là những
người đã khuất,là tổ ấm gia đình không còn trọn vẹn.(Người
đọc có thể bắt gặp tình huống này một lần nữa ở truyện
"Chuyện người con gái Nam Xương"). Đó thật sự là tội
ác,những đau thương mất mát mà chiến tranh tàn bạo đã
gây ra.Chính chiến tranh đã làm cho con người phải xa
nhau,chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng,chiến
tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le,bị thử
thác,rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu
chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải
hi sinh trên chiến trường.Câu chuyện như một lời tố cáo
chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu vô ích,làm nhà nhà li
tán,người người xa nhau vĩnh viễn.Song cái chúng ta thấy lại
không có sự bi lụy ma là sức mạnh,lòng căm thù đã biến Thu
trở thành một cô giao liên dũng cảm,mạnh mẽ, đã gắn bó với
cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau để cung đứng
lên hát tiếp bài ca chiến thắng,

"Chiếc lược ngà" như một câu chuyện cổ tích hiện đại,thành
công trong việc xây dựng hình thượng bé Thu và gửi gắm
thông điệp đẹp về tình cha con.Nhân vật ông Ba-người kể
chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng,phải là
người từng trải,sống hết minh vì cách mạng kháng chiến của
quê hương,gắn bó máu thịt với những con người giàu tình
yêu,nhân hậu mà rất kiên cường,bất khuất,nha văn mới có
thể nhập hồn được vào các nhân vật,sáng tạo nhiều hình
tượng với các chi tiết sinh động,bất ngờ,hơn nữa lại có giọng
văn dung di,cảm động!

Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại,nhưng từ


chính trong gian khổ khốc liệt,có những thứ tình cảm đẹp
vẫn nảy nở: tình đồng chí,tình yêu đôi lứa,tình cảm gia
đình,và cả tình của một người cha với con gái.Truyện ngắn
"Chiếc lược ngà" là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử
giản dị mà thiêng liêng,với những con người giàu tình cảm và
đẹp đẽ,như nhân vật bé Thu.
Phân tích "Làng" - Kim Lân
wwwkimson | 19 December, 2010 11:49

Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là
nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ
trước cách mạng tháng 8. Là nhà văn am hiểu sâu sắc, gắn bó với nông
dân và nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và
cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn "Làng" là một trong những
truyện ngắn hay nhất của Kim Lân đc viết trong thời kì đầu của cuộc
khánh chiến chống Pháp (1948). Đây là một tác phẩm độc đáo viết về
lòng yêu nước của ông Hai Tu, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu
quê hương, yêu làng sâu sắc của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở
thành phổ biến ở mỗi người nông dân VN ta trong những ngày đầu
chống Pháp.
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết , yêu đến
nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng chợ Dầu, ông
nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay
không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong
làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn
không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng
hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần
của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc
đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã giúp
ông hiểu dc sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông
khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ
râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố ,
những ụ, những hào,... lắm công trình không để đâu hết. Chính cái tình
huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa
làng ông mang theo tất cả nỗi niền thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư,
ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của
ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi " chôn
rau cắt rốn" của mình trở thành một truyền thống và tâm lý chung của
mọi người nông dân thời bấy giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt
nguồn từ cái đơn giản, nhỏ : cây đa, giếng nướ, sân đình... và nâng cao
lên đó chính là : tình yêu đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất
hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : "lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu
miền quê trở nên lòng yêu TQ ". Những ngày ở làng Thắng, ông Hai
suốt ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng chợ Dầu và ông nghe
tin cả làng ông Việt gian theo tây. Cổ ông lão " nghẹn ắng lại, da mặt
tê rân rân" ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được. Ông cảm
thấy đâu đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của mình theo
giặc. Ông nguyền rủa bọn theo Tây : "chúng bay ăn miếng cơm hay
miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã
thế này". Cũng chình từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru
rú trong nhà và nghe ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo
không cho gia đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống và ông
nảy ra ý định: "hay là quay về làng ?" nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị
ông lão phản đối ngay vì : " làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì
phải thù." Có thể nói với ông Hai, làng và nước bay giờ đã trở thành đối
địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm trong lòng
ông. Nhưng trong đó, tình yêu đất nước được ông Hai đặt lên trên hết.
Phải thực sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm lí của người
dân thì Kim Lân mới diễn tả đúng tâm trang nhân vật như vậy. trong
những ngày này, nỗi niềm và tâm sự của ông được thể hiện trong
những lời trò chuyện của ông với đứa con út. Trò chuyện với cn như là
để thanh minh cho làng mình. Ông hỏi con: "con ủng hộ ai?" Thằng bá
giơ tay mạnh bạo và rành rọt: " Ùng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm". Cái
lòng của bố con ông là thế đấy "chết thì chết có bao giờ dám đơn sai"
Thế rồi, một tin khác lại đính chính rằng làng ông không theo giặc.
Những nỗi lo âu, xấu hổ tan biến. Thay vào đó là nỗi vui mừng, sung
sướng. Ông đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình không
theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng,
hả hê: " bác Thứ đâu rồi ! Bác Thứ làm gì đấy ? Tây nó đốt nhà tôi rồi
bác ạ. Đốt nhẵn ! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính,
ông ấy cho biết... cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy
mà. Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự mục đích cả" Qua lời khoe củ ông Hai,
điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn khi ngôi nhà
của ông bị đốt . Niềm vui vì làng không theo giặc đã choáng hết tâm trí
ông. Mọi đau khổ, buồn tủi đã được rũ sạch. Quả thật, Kim Lân rất
thành công trong việc khắc họa hình ảnh của ông Hai, một trong những
người dân bấy giờ, đơn giản, chất phác, tiêu biểu cho tầng lớp nông
dân VN sau cách mạng tháng 8. Họ đã đặt tình yêu đất nước lên trên
tình yêu làng. Kim Lân thật thành công trong nghệ thuật xây xựng
truyện, nhất là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ông Hai là
điển hình. Lời nói của ông hai đúng là lời nói của những người nông dân
thời bấy giờ, kể cả những từ dung sai: "bác Thứ đâu rồi... Láo ! Láo
hết ! toàn là sai sự mục đích cả". bên cạnh đó Kim Lân còn thành công
trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Diễn biến tâm lý của ông Hai từ
đầu đến cuối truyện thật cảm đông. Yêu làng đến nỗi đi đâu cũng khoe
về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đâu khổ, tủi nhục,
và khi biết làng mình không theo giặc, ông sung sướng, thậm chí còn
khoe cả tin nhà mình bị đố cháy một cách vui sướng, hả hê. Xây dựng
được những chi tiết ấy, miêu tả sự phát triển tâm lý nhân vật như vậy,
Kim Lân đã chứng tỏ được tài nghệ của mình.
Truyện "Làng" là một tác phẩm khá thành công khi viết về lòng yêu
nước, yêu làng của người nông dân VN thời kháng chiến chống Pháp.
Kim Lân đã thể hiện được tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc
tác phẩm giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của
nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng khánh chiến đến
cùng, có lẽ vì vẫy mà cuộc chiến của ta đã dành được thắng lợi vẻ
vang.

Dàn ý:

Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng
Tháng 8 - 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ
Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân.
Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của
người nông dân
- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp
chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng
định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình
yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản
chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ
vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
B- Thân bài
1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc,
tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng
và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong
tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền
thống vừa có chuyển biến mới.
2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy
trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông
Hai. ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính
chỉ riêng ông mới có.
a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.
- Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
- Cái làng đó với người nồn dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong
đời sống vật chất và tinh thần.
b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến
mới trong tình cảm.
- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng
của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải
xa làng, ông nhớ quá cái khong khí "đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân
đá..."; rồi ông lo "cái chòi gác,... những đường hầm bí mật,..." đã xong
chưa?
- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bìh luận, náo nức
trước tin thắng lợi ở mọi nơi "Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết
một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích
tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm".
c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ
sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.
- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể
rành rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì
chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi.
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó
"cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi". Ông giận những người ở lại làng,
nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ "đổ đốn" ra thế. Nhưng
cái tâm lí "không có lửa làm sao có khói", lại bắt ông phải tin là họ đã
phản nước hại dân.
- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cai tin nhục nhã ấy choán
hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt
giật mình. Khong khí nặng nề bao trùm cả nhà.
- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung
đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ
quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người
làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến
đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: "Làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây thì phải thù". Nói cứng như vậy nhưng thực lòng
đau như cắt.
- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách
cảm động nhất khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út
ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng
chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:
+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: "ủng hộ cụ Hồ Chí Minh
muôn năm!" nữa là ông, bố của nó.
+ Ông mong "Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu
trên cổ xét soi cho bố con ông".
+ Qua đó, ta thấy rõ:
Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải
cái làng đổ đốn theo giặc).
Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu
tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân thành.
Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ
dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ,
ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.
- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ
thể ý chí "Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước" của người nông
dân lao động bình thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ
tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.
3. Nhân vạt ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ
thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông
dân dưới ngòi bút của Kim Lân.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để
nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi,
ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.
Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa
mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.
C- Kết bài:
- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước
rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những
người nông dân lao động bình thường.
- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất
nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách
mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi
bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công
đáng quý.
Phan tich nhan vat Vu Nuong trong chuyen nguoi con gai Nam Xuong
Bài 1 :
Nghĩ chuyện trên đời kì lạ thật. Chuyện tình duyên, sống chết, số phận của con người lại
được định đoạt tù một câu chuyện đùa về một cái bóng. Ngày xưa, thân mẫu của Trịnh
Trang Công trong Ðông Chu liệt quốc đã gây ra bao chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu
rơi máu chảy chỉ vì bà ghét Trịnh Trang Công khi xưa sinh ngược khiến bà phải đau đớn.
Chuyện đời vẫn thế, đó là chỗ éo le phức tạp trong đời sống tâm hồn con người. Chỗ kì
bút của Nguyễn Dữ là đã bắt nắm được một tình huống éo le như vậy. Trong văn chương
nước ta cũng như thế giới không hiếm những câu chuyện xen những yếu tố truyền kì. Nét
riêng của Chuyện người con gái Nam Xương là hai yếu tố thực và truyền kì không đan
xen vào nhau mà kết cấu thành hai phần. Phần truyền kì vùa làm cho câu chuyện thêm
lung linh hư ảo, vùa góp phần làm rõ những yếu tố ở phần thực. Phần thực là cơ sở để
xây dựng phần truyền kì (phần thực, tôi muốn nói thực của văn học). Bằng mối liên hệ
giữa hai phần, nhà văn làm nổi bật tính cách nhân vật và thể hiện chủ đề của tác phẩm.

Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết là nhân vật chính xuyên suốt hai phần của tác
phẩm. Nguyễn Dữ không chú trọng việc miêu tả hình thức, chúng ta chỉ biết Vũ nương là
người “có tư dung tốt đẹp”. Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản
là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau.
Ở tùng thời điểm ấy, nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Mối quan hệ với Trương Sinh diễn
ra trên bốn thời điểm: khi chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng trở về.
Khi chung sống với nhau, biết Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng
giữ gìn khuôn phép” cho gia đình hoà thuận. Khi tiễn chồng đi tòng quân, tính cách của
Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Lang quân đi chuyến này,
thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được
hai chữ bình yên”. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian nguy của người chồng trước rồi
mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù cách nói đến nội dung của những câu nói hiện lên một
Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh, thương chồng và giàu lòng
vị tha, một tâm hồn có văn hoá. Trong những ngày xa chồng, nàng nuôi con thơ, chăm
sóc mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Ngòi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đã để cho
chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà cụ qua
đời: “Sau này trời giúp người lành ban cho phúc trạch, giống giòng tươi tốt… xanh kia
quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ
chồng ấy, nàng là “người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho
nàng, Vũ nương tỏ bày không được thì tự vẫn, chứ không sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”.

Khi thì cách xủ thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ nương
hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là
một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá.
Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam
vào hình tượng Vũ nương. Con người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải chết - Ðó
chính là bi kịch về số phận con người. Vấn đề này biết bao nhà văn xưa nay tùng trăn trở.
Có lẽ đó cũng là bi kịch của muôn đời. Bởi vậy, vấn đề mà Chuyện người con gái Nam
Xương đặt ra là vấn đề có tính khái, quát giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của
Vũ nương có một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt, nhưng căn bản là người
chồng mù quáng đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay tùng gây ra bao nỗi
oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một thứ sản phẩm hằng có trong xã hội con người.
Cho nên vấn đề tưởng chùng rất riêng ấy lại là vấn đề điển hình của cuộc sống. Tất nhiên
trong tấn bi kịch này có phần của Vũ nương. Nàng vùa là nạn nhân nhưng cũng là tác
nhân. Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái hình, lấy cái hư làm cái thật. Âu đó cũng là
một bài học sâu sắc của muôn đời vậy.

Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương không chết, trở về sống trong Quy
động của Nam Hải Long Vương… đó là cuộc sống đời đời. Nhà văn đã tạo ra một cuộc
gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang - một người dương thế - với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc
gặp gỡ ấy đã làm sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang nhắc đến
chuyện nhà của tổ tiên thì Vũ nương “ứa nước mắt khóc”. Nàng quả thật là một con
người thiện căn, thiết tha gắn bó với quê hương đời sống mà không được sống. Tính cách
của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn
đưa phần truyền kì vào câu chuyện không chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một
chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất tủ. Vũ nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống
vĩnh hằng ở cõi tiên, vì nàng là cái Ðẹp.

Nói cho cùng, hiện thực của câu chuyện là hiện thực về tấm lòng của nhà văn trước
những vấn đề của cuộc sống. Nhà văn đã đi sâu khai thác những vẻ đẹp và nỗi đau khổ
xót xa phức tạp của tâm hồn con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội đương thời như
Vũ nương. Cũng qua đó, nhà văn khẳng định một chân lí nghệ thuật phảng phất như
trong các truyện cổ dân gian… Thánh Gióng về trời, An Dương Vương xuống biển… kì
lạ mà cũng rất thực.

Bài 2 :

Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết có "tư dung tốt đẹp".Tính cách nhân vật được
thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng.
Chồng nàng :Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khuôn
phép” cho gia đình hoà thuận.
-->cơ sự cũng vì vậy mà nảy sinh...
Trích:
Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ
chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau. Ở tùng thời điểm ấy, nhân
vật bộc lộ cá tính của mình. Mối quan hệ với Trương Sinh diễn ra trên bốn thời điểm: khi
chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng trở về. Khi chung sống với nhau,
biết Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khuôn phép” cho
gia đình hoà thuận. Khi tiễn chồng đi tòng quân, tính cách của Vũ nương được thể hiện ở
lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được
đeo ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Nàng nghĩ
đến những khó nhọc, gian nguy của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của
mình. Tù cách nói đến nội dung của những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết
tha với hạnh phúc, không hư danh, thương chồng và giàu lòng vị tha, một tâm hồn có văn
hoá. Trong những ngày xa chồng, nàng nuôi con thơ, chăm sóc mẹ chồng như mẹ đẻ của
mình. Ngòi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đã để cho chính người mẹ chồng ấy
nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời: “Sau này trời giúp
người lành ban cho phúc trạch, giống giòng tươi tốt… xanh kia quyết chẳng phụ con,
cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ chồng ấy, nàng là
“người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho nàng, Vũ nương tỏ
bày không được thì tự vẫn, chứ không sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”.

Khi thì cách xủ thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ nương
hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là
một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá.
Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam
vào hình tượng Vũ nương. Con người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải chết - Ðó
chính là bi kịch về số phận con người. Vấn đề này biết bao nhà văn xưa nay tùng trăn trở.
Có lẽ đó cũng là bi kịch của muôn đời. Bởi vậy, vấn đề mà Chuyện người con gái Nam
Xương đặt ra là vấn đề có tính khái, quát giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của
Vũ nương có một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt, nhưng căn bản là người
chồng mù quáng đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay tùng gây ra bao nỗi
oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một thứ sản phẩm hằng có trong xã hội con người.
Cho nên vấn đề tưởng chùng rất riêng ấy lại là vấn đề điển hình của cuộc sống. Tất nhiên
trong tấn bi kịch này có phần của Vũ nương. Nàng vùa là nạn nhân nhưng cũng là tác
nhân. Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái hình, lấy cái hư làm cái thật. Âu đó cũng là
một bài học sâu sắc của muôn đời vậy.

Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương không chết, trở về sống trong Quy
động của Nam Hải Long Vương… đó là cuộc sống đời đời. Nhà văn đã tạo ra một cuộc
gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang - một người dương thế - với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc
gặp gỡ ấy đã làm sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang nhắc đến
chuyện nhà của tổ tiên thì Vũ nương “ứa nước mắt khóc”. Nàng quả thật là một con
người thiện căn, thiết tha gắn bó với quê hương đời sống mà không được sống. Tính cách
của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn
đưa phần truyền kì vào câu chuyện không chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một
chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất tủ. Vũ nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống
vĩnh hằng ở cõi tiên, vì nàng là cái Ðẹp.
-Cái bóng: Phân thân và phản thân

"Con người là một thực thể xã hội sống, được quy định bởi những thiết chế đạo đức nhất
định. Chiếc bóng sinh động của con người âm thầm song hành với chủ nhân của nó qua
những hành vi mang giá trị đạo đức - xã hội, đồng thời khẳng định giá trị thực thể của
chủ nhân."

Cái bóng có lúc lại trở thành một phân thân nổi loạn chống lại chủ nhân của nó, như
trong truyện cổ của Hans Christian Andersen (1805-1875) hay trong William Wilson[4]
của Edgar Allan Poe (1809-1849). Trong mỗi con người đều tồn tại nhiều “tiếng nói”
khác nhau, thậm chí đối lập nhau, của ý thức (consciousness) và tiềm thức
(subconsciousness). Nhân cách tiềm thức được hình tượng hóa thành phân thân.

Chính do có thể được dùng như hình tượng văn học để thể hiện con người với tư cách
một thực-thể-đạo-đức, cùng những quan hệ biện chứng giữa ý thức và tiềm thức của nó,
cái bóng tỏ ra rất hiệu quả trong việc diễn tả những ngóc ngách tâm lý, tình cảm, đặc biệt
là cái ghen.

Chỉ âu lo với niềm bất hạnh của chính mình, nàng chẳng hề muốn gieo tai họa cho ai
khác.Câu chuyện về cái bóng của mình mà Vũ Nương kể cho con nàng nghe chẳng qua
như thể đang tâm sự với chính mình ,để an ủi ngóc ngách nào đó trong tâm hồn nàng
:chồng nàng đang ở một nơi nào đó ,và hình bóng người chồng không lúc nào xa rời
nàng-->Liệu như thế có phải là đáng trách khi gián tiếp gây ra cơn ghen của Trương
Sinh(đêy là suy nghĩ của mình.^^.)

Bởi "con tim không chỉ đơn giản là một vật chỉ biết làm theo ý ta muốn.”
"Ở cấp độ nội tâm cao hơn, con người có được cái nhìn phản thân thông qua nhãn quan
đạo đức không ngừng kiến tạo và chuyển hóa từ những quan hệ trong môi trường sống và
từ tha nhân - những người vun đắp nên các mối quan hệ nọ."

Trích:
Biên cương bị ngoại xâm, chàng Trương phải sung binh ra miền quan ải, chẳng kịp thấy
mặt con. Nàng Vũ ở lại nhà, tròn phận nàng dâu hiếu nghĩa, chinh phụ tiết trinh, mẹ hiền
tần tảo. Mẹ chồng và con trẻ là hai chứng nhân khả tín nhất cho tấm lòng son sắc của
nàng. Thế nhưng, mẹ già sớm quy tiên, thác nguyện chỉ một điều: “Xin Trời xanh kia chớ
phụ dâu mới, bằng dâu mới chưng chẳng phụ mẹ già vậy.”[17] Lời trối trăng của người
mẹ cũng là lời chứng cho đức hạnh của nàng khi chồng đồn thú biên viễn xa xăm. Đáng
tiếc, lời trối ấy chỉ mình nàng nghe, vì người chết sẽ thôi không nói được nữa. Nhân
chứng thân thiết duy nhất còn lại nay là bé Đản.

Khi chàng Trương xuất ngũ trở về, “thời mẹ già đã từ nhà, con trẻ đã học nói vậy.”[18]
Bé Đản - nhân chứng nay sẽ là người để chàng Trương thực hiện vế sau của câu: “Đi hỏi
già, về nhà hỏi trẻ.” Dắt con ra thăm mộ mẹ là việc chàng làm trước tiên: “Hỏi mồ mẹ
thửa ở đâu. Dắt con một mình đi, con bèn kêu khóc chẳng khứng đi.”[19] Sững sờ khi
thấy Đản không nhận mình là cha, chàng Trương gạn hỏi nguồn cơn. Đản bảo chàng
chẳng giống người nó từng gọi là cha, người chỉ đến lúc đêm về, lặng thinh theo mẹ
không rời: “Ngươi chỉn hay nói, khác chẳng bằng cha thuở nọ lặng vậy, bằn bặt vậy,”[20]
“Mẹ Đản đi thời cũng đi, mẹ Đản ngồi thời cũng ngồi. Song chửa từng đến cùng con là
Đản này dắt ẵm vậy.”[21] Mấy lời miêu tả thơ ngây của Đản tựa như những câu thai đố
mà chàng Trương phải giải. Chỉ có điều do hướng giải đoán không rõ, cả người “đố” lẫn
người “giải” đều chăm chắm vào một con người nào đấy có thực (xuất nhân): với Đản, đó
là cha; với chàng Trương, đấy hẳn phải là gian phu.[22] Trong tình huống đặc biệt này,
kiến văn hạn hẹp, cùng tính cả ghen của Trương đã khiến chàng lạc lối. Trương tri giác,
lý giải sai lầm tình huống nọ, ngỡ mình là nạn nhân, là người bị bội phản “Đến khi nghe
lời con nói, thời chưng ngờ sự cuốn đay xin lửa kia rễ bám càng sâu gắn mà chẳng khả
cởi vậy.”[23] Chàng thụ khổ, quy hết tội tình cho vợ. Kênh giao tiếp song phương giữa
hai vợ chồng bị cắt đứt, chỉ còn là đơn tuyến. Trương nhiếc móc vợ, “sỉ nhục nhiều
phương, đòi thời ruồng đuổi”; nhưng khi nàng Vũ “xin giãi lòng ấy, mặc cởi lo ngờ,”[24]
Trương nín lặng, tự dằn vặt mình và làm khổ người, “song dõi hỏi thửa lời ấy bởi đâu
chưng lại, thời giấu lời con chẳng nói,” “láng giềng chưng bảo, họ hàng chưng nói, chẳng
nghe vào tai vậy.”[25] Đến đây, lẽ ra bé Đản - người phát ngôn của thông tin tày trời nọ -
phải được xét hỏi “ba mặt một lời” để vãn hồi sự câu thông cần thiết giữa hai vợ chồng.
Không ai hỏi đến, Đản lặng thinh như chưa từng nói ra chi tiết oan khiên nọ. Đản, nhân
chứng cuối cùng, giờ như một kênh thông báo vô hiệu hóa, tắt sóng lặng câm. Sự im lặng
và khinh bạc của chàng Trương đã đẩy nàng Vũ đến cực điểm bi phẫn. Trước kia, cả thời
gian dài, nàng vò võ với một chiếc bóng, dẫu câm lặng, nhưng vẫn là nguồn động viên,
an ủi nàng sống. Dẫu bóng câm lặng, đối thoại tưởng tượng giữa người và bóng vẫn có
thể thiết lập được, dựa trên cơ sở hợp nhất và phân thân: Thiếp với chàng tuy hai mà một;
vậy nên, nhìn bóng mình thiếp tưởng dáng ai trên tường. Thế nhưng, sự im lặng của
chồng nay đẩy nàng đến quyết định quyên sinh. Và cũng như Rokujo trong Nguyên thị
vật ngữ, hay Chen Cai trong Cái bóng, thái độ ghen tuông cay nghiệt và mù quáng của
chàng Trương đã giết chết người vợ đoan chính đáng thương.
Chiếc bóng -tấm lòng yêu thương ->trở thành nguyên nhân của nỗi oan bi kịch.
Bao nhiêu công sức, tâm sức chắt chiu để vun đắp gìn giữ cái gia đình bé nhỏ đã trở nên
hoàn toàn vô nghĩa, nàng đã trắng tay, bơ vơ, không lối thoát, nên tìm đến cái chết ...
Thực chất là Vũ Nương đã bị bức tử, nhưng nàng đi đến cái chết thật bình tĩnh : tắm gội
chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng ...
Cái chết ấy là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ
đồ, vũ phu của đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, tối tăm.
"Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi lo luỵ đến nàng.
Chứng quả đã dôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng mấy lọ đàn tràng.
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng."
(Lê Thánh Tông)

-->Chiếc bóng giờ đây khiến ta hoài nghi nó có phải là một thế lực vô hình ngăn cản con
người ,đặc biệt là người phụ nữ đến với hạnh phúc ...

"Hãy quan tâm đến thân phận người phụ nữ, đến số phận con người. Hãy tôn vinh hạnh
phúc và đừng làm bất cứ điều gì có thể làm huỷ hoại tổn thương đến hạnh phúc đôi lứa và
gia đình. Và điều quan trọng hơn hết để có được hạnh phúc là phải thực sự hiểu được
nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ nhận đáng tiếc. Có được hạnh phúc đã là
một điều khó khăn, nhưng giữ hạnh phúc cho được lâu bền lại càng là một điều khó khăn
hơn.
Đó là tất cả ý nghĩa mà chúng ta có thể nhận ra được từ : Chuyện người con gái Nam
Xương.

You might also like