You are on page 1of 74

MỤC LỤC

PHIẾU KHẢO SÁT THÔNG TIN VỀ KỸ NĂNG MỀM CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
THƯƠNG MẠI..........................................................................................................................3
LỜI CẢM ƠN

Chúng em xin chân thành cảm ơn khoa quản trị doanh nghiệp trường đại học
Thương Mại đã tạo điều kiện tốt cho chúng em thực hiện đề tài nghiên cứu này.

Chúng em xin chân thành cám ơn cô Trần Thị Hoàng Hà đã tận tình hướng dẫn
chỉ bảo chúng em trong suốt thời gian thực hiện đề tài này.

Chúng em xin chân thành cám ơn thầy cô trong trường đã tận tình giảng dạy
trang bị cho chúng em kiến thức quý báu trong thời gian qua.

Một lần nữa, chúng tôi xin chân thành cám ơn các bạn sinh viên trong trường
đac giúp đỡ chúng tôi trong quá trình nghiên cứu điều tra phục vụ cho đề tài.

Mặc dù chúng em đã cố gắng hoàn thiện bài nghiên cứu trong phạm vi và khả
năng cho phép nhưng chắc chắn sẽ không thiếu khỏi những thiếu sót. Chúng em kính
mong nhận được sự thông cảm và tận tình chỉ bảo của thầy cô và các bạn.

Nhóm sinh viên thực hiện.


Đinh Thị Phương Liên
Đặng Thị Phương Thảo
Nguyễn Thị Lan
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1.SV Sinh viên

2.ĐHTM Đại Học Thương Mại

3.TM Thương mại

4.KNM Kỹ năng mềm

5.HCTC Học chế tín chỉ

6.GD Giáo dục

7.ĐT Đào tạo

8.VN Việt Nam

9.ĐH Đại học


DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ

Bảng 1: Yêu cầu về kỹ năng đối với sinh viên mới tốt nghiệp phân theo hình thức sở
hữu, ngành, và vị trí tuyển dụng…………………………………………………6 + 7

Biểu đồ 1: Kết quả tự đánh giá của các bạn sinh viên Thương mại về kỹ năng mềm
của bản thân………………………………………………………………............47

Biểu đồ 2: Kết quả đánh giá của sinh viên Thương Mại về mức độ cần thiết của các
kỹ năng trong học tập………………………………………………………...........48

Biểu đồ 3: Kết quả đánh giá của sinh viên Thương Mại về mức độ cần thiết của các
kỹ năng khi đi làm………………………………………………………………..49
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Thế kỉ 21, thế kỉ của sự phát triển, nâng cao không ngừng của văn hóa, kinh
tế, đất nước. Để có thế bắt kịp đà phát triển của những nước lớn mạnh thì cần sự
chung sức, đồng lòng của tất cả mọi người, mà lực lượng chủ yếu chính là tuổi trẻ.
Bởi tuổi trẻ là lực lượng nòng cốt, là chủ nhân tương lai, là nhân vật chính góp phần
tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho Tổ Quốc Việt Nam . Nhất là các bạn sinh viên –
nguồn lao động trí thức góp phần quan trọng phát triển nền kinh tế đất nước. Nhưng
thời gian gần đây, vấn đề đang được xã hội quan tâm và phản ánh đó là phần lớn sinh
viên thiếu kỹ năng mềm.

Một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Giáo dục cho thấy 83% học sinh thiếu
các kỹ năng mềm, đặc biệt là khả năng tập trung cho hành trang vào đời của mình.
Thậm chí, nhiều người còn phàn nàn giới trẻ thiếu kỹ năng để giữ gìn hạnh phúc gia
đình, kiểm soát bản thân, rèn chỉ số cảm xúc, làm chủ sự thay đổi, làm chủ thời gian
sống, hoạch định mục tiêu nghề nghiệp, mục tiêu cuộc đời, ra quyết định. Nhiều sinh
viên ngay sau khi tốt nghiệp đã thừa nhận không được nhận vào làm vì thiếu kỹ năng
mềm, cụ thể là kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng giao tiếp....
Điều này đã không còn là trường hợp ngoại lệ đối với các sinh viên hiện nay. Đa số
các bạn sinh viên đều có thể tự làm tốt, thậm chí xuất sắc nhưng khi làm việc nhóm
thì lại đùn đẩy công việc, có tình trạng “cha chung không ai khóc”.

Các bạn sinh viên đang học ở trường cũng luôn khẳng định kỹ năng mềm rất
quan trọng trong việc học tập cũng như trong cuộc sống và trong môi trường làm việc
sau này của các bạn.Hình thức đào tạo cùng môi trường học tập trong trường giúp các
bạn sinh viên rất nhiều trong việc học tập và rèn luyện những kỹ năng mềm cần thiết
song phần lớn các bạn sinh viên đang học ở trường luôn nhận thấy bản thân còn rất
thiếu và yếu những kỹ năng mềm cần thiết. Nguyên nhân của những nhận thức đó một
phần do các bạn sinh viên còn thiếu chủ động trong việc nhận thức cũng như rèn
luyện những kỹ năng mềm.

1
Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm, việc đào tạo, phát triển và
rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên được nhà trường rất chú trọng. Tuy nhiên việc
mở các lớp đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên hiện nay ở trường vẫn còn rất hạn
chế, phần nhiều chỉ trên góc độ lý thuyết, vì vậy không tạo nên được niềm say mê và
hứng thú của sinh viên trong các khóa học. Dẫn đến việc hiện nay với nhiều bạn sinh
viên, kỹ năng mềm vẫn còn là một thuật ngữ khá xa lạ. Do vậy các bạn chưa có định
hướng đúng đắn cho việc phát triển và hoàn thiện kỹ năng mềm.

Từ ý kiến chủ quan của của những người nghiên cứu đề tài nhận thấy : việc
nghiên cứu và tìm ra giải pháp để hoàn thiện và nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên
là một vấn đề rất cần thiết, không chỉ sinh viên Thương Mại nói riêng mà còn mang ý
nghĩa với sinh viên các trường nói chung.

Xuất phát từ lý do trên, nhóm nghiên cứu nhận thấy cần thiết phải nghiên cứu
đề tài này

1.2. XÁC LẬP VÀ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ TRONG ĐỀ TÀI

Từ tính cấp thiết của đề tài, nhóm nghiên cứu quyết định nghiên cứu về “giải
pháp nhằm tăng cường thực hành kỹ năng mềm cho sinh viên Thương Mại”. Nhóm
nghiên cứu sẽ thực hiện làm sáng tỏ: các kỹ năng mềm cần thiết phục vụ trong cuộc
sống, học tập cũng như trong công việc sau này của các sinh viên. Các kỹ năng (điểm
mạnh) mà sinh viên TM có và các kỹ năng mà sinh viên TM còn thiếu và từ đó đưa ra
một số giải pháp hoàn thiện kỹ năng mềm cho sinh viên ĐHTM.

1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài này nhằm đạt được các mục tiêu sau:

Thứ nhất: nhận thức về tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong cuộc sống,
trong học tập cũng như trong môi trường làm việc sau này của các bạn sinh viên.

Thứ hai: Phân tích và đánh giá thực trạng việc phát triển kỹ năng mềm của
sinh viên Thương Mại hiện nay.

Cuối cùng đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần tăng cường
thực hành kỹ năng mềm cho sinh viên Thương Mại.

2
1.4. CÁC CÂU HỎI ĐẶT RA TRONG NGHIÊN CỨU

Trong khi nghiên cứu đề tài này có một số câu hỏi đặt ra cần giải quyết đó là:

Về mặt lý thuyết: Khái niệm kỹ năng, khái niệm kỹ năng mềm?

Về mặt thực tiễn: kỹ năng mềm cần thiết như thế nào đối với sinh viên và đối
với nhà tuyển dụng? Những kỹ năng mềm cần thiết với mỗi sinh viên? Thực trạng
việc rèn luyện và phát triển kỹ năng mềm của sinh viên Thương Mại trong thời gian
qua? Liệu những kỹ năng mềm mà sinh viên Thương Mại hiện có đã đủ để giúp sinh
viên TM tự tin trong học tập, cuộc sống và trong môi trường làm việc sau này? Giải
pháp nhằm tăng cường thực hành kỹ năng mềm cho sinh viên TM hiện nay là gì?

1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.

Về mặt không gian: chúng tôi tập trung nghiên cứu tại trường ĐHTM,
Phường Mai Dịch-Quận Cầu Giấy-Thành Phố Hà Nội

Về mặt thời gian: nghiên cứu kỹ năng mềm hiện có của sinh viên trong năm
2010 và đưa ra giải pháp nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên Thương Mại trong giai
đoạn hiện nay.

Nội dung nghiên cứu bao gồm: các lý luận về kỹ năng mềm nói chung, thực
trạng kỹ năng mềm của sinh viên Thương Mại hiện nay, yêu cầu về những kỹ năng
mềm cơ bản mà mỗi sinh viên cần có trong việc học tập, trong cuộc sống và yêu cầu
về kỹ năng mềm của các công ty hiện nay, các giải pháp nhằm tăng cường thực hành
kỹ năng mềm cho sinh viên Thương Mại.

1.6. Ý NGHĨA CỦA NGHIÊN CỨU

Cung cấp cái nhìn tổng thể về những kỹ năng mềm mà sinh viên Thương Mại
hiện có và những yêu cầu về kỹ năng mềm cần có của mỗi sinh viên để thành công
hơn trong cuộc sống, học tập cũng như trong môi trường làm việc sau này. Đưa ra
giải pháp giúp sinh viên Thương Mại định hướng, nâng cao và phát triển các kỹ năng
mềm.Ý nghĩa sâu xa cuối cùng đối với những người làm đề tài này là tìm ra phương
pháp học tập một cách khoa học, hiệu quả.

3
CHƯƠNG II: TÓM LƯỢC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
KỸ NĂNG MỀM.

2.1. MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA, KHÁI NIỆM CƠ BẢN.

2.1.1. Khái niệm kỹ năng.

Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc
nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào đó
phát sinh trong cuộc sống.

Để giải thích nguồn gốc hình thành kỹ năng có lẽ không có cơ sở lý thuyết


nào tốt hơn 2 lý thuyết về phản xạ có điều kiện (được hình thành trong thực tế cuộc
sống của cá nhân) và phản xạ không điều kiện (là những phản xạ bẩm sinh mà cá nhân
sinh ra đã sẵn có). Trong đó, kỹ năng của cá nhân gần như thuộc về cái gọi là phản xạ
có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình thành từ khi một cá nhân sinh ra, trưởng
thành và tham gia hoạt động thực tế cuộc sống. Ví dụ: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
quản trị chỉ được hình thành trong hoạt động công việc của một cá nhân.

Bản thân chúng ta sinh ra chưa có kỹ năng về một khía cụ thể nào (trừ kỹ
năng bẩm sinh) nhất là kỹ năng công việc, đó là lý do hình thành hệ thống đào tạo
nghề nghiệp hiện có ở bất kỳ quốc gia nào. Như vậy, đa số kỹ năng mà chúng ta có
được và hữu ích với cuộc sống của chúng ta là xuất phát từ việc chúng ta được đào
tạo. Và như thế, nền tảng của sự thành công của chúng ta trong cuộc sống là do 98 %
là do được đào tạo và tự đào tạo rèn luyện kỹ năng, chỉ có 2 % là kỹ năng bẩm sinh
tham gia vào sự thành công của chúng ta.

Vì sao phải cần có kỹ năng?

Khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc sống
của chúng ta đều đòi hỏi chúng ta phải thỏa mãn những kỹ năng tương ứng. Ví dụ:
Nghề tư vấn thì tương ứng là nhà tư vấn phải có những kỹ năng tư vấn; nghề luật sư
thì phải có kỹ năng hành nghề luật sư. Như thế bất kỳ hoạt động hay nghề nghiệp nào

4
mà chúng ta tham gia thì chúng ta đều phải đáp ứng những kỹ năng mà hoạt động hay
nghề nghiệp đó đòi hỏi nếu không chúng ta không thể tham gia cuộc chơi.

Có những loại kỹ năng nào?

Có người đã phân loại kỹ năng thành 2 loại cơ bản là kỹ năng cứng và kỹ


năng mềm. Kỹ năng cứng là kỹ năng mà chúng ta có được do được đào tạo từ nhà
trường hoặc tự học, đây là kỹ năng có tính nền tảng. Loại thứ 2 là kỹ năng mềm là loại
kỹ năng mà chúng ta có được từ hoạt động thực tế cuộc sống hoặc thực tế nghề
nghiệp. Kỹ năng mềm là loại kỹ năng cực kỳ phong phú và không kém phần quan
trọng như kỹ năng cứng. Kỹ năng mềm có thể là: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết
trình, kỹ năng đàm phán… Để thành công trong cuộc sống, chúng ta phải thỏa mãn cả
kỹ năng cứng và kỹ năng mềm; phải vận dụng linh hoạt và phù hợp hai loại kỹ năng
cơ bản này trong cuộc sống và công việc.

2.1.2. Khái niệm kỹ năng mềm.

Thế nào là những kỹ năng “mềm”?

Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc
sống con người như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, kỹ năng
quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới... Kỹ năng
mềm là hành vi ứng xử của mỗi con người, cách thức tương tác với bạn bè, đồng
nghiệp, cách làm việc nhóm. Bên cạnh tầm hiểu biết và chuyên môn, kỹ năng mềm
cũng là nhân tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến quyết định tuyển dụng của doanh
nghiệp. Kỹ năng này thể hiện cách sống, cách tích lũy kinh nghiệm từ cuộc sống và
trong xã hội hiện đại, đây được xem là chìa khóa vàng dẫn đến thành công.
Kỹ năng “mềm” chủ yếu là những kỹ năng thuộc về tính cách con người, không
mang tính chuyên môn, không thể sờ nắm, không phải là kỹ năng cá tính đặc biệt,
chúng quyết định khả năng bạn có thể trở thành nhà lãnh đạo, thính giả, nhà thương
thuyết hay người hòa giải xung đột. Những kỹ năng “cứng” ở nghĩa trái ngược thường
xuất hiện trên bản lý lịch - khả năng học vấn của bạn, kinh nghiệm và sự thành thạo
về chuyên môn. Bạn có phải là một người dễ chịu? Tận tâm? Bạn giao tiếp có ấn
tượng không? Giải quyết các vấn đề có hiệu quả không? Đây chính là các dạng câu
hỏi ưa dùng để xác định được mức độ kỹ năng “mềm” của bạn.

5
Yêu cầu về kỹ năng mềm của doanh nghiệp: Những nhà tuyển dụng rất coi
trọng các kỹ năng “mềm”, bởi vì các nghiên cứu cho thấy chúng là một nhân tố đánh
giá rất hiệu quả bên cạnh những kỹ năng công việc truyền thống hay còn gọi là kỹ
năng “cứng”. Một cuộc nghiên cứu mới đây cho thấy những tiêu chuẩn để đánh giá
con người như sự tận tâm, tính dễ chịu cũng là những nhân tố dự báo quan trọng đối
với sự thành công trong nghề nghiệp giống như khả năng về nhận thức và kinh
nghiệm làm việc.

Dựa trên kết quả nghiên cứu về “Yêu cầu của nhà tuyển dụng về những kỹ
năng đối với sinh viên mới tốt nghiệp các ngành quản lý – kinh tế : Ứng dụng phương
pháp phân tích nội dung “ của TS. Vũ Thế Dũng –Trần Thanh Tòng(Khoa Quản Lý
Công Nghiệp – Đại Học Bách Khoa Tp.HCM), nghiên cứu chỉ ra rằng :

Bảng 1: Yêu cầu về kỹ năng đối với sinh viên mới tốt nghiệp phân theo hình
thức sở hữu, ngành, và vị trí tuyển dụng

Theo hình thức sở hữu Ngành Theo vị trí tuyển dụng


Sản Tiếp thị -
Hành
xuất – kinh
Toàn chính Kế toán
Stt Kỹ năng Nước Liên Cổ Sản Dịch chất doanh –
mẫu TNHH – – tài
ngoài Doanh phần xuất vụ lượng Chăm
nhân chính
– mua sóckhách
sự
hàng hàng
Nhóm 1: Cơ bản
1 Ngoại ngữ 78% 91% 69% 89% 68% 76% 80% 80% 81% 79% 79%
2 Tin họcvăn phòng 65% 68% 68% 70% 53% 62% 68% 57% 74% 60% 74%
3 Giao tiếp 42% 38% 42% 44% 47% 36% 46% 23% 53% 52% 24%
4 Làm việc độclập 30% 32% 30% 30% 25% 28% 31% 30% 33% 30% 24%
Nhóm 2: Giá trị gia
tăng
5 Tổ chức 19% 19% 25% 11% 10% 16% 21% 23% 29% 13% 10%
6 Quản Lý 19% 19% 19% 19% 17% 27% 11% 37% 14% 13% 17%
7 Phân tích 18% 18% 11% 22% 27% 14% 21% 17% 4% 25% 24%
8 Làm việcnhóm 15% 18% 8% 30% 15% 13% 17% 22% 17% 10% 17%
9 Tin họcchuyên ngành 14% 21% 13% 4% 10% 19% 11% 20% 6% 7% 40%
10 Truyềnthông 14% 9% 13% 15% 22% 10% 17% 12% 17% 18% 14%
11 Hoạchđịnh 13% 9% 13% 15% 17% 9% 15% 12% 14% 13% 10%
12 Đàm phán 13% 18% 6% 11% 17% 11% 14% 14% 7% 25% 2%
Nhóm 3: Nhà lãnh

6
đạo tương lai
13 Tổng hợp 9% 5% 6% 7% 24% 8% 11% 7% 4% 16% 5%
14 Lãnh đạo 5% 3% 6% 0% 8% 5% 5% 7% 4% 3% 2%
Xây dựngvà phát triển
15 5% 5% 6% 0% 3% 5% 5% 3% 4% 9% 2%
quan hệ
Tổ chứcnguồn nhân
16 4% 1% 8% 0% 2% 5% 3% 0% 10% 0% 0%
lực
17 Ra quyếtđịnh 3% 3% 4% 0% 2% 2% 4% 2% 3% 4% 2%
Số kỹ năng trung bình
trên một vị trí tuyển 3.63 3.82 3.45 3.70 3.67 3.4 3.8 3.8 3.8 3.5 3.5
dụng

Ta có thể nhận thấy các lĩnh vực khác nhau thì yêu cầu về các kỹ năng khác
nhau. yêu cầu của các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ cao hơn hẳn so với các
doanh nghiệp trong lĩnh vự sản xuất. Và từ bảng kết quả trên, ta có thể nhận thấy rằng
các kỹ năng mềm như: kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, làm việc độc lập… là tiêu
chí đánh giá của các nhà tuyển dụng.

2.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA KỸ NĂNG MỀM VỚI SINH VIÊN

2.2.1. Tầm quan trọng

a. Trong cuộc sống

Giao tiếp xã hội giữa con người và con người đã góp phần tạo nên những
truyền thống, nghi thức, quy tắc đạo đức, giá trị, chuẩn mực xã hội, và cả luật pháp.
Tất cả cùng nhau tạo nên những nền tảng của xã hội loài người. Có thể nói giao tiếp
xã hội là một trong những thuộc tính đặc biệt và duy nhất giúp loài người khác biệt so
với các sinh vật khác. Đó là sự tương tác giữa con người với con người với một cá
nhân, tập thể, một cộng đồng. Có thể nói con người không thể sống mà thiếu đi sợi
dây liên kết với xung quanh. Ngày nay khi công nghệ thông tin càng phát triển thì
việc tạo ra sự kết nối ngày càng mở rộng. Điều đó làm cho sự tương tác của con người
với con người không chỉ theo chiều rộng mà còn phát triển theo cả chiều sâu. Do đó
ngoài các kỹ năng giao tiếp con người còn phải chuẩn bị cho mình rất nhiều kỹ năng
như: kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng học và tự học, kỹ năng
lãnh đạo bản thân…..Kỹ năng mềm cần thiết cho tất cả mọi người từ nam đến nữ,
người già người trẻ , cho dù bạn vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường hay bạn đã đi làm .

7
Với các bạn sinh viên, việc học tập trau dồi kỹ năng mềm lại càng quan trọng . Khi trở
thành sinh viên, môi trường thay đổi . Khi còn là một học sinh , chúng ta chỉ biết học
thế nào cho giỏi , để đậu vào đại học . Được bố mẹ lo lắng chu đáo cho từng cái ăn cái
mặc, cho nên chúng ta cũng không mấy quan tâm đến thế giới bên ngoài . Nhưng khi
trở thành một sinh viên lại khác , chúng ta phải tự học , làm quen với cuộc sống tự
lập , nhất là các bạn sinh viên đi học xa nhà . Sinh viên phải làm quen với cuộc sống
mới , với những con người mới đến từ các vùng miền khác nhau .

Không chỉ làm quen với cuộc sống mới mà các bạn còn phải làm quen với
phương pháp học tập mới. Nếu như các bạn vẫn áp dụng phương pháp học tập như
phổ thông đến lớp nghe thầy cô giáo giảng, ghi chép bài, và chỉ học tập và làm bài
theo đúng những yêu cầu của thầy cô giáo đưa ra, không có bất kỳ sự sáng tạo nào
khác trong học tập thì việc học như vậy ở đại học của bạn sẽ không mang lại cho bạn
kết quả học tập cao như bạn mong muốn. Để đạt được kết quả học tập cao trong
trường đại học ngoài việc lắng nghe thầy cô giáo giảng, tiếp thu ý kiến của thầy cô,
bạn còn cần phải tự mình nghiên cứu những tài liệu liên quan đến học tập, bạn cần
phải sáng tạo trong học tập. Môi trường học đại học yêu cầu bạn không chỉ tiếp thu ý
kiến từ phía thầy cô mà bạn cần phải nêu lên ý kiến của chính bản thân mình, điều này
yêu cầu bạn cần tự tin trong giao tiếp. Hơn thế nữa hiện nay rất nhiều trường đại học
đào tạo theo hình thức tín chỉ yêu cầu kỹ năng học và tự học ở sinh viên với những
buổi thuyết trình cũng như phản biện rất sôi nổi và bổ ích trên lớp.Vậy nếu như bạn
không tự tin, không trau dồi kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm, mạnh dạn nói trước
đám đông cũng như kỹ năng học tập bạn có thể đạt được kết quả tốt không.

Tại Việt Nam, trong nhiều năm gần đây bộ GD-ĐT đã nhiều lần lên tiếng đề
cập đến kỹ năng mềm cũng như tầm quan trọng của kỹ năng mềm. Ta có thể nhận
thấy điều đó qua việc đại học Quốc Gia đưa ra yêu cầu phải có chứng chỉ kỹ năng
mềm. Chứng chỉ kỹ năng mềm là một trong các điều kiện để được công nhận tốt
nghiệp và cấp bằng. Chứng chỉ kỹ năng mềm có thể sẽ trở thành điều kiện để công
nhận tốt nghiệp cho sinh viên các trường sau này.Việc được trang bị kỹ năng mềm
đầy đủ và sớm sẽ giúp sinh viên nhanh chóng thích ứng , hòa nhập môi trường học
tập, lao động. Việc trang bị kỹ năng mềm càng sớm càng có lợi cho sinh viên, vì khi
đó sinh viên có được động lực, sự tự tin, lý tưởng để theo đuổi ngành nghề, có phương

8
pháp để làm việc nhanh chóng, có khoa học… Sinh viên biết tạo cho mình những điều
kiện thuận lợi để hỗ trợ phát triển năng lực ngành nghề (như có khả năng giao tiếp để
trao đổi chuyên môn cùng bạn bè, trao đổi chuyên môn với giảng viên chuyên
ngành…

b.Trong môi trường làm việc sau này.

Kỹ năng mềm đóng vai trò chất xúc tác quan trọng giúp cá nhân trang bị
những phương pháp làm việc có khoa học, nhanh chóng. Người đã được trang bị kỹ
năng mềm biết phương pháp tự tạo cho bản thân điều kiện thuận lợi, những cơ hội để
phát triển năng lực chuyên môn, và hòa nhập môi trường làm việc sản xuất một cách
nhanh chóng và thuận lợi

Trong quá trình tuyển dụng:

Hầu hết các nhà quản lý và nhà tuyển dụng đều than phiền nhân viên trẻ thiếu
và rất yếu về kỹ năng mềm, đa số không đáp ứng được yêu cầu công việc dù họ có
bằng cấp rất tốt.

Một nghiên cứu khác của L&A cho thấy, khoảng 70% sinh viên ra trường khó
xin việc vì không có kinh nghiệm và thiếu các kỹ năng cần thiết. Cơ hội tìm được
công việc thích hợp, lương cao, môi trường tốt ở các công ty lớn hay tập đoàn nước
ngoài là khá xa vời. Ở các công ty, tập đoàn có bề dày hoạt động lâu năm và tổ chức
hoàn chỉnh, việc một nhân viên thiếu kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, kỹ năng
thuyết trình, nói chuyện trước đám đông, kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng làm chủ bản
thân…là hạn chế khiến họ khó có thể hòa đồng và tồn tại lâu.

Ví dụ: Intel từng thất vọng khi tuyển 2.000 nhân viên cho dự án đầu tư vào
Việt Nam nhưng chỉ có 40 ứng viên đủ trình độ kiến thức lẫn kỹ năng mềm. 40 ứng
viên này không dễ tuyển vì các ứng viên hầu như không nhận thức được thế mạnh bản
thân, hoặc biết nhưng không thể hiện được khả năng nổi trội của mình và thường bối
rối khi nói về bản thân. Một ví dụ khác: Trong một buổi phỏng vấn tuyển dụng vào
công ty A, đang trao đổi về nghiệp vụ kinh doanh, nhà tuyển dụng bỗng bất ngờ hỏi
câu hỏi chẳng ăn nhập gì với công việc đang tuyển, ví dụ: “Theo em, khi phi một con
dao vừa dùng để phết bơ thì mặt nào sẽ tiếp đất, mặt phết bơ hay không phết bơ?”.

9
Thật ra, ý đồ của các nhà tuyển dụng qua những câu hỏi “vu vơ” là nhằm kiểm tra kỹ
năng mềm của các ứng viên. Sẽ không có đáp án cụ thể nào cho câu hỏi này mà ứng
viên phải thuyết phục được nhà tuyển dụng tin vào đáp án của mình. “Chính vì vậy,
việc học và đào tạo kỹ năng mềm cần được xem là vấn đề được quan tâm đặc biệt”,
ông Đức lưu ý.

Từ các ví dụ trên ta có thể thấy thực trạng tuyển dụng hiện nay các doanh
nghiệp không chỉ quan tâm đến bằng cấp,kỹ năng chuyên môn của các ứng viên mà
kỹ năng mềm là một yếu tố quan trọng tác động đến quyết định tuyển dụng của doanh
nghiệp.
Khi đi làm:

Để có một công việc làm và giữ được việc làm đó, tất yếu bạn phải được đào
tạo đủ kỹ năng chuyên môn đáp ứng các yêu cầu tối thiểu của vị trí công việc. Nha sỹ
phải biết hàn răng sâu. Thư ký phải biết đánh máy trên 100 từ một phút. Kế toán dứt
khoát phải biết tính toán số liệu, định khoản và lập bảng cân đổi. Vậy thì, nếu chuyên
môn của các Nha sỹ đều như nhau, bạn sẽ chọn Nha sỹ nào để đến chăm sóc răng
mình đây? Chắc phải là Nha sỹ nào đó tính tình dễ chịu, trả lời chu đáo các câu hỏi
của bạn chứ không phải người đối xử với bạn như một con số trong một hàng dài dãy
những cái miệng được đánh số đúng không? Bạn sẽ chọn thư ký nào khi quỹ thời gian
của mình eo hẹp? ngươi thư ký có thái độ tích cực, trách nhiệm và là người luôn sẵn
sàng giúp đỡ; hay là người cứng nhắc, một người ít khi thừa nhận lỗi lầm của mình?
Tương tự như vậy với kế toán. Người có đạo đức nghề nghiệp cao và người biết động
viên khuyến khích đồng nghiệp là người sẽ có khả năng thăng tiến trong nghề nghiệp
và phát triển trong tổ chức nhất.

Trong những tình huống nói trên, và với tất cả mọi người cũng vậy , kỹ năng
mềm là rất quan trọng.

Trong khi kỹ năng chuyên môn (kỹ năng “cứng”) của bạn chỉ giúp bạn bước
chân qua cánh cửa thì kỹ năng con người, kỹ năng mềm của bạn mới là thứ giúp mở
ra thêm cho bạn hầu hết các cánh cửa phía trước. Đạo đức nghề nghiệp, thái độ đối
với công việc, kỹ năng giao tiếp, trí tuệ tình cảm và đức tính, giá trị cá nhân khác là
những kỹ năng mềm không thể thiếu để bạn phát triển nghề nghiệp. Với các kỹ năng

10
mềm, bạn có thể phát triển thành một người lãnh đạo. Giải quyết vấn đề, phân quyền,
xây dựng đội nhóm sẽ dễ dàng hơn cho bạn nếu bạn có kỹ năng mềm tốt. Làm thế nào
để hài hòa với mọi người và thể hiện một thái độ tích cực đó là điều cốt lõi cho thành
công của bạn.

Khoảng trống kỹ năng:

Khi lực lượng lao động của công ty có rất nhiều kỹ năng chuyên môn nhưng
lại thiếu các kỹ năng mềm, như vậy là có khoảng trống. Các kỹ năng mềm đồng hành
cùng các kỹ năng cứng và chính nó giúp cho các kỹ năng cững được phát huy đến hết
mức. Chẳng hạn nếu bạn rất giỏi kiếm khách hàng, nhưng lại không giỏi để giữ họ,
vậy là có khoảng trống kỹ năng. Nếu công ty bạn có tỷ lệ nhân viên bỏ việc cao trong
khi lại phải giữ những người đã quen việc, chắc chắn đó là có khoảng cách kỹ năng.
Khi bạn có rất nhiều nhà quản lý nhưng lại không có những người lãnh đạo đúng
nghĩa – đó chính là khoảng trống kỹ năng mềm.

Trên thực tế, bất kỳ khi nào bạn không thể vốn hóa các kiến thức, kinh
nghiệm và tay nghề trong nhóm, trong tổ chức thì bạn phải đánh giá lại mức độ giao
tiếp và các kỹ năng quan hệ con người (interpersonal skills) đang có trong tổ chức của
mình.

Môi trường tổ chức làm việc đã tạo ra những động lực về kỹ năng quan hệ
con người mà chúng ta không thể xem nhẹ. Hành động lắng nghe, trình bày ý tưởng,
giải quyết mâu thuẫn và thúc đẩy một môi trường làm việc cởi mở và trung thực tất cả
đều nằm ở chỗ làm thế nào để giữ được mối quan hệ giữa con người với nhau. Đó là
những mối quan hệ cho phép người ta tham gia một cách đầy đủ vào các dự án, đề án
của nhóm, thể hiện sự tôn trọng và đánh giá cao người khác và sẵn sàng giúp đỡ nhau
trong công việc. Là một người quản lý, bạn càng phải nhận thức được vai trò kỹ năng
mềm quan trọng thế nào trong đội nhóm, trong tổ chức của mình và bạn không chỉ
phải phát triển các kỹ năng đó cho riêng mình mà phải cả trong tổ chức. Những lĩnh
vực kỹ năng bạn cần quan tâm là:

Trách nhiệm giải trình của cá nhân.


Mức độ hợp tác.
Kỹ năng đàm phán cá nhân

11
Giải quyết mâu thuẫn.
Khả năng thích ứng và linh hoạt.
Truyền đạt giao tiếp rõ ràng.
Suy nghĩ sáng tạo
Huấn luyện và kèm việc.

Bạn càng thấy nhiều những cái đó xung quanh mình có nghĩa là kỹ năng
mềm của con người đang có và đang phát huy tác dụng trong tổ chức của bạn. Những
kỹ năng này sẽ có tác động lớn đến thái độ mà một người sẽ thể hiện ra trong giao tiếp
với đồng nghiệp, khách hàng, người quản lý giám sát cũng như với các đối tác liên
quan đến tổ chức. Thái độ của một người tích cực bao nhiêu, mối quan hệ cá nhân của
người đó tốt bấy nhiêu. Điều này sẽ thúc đẩy mãnh liệt hiệu quả đội nhóm và nhờ đó
nó định hướng dẫn dắt các cá nhân đóng góp mạnh mẽ hơn vào tầm nhìn, chiến lược
của tổ chức.

Kỹ năng mềm đang ngày càng quan trọng như kỹ năng cứng trong lực lượng
lao động ngày nay. Chỉ thuần túy được đào tạo tốt về kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn
là chưa đủ nếu không được phát triển các kỹ năng mềm, kỹ năng quan hệ con người,
xây dựng đội nhóm giúp người ta giao tiếp, tương tác và hợp tác với nhau hiệu quả
hơn. Những kỹ năng con người này đang trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết với các tổ
chức trong bối cảnh phải tìm ra các cách có ý nghĩa để duy trì sức cạnh tranh và năng
suất lao động. Mỗi kỹ năng mềm đều thiết yếu đối với sự phát triển cá nhân cũng như
thành công của tổ chức, phát triển chúng đóng một vai trò quan trọng và thực sự rất
cần thiết.

2.2.2. Các kỹ năng mềm cần thiết.

Kỹ năng năng mềm cần thiết cho mỗi con người để thành công trong công
việc và cuộc sống?

Tại Mỹ, Bộ Lao động Mỹ (The U.S. Department of Labor) cùng Hiệp hội Đào
tạo và Phát triển Mỹ (The American Society of Training and Development) gần đây
đã thực hiện một cuộc nghiên cứu về các kỹ năng cơ bản trong công việc. Kết luận
được đưa ra là có 13 kỹ năng cơ bản cần thiết để thành công trong công việc:

12
1. Kỹ năng học và tự học (learning to learn)

2. Kỹ năng lắng nghe (Listening skills)

3. Kỹ năng thuyết trình (Oral communication skills)

4. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)

5. Kỹ năng tư duy sáng tạo (Creative thinking skills)

6. Kỹ năng quản lý bản thân và tinh thần tự tôn (Self esteem)

7. Kỹ năng đặt mục tiêu/ tạo động lực làm việc (Goal setting/ motivation
skills)

8. Kỹ năng phát triển cá nhân và sự nghiệp (Personal and career


development skills)

9. Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập quan hệ (Interpersonal skills)

10. Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork)

11. Kỹ năng đàm phán (Negotiation skills)

12. Kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả (Organizational effectiveness)

13. Kỹ năng lãnh đạo bản thân (Leadership skills)

Năm 1989, Bộ Lao động Mỹ cũng đã thành lập một Ủy ban Thư ký về Rèn
luyện các Kỹ năng Cần thiết (The Secretary’s Commission on Achieving Necessary
Skills - SCANS). Thành viên của ủy ban này đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau như
giáo dục, kinh doanh, doanh nhân, người lao động, công chức… nhằm mục đích “thúc
đẩy nền kinh tế bằng nguồn lao động kỹ năng cao và công việc thu nhập cao”.
(http://wdr.doleta.gov/SCANS/)

Tại Úc, Hội đồng Kinh doanh Úc (The Business Council of Australia - BCA)
và Phòng thương mại và công nghiệp Úc (the Australian Chamber of Commerce and
Industry - ACCI) với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Đào tạo và Khoa học (the
Department of Education, Science and Training - DEST) và Hội đồng giáo dục quốc
gia Úc (the Australian National Training Authority - ANTA) đã xuất bản cuốn “Kỹ

13
năng hành nghề cho tương lai” (năm 2002). Cuốn sách cho thấy các kỹ năng và kiến
thức mà người sử dụng lao động yêu cầu bắt buộc phải có. Kỹ năng hành nghề
(employability skills) là các kỹ năng cần thiết không chỉ để có được việc làm mà còn
để tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng góp vào
định hướng chiến lược của tổ chức. Các kỹ năng hành nghề bao gồm có 8 kỹ năng
như sau:

1. Kỹ năng giao tiếp (Communication skills)

2. Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork skills)

3. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)

4. Kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm (Initiative and enterprise skills)

5. Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc (Planning and organising skills)

6. Kỹ năng quản lý bản thân (Self-management skills)

7. Kỹ năng học tập (Learning skills)

8. Kỹ năng công nghệ (Technology skills)

(Nguồn:http://www.acci.asn.au/text_files/issues_papers/Employ_Educ/ee21.pdf)

Chính phủ Canada cũng có một bộ phụ trách về việc phát triển kỹ năng cho
người lao động. Bộ Phát triển Nguồn Nhân lực và Kỹ năng Canada (Human
Resources and Skills Development Canada - HRSDC) có nhiệm vụ xây dựng nguồn
nhân lực mạnh và có năng lực cạnh tranh, giúp người Canada nâng cao năng lực ra
quyết định và năng suất làm việc để nâng cao chất lượng cuộc sống. Bộ này cũng có
những nghiên cứu để đưa ra danh sách các kỹ năng cần thiết đối với người lao động.
Conference Board of Canada là một tổ chức phi lợi nhuận của Canada dành riêng cho
nghiên cứu và phân tích các xu hướng kinh tế, cũng như năng lực hoạt động các tổ
chức và các vấn đề chính sách công cộng. Tổ chức này cũng đã có nghiên cứu và đưa
ra danh sách các kỹ năng hành nghề cho thế kỷ 21 (Employability Skills 2000+) bao
gồm các kỹ năng như:

1. Kỹ năng giao tiếp (Communication)

2. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving)

14
3. Kỹ năng tư duy và hành vi tích cực (Positive attitudes and behaviours)

4. Kỹ năng thích ứng (Adaptability)

5. Kỹ năng làm việc với con người (Working with others)

6. Kỹ năng nghiên cứu khoa học, công nghệ và toán (Science, technology
and mathematics skills)

(Nguồn: http://www.dest.gov.au/NR/rdonlyres/4E332FD9-B268-443D-866C-
621D02265C3A/2212/final_report.pdf)

Chính phủ Anh cũng có cơ quan chuyên trách về phát triển kỹ năng cho người
lao động. Bộ Đổi mới, Đại học và Kỹ năng được chính chủ thành lập từ ngày
28/6/2007, đến tháng 6/2009 thì được ghép với Bộ Kinh tế, Doanh nghiệp và Đổi mới
Pháp chế để tạo nên bộ mới là Bộ Kinh tế, Đổi mới và Kỹ năng. Bộ này chịu trách
nhiệm về các vấn đề liên quan đến việc học tập của người lớn, một phần của giáo dục
nâng cao, kỹ năng, khoa học và đổi mới. (Nguồn: http://www.dius.gov.uk/). Cơ quan
chứng nhận chương trình và tiêu chuẩn (Qualification and Curriculum Authority)
cũng đưa ra danh sách các kỹ năng quan trọng bao gồm:

1. Kỹ năng tính toán (Application of number)

2. Kỹ năng giao tiếp (Communication)

3. Kỹ năng tự học và nâng cao năng lực cá nhân (Improving own learning
and performance)

4. Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (Information and
communication technology)

5. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving)

6. Kỹ năng làm việc với con người (Working with others)

Chính phủ Singapore có Cục phát triển lao động WDA (Workforce
Development Agency) WDA đã thiết lập hệ thống các kỹ năng hành nghề ESS
(Singapore Employability Skills System) gồm 10 kỹ năng
(http://wsq.wda.gov.sg/GenericSkills/):

1. Kỹ năng công sở và tính toán (Workplace literacy & numeracy)

15
2. Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (Information &
communications technology)

3. Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định (Problem solving & decision
making)

4. Kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm (Initiative & enterprise)

5. Kỹ năng giao tiếp và quản lý quan hệ (Communication & relationship


management)

6. Kỹ năng học tập suốt đời (Lifelong learning)

7. Kỹ năng tư duy mở toàn cầu (Global mindset)

8. Kỹ năng tự quản lý bản thân (Self-management)

9. Kỹ năng tổ chức công việc (Workplace-related life skills)

10. Kỹ năng an toàn lao động và vệ sinh sức khỏe (Health & workplace
safety).

Ở VN, các kỹ năng chưa được chú trọng trong hệ thống giáo dục cũng như
trong cuộc sống. Hình như nền giáo dục của chúng ta đang dựa trên một giả định
“người ta biết thì người ta sẽ làm được”. Và vì vậy họ cứ cố dạy cho học sinh, sinh
viên thật nhiều kiến thức hòng làm được việc khi ra trường. Nhưng thực tế đâu có
vậy, từ biết đến hiểu là một khoảng cách rất xa, và từ hiểu đến làm việc chuyên
nghiệp với năng suất cao là một khoảng cách còn xa hơn nữa. Điều này dẫn đến một
thực trạng là sinh viên khi ra trường biết nhiều kiến thức nhưng lại không có khả
năng làm việc cụ thể. Chỉ vài năm gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng mới
nhắc nhiều đến cụm từ “kỹ năng” và “kỹ năng mềm”. Chúng ta tự hào về nguồn lao
động dồi dào. Nhưng đó mới chỉ là số lượng. Chất lượng lao động mới là vấn đề đáng
bàn. Theo bà Nguyễn Thị Hằng (nguyên Bộ trưởng Bộ Lao Động, Thương Binh & Xã
Hội, Chủ tịch hội dạy nghề Việt Nam), hiện nay, Việt Nam còn đến hơn 50% lao động
trong tổng số hơn 10 triệu lao động chưa qua đào tạo cơ bản chính quy, mà chủ yếu là
vừa học vừa làm hoặc làm những công việc đơn giản. Điều đó cho chúng ta thấy bức
tranh tổng thể về kỹ năng nghề nghiệp của lực lượng lao động không có gì là sáng sủa
cho lắm và còn nhiều việc phải làm để có một bức tranh tươi sáng hơn. Điều tối thiểu

16
phải biết (nhưng lại không phải ai cũng biết), là xã hội bây giờ sử dụng sản phẩm
dùng được, chứ không sử dụng khả năng hay bằng cấp của con người. Bạn không có
kỹ năng đánh máy, thì có thuộc lòng 10 quyển sách về Microsoft Office cũng vô
nghĩa. Bạn không thiết kế nổi một cái nhà bình thường 3 tầng, thì có tốt nghiệp xuất
sắc trường Kiến trúc cũng vô nghĩa.

Tổng hợp các nghiên cứu của các nước và thực tế Việt Nam, dưới góc độ của
người nghiên cứu đề tài thấy rằng 10 kỹ năng sau là căn bản và quan trọng hàng đầu
cho người lao động trong thời đại ngày nay:

1. Kỹ năng học và tự học (Learning to learn)

2. Kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân (Self leadership &
Personal branding)

3. Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm (Initiative and enterprise skills)

4. Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc (Planning and organising


skills)

5. Kỹ năng lắng nghe (Listening skills)

6. Kỹ năng thuyết trình (Presentation skills)

7. Kỹ năng giao tiếp và ứng xử (Interpersonal skills)

8. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)

9. Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork)

10. Kỹ năng đàm phán (Negotiation skills)

Như vậy ngoài những kiến thức chuyên môn, người lao động cần phải được
trang bị thêm các kỹ năng hành nghề để đảm bảo có được việc làm mà còn để tiến bộ
trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng góp vào định hướng
chiến lược của tổ chức góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.

Lâu nay chúng ta chỉ nghĩ đến xuất khẩu lao động, nhưng một thực tế mới
đang thách đố người lao động Việt Nam là trong thời kỳ khủng hoảng người nước
ngoài đang đến tranh chỗ làm việc của ta. Chúng ta có thể bị thua ngay trên sân nhà.

17
Rõ ràng 10 kỹ năng mềm thiết yếu này không những chỉ giúp người lao động nâng
cao năng suất, hiệu quả công việc mà thực chất là giúp ích rất nhiều trong mọi khía
cạch cuộc sống ở gia đình ngoài xã hội tại công sở, nâng cao đáng kể chất lượng cuộc
sống và văn hóa xã hội, góp phần thay đổi diện mạo con người Việt Nam.

(1) Kỹ năng học và tự học

Nhẩm tính sơ lược, ở cấp học phổ thông, mỗi học trò phải đọc trên 60 quyển
sách. Bốn năm đại học, mỗi sinh viên phải học và đọc trung bình trên 100 quyển sách.
Với những con số biểu tượng cho sự khổng lồ của kiến thức trong cuộc đời đi học,
mỗi học trò, mỗi con người cần tìm cho mình những công cụ, phương pháp, mà quan
trọng nhất là kỹ năng học và tự học để lãnh hội hết những kiến thức chuyên môn dành
cho mình.

Nhiều sinh viên cho rằng chỉ cần cố gắng học là có thể đạt kết quả tốt, nhưng
học ở đại học khác với học ở trung học rất nhiều, và biết cách học có hiệu quả ở đại
học là một điều quan trọng mà có khi chưa được chú ý đúng mức. Nếu như các bạn
sinh viên vẫn tin rằng chỉ cần chăm chỉ học tập sẽ đạt kết quả tốt thì suy nghĩ đó sẽ
làm cho các bạn thất vọng trong học tập. Nếu như các bạn sinh viên vẫn không có sự
sáng tạo trong học tập, không có phương pháp học tập hiệu quả cho riêng bản thân
mình, các bạn sẽ khó tìm thấy một sự thành công trong học tập cũng như trong cuộc
sống. Hệ quả của phương pháp học không tốt sẽ là lãng phí thời gian, thành tích học
tập kém, thậm chí thi rớt dẫn đến chán nản, thất vọng và bất mãn. Học đối với sinh
viên là cuộc sống, là tương lai. Có một phương pháp học tập tốt và sáng tạo cho chính
bản thân mình sẽ là chìa khóa đưa các bạn sinh viên đến với thành công trong con
đường học tập một cách nhanh và hiệu quả nhất.

(2) Kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân

Bạn có muốn sử dụng hình ảnh cá nhân làm công cụ tăng lợi thế cho mình?
Bạn có muốn làm tăng thêm hiệu quả của hình ảnh cá nhân trong công ty và sự ảnh
hưởng của nó đối với nhân viên của bạn? Hình ảnh cá nhân có thể giúp hoặc có thể
gây tác dụng ngược như thế nào? Và làm thế nào để duy trì một hình ảnh đẹp nhằm
làm tăng sự tự tin và thành công của bạn? Hình ảnh cá nhân có thể là công cụ hỗ trợ
đắc lực nhưng cũng có thể gây ảnh hưởng xấu cho bạn nếu bạn không biết cách sử

18
dụng hiệu quả. Mỗi khi bạn gặp một ai đó, người ta có thể đánh giá vị trí của bạn dựa
trên hình thức và thái độ của bạn. Vì vậy, cần thể hiện một hình ảnh chuyên nghiệp
của bản thân, nhất là trong những cuộc gặp gỡ đầu tiên

“Nhiều bạn lớp mình vẫn ngại ngần không muốn thể hiện mình trong tập thể
vì cho rằng nổi bật quá có thể gây khó chịu cho người khác, bị nói xấu hoặc thậm chí
tẩy chay” - một sinh viên thổ lộ. Thật ra, việc này chỉ thực sự gây hại khi bạn khoác
lác, ngạo mạn hay thể hiện không đúng lúc hay đúng cách, tỏ ra hợm hĩnh. Cần phải
biết hài hòa giữa cái “tôi” và cái “ta” trong tập thể, chẳng hạn: thể hiện năng lực của
mình nhưng không phỉ báng, chê bai người khác, nhiệt tình giúp đỡ mọi người…
Chốt lại, cốt lõi của tạo dựng thương hiệu cá nhân chỉ nằm ở 2 chữ: “Sống đẹp”: miệt
mài lao động, có trách nhiệm với bản thân, có cái nhìn tích cực và lạc quan, xây dựng
phong cách làm việc chuyên nghiệp, sống hòa đồng với tập thể. Khi đã xây dựng và
phát triển được thương hiệu cá nhân cũng là lúc bạn đã có vị thế trong lĩnh vực nghề
nghiệp, được nhiều người xem là một tấm gương để vươn đến hoặc thậm chí là đánh
bật bạn ra khỏi vị trí của mình. Chính vì vậy, càng được biết đến thì càng nên cẩn
trọng và không ngừng phấn đấu.

Bạn có thể trở thành người lãnh đạo ở nhiều lĩnh vực, cấp độ khác nhau,
nhưng trước hết cần phải lãnh đạo được chính bản thân mình. Lãnh đạo bản thân là tự
mình chiến thắng sự yếu kém, buồn chán, cám dỗ... để thực hiện những mục tiêu lâu
dài mà mình đã đặt ra. Có bạn cho rằng, để lãnh đạo bản thân, quan trọng nhất là phải
rèn được ý chí và quan niệm sống đúng đắn. Bạn khác thì chia sẻ kinh nghiệm: “Chỉ
cần đặt ra nguyên tắc sống đúng đắn và tuân thủ theo những nguyên tắc đó thì đã
chiến thắng được chính mình”. Lãnh đạo bản thân giúp con người khám phá thế giới
bên trong để hiểu mình hơn. Từ những nhận thức đúng đắn về mình sẽ giúp bản thân
có thể xây dựng cho mình kế hoạch hành động nhằm đạt được những mục tiêu và ước
mơ trong cuộc sống. giúp con người tư duy tích cực hơn để sống tự tin, hạnh phúc và
thành đạt.

(3) Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm

Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm bao gồm trong nó nhiều kỹ năng. Đầu
tiên phải kể tới kĩ năng thường được gọi là "khả năng liên kết". Nó thuộc dạng kĩ năng

19
có được sau quá trình tích lũy kinh nghiệm, cho phép một số người có khả năng sáng
tạo hình thành những mối liên kết giữa những câu hỏi, vấn đề hay các ý tưởng dường
như chẳng có mối liên quan nào. Kế đến phải kể tới là kĩ năng đặt câu hỏi - những câu
hỏi mang tính thách thức tình thế hiện tại và mở ra một bức tranh rộng lớn hơn như
"Tình hình sẽ như thế nào nếu...", "Tại sao...", "Tại sao lại không...". Nằm thứ ba
trong danh sách này là khả năng nhìn thấu các tiểu tiết, đặc biệt là về hành vi, lối ứng
xử của con người. Ngoài ra, khả năng trải nghiệm cũng là một yếu tố cấu thành thiết
yếu.Và cuối cùng, những người đột phá thành công thường thực sự giỏi trong việc xây
dựng mối quan hệ với những người ít nhiều có nét tương đồng với họ và chắc chắn có
gì đó để họ học hỏi.

Kết quả tìm kiếm cho thấy 15% các CEO thực sự rất sáng tạo, nói cách khác
những người này đều từng cho ra đời một sản phẩm mới hay khởi đầu một vụ đầu tư
mạo hiểm. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ dù một người có sáng tạo đến đâu thì họ vẫn
thường ít nhiều tỏ ra cẩn trọng trong việc đặt câu hỏi do sợ trông ngốc nghếch hoặc
đôi khi chỉ bởi họ biết rằng mọi người không đánh giá cao nó. 80% những người đang
ở cương vị điều hành chỉ dành 20% quỹ thời gian để tìm kiếm các sáng kiến mới. Tất
nhiên, Apple và Google là những trường hợp ngoại lệ.

Nếu nhìn vào một đứa trẻ 4 tuổi, bạn sẽ dễ dàng nhận ra rằng chúng liên tục
đặt câu hỏi hoặc trình bày băn khoăn về mọi thứ xung quanh chúng hoạt động ra sao.
Nhưng tới thời điểm chúng khoảng sáu tuổi rưỡi, việc đặt câu hỏi có xu hướng dừng
lại bởi chúng nhận thức rất nhanh rằng giáo viên thường đánh giá cao câu trả lời đúng
hơn là những câu hỏi khiêu khích. Khi vào trung học thì gần như bọn nhỏ không thể
hiện tính tò mò của mình nữa. Và đứa trẻ đó khi trưởng thành và ở trong một môi
trường tập thể thì dường như niềm kích thích khám phá đã dần dần rời xa chúng.

Biết cách và dám suy nghĩ khác người đối với một thành viên trong xã hội có
truyền thống văn hóa làng xã lâu đời như người Việt chúng ta là điều không dễ dàng.
Tuy nhiên, nếu không dám nghĩ khác thì chúng ta sẽ không bao giờ có được sự sáng
tạo, và bạn hoàn toàn yên tâm về khả năng rèn luyện tư duy sáng tạo của mình vì nó
rất đơn giản, vấn đề là bạn có vượt qua được chính mình để nghĩ và làm một cách

20
khác hay không mà thôi. Và một điều hết sức hiển nhiên là thành quả của sự sáng tạo
dù ở bất kỳ lĩnh vực nào, lúc nào cũng được đánh giá cao

Tư duy sáng tạo là chủ đề của một lĩnh vực nghiên cứu còn mới. Nó nhằm tìm
ra các phương án, biện pháp thích hợp để kích hoạt khả năng sáng tạo và để tăng
cường khả năng tư duy của một cá nhân hay một tập thể cộng đồng làm việc chung về
một vấn đề hay lĩnh vực. Ứng dụng chính của bộ môn này là giúp cá nhân hay tập thể
thực hành nó tìm ra các phương án, các lời giải từ một phần đến toàn bộ cho các vấn
đề nan giải. Các vấn đề này không chỉ giới hạn trong các ngành nghiên cứu về khoa
học kỹ thuật mà nó có thể thuộc lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, xã hội, nghệ
thuật... hoặc trong các phát minh, sáng chế. Một số phương pháp tư duy sáng tạo đã và
đang được triển khai thành các lớp học, các hội nghị chuyên đề ở các cơ quan, tổ chức
xã hội, chính trị, chính trị - xã hội nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của cá nhân hay
tập thể. Ở các trường trung học của các nước phát triển, một số phương pháp quan
trọng như tập kích não, giản đồ ý cũng đã được áp dụng cho học sinh biết cách áp
dụng dưới dạng thô sơ; đồng thời cũng đã có nhiều cơ sở giáo dục tư thục giảng dạy
các chuyên đề về phương pháp tư duy sáng tạo cho học viên mọi lứa tuổi.

(4) Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc

Việc nhà, việc cơ quan, xã hội, có quá nhiều việc cần làm và con người hiện
đại dường như không đủ thời gian để cân bằng cuộc sống. Ai cũng có hàng núi công
việc phải giải quyết nhưng số người cảm thấy hoàn thiện và thoả mãn là rất ít. Không
có gì đáng chán hơn cảm giác bạn đã làm việc cật lực nhưng chẳng có gì mà mình
thực sự muốn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do mọi người không có kế hoạch
và các quy trình rõ ràng. Thay vì nhận diện các mục tiêu cụ thể, các sự kiện quan
trọng và các ước mơ, con người thường trải qua một ngày với các công việc rời rạc và
không mấy quan trọng. Ngày kết thúc theo cách nhàm chán và tiêu tốn nhiều năng
lượng, đồng thời làm gia tăng cảm giác chán nản, xa rời mục tiêu ban đầu. Vì thế rất ít
người đạt được một cuộc sống cân bằng thực sự.

Khi được hỏi: “Bạn dự định sau này sẽ làm gì?”, các bạn trẻ thường trả lời:
“Tôi sẽ làm chủ một doanh nghiệp, sẽ làm một diễn giả, muốn thành đạt, muốn cống
hiến…”. Nhưng đa phần các bạn lại chưa hề có một kế hoạch rành mạch để hiện thực

21
hóa dự định đó. Các bạn đang cần kỹ năng lập kế hoạch. Nguyên nhân của việc không
chú ý hoặc không thể xác định được kế hoạch cho mình là do các bạn trẻ thiếu mục
tiêu hoặc những mục tiêu ấy là mơ hồ. Khi bạn đã đặt mục tiêu dù ngắn hạn hay dài
hạn cho mình như sẽ thành một chủ doanh nghiệp, sẽ là một lập trình viên phần mềm,
là nhà nghiên cứu khoa học, nhà hoạt động xã hội … để có thể cống hiến, đóng góp
được nhiều cho xã hội thì bạn cần phải có một kế hoạch rành mạch từng bước để thực
hiện. Một kế hoạch được chuẩn bị kĩ lưỡng và được cập nhật, chỉnh sửa thường xuyên
sẽ giúp bạn có những bước đi cụ thể và đánh giá được chất lượng của các công việc
mình làm trên đường thực hiện dự án của mình.

Kế hoạch là một tập hợp những hoạt động được sắp xếp theo lịch trình, có
thời hạn, nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ thể và xác định biện pháp tốt nhất…
để thực hiện một mục tiêu cuối cùng đã được đề ra. Khi bạn lập được kế hoạch thì tư
duy quản lý của bạn sẽ có hệ thống hơn để có thể tiên liệu được các tình huống sắp
xảy ra. Bạn sẽ phối hợp được mọi nguồn lực của cá nhân, tổ chức để tạo nên một sức
mạnh tổng hợp, có thể giữ vững “mũi tiến công” vào mục tiêu cuối cùng mình muốn
hướng đến. Bên cạnh đó, bạn cũng sẽ dễ dàng kiểm tra, giám sát hiệu quả thực hiện
dự án của mình và sẵn sàng ứng phó với những thay đổi của môi trường bên ngoài.

(5) Kỹ năng lắng nghe

Không phải ngẫu nhiên mà câu thành ngữ "Nói là bạc, im lặng là vàng, lắng
nghe là kim cương" được mọi người công nhận là đúng. Từ bé ta được dạy nói, dạy
đọc, dạy viết rất nhiều nhưng kỹ năng nghe chiếm đến 53% thời gian giao tiếp lại
không được dạy. Biết lắng nghe - điều này có vẻ đơn giản nhưng không phải ai cũng
có thể làm được vì lắng nghe là một hoạt động thường nhật hàng ngày, cho nên chỉ có
một số ít người quan tâm tới việc phát triển kỹ năng nghe của mìnhNghe là một khả
năng vật lý thì lắng nghe là một kỹ năng. . Kỹ năng nghe cho phép ta cảm nhận và
hiểu được những gì người khác nói. Lắng nghe không phải là bản năng mà là nghệ
thuật, kỹ năng cần phải rèn luyện lâu dài. Lắng nghe chính là hùng biện nhất song lại
ít người biết được điều đó. Trong giao tiếp với nhau chúng ta thường tranh nhau thể
hiện mà thật ít người tranh nhau để lắng nghe. Khi ta có kỹ năng lắng nghe tốt thì

22
công việc sẽ thuận lợi hơn, cuộc sống gia đình vui vẻ hơn, giải quyết xung đột dễ
dàng hơn.

Mục đích của việc lắng nghe là nắm bắt được nội dung vấn đề, thu thập được
nhiều thông tin, đánh giá nội dung thông tin và tương tác qua lại trong quá trình diễn
đạt. Song song đó, lắng nghe sẽ tạo sự liên kết giữa người với người, đó là liên kết về
xúc cảm. Lúc này sự lắng nghe lại có thêm những mục đích mới tích cực về cảm xúc
hơn như: tạo ra mối quan hệ tốt đẹp với mọi người, chia sẻ sự cảm thông với người
khác và khám phá ra những tính cách mới mẻ của một người đã quen. Ngoài ra, lắng
nghe là một biện pháp hữu hiệu để giải quyết xung đột, mâu thuẫn; bằng sự chú tâm
và chân thành khi lắng nghe bạn sẽ khiến đối phương cảm thấy được tôn trọng và họ
cũng sẽ cởi mở với bạn hơn rồi sau đó những nút thắt của vấn đề sẽ được tháo gỡ một
cách nhanh chóng. Những người biết lắng nghe là những người biết tiếp nhận những
thông tin mới, những ý kiến mới, vì thế họ sống sáng suốt và thấu hiểu mọi việc xung
quanh, thành quả mà họ thu được sẽ là lòng tin của mọi người, khả năng nắm được
thông tin, khả năng cập nhật hóa thông tin và khả năng giải quyết được vấn đề.

(6) Kỹ năng thuyết trình

Trình bày là một phương pháp nhanh và hiệu quả để truyền tải ý tưởng và
mong muốn của mình đến người nghe. Trong quản lý bất kỳ dự án nào, thuyết trình
được sử dụng như một phương pháp chính thức để đưa mọi người lại với nhau để lập
kế hoạch, theo dõi và đánh giá tiến bộ của mình . Kỹ năng thuyết trình và kỹ năng nói
trước công chúng là rất hữu ích trong nhiều khía cạnh của công việc và cuộc sống.
Thuyết trình hiệu quả và kỹ năng nói trước công chúng rất quan trọng trong kinh
doanh, bán hàng, đào tạo, giảng dạy và các chương trình giải trí.

Trong công việc cũng như mọi hoạt động khác, kỹ năng thuyết trình đóng một
phần quan trọng dẫn đến sự thành công của mỗi cá nhân cũng như tập thể. Với kĩ
năng thuyết trình chuyên nghiệp bạn cũng sẽ dễ dàng thuyết phục được mọi đối tác,
ban giám khảo dù là khó tính nhất. Nhưng để đạt được điều đó, nắm vững nội dung
thuyết trình là chưa đủ, chúng ta cần có sự chuẩn bị tốt không chỉ về mặt nội dung mà
còn là cả hình thức. Do đó phần chuẩn bị cho một bài thuyết trình là vô cùng quan

23
trọng. Với sự chuẩn bị tốt, dự trù mọi tình huống có thể xảy ra bạn đã nắm được 70%
thành công.

(7) Kỹ năng giao tiếp ứng xử

Trong cuộc sống, trong giao tiếp hàng ngày con người luôn phải ứng phó với
biết bao tình huống, có lúc dễ dàng xử lý, có lúc thật phức tạp, khó xử. Giao tiếp ứng
xử quan trọng trong hầu hết các mặt của đời sống con người, ở khắp mọi nơi, mọi chỗ
đều cần có kỹ năng giao tiếp. Xã hội càng văn minh thì nhu cầu trong giao tiếp của
con người càng cao. Ứng xử một cách thông minh, khôn khéo, tế nhị, kịp thời, có hiệu
quả, đạt tới mức độ nghệ thuật, ngày nay còn được coi như bí quyết thành công trong
cuộc đời, trong công việc

Kỹ năng là thành phần thiết yếu của giao tiếp tốt và tinh tế xã hội, nhưng kỹ
năng giao tiếp không tự nhiên mà có được, phải trải qua một quá trình học hỏi và rèn
luyện. Người có kỹ năng giao tiếp ứng xử tốt thể hiện ở sự tự tin và mức độ quan tâm
đến người khác. Khi các kỹ năng như vậy không có trong cuộc sống cũng như nơi làm
việc thì có thể dẫn đến sự cô đơn, thất vọng, hợp tác và dịch vụ không đạt chuẩn. Kỹ
năng giao tiếp ứng xử được coi là chất keo vô hình gắn kết các mối quan hệ với nhau.

Mục đích của giao tiếp là truyển tải được những thông điệp. Đây là quá trình
liên quan đến cả người gửi và người nhận thông điệp. Bằng cách truyền đạt được
thông điệp của mình đi một cách thành công, bạn đã truyền đi được suy nghĩ cũng như
ý tưởng của mình một cách hiệu quả. Khi không thành công, những suy nghĩ, ý tưởng
của bạn sẽ không phản ánh được những cái đó của chính bạn, gây nên sự sụp đổ trong
giao tiếp và những rào cản trên con đường đạt tới mục tiêu của bạn - cả trong đời tư
và trong sự nghiệp. Kỹ năng giao tiếp cực kì quan trọng và nó là nhân tố thể hiện rõ
nhất sự năng động của một sinh viên. Việc tham gia các câu lạc bộ Thanh niên, hoạt
động Đoàn thanh niên là điều kiện nâng cao kỹ năng này.

Thông thường trong trường Đại học sinh viên thường ứng dụng kỹ năng giao
tiếp qua các hoạt động sau:

24
Kỹ năng thuyết trình trước đám đông
Kỹ năng truyền đạt thông tin
Kỹ năng lắng nghe và thu thập thông tin

(8) Kỹ năng giải quyết vấn đề

Trong công việc hằng ngày, khi có một vấn đề nào đó xảy ra, chúng ta có khi
nào phân vân không biết giải quyết theo hướng nào. Cũng có khi thấy mệt mỏi và bị
căng thẳng vì cứ phải gặp những vấn đề lặp đi lặp lại, từ những vụ việc đơn giản đến
phức tạp, đó là chúng ta đang thiếu kỹ năng giải quyết vấn đề .

Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills) là một trong những kỹ
năng rất cần thiết trong học tập và làm việc bởi cuộc sống là một chuỗi những vấn đề
đòi hỏi chúng ta phải giải quyết mà không vấn đề nào giống vấn đề nào và cũng
không có một công thức chung nào để giải quyết mọi vấn đề. Điều quan trọng là
chúng ta phải tự trang bị cho mình những hành trang cần thiết để khi vấn đề nảy sinh
thì chúng ta có thể vận dụng những kỹ năng sẵn có để giải quyết vấn đề đó một cách
hiệu quả nhất. Giải quyết vấn đề là một cách thức suy nghĩ nhằm làm rõ ràng và đưa
ra giải pháp thực thi để cải tiến cho một vấn đề. Nói dễ hiểu hơn giải quyết vấn đề: trả
lời những câu hỏi như: "Ta sẽ vượt trở ngại như thế nào?" hay "Tôi sẽ làm như thế
nào để đạt mục đích của mình trong những điều kiện này?". Cốt lõi của vấn đề là tìm
cách đạt được mục đích khi gặp trở ngại hoặc khi ta chỉ có những điều kiện rất hạn
chế để thực hiện mục đích. Biết đâu là vấn đề quan trọng để giải quyết trong vô số
hiện tượng phát sinh quanh mình là một kỹ năng hết sức quan trọng. Người thành
công không phải là người làm (giải quyết) tất cả công việc phát sinh hay nhìn thấy
mà là người biết đâu là việc quan trọng để làm. Làm đúng việc bao giờ cũng đáng giá
gấp nhiều lần làm việc đúng, dĩ nhiên làm đúng việc và đúng cách sẽ càng thành công
hơn.

(9) Kỹ năng làm việc đồng đội

“ Những gì chúng ta biết chỉ như giọt nước, những gì chúng ta chưa biết như
đại dương mênh mông" - Anhxtanh.

25
Chúng ta không thể biết tất cả và càng không thể làm tất cả. Vì vậy làm việc
tập thể là hoạt động không thể thiếu đối với mỗi con người, mỗi tổ chức và xã hội.
Lịch sử cho thấy chúng ta làm việc đồng đội rất hiệu quả khi tổ quốc bị xâm lăng.
Nhưng trong thế giới hòa bình thì sao? Trong thời đại ngày nay, khi khoa học kỹ
thuật ngày càng phát triển thì yêu cầu làm việc theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết.
Đơn giản vì không ai là hoàn hảo, làm việc theo nhóm sẽ tập trung những mặt mạnh
của từng người và bổ sung cho nhau. Hơn nữa, chẳng ai có thể cáng đáng hết mọi
việc. Thế kỷ 21 là thế kỷ của làm việc theo nhóm trong tất cả mọi lĩnh vực. Cho dù đó
là kinh tế, kỹ thuật hay văn học, nghệ thuật, bạn không thể thành công và chiến thắng
nếu bạn chỉ là một cá nhân. Teamwork – đơn giản là một nhóm người cùng nhau làm
việc, hay sâu hơn một chút, là đoàn kết để cùng đạt được một mục tiêu nào đó.

Nếu bạn dành thời gian lướt qua những bản tin tuyển dụng ngày nay, trong 10
vị trí đăng tuyển thì đã có đến 9 hay thậm chí cả 10 vị trí đòi hỏi ở ứng viên kỹ năng
làm việc nhóm. Bởi nhà tuyển dụng không cần tuyển dụng một quyển sách, hay một
cái máy vi tính mà thực chất là một con người có khả năng làm việc, hợp tác, tương
tác với những thành viên khác. Có khả năng làm việc nhóm tốt, đơn giản là bạn và
mọi người có khả năng cùng nhau làm tốt công việc, đạt được mục tiêu đã đề ra bằng
cách hiểu mình, hiểu nhau, làm tốt phần việc của mình và giúp người khác làm tốt
việc của họ. Sự tương tác đa chiều trong một nhóm làm việc giúp cho mọi người có
thể hoàn thành nhiệm vụ của mình xuất sắc hơn nhờ giúp đỡ các thành viên khác. Kỹ
năng làm việc nhóm là kỹ năng tương tác giữa các thành viên trong một nhóm, nhằm
thúc đẩy hiệu quả công việc, phát triển tiềm năng của tất cả các thành viên. Một mục
tiêu lớn thường đòi hỏi nhiều người làm việc với nhau, vì thế làm việc nhóm trở thành
một định nghĩa quan trọng trong tổ chức cũng như trong cuộc sống.

(10) Kỹ năng đàm phán.

Trong kinh doanh, doanh nghiệp nào cũng muốn đạt kết quả, lợi nhuận cao
nhất. Ðiều đó phụ thuộc rất nhiều ở tài ngoại giao, đàm phán, thương thảo hợp đồng
của nhà kinh doanh trên thương trường. Đàm phán là phương tiện cơ bản để đạt được
cái mà ta mong muốn từ người khác. Đó là quá trình giao tiếp có đi có lại được thiết

26
kế nhằm thỏa thuận trong khi giữa ta và bên kia có những quyền lợi có thể chia sẻ và
có những quyền lợi đối kháng.

Đàm phán hay thương lượng là cả một quá trình, nó không đơn giản chỉ là
một điều gì đó vừa được thực hiện khi đang thảo luận những điều kiện của một giải
pháp. Đàm phán khác xa với việc mặc cả. Nó đòi hỏi sự hiểu biết về động lực hay
chức năng, những cái ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình và hành vi ứng xử của mỗi
người. Những nhà đàm phán vĩ đại luôn biết đầu tư thời gian để tìm hiểu những chiến
lược và sách lược khác nhau và mỗi kỹ năng, kỹ xảo đóng góp như thế nào vào toàn
bộ tiến trình đàm phán.

2.3 NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG THỰC
HÀNH KỸ NĂNG MỀM CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY

2.3.1. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của kỹ năng mềm.

Bên cạnh sự nhận thức đúng về tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong học
tập, công việc và cuộc sống của số lượng lớn các bạn sinh viên. Thì hiện nay một
phần không nhỏ các bạn sinh viên còn khá xa lạ với cụm từ “kỹ năng mềm”. Khi
mong muốn ai làm một việc gì đó chúng ta cần phải nêu ra được lý do tại sao phải làm
việc đó và việc đó có ích gì cho họ. Vì vậy để các bạn sinh viên tự có ý thức rèn luyện
kỹ năng mềm thì trước tiên cần phải mang đến cho các bạn một sự nhận thức đúng về
tầm quan trọng của kỹ năng mềm với cuộc sống của chính các bạn.

Nếu bạn cho rằng một điều gì đó là không quan trọng, không cần thiết ít nhất
là với chính bản thân bạn thì bạn sẽ không bao giờ lãng phí thời gian để hiểu, học hỏi
những điều đó. Cách phản ứng đó là không có gì lạ và hoàn toàn hợp lý nhất là với
cuộc sống năng động của các bạn sinh viên thời hội nhập luôn làm những điều mình
thích và những điều mà bản thân cho là cần thiết. Vì vậy nếu các bạn sinh viên không
có sự nhận thức đúng về tầm quan trọng của kỹ năng mềm, cho rằng kỹ năng mềm là
không cần thiết, cho rằng chỉ cần học tập tốt các môn học trên lớp như vậy là đủ để
đảm bảo một tương lai tốt đẹp cho cuộc sống của các bạn sau này.Suy nghĩ đó dẫn
đến hành động các bạn sẽ không để ý đến những sự kiện, buổi hội thảo có liên quan
đến kỹ năng mềm, không tìm tòi, không tích cực tham gia các khóa học cũng như rèn
luyện những kỹ năng mềm cần thiết. Từ nhận thức sai về kỹ năng mềm, dẫn đến suy

27
nghĩ rằng kỹ năng mềm không quan trọng và hành động không rèn luyện kỹ năng
mềm đã lấy đi nhiều cơ hội đáng lẽ thuộc về các bạn nếu như các bạn có những kỹ
năng mềm cần thiết.

Khi bạn nhận thức rằng kỹ năng mềm quan trọng với bạn không chỉ trong học
tập mà cả trong cuộc sống và môi trường làm việc sau này, bạn sẽ có những suy nghĩ
và hành động hướng đến hoàn thiện cho bản thân những kỹ năng mềm cần thiết. Bạn
chủ động hơn trong việc tìm hiểu và học hỏi về kỹ năng mềm. Bạn cũng sẽ tích cực
tham gia các buổi giao lưu hội thảo về kỹ năng mềm, nhiệt tình say mê trong các môn
học và khóa học về kỹ năng mềm đồng thời bạn sẽ không ngừng rèn luyện để giúp
bản thân hoàn thiện và nâng cao những kỹ năng mềm cẫn thiết. Từ đó giúp mở ra
nhiều cơ hội cho bản thân bạn trong công việc và giúp cuộc sống của bạn tốt đẹp hơn.

Do vậy để giúp các bạn sinh viên có định hướng trong việc rèn luyện những
kỹ năng mềm công việc quan trọng và được đặt lên hàng đầu đó chính là giúp các bạn
có nhận thức đúng về tầm quan trọng của kỹ năng mềm.

2.3.2. Ý thức của sinh viên trong việc rèn luyện kỹ năng mềm.

Nhận thức đúng mang đến cho các bạn một định hướng đúng, vạch cho các
bạn con đường cụ thể để đạt tới những mục tiêu mà bạn đặt ra. Nhưng nếu không có
sự chủ động và nếu bản thân bạn không có được sự quyết tâm thực hiện thì bạn sẽ rất
khó đạt được những mục tiêu bạn đặt ra. Với việc rèn luyện kỹ năng mềm của các bạn
sinh viên cũng tương tự.

Các bạn đã có sự nhận thức đúng về tầm quan trọng của kỹ năng mềm nhưng
bạn lại không chủ động trong việc rèn luyện những kỹ năng mềm của bản thân. Nhiều
bạn sinh viên mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm nhưng với
tâm lý ỷ lại, thiếu sự chủ động các bạn đã bỏ qua nhiều cơ hội rèn luyện những kỹ
năng mềm. Còn với nhiều bạn đã tham gia những lớp kỹ năng mềm nhưng do thiếu
tính sáng tạo áp dụng những kỹ năng đã học vào thực tế cuộc sống các bạn cũng dễ
nản và cho rằng mình không có tố chất trong việc rèn luyện những kỹ năng mềm đó.
Rèn luyện kỹ năng mềm là một quá trình đi từ lý thuyết đến thực hành và nếu thực sự
đam mê với các môn học kỹ năng mềm các bạn sinh viên sẽ nhận ra một điều một
khóa học kỹ năng mềm sẽ thực sự bắt đầu khi các bạn kết thúc khóa học đó. Bởi để

28
hoàn thiện những kỹ năng mềm của bản thân đó là một quá trình rèn luyện không
ngừng. Do vậy nếu các bạn sinh viên không có ý thức tự rèn luyện những kỹ năng
mềm quan trọng cho bản thân các bạn sẽ không thể hoàn thiện những kỹ năng mềm
đó cho dù bạn nhận thức được tầm quan trọng của những kỹ năng đó. Còn nếu các
bạn luôn có ý thức rèn luyện, học hỏi để không ngừng nâng cao những kỹ năng mềm
của bản thân, các bạn sẽ luôn nắm bắt được những cơ hội trong học tập, công việc và
cuộc sống.

2.4. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VỀ VIỆC NHÌN NHẬN ĐÁNH GIÁ KỸ NĂNG
MỀM CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI

2.4.1. Trên thế giới.

Các quốc gia phát triển ở châu Âu, châu Mỹ lẫn châu Á luôn đặt nhu cầu rèn
luyện kỹ năng cho sinh viên và công dân lên hàng đầu. Tất cả đều nhằm mục tiêu thúc
đẩy nền kinh tế bằng nguồn lao động kỹ năng cao, đồng thời giúp công dân có mức
thu nhập cao và thành đạt. Năng lực của con người được đánh giá trên cả 3 khía cạnh:
kiến thức, kỹ năng và thái độ. Các nhà khoa học trên thế giới thì cho rằng: Để thành
đạt trong cuộc sống thì kỹ năng mềm (trí tuệ cảm xúc) chiếm 85%, kỹ năng cứng (trí
tuệ logic) chỉ chiếm 15%.Thực tế cho thấy các trường đại học hàng đầu thế giới như
Harvard, Stanford... cũng không bao giờ rộng cửa nếu sinh viên nộp hồ sơ vào không
có thành tích hoạt động xã hội.

Thực tế quan sát ở nước ngoài cho thấy: Sinh viên đại học của các trường đại
học ở Mỹ luôn rất tích cực và chủ động trong các hoạt động ngoại khóa hay hoạt động
xã hội của nhà trường dù là bắt buộc hay tự nguyện, dù có được trả tiền hay không
được trả tiền. Các hình thức hoạt động cũng phong phú, nhiều khi chỉ đơn giản như
đến giúp sắp xếp giấy tờ trong một văn phòng nào đó của nhà trường vào một giờ
rảnh, hay tham gia tổ chức các sự kiện nào đó của nhà trường. Đến một số trường (kể
cả các trường ở Châu Á) ta còn thấy, khách thăm trường được sinh viên tổ chức đón
tiếp, đưa đi thăm quan trường, thăm quan thành phố, tổ chức biểu diễn văn nghệ, và
nấu ăn đãi khách. Các hoạt động này được sinh viên các nước tổ chức rất chuyên
nghiệp và sáng tạo. Có lẽ đây chính là mô hình mà chúng ta chưa học hỏi được.

29
Ở Mỹ, nơi lòng say mê sáng tạo đã được coi như kim chỉ nam của mọi thành
công, sinh viên luôn phải tự tìm cách nghiên cứu hay giải quyết lấy mọi vấn đề mà
học tập đặt ra. Chẳng hạn như kỳ thi tuyển đặc biệt vào trường đại học Oxford (Mỹ).
Giáo sư chỉ cầm một tờ báo đọc sau khi đã yêu cầu cậu thí sinh hãy làm điều gì đó
làm ông bất ngờ nhất, nhằm đo chỉ số IQ của anh ta. Sau vài giây suy nghĩ, anh bèn
châm lửa đốt tờ báo và rồi ung dung bước vào trường đại học danh tiếng nhất nước
Mỹ. Ví dụ trên đây luôn coi là ví dụ tiêu biểu nhất cho việc đề cao năng lực tư duy
sáng tạo của sinh viên Mỹ. Nói lên sự thông minh, can đảm để đạt đến thành công
trong cuộc sống.

Trái với Mỹ, phương pháp tạo dựng năng lực tư duy sáng tạo cho sinh viên ở
Nhật lại khác hẳn. Sinh viên chỉ sáng tạo sau khi tư duy đã chín muồi. Nói cách khác,
sinh viên Nhật phải tích lũy một khối lượng kiến thức cần thiết trước khi có thể có
những sáng tạo một cách đúng nghĩa. Tuy nhiên, trên thực tế, khi bước vào quá trình
sáng tạo theo kiểu ngẫu hứng như sinh viên Mỹ, năng lực tư duy sáng tạo của họ rất bị
hạn chế và họ buộc phải tuân theo những điều thuộc về nguyên tắc và vốn là truyền
thống của đất nước mặt trời mọc.

Những đặc trưng của sinh viên các nước phát triển:

Những đặc trưng trên của nền giáo dục phát triển đã tạo cho sinh viên tính
chủ động, sáng tạo và ý thức độc lập, tự giác cao:

Chủ động, năng động sáng tạo:

Khi học, sinh viên không chỉ đơn thuần lắng nghe những gì giảng viên nói và
đồng tình 100%, các giảng viên trông đợi những đóng góp mang tính chất xây dựng từ
phía sinh viên, trò học hỏi thầy nhưng thầy cũng có thể hỏi học trò để hoàn thiện
thêm bài giảng của mình. Giảng viên thường quan niệm một buổi học chỉ có thể hình
thành và thành công trên cơ sở tham gia của cả thầy lẫn trò, cả hai đóng vai trò ngang
nhau. Lúc này, thầy chỉ là người hướng dẫn cả lớp thảo luận về đề tài của buổi học.
Có những giảng viên tỏ ra thú vị và thậm chí còn tán thưởng những câu hỏi và ý kiến
phản biện từ sinh viên, tiếp đến họ yêu cầu SV chứng minh ý kiến ấy và đưa ra giải
pháp thực tiễn.

30
Độc lập:

Mức độ cá nhân hoá của nền giáo dục các nước phát triển rất cao. Mỗi sinh
viên là một cá thể độc lập, độc lập trong suy nghĩ, trong hành động. Khi được giao
một đề tài nghiên cứu, sinh viên sẽ chủ động tìm tòi, sáng tạo chỉ với một chút hướng
dẫn của thầy. Các Giảng viên thường chờ đợi ở sinh viên sự độc lập làm việc và đánh
giá cao những tìm tòi vượt ra ngoài phạm vi bài giảng trên lớp.

Tự giác:

Một lớp học ở các trường đại học lớn có đến gần 100 sinh viên, học ở trong
một giảng đường lớn. Giảng viên thường chẳng bao giờ điểm danh hay kiểm tra sĩ số.
Sinh viên phải chịu trách nhiệm với việc học của chính mình, tự giác đi học đầy đủ,
làm bài kiểm tra, làm bài tập về nhà. Nếu không học thì sẽ thi trượt và hậu quả là bị
điểm kém hoặc phải học lại mà điều này là tối kỵ cho sự nghiệp tương lai sau này.
Sinh viên tự giác vì họ biết rằng không học chỉ "thiệt". Một khía cạnh khác của tính
tự giác trong học tập là tính trung thực. Hiếm khi bạn thấy sinh viên gian dối trong các
bài kiểm tra, sao chép tài liệu, nhờ làm hộ bài, trích dẫn ý kiến của người khác mà
không nhắc đến nguồn trích dẫn, vì những hành vi này bị phạt rất nghiêm khắc và
nặng nề (có thể bị đuổi học) và liên quan đến vấn đề danh dự của mỗi sinh viên.

2.4.2. Ở Việt Nam.

Còn sinh viên Việt Nam?

Học sinh, sinh viên Việt Nam vốn rất nổi tiếng ở tinh thần tự chủ trong học
tập. Hàng năm, chúng ta luôn đạt nhiều giải thưởng cao trong các cuộc thi trí tuệ trên
thế giới (toán, vật lý, cờ vua, robocon…). Thế nhưng, năng lực lao động của Việt
Nam lại đứng ở một vị trí khiêm nhường và chưa được đánh giá cao bởi hạn chế từ
những kỹ năng nghề nghiệp. Hầu hết sinh viên Việt Nam ra trường đều thiếu kỹ năng
mềm. Chính vì trong giáo dục của Việt Nam không coi trọng vào đào tạo kỹ năng
mềm nên các bạn sinh viên khi ra trường thường thiếu kinh nghiệm làm việc, cách
giao tiếp, ứng xử và tác phong chuyên nghiệp. Thường các bạn sinh viên khi còn ngồi
trên ghế giảng đường, các bạn chỉ tập trung nhiều vào chuyện học.

31
Vấn đề của số đông người trẻ hiện nay là vẫn xem thuật ngữ “kỹ năng mềm”
(soft skills) là thứ gì đó cao siêu, ngại tiếp cận. Thực tế, đó chỉ là những phản xạ hết
sức cơ bản trong cuộc sống hàng ngày. Phần đông những người Việt trẻ chỉ chăm
chăm gây ấn tượng với nhà tuyển dụng bằng những kỹ năng “cứng” (hard skills),
nghĩa là những thứ thường xuất hiện trên hồ sơ lý lịch: bằng cấp, khả năng chuyên
môn, kinh nghiệm làm việc.

Tuy quan trọng là thế, nhưng kỹ năng mềm chưa thực sự được ngành giáo dục
nước ta chú trọng, các bạn trẻ phải tự tích lũy là chính. Ở Việt Nam, các kỹ năng chưa
được chú trọng trong hệ thống giáo dục cũng như trong cuộc sống. Hình như nền giáo
dục của chúng ta đang dựa trên một giả định “người ta biết thì người ta sẽ làm được”.
Và vì vậy họ cứ cố dạy cho học sinh, sinh viên thật nhiều kiến thức hòng làm được
việc khi ra trường. Nhưng thực tế đâu có vậy, từ biết đến hiểu là một khoảng cách rất
xa, và từ hiểu đến làm việc chuyên nghiệp với năng suất cao là một khoảng cách còn
xa hơn nữa. Điều này dẫn đến một thực trạng là sinh viên khi ra trường biết nhiều
kiến thức nhưng lại không có khả năng làm việc cụ thể. Chỉ vài năm gần đây, các
phương tiện thông tin đại chúng mới nhắc nhiều đến cụm từ “kỹ năng” và “kỹ năng
mềm”. Từ nhiều năm nay, các nước trên thế giới đã đưa môn học giáo dục kỹ năng
sống vào chương trình học ở bậc tiểu học. Tại Việt Nam, những năm gần đây cũng đã
xuất hiện loại hình này song chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí
Minh…

Chương trình đổi mới phương pháp dạy học của ngành giáo dục được coi là
lấy học sinh là trung tâm nhưng cũng chưa đáp ứng được những vấn đề liên quan đến
kỹ năng sống. Những năm gần đây, tình trạng trẻ vị thành niên phạm tội có xu hướng
gia tăng. Đặc biệt, xuất hiện những vụ án giết người, cố ý gây thương tích mà đối
tượng gây án là học sinh và nạn nhân chính là bạn học và thầy cô giáo của họ. Bên
cạnh đó là sự bùng phát hiện tượng học sinh phổ thông hút thuốc lá, uống rượu, tiêm
chích ma tuý, quan hệ tình dục sớm..., thậm chí là tự sát khi gặp vướng mắc trong
cuộc sống. Nhiều em học giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, khả năng tự chủ và kỹ năng
giao tiếp lại rất kém. Các em sẵn sàng đánh nhau, chửi bậy, sa đà vào các tệ nạn xã
hội, thậm chí liều lĩnh từ bỏ cả mạng sống… Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn
đến tình trạng trên, nhưng theo các chuyên gia giáo dục, nguyên nhân sâu xa là do các

32
em thiếu kỹ năng sống. Các em chưa bao giờ được dạy cách đương đầu với những khó
khăn của cuộc sống như cha mẹ ly hôn, gia đình phá sản, kết quả học tập kém... Các
em không được dạy để hiểu về giá trị của cuộc sống. Thực tế, việc giáo dục toàn diện
cho học sinh, trong đó có kỹ năng sống, ở nước ta còn rất hạn chế. Nhà trường vẫn
còn quan niệm dạy học là dạy kiến thức chứ chưa dạy các em thái độ, kỹ năng ứng xử
trong các mối quan hệ (với con người, với môi trường thiên nhiên...). Trong khi đó,
các giáo viên đến lớp chỉ mỗi việc đọc cho học sinh chép, hết giờ thì ra khỏi lớp. Giáo
viên chủ nhiệm, cả tuần cũng chỉ có một tiết sinh hoạt lớp. Thầy, cô giáo chủ nhiệm,
được giao phụ trách học sinh nhưng không có thời gian nắm tình hình của từng em.

Theo một nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu Giáo dục Việt Nam, có
đến 83% sinh viên tốt nghiệp ra trường bị đánh giá là thiếu kỹ năng mềm, 37% sinh
viên ra trường không tìm được việc làm do không đáp ứng đươc nhu cầu về kỹ năng
mềm. Điều đó lý giải tại sao rất nhiều sinh viên sớm bươn chải, đi làm thêm khi còn
đi học đã thành công hơn những “mọt sách”. Đã có không ít những bạn sinh viên chỉ
biết chăm chú với bài vở, đạt điểm rất cao nhưng ra trường không xin được việc làm
hoặc chỉ làm nhân viên bình thường.

Khi trường học không có nội dung đào tạo kỹ năng mềm, nhiều trung tâm
đã mở ra các lớp đào tạo để đáp ứng nhu cầu cho bạn trẻ. Hầu hết các trung tâm đều
giảng dạy theo hình thức trải nghiệm (trao đổi kỹ năng, kinh nghiệm, trò chơi, bài
tập…). Các giảng viên dựa trên cách tiếp cận người học để khơi dậy sự vận động của
học viên. Cách làm này khá hiệu quả, nhưng thực tế cho thấy, những lớp học này vẫn
đìu hiu vì ít bạn trẻ chịu bỏ thời gian và tiền bạc để giam mình vào một lớp học dạng
như thế này. Cách hiệu quả hơn là tạo các sân chơi mở để các bạn trẻ được vui chơi,
vừa được giải trí vừa tự thu lượm kỹ năng cho mình. Dù thiếu trầm trọng kỹ năng
mềm nhưng nhiều người trẻ vẫn… không biết mình đang thiếu, và nếu nhận thức
được cái sự thiếu ấy của mình, cũng chưa hẳn tìm được cách để trang bị thật nhanh,
kịp với nhu cầu của cuộc sống.

CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KẾT


QUẢ PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KỸ NĂNG MỀM CỦA SINH
VIÊN THƯƠNG MẠI.

33
3.1. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP VÀ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU

Theo nguồn dữ liệu, có thể chia ra làm dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp:

Dữ liệu sơ cấp là dữ liệu thu thập trực tiếp, ban đầu từ đối tượng nghiên cứu.
Dữ liệu sơ cấp có ưu điểm là đáp ứng tốt nhu cầu nghiên cứu nhưng nhược điểm là
phải tốn kém chi phí và thời gian.

Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu thu thập được từ những nguồn có sẵn, đã qua tổng
hợp, xử lí. Ưu điểm thu thập nhanh, rẻ nhưng có nhược điểm là đôi khi ít chi tiết và
không đáp ứng nhu cầu nghiên cứu.

3.1.1 Phương pháp thu thập dữ liệu

3.1.1.1 Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp.

Trong thực tế có rất nhiều cách thu thập dữ liệu sơ cấp, nhưng trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài này, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp quan sát, phiếu
điều tra và phỏng vấn.

Quan sát: Là việc quan sát những sự việc, hiện tượng mà không có bất kỳ
hành động can thiệp nào làm thay đổi trạng thái của hiện tượng đang nghiên cứu.

Có thể quan sát bằng cách: Trực tiếp xem, nghe; Sử dụng phương tiện ghi âm,
ghi hình; Sử dụng phương tiện đo lường

Để thực hiện đề tài này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng để quan sát thái độ học
tập của SV trên lớp, trong những buổi thảo luận nhóm, giờ thảo luận, trong các lớp
học kỹ năng mềm mà các bạn sinh viên tham gia.Nhóm nghiên cứu cũng tiến hành
quan sát những hoạt động ngoại khóa mà các bạn sinh viên tham gia như các hoạt
động của đoàn trường, của các câu lạc bộ trong và ngoài trường, các buổi hội thảo về
kỹ năng mềm cho sinh viên cũng như quan sát thái độ của các bạn sinh viên với
những khóa học về kỹ năng mềm trong và ngoài trường để biết mức độ quan tâm của
các bạn sinh viên đến việc rèn luyện kỹ năng mềm.

Sử dụng phiếu điều tra và phỏng vấn:

34
Đây là phương pháp thu thập dữ liệu ban đầu bằng cách đưa ra câu hỏi với đối
tượng nghiên cứu hay đối tượng có liên quan để thu thập thông tin.

Đối với phiếu điều tra thì các câu hỏi với các lựa chọn cho câu trả lời sẵn, hay
còn gọi là câu hỏi kín. Đồng thời cũng có một câu hỏi các bạn sinh viên tự nói lên câu
trả lời của mình, hay gọi là câu hỏi mở.

Nhóm nghiên cứu đã phát 290 phiếu điều tra cho sinh viên trong trường, trong
đó 60 phiếu năm 1; 90 phiếu năm 2 và 80 phiếu cho năm 3; 60 phiếu năm 4. Nhóm
nghiên cứu thực hiện phát trong giờ ra chơi giữa giờ sau đó thu lại, ngoài ra có phát
ngẫu nhiên cho một số bạn trước thư viện. Tiếp đó nhóm nghiên cứu lập bảng câu trả
lời cho từng câu hỏi, tính phần trăm mỗi phương án trả lời cho mỗi câu hỏi, cuối cùng
là đưa ra nhận xét.

Còn với phỏng vấn thì đưa trực tiếp câu hỏi với đối tượng và nhận câu trả lời
mở

Ở đây, phiếu điều tra được sử dụng với số lượng lớn, câu hỏi và các phương
án trả lời cho sẵn, phát đại trà cho một tập sinh viên để điều tra.

Phỏng vấn với một vài sinh viên đã ra trường và đi làm thuộc các khóa k41,
k42 để lấy sự đánh giá dưới góc độ những người đi làm thấy thiếu những kỹ năng
mềm nào.Đồng thời nhóm nghiên cứu cũng phỏng vấn giảng viên để lấy sự đánh giá
về kỹ năng mềm của sinh viên dưới góc độ giảng viên. Bên cạnh đó nhóm nghiên cứu
cũng phỏng vấn những người hiện đang làm công tác tuyển dụng trong các công ty để
lấy sự đánh giá từ phía nhà tuyển dụng với những kỹ năng cần thiết trong môi trường
làm việc.

Với sinh viên khoá 41 và 42 đã đi làm, nhóm nghiên cứu gửi mail bản mềm
câu hỏi và nhận lại bản trả lời qua mail.

Nhóm nghiên cứu tiến hành phỏng vấn với các thầy cô giáo với phương pháp
lấy ý kiến trực tiếp từ thầy cô giáo với những câu hỏi mở.

Với nhà tuyển dụng nhóm nghiên cứu tiến hành phỏng vấn với phương pháp
tương tự.

Sau khi có bảng trả lời câu hỏi sẽ tổng hợp ý kiến và rút ra kết luận.

35
3.1.1.2 Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp.

Hiện nay có rất nhiều cách thu thập dữ liệu thứ cấp chẳng hạn như thu thập
qua sách báo, các báo cáo, các bài phân tích của chuyên gia hay qua các phương tiện
thông tin đại chúng…Đây là các dữ liệu xử lý có sẵn, cho phép sử dụng ngay tuỳ
thuộc vào mục đích người sử dụng. Trong đề tài này, để có được những dữ liệu cần
thiết cho quá trình nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã thu thập các dữ liệu liên quan đến
việc học tập và rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên thông qua sách, báo, các hội
thảo về những kỹ năng mềm cần thiết cho sinh viên trong việc học tập cũng như trong
môi trường làm việc sau này.

Sách được tìm chủ yếu trong thư viện nhà trường, có thể nêu một số cuốn tiêu
biểu như: “Nghệ thuật giao tiếp hữu hiệu nơi công sở”, “Giao tiếp trong kinh doanh”,
“Nghệ thuật ứng xử và 100 điều tâm đắc”, “Nghệ thuật nói trước công chúng”, “ Nghệ
thuật ứng xử giao tiếp”….. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng tìm hiểu một số cuốn
sách khác như “Small talk”, “Ai che lưng cho bạn”, “Thật đơn giản phỏng vấn tuyển
dụng”, “Nghệ thuật giao tiếp để thành công”…. Internet cũng là nguồn cung cấp tài
liệu phong phú, với những bài viết của các tác giả, các cuộc thảo luận vể những kỹ
năng mềm cần thiết trong cuộc sống và trong công việc.

3.1.2 Phương pháp phân tích dữ liệu.

Phương pháp so sánh:

+ So sánh kết quả giữa các khoá

+ So sánh trên thực tế với lý thuyết

Phương pháp đánh giá: Dùng để đánh giá nhận thức cũng như việc rèn luyện kỹ
năng mềm của các bạn sinh viên nói chung.

Phương pháp tổng hợp phân tích:

+ Tổng hợp ý kiến trả lời của các đối tượng phỏng vấn, phát phiếu điều tra

+ Tổng hợp thông tin từ các tài liệu thứ cấp có liên quan.

Sau khi có thông tin tổng hợp, sẽ tiến hành phân tích dựa trên những kết quả
đó. Dựa vào những phiếu điều tra đã thu thập được, nhóm nghiên cứu sẽ tổng hợp lại

36
các câu trả lời của các bạn sinh viên trong các phiếu điều tra. Từ đó tính phần trăm và
đưa ra kết luận về những thế mạnh cũng như điểm yếu của các bạn sinh viên Thương
Mại ,nhận thức của các bạn sinh viên về tầm quan trọng của các kỹ năng mềm, mong
muốn rèn luyện kỹ năng mềm của các bạn sinh viên cũng như môi trường và điều kiện
tốt nhất để phát huy kỹ năng mềm mà các bạn được học tập.

3.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
MỀM CỦA SINH VIÊN THƯƠNG

Việc rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên nói chung và sinh viên Thương
Mại nói riêng luôn chịu ảnh hưởng của hai nhân tố . Đó là nhân tố khách quan và
nhân tố chủ quan. Nhân tố khách quan là những yếu tố bên ngoài tác động vào quá
trình rèn luyện kỹ năng của sinh viên. Nó bao gồm các nhân tố chính như : chính sách
đào tạo của nhà nước và cơ chế đào tạo của nhà trường. Nhân tố chủ quan là những
yếu tố bên trong như nhận thức của sinh viên về kỹ năng mềm , tầm quan trọng của kỹ
năng mềm, cũng như ý thức của các bạn trong việc rèn luyện kỹ năng mềm. Việc phân
tích những nhân tố ảnh hưởng tới việc rèn luyện kỹ năng mềm nhằm chỉ ra những tác
động tích cực cũng như tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan . Từ đó giúp
nhà trường cũng như các bạn sinh viên có những định hướng cũng như giải pháp
nhằm hạn chế những tác động tiêu cực, tận dụng và phát huy những ảnh hưởng tích
cực.

3.2.1. Nhân tố khách quan

3.2.1.1. Chính sách đào tạo của nhà nước

Chính sách đào tạo là chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước nhằm bồi
dưỡng phát triển các phẩm chất, năng lực cho mỗi người dân ( cả về tư tưởng, đạo
đức, khoa học, sức khỏe, nghề nghiệp ).

Chính sách đào tạo của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến việc rèn luyện kỹ
năng mềm của sinh viên nói chung và sinh viên đại học Thương mại nói riêng . Các
chính sách , chỉ thị của Bộ GD và ĐT ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu, cách thức và
phương hướng đào tạo của các trường đại học và nó ảnh hưởng gián tiếp đến việc rèn
luyện của sinh viên trong quá trình học tập.

37
Nhận thấy xu hướng ngày nay , nhà tuyển dụng ngày càng coi trọng kỹ năng
mềm, chính vì vậy mà nhà nước cũng như Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ngày càng quan
tâm đến việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên . Điều đó được thể hiện thông qua
nội dung chuẩn đầu ra bao gồm cả chuẩn về kỹ năng cứng và kỹ năng mềm . Chỉ thị
này được đưa xuống các trường đại học, và yêu cầu các trường xây dựng một chuẩn
đầu ra cho từng ngành chuyên ngành đào tạo khác nhau. Nó tác động đến phương
pháp dạy của nhà trường để có thể đào tạo những sinh viên đáp ứng đủ tiêu chuẩn đầu
ra trong đó có yêu cầu về kỹ năng mềm . Ở một số trường, chứng chỉ kỹ năng mềm đã
trở thành một trong những điều kiện bắt buộc để sinh viên có thể nhận giấy tốt nghiệp.
Điều này giúp các bạn sinh viên nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của kỹ năng
mềm.

3.2.1.2. Cơ chế đào tạo của nhà trường

Trường Đại học Thương mại (tên tiếng anh là Vietnam University of
Commerce, tên giao dịch viết tắt là VCU) là trường đại học công lập trực thuộc Bộ
Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, là thành viên của Hiệp hội trường đại học Việt Nam
(VUZ), Hiệp hội các trường đại học Châu Á&Thái Bình Dương, của Viện nghiên cứu
kinh tế-quản lý Pháp ngữ (CEDIMES), của Tổ chức các Trường đại học sử dụng tiếng
Pháp (AUF) với sứ mạng: Xây dựng và phát triển Trường Đại học Thương mại trở
thành trường đại học đa ngành tiên tiến trong các lĩnh vực kinh tế và thương mại (bao
gồm thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại các hoạt động đầu tư và
sở hữu trí tuệ) của Việt Nam có uy tín trong khu vực và trên thế giới; một trung tâm
giáo dục có chất lượng và không ngừng được cải tiến với phương pháp đào tạo liên
tục được đổi mới và hoàn thiện; một trung tâm đầu ngành trong nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ và cung ứng dịch vụ đào tạo có uy tín về thương mại, du lịch,
dịch vụ và hội nhập kinh tế quốc tế; một trung tâm văn hoá nhằm cung cấp cho xã hội
những cán bộ có trình độ đại học, sau đại học đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, văn
hoá và năng lực nghề nghiệp thích ứng với điều kiện môi trường đang thay đổi và đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước.

Trường đại học Thương Mại là một trong những trường đi đầu trong công tác
chuyển đổi từ hình thức đào tạo niên chế sang hình thức theo học chế tín chỉ. Theo

38
chủ trương của Bộ giáo dục và Đào tạo về việc chuyển đổi từ hình thức đào tạo đại
học và cao đẳng theo niên chế sang hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ, Trường Đại
học Thương mại đã thành lập Ban Nghiên cứu và triển khai đào tạo tín chỉ và xây
dựng kế hoạch tổ chức chuẩn bị các điều kiện để triển khai đào tạo theo hệ thống tín
chỉ vào Trường từ khóa tuyển sinh năm 2007. Sự chuyển từ cơ chế đào tạo theo niên
chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ là một bước chuyển biến lớn. Nó ảnh hưởng rất
lớn đến quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên. Sự chuyển đổi về cơ chế không chỉ
là sự thay đổi về phương thức đào tạo, cách dạy và cách học của giảng viên cũng như
của sinh viên mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc rèn luyện kỹ năng mềm của sinh
viên. Vậy hình thức đào tạo theo niên chế và đào tạo theo hệ thống tín chỉ là gì ? Vì
sao sự chuyển đổi về hình thức đào tạo lại ảnh hưởng đến việc rèn luyện kỹ năng mềm
của sinh viên ? Để trả lời cho câu hỏi trên, chúng ta sẽ tìm hiểu hai hình thức đào tạo
này và so sánh sự khác nhau giữa hai hình thức đào tạo.

Đào tạo theo niên chế là đào tạo theo năm học, mỗi chương trình đào tạo của
một ngành học được quy định đào tạo trong một số năm nhất định. Ví dụ chương trình
đào tạo trình độ đại học được cấp bằng cử nhân thường đào tạo trong 4 năm, cấp bằng
kỹ sư được đào tạo trong 5 năm, cấp bằng bác sỹ được đào tạo trong 6 năm. Sinh viên
học hết thời gian quy định nếu không bị lưu ban, dừng tiến độ học tập thì được cấp
bằng tốt nghiệp đại học, được ra trường.

Đào tạo theo tín chỉ không tổ chức theo năm học mà theo học kỳ. Một năm
học có thể tổ chức đào tạo từ 2 đến 3 học kỳ, mỗi chương trình đào tạo của một ngành
học nhất định không tính theo năm mà tính theo sự tích lũy kiến thức của sinh viên,
sinh viên tích lũy đủ số tín chỉ quy định cho một ngành học thì được cấp bằng tốt
nghiệp đại học, được ra trường.

Trong đào tạo theo niên chế mọi lịch học, lịch thi được phòng Đào tạo chuẩn
bị sẵn. Các lớp sinh viên được biên chế cố định ngay từ ngày nhập trường và ít khi có
sự biến động. Sinh viên chấp hành tốt các lịch học, lịch thi, các quy định, quy chế của
nhà trường, tích cực học tập và rèn luyện thì sẽ đạt kết quả tốt. Chính vì vậy hạn chế
của hình thức đào tạo theo niên chế mà ai cũng có thể nhận thấy, đó là làm cho sinh
viên trở nên thụ động trong việc sắp xếp lịch học cho phù hợp với thời gian biểu riêng

39
của mỗi cá nhân. Khác với hình thức đào tạo theo niên chế, đào tạo theo tín chỉ, sinh
viên phải tự đăng ký lịch học, sinh viên không đăng ký sẽ không có lịch học. Để làm
được việc đó sinh viên phải nghiên cứu kỹ, nắm chắc các tài liệu của nhà trường như
quyển niên giám, sổ tay sinh viên, nắm vững chương trình đào tạo, các học phần phải
học trước, các học phần học song hành, phần kiến thức giáo dục đại cương, phần kiến
thức giáo dục chuyên nghiệp… để có thể đăng ký lịch học cho từng học kỳ cho phù
hợp. Vì vậy mà đào tạo theo tín chỉ yêu cầu sinh viên phải nắm rõ chương trình học,
nội dung đào tạo. Ngoài ra các bạn sinh viên được chủ động sắp xếp lịch học cho phù
hợp với bản thân. Việc đó giúp ích rất nhiều cho các bạn sinh viên trong rèn luyện kỹ
năng lập kế hoạch và tổ chức công việc và bắt đầu bằng chính việc lên kế hoạch học
tập cho chính bản thân.

Phương thức đào tạo theo niên chế là hình thức học mà hầu hết các bạn sinh
viên đã quen từ khi còn là một học sinh cấp một cho đến cấp ba. Ở phương thức đào
tạo theo niên chế, thầy và trò quen với việc dạy và học một chiều, thụ động theo kiểu
thầy giảng – trò ghi. Giảng viên có nhiệm vụ truyền đạt , giảng giải đúng và đủ kiến
thức đã được quy định trong từng bài, từng chương của giáo trình vốn được thiết kế
phù hợp với yêu cầu của chương trình môn học và kế hoạch đào tạo của niên chế.
Việc tiếp thu kiến thức một chiều thường làm cho người học cảm thấy nhàm chán.
Lâu dần làm cho sinh viên có thói quen ỷ lại vào giảng viên mà không chủ động tìm
tòi học hỏi, không có sự sáng tạo, tìm hiểu thêm kiến thức bên ngoài. Khi chuyển đổi
từ niên chế qua tín chỉ, thời gian có mặt ở trên lớp giảm đi 1/3 thay vào đó là thời gian
tự học phải tăng lên. Theo quy định cứ 1 tín chỉ sinh viên phải tự học là 30 tiết. Trong
đào tạo theo tín chỉ yêu cầu về chuẩn đào tạo không hề thay đổi, trước mắt vẫn giữ
nguyên và dần dần sẽ tăng lên theo yêu cầu của công tác kiểm định chất lượng. Như
vậy thời gian giảng dạy trên lớp giảm đi, thời gian tự học của sinh viên tăng lên trong
khi không được giảm yêu cầu đánh giá. Vậy làm thế nào để đảm bảo chất lượng. Mấu
chốt của vấn đề là phải đổi mới phương pháp giảng dạy. Phải giảng dạy bằng phương
pháp tích cực. Các phương pháp giảng dạy trong đào tạo theo niên chế vẫn tiếp tục
được phát huy các điểm mạnh, nhưng việc nâng cao sự chủ động của sinh viên trong
giờ học được đặt lên hàng đầu. Để đáp ứng được yêu cầu này sinh viên phải nghiên
cứu tài liệu trước khi lên lớp, giảng viên phải tăng cường cho sinh viên tự học ngay

40
trên lớp bằng các biện pháp như nêu ra các vấn đề của bài giảng để sinh viên tìm ra
cách giải quyết theo định hướng của giảng viên để sinh viên có thói quen tự học. Có
thể nói trong đào tạo theo tín chỉ, đối với sinh viên tự học là vấn đề quan trọng nhất,
sinh viên phải tự học ngay trên lớp, lên lớp là làm việc thực sự (chứ không phải đi
nghe giảng, dự giờ). Muốn tự học trên lớp có hiệu quả sinh viên phải tự đọc tài liệu
trước, không chỉ đọc giáo trình mà phải đọc tài liệu có liên quan, không phải đọc cả
quyển tài liệu mà chỉ đọc những vấn đề trực tiếp liên quan đến bài giảng. Các vấn đề
liên quan đều phải được đánh dấu lại, ghi chép lại hoặc có chỉ dẫn rõ ràng để khi cần
lập tức có thể tra cứu được ngay. Phương thức học mới này, chính là đang giúp sinh
viên rèn luyện kỹ năng học và tự học. Mỗi môn học, các bạn sinh viên được chia
thành từng nhóm và được giao đề tài thảo luận theo nhóm. Các thành viên trong nhóm
có nhiệm vụ cùng bàn bạc thảo luận đề tài . Để có một bài thảo luận hoàn chỉnh và
được đánh giá cao, các thành viên trong nhóm phải có sự thống nhất ý kiến về bài
thảo luận và có sự phân công công việc rõ ràng phù hợp với khả năng và sở trường
của từng người. Hình thức thảo luận theo nhóm này giúp các bạn sinh viên được làm
quen và dần dần hình thành kĩ năng làm việc theo nhóm, biết phát huy sức mạnh tập
thể. Hơn thế nữa, giờ thảo luận trên lớp còn tạo điều kiện cho các bạn sinh viên có cơ
hội thuyết trình trước đám đông và trở nên tự tin hơn.

Việc chuyển đổi hình thức đào tạo từ niên chế sang đào tạo theo học chế tín
chỉ là một bước chuyển đổi trong cải cách nền giáo dục Việt Nam. Nó tạo ra sự đổi
mới về cách dạy, cách học của nhà trường và sinh viên. Hình thức đào tạo theo học
chế tín chỉ tạo ra sự chủ động cho sinh viên trong quá trình học tập. HCTC đòi hỏi SV
phải có chiến lược học tập, xây dựng kế hoạch học tập và đăng ký môn học theo khả
năng học tập, nhu cầu ngành học và hoàn cảnh kinh tế của mình. Vậy hình thức đào
tạo theo học chế tín chỉ giúp sinh viên chủ động hơn trong quá trình học tập, ngoài ra
còn rèn cho sinh viên kỹ năng học và tự học, kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công
việc trong quá trình học tập.

Nhận thức được vai trò,tầm quan trọng của kỹ năng mềm cũng như xu hướng
tuyển dụng của các doanh nghiệp, trường đại học Thương Mại ngày càng quan tâm
đến việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên. Nhà trường luôn tạo cho sinh viên một
môi trường tốt để có thể rèn luyện cho mình những kỹ năng mềm. Mỗi một học phần,

41
sinh viên được chia thành các nhóm khác nhau. Các nhóm sẽ được chia theo danh
sách lớp và các học phần khác nhau sẽ hình thành nên các nhóm khác nhau. Điều này
rất hữu ích với sinh viên nhất là những bạn sinh viên năm đầu, mới bước chân vào
trường, còn nhiều bỡ ngỡ rụt rè. Việc chia nhóm theo danh sách và theo từng học
phần sẽ giúp các bạn nhanh chóng làm quen với các bạn mới và rèn cho bản thân khả
năng giao tiếp hòa nhập vào môi trường mới tốt hơn. Giao tiếp tốt và thích nghi nhanh
với môi trường là kỹ năng rất cần thiết cho bản thân mỗi chúng ta, đặc biệt là trong
môi trường làm việc sau này.

Về cơ sở vật chất, nhà trường cũng đã hỗ trợ rất nhiều cho sinh viên các trang
thiết bị trong học tập và rèn luyện kỹ năng. Các buổi học cũng như các buổi thảo luận
trên lớp, các phòng học được trang bị máy chiếu phục vụ cho công tác giảng dạy và
thuyết trình của sinh viên. Nó hỗ trợ rất nhiều trong quá trình giảng dạy và học tập,
giúp buổi học trở nên thú vị hơn và giúp sinh viên tự tin hơn khi thuyết trình. Ngoài
ra, trường còn có hệ thống thư viện với rất nhiều đầu sách và rất nhiều loại sách. Sách
trong thư viện rất phong phú cả về số lượng và chủng loại. Đây là nguồn tư liệu phong
phú phục vụ cho sinh viên trong việc tự nghiên cứu tìm tòi, học và tự học.

Không chỉ tạo điều kiện cho sinh viên rèn luyện kỹ năng mềm mà nhà trường
còn đưa kỹ năng mềm vào chương trình đào tạo, giảng dạy. Đó là các học phần phát
triển kỹ năng như : kỹ năng tìm kiếm việc làm và tuyển dụng, kỹ năng trình diễn vấn
đề chuyên ngành, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng thực hiện đề tài luận văn
chuyên đề tốt nghiệp, kỹ năng điều tra và chia sẻ thông tin online, kỹ năng ra quyết
định quản lý. Các học phần phát triển kỹ năng là học phần tự chọn. Tùy vào sở thích
và chuyên ngành của mình mà sinh viên có thể chọn cho mình lớp kỹ năng thích hợp.
Sinh viên có thể đăng kí và tham gia các lớp học kỹ năng ngay trong trường. Có thể
nhận thấy rằng nhà trường đã rất quan tâm đến việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh
viên.

Nhưng không dừng lại ở đó những hoạt động về đoàn, đội do nhà trường tổ
chức cũng mang lại rất nhiều cơ hội cho các bạn sinh viên rèn luyện kỹ năng mềm.
Những hoạt động tình nguyện của các đội sinh viên trong trường như mùa hè
xanh,tiếp sức mùa thi, cứu giúp đồng bào lũ lụt, hoạt động hiến máu nhân

42
đạo….những hoạt động đó vừa mang ý nghĩa giúp các bạn sinh viên cảm thấy vui vì
sự đóng góp nhỏ bé của mình vì một xã hội tốt đẹp hơn. Không chỉ dừng lại ở đó
những hoạt động tình nguyện đó cũng đã giúp các bạn sinh viên rèn luyện được khả
năng làm việc nhóm, giúp các bạn năng động và tự tin hơn. Gần đây nhà trường có
mở thêm trung tâm hướng nghiệp sinh viên.Trung tâm giúp định hướng nghề nghiệp
cho các bạn sinh viên sau khi ra trương đồng thời mang lại những cơ hội nghề nghiệp
cho các bạn sinh viên ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Các bạn sinh viên sẽ
được trung tâm hướng nghiệp tạo cơ hội có được một công việc part time khi ngồi
trên ghế nhà trường điều này sẽ giúp các bạn tiếp xúc sớm hơn với môi trường công
việc bên ngoài từ đó giúp các bạn nhận thức sâu hơn về những kỹ năng mềm mà các
bạn cần rèn luyện để phục vụ tốt hơn công việc sau này của mình từ đó có mục tiêu
rèn luyện cho bản thân vầ kiến thức chuyên môn cũng như các kỹ năng một cách chủ
động và sáng tạo.Đồng thời trung tâm hướng nghiệp còn mở lớp đào tạo về những kỹ
năng cần thiết với các bạn sinh viên như kỹ năng bán hàng chuyên nghiệp, kỹ năng
trong phỏng vấn tuyển dụng….Trong khi hiện tại cũng có rất nhiều khóa học kỹ năng
bên ngoài và các bạn sinh viên đang boăn khoăn khi lựa chọn những lớp kỹ năng đó vì
không biết chất lượng đào tạo ra sao, trung tâm hướng nghiệp đã tạo cơ hội cho các
bạn sinh viên tham gia khóa học với sự tin tưởng về chất lượng , tin tưởng về người
giảng dạy.Qua mỗi khóa học các bạn sinh viên sẽ tự tin hơn với những kỹ năng đã
được đào tạo đó là những hành trang vững vàng cho các bạn trong công việc sau này.

Mặc dù đã có sự quan tâm đến việc đào tạo và phát triển kỹ năng mềm nhưng
việc đào tạo và phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên vẫn còn những mặt hạn chế.
Những lớp học về kỹ năng mềm đòi hỏi cơ sở vật chất tiện nghi hiện đại phục vụ cho
việc giảng dạy như camera, các thiết bị tổ chức trò chơi… Ví dụ, một lớp học về kỹ
năng thuyết trình nếu được trang bị về camera, học viên lên thuyết trình và được ghi
hình và xem lại. Khi đó học viên xem lại và sẽ dễ dàng nhận ra những thiếu sót của
bản thân và sửa đổi. Các lớp học về kỹ năng của nhà trường thường được tổ chức trên
lớp theo cách giảng dạy truyền thống, chưa có sự sáng tạo và chưa thực sự đem lại
hiệu quả . Khóa học về kỹ năng mềm là khóa học đặc biệt nên cần tạo ra một môi
trường, không gian học mới mẻ, thú vị. Các khóa học về kỹ năng làm việc nhóm hay

43
kỹ năng giao tiếp, có thể tổ chức trò chơi và hoạt động ngoài trời. Như vậy sẽ đem lại
hiệu quả cao hơn cho người học.

Mặc dù khái niệm “ kỹ năng mềm “ không còn xa lạ và ngày càng được nhà
nước và nhà trường quan tâm nhưng việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên không
hề đơn giản . Bởi đây là một môn học đòi hỏi sự linh hoạt mềm dẻo . Chính vì cần sự
mềm dẻo và linh hoạt nên việc dạy kỹ năng mềm cũng không theo một chuẩn mực
nhất định. Chính vì lý do trên mà việc đưa ra chuẩn đầu ra về kỹ năng mềm cũng gặp
nhiều khó khăn. Hầu hết các trường đưa ra chuẩn đầu ra về kỹ năng mềm còn chung
chung, chưa cụ thể. Vì không có một tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá kỹ năng mềm nên
cũng khó để lựa chọn phương thức dạy và đánh giá kết quả giảng dạy. Hầu hết các
nhà tuyển dụng đều cho rằng cách duy nhất để ứng viên rèn luyện kỹ năng mềm là
phải học hỏi, trau dồi thường xuyên, tạo cho mình phản xạ tức thời khi gặp các tình
huống bất ngờ. Nhưng thường các khóa học về kỹ năng mềm chỉ diễn ra trong thời
gian ngắn nên không đem lại hiệu quả cao. Thời lượng buổi học ngắn cũng chưa đủ
hoàn thiện kỹ năng cho sinh viên. Hơn nữa, đội ngũ đào tạo chuyên sâu về kỹ năng
mềm của nhà trường còn thiếu, phần lớn là thầy cô chưa có kinh nghiệm chuyên sâu
về đào tạo kỹ năng mềm. Hầu hết giảng viên chỉ chọn lọc những thông tin trong và
ngoài nước trên Internet để chia sẻ với học viên, việc đào tạo trở nên không hiệu quả
vì chỉ đơn thuần là lý thuyết.

3.2.2. Nhân tố chủ quan

Bên cạnh những nhân tố khách quan, ta không thể không nhắc đến nhân tố
chủ quan có phần tác động rất lớn đến việc rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên. Đó
chính là tự bản thân mỗi sinh viên. Chính sách giáo dục của nhà nước và cơ chế đào
tạo của nhà trường chỉ là những yếu tố bên ngoài tác động vào, tạo cho các bạn cơ hội
và môi trường rèn luyện. Nhân tố quan trọng, ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình rèn
luyện kỹ năng mềm của sinh viên chính là nhận thức và ý thức rèn luyện kỹ năng
mềm của bản thân mỗi sinh viên.

44
3.2.2.1. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của kỹ năng mềm

Môi trường đào tạo của nhà trường tạo điều kiện cho các bạn sinh viên rèn
luyện kỹ năng mềm nhưng một vấn đề đặt ra ở đây là liệu các bạn sinh viên đã nhận
thức được môi trường thuận lợi đó chưa, các bạn sinh viên đã có phương pháp rõ ràng
cho việc phát triển những kỹ năng của mình hay vẫn còn chưa chú trọng đến việc phát
triển những kỹ năng mềm? Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm,
các bạn sinh viên mới có thể chủ động trong việc học hỏi rèn luyện, xác định rõ ràng
mục đích của việc rèn luyện kỹ năng mềm. Và có nhận thức được tầm quan trọng của
nó, các bạn sinh viên mới biết tận dụng môi trường thuận lợi mà nhà trường đã tạo ra
để phục vụ tốt nhất cho việc rèn luyện của bản thân. Ta có thể nhận thấy rằng, các bạn
trẻ đặc biệt là các bạn sinh viên ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của kỹ
năng mềm. Điều đó được thể hiện qua, ngày càng có nhiều trung tâm đào tạo về kỹ
năng mềm được mở ra và thu hút được sự chú ý của rất nhiều bạn trẻ , trong đó có các
bạn sinh viên đại học Thương Mại. Nhiều bạn rất tích cực trong việc tham gia các
hoạt động Đoàn, hoạt động tình nguyện. Trung tâm hướng nghiệp sinh viên tuy mới
được thành lập nhưng được sự chú ý rất nhiều của các bạn sinh viên.Điều đó được thể
hiện qua những bản CV của các bạn sinh viên nộp tại trung tâm hướng nghiệp.Trung
tâm giúp định hướng cho các bạn sinh viên rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho
công việc ngay khi ngồi trên ghế nhà trường đồng thời tạo cơ hội cho sinh viên tiếp
xúc với môi trường làm việc thực tế ngay khi các bạn còn trên ghế nhà trường.Những
cơ hội thiết thực mà trung tâm hướng nghiệp dành cho sinh viên đã thu hút đông đảo
sự quan tâm của các bạn sinh viên. Tuy nhiên bên cạnh những bạn sinh viên học tập
chăm chỉ, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của nhóm giao cho, tích cực tìm kiếm thông
tin về những lĩnh vực học tập để tiếp thu bài giảng trên lớp của thầy cô tốt nhất, tham
gia nhiệt tình các giờ thảo luận trên lớp đóng góp vào sự thành công của những buổi
thảo luận thì cũng có một bộ phận không nhỏ các bạn sinh viên vẫn còn thờ ơ với việc
học tập theo học chế tín chỉ.Với những bạn sinh viên đó việc nhận thức về rèn luyện
kỹ năng mềm dường như không có.Thay vào đó, với các bạn việc học theo học chế tín
chỉ giúp các bạn có nhiều thời gian hơn cho những trò chơi, cho sở thích giải trí của
các bạn vì học tín chỉ không bắt các sinh viên lên lớp nhiều như học theo trình, thầy
cô chỉ với vai trò hướng dẫn sinh viên tìm, thu thập và đọc tài liệu, sinh viên giữ vai

45
trò chủ động trong học tín chỉ.Tuy nhiên một số lượng lớn các bạn sinh viên vẫn chưa
thay đổi cách học vẫn dựa vào thầy cô không tìm và tiếp thu những kiến thức xã hội
những kiến thức thực tế đồng thời không nhận thức được những cơ hội cho việc rèn
luyện kỹ năng mềm.Trong làm việc nhóm nhiều bạn vẫn không làm tốt công việc
được giao trong nhóm nhiều khi các bạn trong nhóm không có đóng góp gì cho bài
thảo luận mà bài thảo luận chỉ do nhóm trưởng phụ trách từ thu thập tài liệu, viết bài,
rồi ngay cả thuyết trình và phản biện.Đó là một điều đáng buồn khi các bạn không
thấy được cơ hội cho bản thân mình.

3.2.2.2.Ý thức rèn luyện kỹ năng mềm của bản thân mỗi sinh viên

Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm, nhưng tại sao nhiều bạn
sinh viên vẫn chưa tận dụng được cơ hội học tập trên lớp, các hoạt động ngoại khóa
để rèn luyện trau dồi kỹ năng mềm ? Đó là do ý thức rèn luyện của các bạn. Vẫn còn
tình trạng nhiều bạn sinh viên không tự tin, mất bình tĩnh khi đứng trước đám đông,
không có kỹ năng thuyết trình cũng như làm việc nhóm.Các bạn đặt câu hỏi làm sao
để không còn mất bình tĩnh khi đứng trước đám đông ?Câu trả lời cho các bạn chính ở
ngay trong những buổi học trên lớp những buổi thảo luận nhóm, những buổi thảo luận
trên lớp nhưng các bạn lại không nhận ra, nếu các bạn nhận ra điều đó nhưng đôi khi
các bạn đã quá quen thuộc với cách học tập của mình nên các bạn ngại thay đổi. Dẫn
đến các kỹ năng mềm của các bạn vẫn không thể phát triển tốt dù trong một môi
trường tạo điều kiện tốt nhất cho các bạn phát huy nó.

Các hoạt động đoàn trong trường cũng rất phổ biến.Những hoạt động đó gián
tiếp rèn luyện cho các bạn sinh viên rất nhiều kỹ năng.Nhưng một thực tế là có rất ít
các bạn sinh viên tham gia vào các hoạt động của đoàn và đội.Những bạn tham gia
hoạt động đoàn, đội đó là những gương mặt rất quen thuộc còn những gương mặt mới
thì rất ít. Lý do mà các bạn sinh viên đưa ra khi không tham gia vào các hoạt động đó
là các hoạt động ít và không rộng rãi cũng như cần số lượng các bạn tham gia ít nên
các bạn không có điều kiện tham gia.Những bạn đó các bạn cũng ý thức được việc
mình sẽ rèn luyện được nhiều kỹ năng khi tham gia vào các hoạt động của đoàn,
đội.Tuy nhiên cũng có bạn không thích tham gia những hoạt động của đoàn, đội với lý
do bản thân không có khả năng. Lý do mà các bạn đưa ra thể hiện sự không nhiệt tình

46
tham gia cũng như thể hiện một khía cạnh đó là các bạn không giám thể hiện bản thân
bởi vì chưa thử các bạn sao biết được mình có hợp và hoạt động đó có thiết thực hay
không.Bên cạnh những hoạt động đoàn trong trường còn rất nhiều các hoạt động của
các câu lạc bộ như câu lạc bộ nhà quản trị tương lai, câu lạc bộ marketing, câu lạc bộ
sách…Hoạt động của những câu lạc bộ rất thiết thực nhằm giúp các bạn sinh viên
năng động, tự tin, rèn luyện kỹ năng cần thiết và tạo cơ hội cho các bạn sinh viên
được tiếp xúc sớm hơn với môi trường làm việc bên ngoài.

Nhà trường chỉ có thể tạo ra môi trường thuận lợi, còn yếu tố quyết định quan
trọng vẫn là ở bản thân mỗi sinh viên. Vì vậy mà mỗi sinh viên chúng ta cần có một
cái nhìn đúng đắn, từ đó tìm ra phương pháp rèn luyện tốt nhất cho bản thân. Có vậy,
việc rèn luyện kỹ năng mềm mới đạt hiệu quả tốt nhất.

3.3. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA

KN đàm phán 105


. 0%
KN làm việc đồng đội 483
. 0%
KN giải quyết vấn đề 33%
KN giao tiếp ứng xử 41%
KN thuyết trình 245
. 0%
KN lắng nghe 675
. 0%
KN lập kế hoạch và tổ chức công việc 30%
KN tư duy sáng tạo và mạo hiểm 145
. 0%
KN lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân 27%
KN học và tự học 515
. 0%

Biểu đồ 1: Kết quả tự đánh giá của các bạn sinh viên Thương mại về kỹ năng
mềm của bản thân.

Sự nhìn nhận của sinh viên Thương Mại về những kỹ năng cần thiết trong
thời gian học đại học:

Hầu hết các bạn sinh viên Thương Mại có cái nhìn rất đúng về những kỹ năng
mềm cần thiết trong thời gian các bạn học đại học.Những kỹ năng mềm được các bạn
sinh viên coi trọng nhất trong thời gian học đại học đó là những kỹ năng:Kỹ năng học
và tự học với 78%,kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc:66%,kỹ năng lắng

47
nghe:54%,kỹ năng thuyết trình 76,5%, kỹ năng giao tiếp ứng xử 68,5%, kỹ năng giải
quyết vấn đề 61,5%, kỹ năng làm việc đồng đội 69%. Nhận thức về tầm quan trọng
của những kỹ năng trên giúp các bạn sinh viên chủ động hơn trong rèn luyện những
kỹ năng đó.Việc đề cao tầm quan trọng những kỹ năng đó của các bạn sinh viên trong
thời gian học đại học cho thấy các bạn đã nhận thức được sự đóng góp không nhỏ của
những kỹ năng đó trong việc học tập, giúp các bạn đạt được kết quả cao hơn trong
việc học tập của các bạn.Với hình thức học theo học chế tín chỉ để đạt được kết quả
cao các kỹ năng học và tự học, kỹ năng thuyết trình , lập kế hoạch và tổ chức công
việc , làm việc nhóm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập, các kỹ năng khác giúp
các bạn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của bạn bè và thầy cô.

Bên cạnh sự đề cao của các bạn về những kỹ năng mềm nói trên trong quá
trình học đại học, vẫn còn một số kỹ năng mềm ít được sự quan tâm của các bạn sinh
viên.Các kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân, kỹ năng tư duy sáng tạo và
mạo hiểm, và đặc biệt là kỹ năng đàm phán chưa nhận được sự quan tâm đúng mức
của các bạn sinh viên. Các bạn chưa nhận ra vai trò cũng như những lợi ích mà những
kỹ năng đó đem lại cho các bạn trong quá trình học đại học. Nếu các bạn hoàn thiện
tất cả những kỹ năng đó sẽ giúp các bạn sinh viên đạt được kết quả học tập tốt hơn
cũng như tự tin hơn trong cuộc sống.

K N đàm phán 10. 32%


KN làm việc đồng đội 69. 00%
KN giải quyết vấn đề 61. 5%
K N giao tiếp ứ ng xử 68. 5%
K N thuyết trình 76. 50%
KN lắng nghe 54. 00%
KN lập k ế hoạch và tổ chứ c công việc 66%
KN tư duy s áng tạo và m ạo hiểm 44. 50%
KN lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân 43%
K N học và tự học 78. 00%

Biểu đồ 2: Kết quả đánh giá của sinh viên Thương Mại về mức độ cần thiết
của các kỹ năng trong học tập.

48
Sự nhìn nhận của sinh viên Thương Mại về những kỹ năng cần thiết khi đi
làm:

Trong học tập là vậy, trong công việc những kỹ năng trên lại càng cần thiết
với mỗi cá nhân. Điều này được chính các bạn sinh viên Thương Mại đánh giá qua kết
quả khảo sát. Như kỹ năng giao tiếp ứng xử, trong môi trường học tập có 68,5% các
bạn sinh viên cho rằng nó cần thiết nhưng có đến 81,5% các bạn cho rằng kỹ năng đó
là cần thiết trong công việc tương lai. Không chỉ có kỹ năng giao tiếp mà tầm quan
trọng của hầu hết các kỹ năng khác cũng được đánh giá cao hơn. Như kỹ năng lập kế
hoạch và tổ chức công việc 79%, kỹ năng giải quyết vấn đề 70%, kỹ năng đàm phán
từ 32% tăng lên 68%, kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm 65%, kỹ năng lãnh đạo
bản thân và hình ảnh cá nhân 58%.

Nhận thức được tầm quan trọng của những kỹ năng mềm trong học tập cũng
như công việc, các bạn sinh viên Thương Mại đã rèn luyện được những kỹ năng nào
cho bản thân?

KN đàm phán 68. 00%


K N là m v iệ c đ ồ n g đ ộ i 6300
. %
KN g iả i q u y ế t vấ n đ ề 70. 0%
K N g ia o tiế p ứ n g xử 81. 5%

K N th u y ế t trìn h 60. 00%


K N lắ n g n g h e 60. 00%
K N lậ p k ế h o ạ c h v à tổ ch ức cô n g v iệ c 79%
KN tư d u y sá n g tạ o v à m ạ o h iể m 65. 00%
K N lã n h đ ạ o b ả n th â n v à h ìn h ả n h cá n h â n 58%

K N h ọ c v à tự h ọ c 29. 50%

Biểu đồ 3: Kết quả đánh giá của sinh viên Thương Mại về mức độ cần thiết

của các kỹ năng khi đi làm.

Tỉ lệ sinh viên cho rằng lý do kỹ năng mềm quan trọng:

Giúp dễ xin việc: 54.5%

Giúp dễ thăng tiến trong công việc: 57%

49
Giúp kiếm được việc làm có lương cao: 41.5%

Giúp tiết kiệm thời gian và sức lực: 51,5%

Các lý do khác: 9,5%

Tỉ lệ sinh viên cho rằng hình thức lớp học kỹ năng hiệu quả:

Lớp học truyền thống, chỉ nghe giảng, thỉnh thoảng đặt câu hỏi: 1.5%

Lớp học truyền thống nhưng có kết hợp máy chiếu projector (powerpoint):
11.5%

Lớp học có các thiết bị hỗ trợ (giấy bút, tranh ảnh, mô hình): 27%

Lớp học dạng sinh hoạt ngoài trời: 38.5%

Lớp học trong đó giảng viên tương tác liên tục với sinh viên: 63.5%

Tỉ lệ sinh viên cho rằng hình thức dạy và học hiệu quả:

Thông qua các trò chơi nhỏ, có lồng ghép các bài giảng về kỹ năng: 53.5%

Thông qua làm bài tập đa dạng trên lớp và ở nhà: 17.5%

Thông qua sự lồng ghép vào một môn học lý thuyết chuyên môn trên lớp
(dưới dạng seminar, đề tài): 32%

Thông qua các hoạt động tình nguyện xã hội: 35.5%

Tỉ lệ sinh viên cho rằng số lượng người trong 1 lớp học kỹ năng là phù hợp:

ít hơn 10 người: 17.5%

từ 20 - dưới 30 người: 22%

từ 40 - dưới 50 người: 4%

từ 10 - dưới 20 người: 41.5%

từ 30 - dưới 40 người: 8%

từ 50 người trở lên: 1%

50
CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KỸ NĂNG
MỀM CHO SINH VIÊN THƯƠNG MẠI.

4.1. XU THẾ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN GIAI ĐOẠN
2010-2015

4.1.1. Sự phát triển kinh tế

Ngân hàng Thế giới gọi thế kỷ 21 là kỷ nguyên của kinh tế dựa vào kỹ năng.
Chúng ta đã bước vào thế kỷ 21 đã 10 năm, nhưng chương trình đào tạo và việc đánh
giá năng lực của học sinh, sinh viên vẫn dựa chủ yếu vào kiến thức. Peter M. Senge
nói “Vũ khí cạnh tranh mạnh nhất là học nhanh hơn đối thủ”. Rõ ràng muốn tăng
cường năng lực cạnh tranh chúng ta không những phải học nhanh mà phải học đúng.
Ngày xưa, nhà trường là nơi duy nhất để ta có thể tiếp cận với kiến thức. Thế giới
ngày càng phẳng hơn, nhờ internet mọi người đều có thể tiếp cận được thông tin, dữ
liệu một cách bình đẳng, mọi lúc, mọi nơi. Kiến thức ngày càng nhiều và từ việc có
kiến thức đến thực hiện một công việc để có kết quả cụ thể không phải chỉ có kiến
thức là được. Từ biết đến hiểu, đến làm việc chuyên nghiệp với năng suất cao là một
khoảng cách rất lớn. Vậy câu hỏi đặt ra là: “Kỹ năng nào là cần thiết cho mỗi con
người để thành công trong công việc và cuộc sống?”

Nước ta đang trong quá trình toàn cầu hoá hội nhập quốc tế, là quá trình hợp
tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triền để bảo vệ
quyền lợi quốc gia. Cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên quyết liệt,
đòi hỏi các nước phải đổi mới công nghệ tăng năng suất lao động, để làm được điều
đó đòi hỏi nguồn lực phải có trình độ cao không chỉ là kiến thức chuyên môn mà cả
những kỹ năng sống và làm việc. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều lấy giáo dục
phổ thông làm nền tảng và coi giáo dục đại học là yếu tố quyết định chất lượng nguồn
nhân lực. Các nước đều xem phát triển giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược
phát triển kinh tế xã hội, dành cho giáo dục những đầu tư ưu tiên, đẩy mạnh cải cách
giáo dục nhằm giành ưu thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Mục tiêu của giáo dục
đại học là đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu xã hội. Chất lượng đầu ra

51
của sản phẩm là yếu tố quyết định đến uy tín thương hiệu của mỗi trường, thì thị
trường sử dụng nguồn nhân lực là khâu kiểm nghiệm cuối cùng chất lượng sản phẩm
đó. Hệ thống giáo dục, chương trình và phương pháp giáo dục của các quốc gia tiếp
tục được thay đổi nhằm xoá bỏ mọi ngăn cách trong nhà trường, rèn luyện kỹ năng,
cung cấp các tri thức hiện đại đáp ứng yêu cầu thích nghi những phát sinh của nền
kinh tế.Vậy một nguồn nhân lực chất lượng, đáp ứng được nhu cầu xã hội, không chỉ
giỏi về kỹ năng chuyên môn mà cần giỏi về kỹ năng mềm. Chính vì vậy, giáo dục
nước nhà, cũng như các trường đại học ngày càng quan tâm đến việc đào tạo kỹ năng
mềm.

Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, và hội
nhập quốc tế , nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên vô cùng quan trọng , quyết
định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò
và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Điều này đòi hỏi giáo dục phải có chiến lược đúng
hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng tầm thời đại. Sản phẩm đào tạo đại học ngày
nay sẽ phải hoạt động trong một môi trường cạnh tranh có tính quốc tế hoá cao. Trong
bối cảnh đó, phạm trù “chất lượng đào tạo đại học” phải có sự thay đổi quan trọng theo
hướng: vừa phải biết sống hòa hợp với cộng đồng dân tộc và quốc tế, vừa phải có năng
lực và bản lĩnh để cạnh tranh tự khẳng định và tự phát triển. Đó là những đòi hỏi quan
trọng của giáo dục đại học trong thời kỳ mới, nó cũng là thách thức lớn đối với nền giáo
dục của các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.

Hiện nay, trong quá trình tuyển dụng ngoài trình độ chuyên môn của ứng viên
thì kỹ năng mềm của ứng viên rất quan trọng là cơ sở để nhà tuyển dụng lựa chọn ứng
viên phù hợp nhất. Nhân viên có kỹ năng mềm tốt tạo ra môi trường làm việc năng
động và hiệu quả, qua đó góp phần hoàn thành tốt các mục tiêu công ty đề ra. Kỹ năng
mềm tạo điều kiện làm việc nhóm hiệu quả, phát triển sự lãnh đạo, giao tiếp và sử
dụng thời gian và các nguồn lực khôn ngoan. Như vậy có thể nói kỹ năng mềm có vai
trò then chốt đối với thành quả của tổ chức. Chính vì vậy khi tuyển chọn nhân viên
các nhà tuyển dụng đặt vai trò của kỹ năng mềm lên 1 vị trí rất quan trọng.

52
4.1.2. Đào tạo của nhà trường

Khi nền kinh tế ngày càng cạnh tranh gay gắt mỗi doanh nghiệp đòi hỏi
nguồn lực lao động phải có trình độ và kỹ năng cao để có thể đứng vững trên thị
trường. Theo xu hướng của nền kinh tế, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã tiến hành chương
trình cải cách giáo dục ngay từ phổ thông cơ sở và khá thành công. Các trường cao
đẳng, đại học cũng chú tâm hơn trong việc rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên. Đổi
mới cải cách giáo dục bậc cao đẳng, đại học được thể hiện ở việc các trường tiến hành
đào tạo theo qui chế tín chỉ bắt người học chủ động rèn luyện các kỹ năng bản thân
hơn so với hệ thống đào tạo theo niên chế

Trên thế giới ngày nay, tại nhiều nước phát triển, người ta đã thay đổi lại lối
học và cách dạy. Phương pháp dạy học là nêu vấn đề để đem ra nghiên cứu thảo luận.
Cách dạy này đưa đến phương pháp học tập là buộc người học phải tự đi sưu tầm tài
liệu trong các thư viện, trong các trung tâm thông tin, tự thực hành trong các xưởng
trường, tự mày mò thí nghiệm trong các phòng thí nghiệm. Và để thảo luận, báo cáo
được các điều đã tìm thấy, người học phải vận dụng được óc phân tích, so sánh, phê
bình đánh giá các thông tin để đi đến tổng hợp cho mình một nhận định.

4.1.3. Tự bản thân mỗi SV.

Chưa bao giờ SV lại quan tâm và đăng kí tham gia các lớp học đào tạo kĩ
năng mềm nhiều như hiện nay. Có vẻ như, khái niệm kỹ năng mềm ngày càng trở nên
phổ biến và trở thành một yêu cầu quan trọng đối với bất cứ bạn trẻ nào khi cầm hồ sơ
xin việc làm. Thời đại ngày nay các bạn trẻ đã nhận thức được vai trò cũng như tầm
quan trọng của kỹ năng mềm. Vì thế, song song với nhu cầu cần cải thiện các kĩ năng
mềm cho bản thân của bạn trẻ, các trung tâm đào tạo kỹ năng mềm xuất hiện nhiều
hơn. Điều đó trở thành tất yếu và là xu hướng phổ biến, bởi ngày càng nhiều bạn trẻ
chú ý trang bị kiến thức kỹ năng mềm cho mình, với quan niệm: “Biết nhiều kỹ năng
thì cuộc sống sẽ ít gặp khúc mắc, và nếu gặp khúc mắc cũng có cách tháo gỡ khoa
học”. Không thể phủ nhận rằng, rất nhiều bạn trẻ sau khi tham gia các khóa học này
đều tự tin hơn rất nhiều. Lập trường vững vàng hơn, tư duy nhanh nhạy và sắc bén
hơn, cách ứng phó và xử lý các tình huống gặp phải trong cuộc sống cũng hiệu quả
hơn. Đặc biệt, biết cách tự quản lý thời gian và kiểm soát bản thân, lên kế hoạch định

53
hướng, nỗ lực học tập và rèn luyện bản thân. Nhiều trung tâm đã lựa chọn phương
pháp đào tạo kĩ năng mềm hợp lí, khoa học theo các hình thức phong phú đa dạng mà
hiệu quả như học trên mạng, học vận dụng thực hành nhiều hơn… Điểm mạnh nữa là,
các chương trình học kỹ năng hoàn toàn không bắt buộc, mà chỉ mang tính chất trang
bị, nâng cao kĩ năng sống, vì vậy các học viên được thoải mái lựa chọn. Bên cạnh đó,
vẫn còn một số sinh viên do nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của kĩ
năng mềm trong học tập và hướng nghiệp nên đã đăng kí nhưng chưa tham gia. Nhiều
bạn có suy nghĩ rằng các nhà tuyển dụng sẽ ưu ái những bằng cấp có giá trị, mối quan
hệ rộng rãi và kĩ năng chuyên môn, bởi vậy đã lơ là việc tự trau dồi kĩ năng mềm cho
bản thân. Sai lầm này khiến khi ra trường họ khó xin việc, phải mất khá nhiều thời
gian chờ đợi, thậm chí phải đào tạo lại. Ngày nay, đất nước ta đang trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bởi thế rất
cần người tài, cần nguồn nhân lực chất lượng cao, có trình độ và kĩ năng làm việc
thông thạo. Để đứng được vào hàng ngũ đó, đòi hỏi những người trẻ phải luôn ra sức
phấn đấu.Không chỉ trau dồi cho bản thân những kỹ năng chuyên môn vững chắc các
bạn sinh viên ngày nay không ngừng hoàn thiện những kỹ năng mềm cho bản thân.
Có đầy đủ kiến thức chuyên môn và những kỹ năng cần thiết các bạn sinh viên luôn tự
tin bước vào môi trường làm việc.

4.2. CÁC KẾT LUẬN VÀ PHÁT HIỆN

4.2.1. Các kết luận.

4.2.1.1. Thành công và nguyên nhân

Kết quả điều tra ở trên cho thấy phần lớn sinh viên Thương Mại tự đánh giá
bản thân mình có được 3 kỹ năng: kỹ năng học và tự học, kỹ năng lắng nghe và kỹ
năng làm việc nhóm. Cũng không quá khó hiểu khi sinh viên Thương Mại tự nhận
thấy bản thân được trau dồi những kỹ năng đó. Các bạn tự tin khẳng định bản thân trội
về những kỹ năng đó một phần nhờ môi trường học tập đã rèn luyện cho các bạn
những kỹ năng đó. Học tập theo qui chế tín chỉ khác với cách học niên chế đó là sinh
viên không chỉ tới lớp chép bài, ngồi im lặng nghe thầy cô giảng, cố gắng ghi nhớ hết
những lời thầy cô nói mà học tập theo niên chế tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải có sự tìm
tòi sáng tạo trong phương pháp học tập của mình. Phương thức đào tạo này giúp tăng

54
tính chủ động, sáng tạo của người học thông qua việc sinh viên phải nâng cao tính tự
học của bản thân. Chính việc thay đổi từ cách học theo niên chế sang qui chế tín chỉ
đã giúp sinh viên rèn luyện, trau dồi thêm những kỹ năng mà cách đào tạo theo niên
chế chưa làm được. Giờ đây sinh viên tới lớp không chỉ để ngồi nghe, giảng viên cũng
không phải là người đứng nói từ đầu tiết tới cuối tiết mà chính sinh viên mới là trung
tâm của buổi học, chính sinh viên mới là người phát biểu xây dựng để bài giảng được
thành công. Để làm được điều này sinh viên phải có sự tìm tòi, nghiên cứu về bài học
trước khi tới lớp, chính điều này đã tạo nên khả năng học và tự học của sinh viên.
Thầy cô với những giờ lên lớp cũng luôn khuyến khích sinh viên thay đổi phương
pháp học tập, tạo sự sôi nổi trong giờ học, luôn có sự tương tác giữa thầy và trò.
Chính sự hướng dẫn và khuyến khích của thầy cô về phương pháp tự học tập, cách tìm
tài liệu và nghiên cứu đã giúp cho sinh viên thích thú hơn trong những giờ học, luôn
tự ý thức và đổi mới phương pháp học tập của mình nhằm làm cho những buổi học
trên lớp ngày càng thú vị hơn. Vì vậy mặc dù thời lượng những buổi học trên lớp ít
hơn so với cách học truyền thống nhưng kết quả học tập của các bạn sinh viên vẫn
ngày càng cao và càng làm cho thầy cô yên lòng hơn.

Học tập theo hình thức tín chỉ còn giúp các bạn sinh viên có kỹ năng làm việc
nhóm tốt hơn. Sinh viên Thương Mại rất tự tin với kỹ năng làm việc nhóm của bản
thân, đó chính là kết quả của sự đổi mới phương pháp học tập từ nhà trường và những
đòi hỏi đặt ra từ các doanh nghiệp cho công việc sau này của sinh viên khi ra trường.
Những năm học ở trường với mỗi môn học là một đề tài thảo luận thú vị; là thành
viên của một nhóm mới cùng sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy cô, các bạn sinh viên
đã hoàn thành những đề tài của mình rất tốt điều đó được thể hiện qua những giờ thảo
luận sôi nổi cuối môn học cùng với đánh giá cao của thầy cô về chất lượng của buổi
thảo luận cũng như sự chuẩn bị kỹ lưỡng của các bạn sinh viên cho bài thảo luận của
nhóm mình. Để có được bài thảo luận có chất lượng cùng với buổi thảo luận sôi nổi
đó đòi hỏi các thành viên trong nhóm của mỗi một môn học phải có sự phân công
công việc rõ ràng, có sự đoàn kết nhất trí trong nhóm.Vì học theo tín chỉ mỗi môn học
của các bạn sẽ là những người bạn mới những thành viên mới trong một nhóm, nếu
không có sự thích ứng nhanh vào môi trường làm việc của nhóm, các thành viên
không tôn trọng lẫn nhau và không có tinh thần hợp tác thì cả nhóm sẽ không thể có

55
kết quả cao cho bài thảo luận của nhóm. Như vậy thảo luận nhóm trong mỗi môn học
đã góp phần giúp các bạn sinh viên kỹ năng làm việc nhóm hiệu quả nhất, từ đó giúp
các bạn tự tin hơn trong những môi trường mới khi đi làm việc.

Ngoài kỹ năng học và tự học, kỹ năng làm việc nhóm, sinh viên Thương Mại
còn có điểm mạnh về một kỹ năng khác đó là kỹ năng lắng nghe. Có 67,5% sinh viên
Thương Mại tự tin về kỹ năng lắng nghe của mình. Kỹ năng lắng nghe - một kỹ năng
rất quan trọng trong cuộc sống cũng như trong công việc sau này được các bạn sinh
viên Thương Mại rèn luyện khá tốt và khá tự tin với kỹ năng đó của mình. Đây là một
lợi thế rất lớn cho các bạn sinh viên Thương Mại, có lẽ các buổi học theo tín chỉ cũng
đã giúp các bạn sinh viên rất nhiều trong rèn luyện kỹ năng lắng nghe của mình. Khi
thời lượng các buổi học trên lớp rất ít các bạn cần rèn luyện cho bản thân kỹ năng lắng
nghe để nắm bắt thông tin tốt nhất, nắm bắt thông tin nào là cần thiết và quan trọng.
Trong những giờ thảo luận kỹ năng lắng nghe của các bạn cũng được rèn luyện khi
lắng nghe nhóm khác trình bày, đưa ra ý kiến cũng như biết chấp nhận ý kiến của các
người khác. Những buổi tham gia hoạt động của đoàn hay đi tình nguyện cũng là
những hoạt động giúp các bạn phát triển kỹ năng lắng nghe của mình, biết lắng nghe
và chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân nhằm giúp các bạn hoàn thiện bản thân
hơn.

Bên cạnh những kỹ năng trên những kỹ năng như kỹ năng lập kế hoạch và tổ
chức công việc, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng giải quyết vấn đề cũng là những kỹ
năng được sinh viên Thương Mại luôn quan tâm và không ngừng hoàn thiện. Mặc dù
với tỷ lệ không cao như những kỹ năng trên nhưng với môi trường học tập thuận lợi
luôn tạo điều kiện cho sinh viên phát triển những kỹ năng mềm cần thiết cho công
việc và cuộc sống. Những kỹ năng đó của các bạn sinh viên sẽ trở thành thế mạnh khi
các bạn ra trường bước vào môi trường làm việc mới nếu như các bạn không ngừng
trau dồi, rèn luyện những kỹ năng đó hàng ngày.

4.2.1.2. Tồn tại và nguyên nhân

Sinh viên Thương Mại tự tin với những kỹ năng mạnh của mình và với môi
trường học tập như hiện nay ở trường Thương Mại những kỹ năng mềm đó của các
bạn sẽ ngày càng hoàn thiện, sẽ giúp các bạn tự tin hơn trong cuộc sống và trong

56
công việc. Tuy nhiên, bên cạnh những kỹ năng mềm được đánh giá là điểm mạnh thì
các bạn sinh viên Thương Mại vẫn còn chưa rèn luyện cho mình một số kỹ năng mềm
khác.Vậy những kỹ năng đó là những kỹ năng nào?

Những kỹ năng mà sinh viên Thương Mại còn yếu đó là những kỹ năng: Kỹ
năng sáng tạo và mạo hiểm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình
ảnh cá nhân và đặc biệt là kỹ năng đàm phán. Trong những buổi thảo luận trên lớp
luôn là cơ hội cho các bạn sinh viên rèn luyện kỹ năng thuyết trình cuả mình. Tuy
nhiên có rất ít bạn thấy đây là cơ hội mà đa số lại cho đây là một hình thức “tra tấn”.
Sở dĩ các bạn coi đó là hình thức “tra tấn” bởi vì các bạn không tự tin đứng trước đám
đông nói về một vấn đề, các bạn run khi đứng trước đám đông và không diễn đạt được
những kiến thức của mình.Vậy là các bạn trốn tránh những cơ hội đó trong những
buổi thảo luận trên lớp, thay vì những gương mặt mới luôn thay đổi trong khi thuyết
trình để rèn luyện những kỹ năng thuyết trình cho riêng mình đồng thời tạo ra sự sôi
nổi trong buổi thảo luận thì những gương mặt cũ trong các nhóm vẫn luôn xuất hiện
trong các nhóm cùng bài thảo luận của nhóm còn các thành viên khác thì vẫn trốn
tránh cơ hội đó với lí do không quen, ngại. Nếu như các bạn không thử sao biết mình
không quen. Không tự nhiên bạn có sẵn bất kỳ một kỹ năng nào cả, tất cả đều do tập
luyện nhiều, ban đầu có thể sẽ là sự ngượng ngùng, có thể những lần đầu bạn sẽ
không thể hiện sự xuất sắc trong cách trình bày, diễn đạt nhưng nếu các bạn quyết
tâm, nhất định các bạn sẽ làm rất tốt trong những lần sau.

Mạnh dạn lên thuyết trình lại là một yêu cầu liên quan đến một kỹ năng khác
mà các bạn sinh viên Thương Mại cũng rất thiếu đó là kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm.
Đa phần các bạn sinh viên Thương mại không tự tin về kỹ năng này của bản thân. Bởi
vì ngay trong một việc đơn giản đó là lên thuyết trình trước lớp, một sự mạo hiểm cần
thiết để nắm lấy cơ hội nhưng các bạn cũng ngại, cũng không dám. Hành vi đó đã vô
tình làm mất đi việc rèn luyện sự mạo hiểm của bạn. Còn sáng tạo thì sao? Bên cạnh
những ý tưởng độc đáo trong những buổi học hay trong những buổi thảo luận với cách
làm bài thảo luận thật sáng tạo theo phong cách mới không xa rời bài học, đề tài thảo
luận của thầy cô nhưng lại tạo nên sức lôi cuốn kỳ diệu đối với lớp học làm cho buổi
học sôi nổi thì vẫn tồn tại đa số những phong cách học tập và làm việc không có chút
sáng tạo của các bạn sinh viên. Những giờ lên lớp vẫn áp dụng cách học như phổ

57
thông không có sự sáng tạo trong cách học tập, cho đến những bài thuyết trình, slide
thuyết trình đơn điệu, theo một lối mòn nhất định. Nếu không có sự sáng tạo trong
phương pháp học tập và tiếp thu bài giảng trên lớp của thầy cô các bạn sẽ mất nhiều
thời gian cho việc học tập nhưng kết quả vẫn không cao. Đồng thời những bài thảo
luận không có sự sáng tạo trong nội dung cũng như cách trình bày sẽ dễ làm cho buổi
thảo luận không gây được sự chú ý và lắng nghe của các bạn sinh viên khác. Kỹ năng
sáng tạo và mạo hiểm không chỉ giúp các bạn sinh viên trong việc học tập mà trong
cuộc sống thường ngày kỹ năng này còn giúp các bạn tận dụng những cơ hội hiếm khi
mới có được. Một cơ hội bạn nhận ra nó nhưng lại không dám nắm bắt nó vì bạn sợ
mạo hiểm, bạn không có sự sáng tạo và kết quả bạn đánh mất cơ hội đó.

Một kỹ năng cũng rất cần thiết trong cuộc sống và trong công việc của sinh
viên khi học tập cũng như trong môi trường làm việc sau này, đó là kỹ năng lãnh đạo
bản thân và hình ảnh cá nhân. Chính bạn quyết định thái độ của mọi người đối với bản
thân bạn như thế nào, điều đó được biểu hiện bởi việc bạn thể hiện hình ảnh cá nhân
của bạn dưới con mắt mọi người như thế nào. Đó cũng là một kỹ năng mà các bạn
sinh viên cũng cần rèn luyện tuy nhiên đa phần các bạn sinh viên Thương Mại lại
chưa coi trọng việc rèn luyện kỹ năng này. Có thể lý do là các bạn cảm thấy chưa cần
thiết phải thể hiện bản thân trong trường lớp mà sau này đi làm rồi rèn luyện cũng
chưa muộn. Tuy nhiên các bạn vẫn chưa thấy hết được tầm quan trọng của kỹ năng
này ngay trong môi trường học tập ở trường đại học. Nếu bạn có kỹ năng lãnh đạo bản
thân và hình ảnh cá nhân bạn sẽ có những mối quan hệ bạn bè tốt, có được sự yêu
mến tôn trọng của bạn bè. Chỉ những điều đó cũng đã giúp bạn có được một sự thành
công nhất định trong cuộc sống.

Kỹ năng đàm phán là kỹ năng yếu nhất của các bạn sinh viên Thương Mại.
Đây cũng là kỹ năng ít nhận được sự quan tâm của các bạn sinh viên. Nhiều bạn cho
rằng đây là kỹ năng chỉ sử dụng cho công việc sau này, thậm chí những công việc liên
quan tới vị trí lãnh đạo mới cần dùng vì vậy mà kỹ năng này nhận được rất ít sự quan
tâm của các bạn sinh viên. Thực tế kỹ năng này rất cần thiết cho các bạn sinh viên,
luôn phục cho cuộc sống của các bạn. Khi bạn cần trao đổi một điều kiện nào đó với
một người bạn của bạn để bạn đó đồng ý với điều kiện bạn đưa ra một cách vui vẻ,
bạn cũng đang sử dụng kỹ năng đàm phán. Để thực hiện đàm phán với sự vui vẻ của

58
các bên tham gia kỹ năng đàm phán là một kỹ năng không thể thiếu. Các bạn sinh
viên Thương Mại cần có cái nhìn rộng hơn về kỹ năng đàm phán, rèn luyện kỹ năng
này để phục vụ tốt nhất cho cuộc sống của các bạn.

4.2.2. Các phát hiện.

4.2.2.1. Chính sách đào tạo của nhà trường.

Hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ rèn luyện cho các bạn sinh viên rất
nhiều các kỹ năng mềm cần thiết. Tuy nhiên đây là hình thức đào tạo mới với nhà
trường cũng như với các giảng viên và các bạn sinh viên. Vì vậy chưa phát huy hết
được những lợi ích hình thức học theo tín chỉ mang lại cho các bạn sinh viên đặc biệt
là phát triển và hoàn thiện những kỹ năng mềm cần thiết như kỹ năng thuyết trình,
làm việc nhóm, kỹ năng lắng nghe…

Trường Đại Học Thương Mại là một trong số ít các trường đã đưa những môn
học về kỹ năng mềm làm môn học chính trong quá trình giảng dạy ở trường.Những
môn học đó giúp các bạn sinh viên nhận thức tầm quan trọng cũng như việc rèn luyện
những kỹ năng mềm một cách hiệu quả.Tuy nhiên số lượng các tiết học về kỹ năng
mềm còn hạn chế, cơ sở vật chất kỹ thuật còn chưa đáp ứng đủ nên lớp học còn khá
đông do đó các bạn sinh viên không có nhiều cơ hội để thực hành các kỹ năng mềm
ngay trong quá trình học tập dẫn đến có nhiều bạn sinh viên tuy đã được học rất nhiều
kỹ năng mềm nhưng các bạn lại không biết vận dụng những kỹ năng đó vào thực tế
cuộc sống. Phần lớn các bạn sinh viên học ở trường rất thích học những tiết học về kỹ
năng mềm điều đó cho thấy các bạn đã có sự nhận thức nhất định về tầm quan trọng
của những kỹ năng mềm tuy nhiên nếu như các lớp học về kỹ năng không đem lại cho
các bạn sự vận dụng vào thực tế mà các bạn chỉ biết qua những kỹ năng đó trên lý
thuyết, các bạn vẫn sẽ không tự tin với những kỹ năng mà mình đã được đào tạo, vẫn
bỡ ngỡ khi giải quyết những tình huống cụ thể trong thực tế. Học nhưng không vận
dụng vào được thực tế cuộc sống sẽ khiến các bạn không có hứng thú với việc học tập
cũng như rèn luyện những kỹ năng đó. Điều đó sẽ gián tiếp thể hiện sự không hiệu
quả trong quá trình giảng dạy của nhà trường về kỹ năng mềm cho các bạn sinh viên.

Trung tâm hướng nghiệp sinh viên cung cấp cho các bạn sinh viên cơ hội việc
làm cũng như những khóa đào tạo kỹ năng mềm cần thiết. Thông qua những khóa học

59
kỹ năng đó các bạn sinh viên được tiếp xúc với môi trường làm việc ngay khi các bạn
đang ngồi trên ghế nhà trường, điều đó không chỉ giúp các bạn rèn luyện tốt các kỹ
năng mà còn giúp các bạn không bỡ ngỡ, tự tin hơn trong môi trường làm việc sau
này.Song do mới được thành lập trung tâm hướng nghiệp sinh viên vẫn chưa có nhiều
các khóa học về kỹ năng mềm và các kỹ năng được đào tạo vẫn chưa có sự đa dạng để
đem đến cho các bạn sinh viên nhiều sự lựa chọn. Các bạn sinh viên năm nhất và năm
hai dường như vẫn chưa quan tâm nhiều đến các lớp kỹ năng do trung tâm tổ chức đào
tạo vơi suy nghĩ các lớp đào tạo kỹ năng đó chưa cần thiết chỉ phù hợp với các bạn
sinh viên năm ba và năm cuối.Điều đó dẫn đến việc số lượng các bạn sinh viên quan
tâm đến các lớp kỹ năng do trung tâm mở ra còn rất hạn chế.

4.2.2.2. Đội ngũ đào tạo.

Hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ là hình thức đào tạo mới của nhà
trường nhằm giúp sinh viên chủ động hơn trong việc học tập, thu thập thông tin để
hoàn thành tốt nhất môn học. Giảng viên không chỉ giữ nguyên vai trò truyền đạt kiến
thức cho sinh viên, giảng viên đóng vai trò rất quan trọng trong việc hướng dẫn sinh
viên cách tự học tập thu thập thông tin để đạt được kết quả học tập tốt nhất. Bên cạnh
đó học tập theo hình thức tín chỉ có những buổi thảo luận nhóm giúp các bạn sinh viên
nhiều kỹ năng quan trọng như thuyết trình, làm việc nhóm, thuyết phục, lắng nghe,…
để hoàn thành tốt buổi thảo luận các bạn sinh viên cần rất nhiều sự hướng dẫn của
giảng viên về cách làm việc nhóm, cách thuyết trình hay cách lắng nghe và phản biện
trong các buổi thảo luận.Nhưng phần lớn các bạn sinh viên vẫn chưa nhận thức được
lợi ích mà hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ mang lại cho các bạn một phần do
các bạn không định hướng được hình thức đào tạo theo tín chỉ đó tốt như nào? Tạo
cho các bạn cơ hội rèn luyện những kỹ năng nào? Để định hướng cho các bạn sinh
viên học tập và rèn luyện những kỹ năng mềm trong từng môn học, sự chỉ bảo hướng
dẫn của thầy cô cũng như sự liên hệ từ môn học đó với rèn luyện những kỹ năng mềm
là không thể thiếu.

Các lớp kỹ năng mềm của nhà trường mở ra còn hạn chế một phần do đội ngũ
giáo viên của nhà trường chuyên sâu về kỹ năng mềm vẫn còn thiếu. Điều đó dẫn đến

60
chất lượng đào tạo các lớp kỹ năng mềm chưa cao và gây khó khăn trong việc mở
rộng đào tạo thêm những kỹ năng mềm khác.

4.2.2.3. Môi trường rèn luyện kỹ năng mềm.

Họp nhóm là một công việc quan trọng không thể thiếu trong học tập theo
hình thức tín chỉ. Họp nhóm giúp các bạn sinh viên rèn luyện rất nhiều kỹ năng như
làm việc nhóm, thuyết trình, thuyết phục, lắng nghe…tuy nhiên hiện nay làm việc
nhóm của các bạn sinh viên chủ yếu mang tính hình thức. Phần lớn các buổi họp
nhóm qua loa, công việc của nhóm do một vài người trong nhóm đảm nhận thậm chí
là do mình nhóm trưởng làm. Những buổi họp nhóm trong chốc lát tại khuân viên
trường sẽ không đủ thời gian để các bạn trong nhóm hiểu rõ hơn về đề tài về công
việc cũng như mục tiêu chung của cả nhóm dẫn đến hiệu quả làm việc nhóm không
cao và cũng không ít bạn vì thế mà luôn vắng mặt trong các buổi họp nhóm.

Các hoạt động của đoàn trường, của các câu lạc bộ trong trường tạo điều kiện
cho các bạn sinh viên rèn luyện nhiều kỹ năng mềm như giao tiếp, thuyết trình, lắng
nghe… mang đến cho các bạn sự tự tin, năng động. Tuy nhiên những hoạt động của
đoàn trường ít và không phổ biến rộng đến các bạn sinh viên, chưa tạo điều kiện cũng
như khuyến khích để các bạn sinh viên cùng tham gia. Các câu lạc bộ trong trường
phần lớn chưa phát triển, có ít hoạt động.

4.2.2.4. Ý thức rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên.

Những giờ thảo luận sôi nổi trên lớp đã phản ánh phần nào khả năng làm việc
nhóm, thuyết trình của các bạn sinh viên. Tuy nhiên một số lượng không nhỏ các bạn
sinh viên vẫn còn chưa quan tâm đúng mức đến những bài tập nhóm được giao, vẫn
coi những giờ thảo luận trên lớp không có ý nghĩa, không bổ ích dẫn đến nhiều bạn
không chú ý trong giờ thảo luận nhóm. Nguyên nhân dẫn đến nhận thức đó của các
bạn sinh viên một phần do các bạn sinh viên chưa nhận thức đúng đắn về cách học tập
theo hình thức tín chỉ. Nhiều bạn vẫn cho rằng đó là cách học nhàn hơn bạn có nhiều
thời gian rảnh hơn để giải trí mà không phải đến trường học, các bạn vẫn phụ thuộc
quá nhiều vào thầy cô giáo không có phương pháp học tập sáng tạo điều đó thể hiện
sự thiếu tính chủ động trong cách học tập và thu thập thông tin, kiến thức của các bạn

61
sinh viên. Trong những bài tập nhóm thì vẫn dựa dẫm, ỷ lại vào các bạn khác trong
nhóm, tham gia không nhiệt tình vào các bài tập nhóm.

Các hoạt động đoàn, tình nguyện hay những hoạt động văn thể do nhà trường
tổ chức cũng giúp ích rất nhiều cho các bạn sinh viên trong việc rèn luyện kỹ năng
mềm. Tuy nhiên phần lớn các bạn sinh viên lại thiếu sự chủ động và nhiệt tình khi
tham gia các hoạt động đó. Nhiều lý do được các bạn sinh viên đưa ra khi không tham
gia các hoạt động đó như tốn thời gian, không thích, ngại…điều đó cho thấy sự thiếu
chủ động của các bạn sinh viên đồng thời cũng cho thấy các bạn chưa có ý thức rèn
luyện những kỹ năng mềm cho bản thân.

4.3. CÁC ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP

4.3.1. Đề xuất giải pháp nâng cao chính sách đào tạo của nhà trường.

Hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ là hình thức đào tạo mới của nhà
trường, do vậy trong thời gian tới việc nhà trường ngày càng hoàn thiện và nâng cao
hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ sẽ giúp nâng cao kỹ năng mềm của các bạn sinh
viên qua hình thức học tập này.

Số lượng tiết học và môn học kỹ năng còn hạn chế nên chưa rèn luyện được
kỹ năng mềm một cách khoa học nhất cho các bạn sinh viên. Việc tăng thêm các môn
học và số tiết học cũng như số lượng các buổi thực hành về kỹ năng mềm sẽ giúp các
bạn sinh viên tự tin hơn với những kỹ năng mềm mà bản thân đã được rèn luyện. Một
lớp học kỹ năng với số lượng sinh viên ít, cùng phương pháp giảng dạy mới như
thông qua các trò chơi nhỏ có lồng ghép các bài giảng về kỹ năng đồng thời với nhiều
buổi thực hành sẽ giúp các bạn sinh viên đạt được kết quả tốt nhất trong môn học kỹ
năng đó đồng thời luôn có ý thức rèn luyện những kỹ năng mềm đó một cách tốt nhất.

Trung tâm hướng nghiệp sinh viên tuy mới được thành lập nhưng đã nhận
được sự quan tâm rất lớn từ phía các bạn sinh viên nhất là các bạn sinh viên năm cuối.
Trong những năm tiếp theo với sự hoàn thiện và phát triển không ngừng của trung
tâm, nhiều khóa học được mở hơn, cùng nhiều môn kỹ năng quan trọng với sinh viên
với đối tượng hướng tới là sinh viên trong toàn trường từ năm đầu sẽ là nơi tốt nhất để

62
các bạn sinh viên rèn luyện cho bản thân những kỹ năng mềm một cách nhanh chóng,
thuận lợi và hiệu quả.

Các lớp học về kỹ năng mềm ngày càng được các bạn sinh viên quan tâm
hơn. Những trung tâm đào tạo về kỹ năng mềm với phương pháp dạy sáng tạo , khoa
học luôn được đông đảo các bạn sinh viên đăng ký tham gia và hài lòng với chương
trình đào tạo đó. Nếu nhà trường liên kết với một vài trung tâm chuyên đào tạo về kỹ
năng mềm, qua đó mở các lớp học đào tạo kỹ năng mềm cho các bạn sinh viên ngay
tại trường thì các bạn sinh viên sẽ rất mong chờ để tham gia các khóa học. Những
khóa học đó vừa tạo điều kiện tốt nhất, mang lại sự an tâm đồng thời rèn luyện kỹ
năng cho sinh viên một cách khoa học nhất theo định hướng phát triển kỹ năng mềm
cho sinh viên của nhà trường.

4.3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao đội ngũ đào tạo.

Giảng viên đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các bạn sinh viên có cách
rèn luyện kỹ năng mềm hiệu quả thông qua mỗi môn học, tiết học. Giảng viên luôn
chú trọng đến việc phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên thông qua việc giúp sinh
viên nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm, khuyến khích việc sinh viên
có phương pháp học tập hiệu quả sáng tạo, hướng dẫn sinh viên tích cực tham gia
công việc nhóm và làm việc nhóm cũng như chủ động nêu lên ý kiến cá nhân qua
những tiết học trên lớp và giờ thảo luận. Nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn nhiệt tình
của các giảng viên sẽ giúp các bạn sinh viên thích thú hơn trong mỗi môn học và có ý
thức hơn trong việc rèn luyện những kỹ năng mềm để không phụ lại sự chỉ bảo tận
tâm của các giảng viên.

Đội ngủ giảng viên giảng dạy môn kỹ năng mềm có kiến thức chuyên sâu sẽ
giúp các bạn sinh viên nắm bắt được tốt hơn, hiểu sâu hơn về môn kỹ năng đó cũng
như sẽ có đam mê hơn trong việc rèn luyện những kỹ năng .

4.3.3. Giải pháp nhằm tạo môi trường cho sinh viên rèn luyện kỹ năng mềm.

Vì hạn chế thời lượng lên lớp, người dạy sẽ có một quỹ thời gian mở để tiếp
xúc, hướng dẫn sinh viên, sẵn sàng giải đáp thắc mắc, trao đổi thêm khi sinh viên cần,
kết hợp các kênh liên hệ khác như mail, điện thoại…như vậy sẽ đảm bảo quá trình tự

63
học của sinh viên được thúc đẩy, định hướng đúng mức giúp sinh viên chủ động và tự
tin hơn.

Họp nhóm là một công việc quan trọng trong học tập theo hình thức tín chỉ,
họp nhóm giúp các bạn sinh viên rèn luyện nhiều kỹ năng mềm quan trọng và cần
thiết. Vì vậy nếu trong nhà trường có những phòng học dành riêng cho việc họp
nhóm, làm bài tập nhóm các bạn trong nhóm sẽ có nhiều thời gian để họp và thảo luận
về cách làm bài nhóm từ đó mang lại hiệu quả cao trong làm việc nhóm, giúp các bạn
rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm một cách hiệu quả nhất.

Các hoạt động của đoàn trường, của các câu lạc bộ trong trường giúp ích rất
nhiều cho các bạn sinh viên. Nếu nhà trường có chính sách khuyến khích các câu lạc
bộ trong trường phát triển, khen thưởng những câu lạc bộ hoạt động tốt mang lại
nhiều cơ hội cho các bạn sinh viên trong trường. Đó sẽ là một biện pháp giúp các bạn
sinh viên trong trường tích cực hơn tham gia các hoạt động của các câu lạc bộ từ đó
giúp các bạn sinh viên năng động hơn, tự tin hơn với những kỹ năng đã được rèn
luyện.

Những tân sinh viên còn nhiều bỡ ngỡ với cách học ở trường đại học cũng
như chưa nhận thức rõ được kỹ năng mềm là gì? Nó cần thiết như thế nào? Và các bạn
có cần rèn luyện những kỹ năng mềm đó hay không? Rèn luyện những kỹ năng mềm
đó như thế nào?...Để giúp các tân sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của kỹ
năng mềm cũng như có định hướng rèn luyện những kỹ năng mềm cho bản thân ngay
từ đầu không bỡ ngỡ khi học tập và nghiên cứu trong môi trường mới nhà trường nên
tổ chức những buổi hướng dẫn kỹ năng mềm cho tân sinh viên. Trong buổi hướng dẫn
này có thể đó là sự chia sẻ của thầy cô, của các anh chị sinh viên có thành tích tốt
trong rèn luyện kỹ năng mềm cũng như sự chia sẻ của các doanh nghiệp về những kỹ
năng mềm mà doanh nghiệp cần ở các bạn sinh viên. Những buổi hướng dẫn đó chính
là động lực, là con đường giúp các bạn tân sinh viên rèn luyện cho bản thân những kỹ
năng mềm quan trọng , cần thiết nhanh nhất với sự say mê rèn luyện để phục vụ cho
chính công việc của các bạn sau này.

Sau những môn học về kỹ năng mềm bổ ích được học ở trường rất nhiều bạn
sinh viên muốn vận dụng những kỹ năng đó vào thực tế cuộc sống. Tuy vậy giữa lý

64
thuyết và thực hành có nhiều sự khác nhau khiến các bạn sinh viên gặp khó khăn rất
nhiều trong việc áp dụng những kỹ năng đã được học, rèn luyện vào thực tế. Những
chương trình tập huấn kỹ năng giành cho các bạn sinh viên có lẽ sẽ giúp các bạn sinh
viên rất nhiều trong việc áp dụng lý thuyết vào thực hành. Trong những buổi tập huấn
đưa ra các tình huống cụ thể mà các bạn sinh viên sẽ gặp phải trong môi trường làm
việc sau này và yêu cầu các bạn giải quyết tình huống với những kỹ năng đã học
được. Đồng thời các buổi tập huấn cũng là lúc các bạn sinh viên được tiếp xúc học hỏi
kinh nghiệm từ các doanh nghiệp cụ thể và những kỹ năng mà các chủ doanh nghiệp
áp dụng để xây dựng và phát triển công ty của mình….Những buổi tập huấn như vậy
đảm bảo sinh viên trong môi trường làm việc sau này sẽ phát huy và vận dụng một
cách tốt nhất những kỹ năng mềm đã được học và rèn luyện.

4.3.4. Giải pháp nhằm nâng cao ý thức rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên.

Giảng viên không chỉ giúp các bạn sinh viên có phương pháp học tập hiệu quả
để nắm vững chuyên môn. Giảng viên còn là những người hướng dẫn tốt nhất giúp
sinh viên nhận thức cũng như rèn luyện kỹ năng mềm một cách hiệu quả. Đào tạo
theo hình thức tín chỉ mỗi môn học đều tạo cơ hội cho các bạn sinh viên rèn luyện
những kỹ năng mềm cần thiết, tuy vậy nếu không có sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình
của các thầy cô về cách thức làm việc nhóm, phương pháp thuyết trình, tham gia thảo
luận trên lớp và ngay cả việc tự học của các bạn sinh viên thì các bạn sinh viên sẽ gặp
nhiều khó khăn và không đạt được kết quả cao trong học tập cũng như rèn luyện các
kỹ năng. Nhấn mạnh của thầy cô về tầm quan trọng kỹ năng mềm và việc rèn luyện
những kỹ năng đó của sinh viên thông qua phương pháp học tập mỗi môn học sẽ giúp
sinh viên nhận thức và rèn luyện những kỹ năng mềm tốt nhất.

Hiện tại có rất nhiều sách nói về kỹ năng mềm cũng như việc rèn luyện kỹ
năng mềm. Trong những cuốn sách tầm quan trọng của những kỹ năng mềm luôn
được đưa ra cùng cách áp dụng vào thực tế cuộc sống. Do vậy tìm đọc những cuốn
sách viết về kỹ năng mềm sẽ giúp các bạn nhận thức rõ nhất tầm quan trọng của kỹ
năng mềm cũng như phương pháp rèn luyện kỹ năng tốt nhất.

Kỹ năng mềm rất quan trọng với các bạn sinh viên trong công việc và cuộc
sống. Nhưng hiện tại các bạn sinh viên lại chú ý rất ít đến tầm quan trọng của kỹ năng

65
mềm cũng như việc rèn luyện kỹ năng mềm cho bản thân. Không ít suy nghĩ của các
bạn sinh viên cho rằng kỹ năng mềm là tự có và tự hoàn thiện, hay kỹ năng mềm là tài
năng bẩm sinh của mỗi người. Những buổi hội thảo về kỹ năng mềm và tầm quan
trọng của kỹ năng mềm do các bạn sinh viên trong trường tự tổ chức sẽ giúp các bạn
sinh viên có định hướng tốt trong việc rèn luyện kỹ năng mềm của bản thân.

Những buổi hội thảo khi sinh viên được giao lưu trực tiếp với các doanh
nghiệp sẽ là cơ hội để các bạn nhận ra tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong môi
trường làm việc sau này.

Sinh viên trong tất cả các trường đại học, cao đẳng đều đang không ngừng
hoàn thiện những kỹ năng mềm của bản thân. Do vậy những buổi giao lưu về rèn
luyện và phát triển kỹ năng mềm cùng sinh viên các trường đại học, cao đẳng sẽ giúp
các bạn sinh viên nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của kỹ năng mềm, học hỏi được
những kinh nghiệm cũng như cách thức và phương pháp học tập và rèn luyện kỹ năng
mềm một cách khoa học và hiệu quả nhất.

66
KẾT LUẬN

Như vậy với yêu cầu đặt ra trong cuộc sống và trong sự phát triển kinh tế đã
cho thấy được tầm quan trọng của các kỹ năng mềm. Kỹ năng mềm giúp sinh viên tự
tin, năng động giải quyết vấn đề một cách dễ dàng hơn để thành công trong công việc
cũng như làm chủ được cuộc sống của mình. Kỹ năng mềm quan trọng là thế song
thuật ngữ “kỹ năng mềm” vẫn còn là điều khá mới mẻ với nhiều bạn sinh viên. Những
năm gần đây hệ thống giáo dục bậc đại học, cao đẳng đã áp dụng hình thức đào tạo
theo hệ thống tín chỉ nhằm giúp các bạn sinh viên chủ động hơn trong quá trình học
tập qua đó gián tiếp rèn luyện cho các bạn sinh viên những kỹ năng mềm cần thiết.
Nhưng do một số yếu tố khách quan và chủ quan đã khiến việc đào tạo kỹ năng mềm
chưa thực sự đạt được kết quả như mong muốn. Bên cạnh những chính sách đào tạo từ
phía nhà trường sinh viên cũng cần nhận thức về việc rèn luyện kỹ năng mềm cho bản
thân để có thể nâng cao năng lực, trình độ góp phần tạo ra nguồn lực trí thức giúp đất
nước phát triển nhanh theo kịp tốc độ với các nước trong khu vực và trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các sách tham khảo.

1.Debra Fine. Small talk. NXB lao động xã hội 2010.

2. Hoàng Văn Kình, Nguyễn Văn Cát, Đào Thế Sơn. Đổi mới phương pháp giảng dạy bằng
tăng cường sử dụng mô hình và sơ đồ trong môn học kinh tế quốc tế. Trường Đại Học
Thương Mại 2003.

3. Keith Ferrazzi. Ai che lưng cho bạn. Nhà xuất bản trẻ 2010.

4. Leil Lowndes. Nghệ thuật giao tiếp để thành công: 92 thủ thuật giúp bạn trở thành bậc thầy
trong giao tiếp. NXB Lao động xã hội 2009.

5. Lê Thị Loan , Nguyễn Thị Phi Yến, Dương Thị Liễu. Vai trò của giáo dục đạo đức cho
sinh viên đối với việc phát huy nguồn lực con người trong các doanh nghiệp thương mại ở
Việt Nam hiện nay. Trường Đại Học Thương Mại 2001.

6. Patricia M. Buhler. Tự học kỹ năng quản lý trong 24 giờ. NXB Thống kê 2002.

7. Richard Hall. Thật đơn giản thuyết trình. NXB Lao động xã hội 2009.

8. Ros Jay. Thật đơn giản phỏng vấn tuyển dụng. NXB lao động xã hội 2009.

9. Trần Hùng, Hoàng Văn Lâm, Đàm Gia Mạnh. Xây dựng các trò chơi kinh doanh để vận
dụng vào việc giảng dạy các chuyên ngành quản trị kinh doanh. Trường Đại Học Thương
Mại 2002.

Các trang web tham khảo

1.http://tamviet.edu.vn/Desktop.aspx/Trang-chu/

2. http://kynangsong.org/forum.php

3. http://kynang.7pop.net/

4. http://www.webkynang.com/wp-signup.php?new=webkynang.com

5. http://kynangmem.com/
PHỤ LỤC
PHIẾU KHẢO SÁT THÔNG TIN VỀ KỸ NĂNG MỀM CỦA SINH VIÊN
ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI.
1. Bạn đang là sinh viên năm thứ mấy
□ Năm 1 □ Năm 2 □ Năm 3
□ Năm 4 □ Năm 5 □ Đã tốt nghiệp
2. Theo bạn, bạn cho rằng bản thân mình đã có được kỹ năng nào rồi? (bạn có thể chọn
nhiều hơn 1 kỹ năng)
□ Kỹ năng học và tự học □ Kỹ năng thuyết trình
□ Kỹ năng lãnh đạo bản thân và □ Kỹ năng giao tiếp ứng xử
hình ảnh cá nhân
□ Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo □ Kỹ năng giải quyết vấn đề
hiểm
□ Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức □ Kỹ năng làm việc đồng
công việc đội
□ Kỹ năng lắng nghe □ Kỹ năng đàm phán

Kỹ năng khác:
3. Theo bạn, kỹ năng nào cần thiết trong thời gian sinh viên học đại học? (bạn có thể
chọn nhiều hơn 1 kỹ năng)
□ Kỹ năng học và tự học □ Kỹ năng thuyết trình
□ Kỹ năng lãnh đạo bản thân và □ Kỹ năng giao tiếp ứng xử
hình ảnh cá nhân
□ Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo □ Kỹ năng giải quyết vấn đề
hiểm
□ Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức □ Kỹ năng làm việc đồng
công việc đội
□ Kỹ năng lắng nghe □ Kỹ năng đàm phán

Kỹ năng khác:
4. Theo bạn kỹ năng nào cần thiết khi đi làm việc? (bạn có thể chọn nhiều hơn 1 kỹ
năng)
□ Kỹ năng học và tự học □ Kỹ năng thuyết trình
□ Kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình □ Kỹ năng giao tiếp
ảnh cá nhân ứng xử
□ Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo □ Kỹ năng giải quyết
hiểm vấn đề
□ Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức □ Kỹ năng làm việc
công việc đồng đội
□ Kỹ năng lắng nghe □ Kỹ năng đàm phán

Kỹ năng khác:
5. Theo bạn, tại sao kỹ năng mềm lại quan trọng? (bạn có thể chọn nhiều hơn 1 lựa
chọn)
□ Giúp dễ xin việc làm □ Giúp kiếm được việc làm có lương cao
□ Giúp dễ thăng tiến trong công việc □ Giúp tiết kiệm thời gian và sức lực
Lý do khác:

6. Theo bạn, hình thức lớp học kỹ năng như thế nào là hiệu quả?
□ Lớp học truyền thống, chỉ nghe giảng, thỉnh thoảng đặt câu hỏi
□ Lớp học truyền thống nhưng có kết hợp máy chiếu projector (powerpoint)
□ Lớp học có các thiết bị hỗ trợ (giấy bút, tranh ảnh, mô hình)
□ Lớp học dạng sinh hoạt ngoài trời
□ Lớp học trong đó giảng viên tương tác liên tục với sinh viên
7. Theo bạn, hình thức dạy và học kỹ năng như thế nào là hiệu quả?
□ Thông qua các trò chơi nhỏ, có lồng ghép các bài giảng về kỹ năng
□ Thông qua làm bài tập đa dạng trên lớp và ở nhà
□ Thông qua sự lồng ghép vào một môn học lý thuyết chuyên môn trên lớp
(dưới dạng seminar, đề tài)
□ Thông qua các hoạt động tình nguyện xã hội
8. Theo bạn, lớp học kỹ năng bao nhiêu người là phù hợp?
□ ít hơn 10 người □ từ 10 - dưới 20 người
□ từ 20 - dưới 30 người □ từ 30 - dưới 40 người
□ từ 40 - dưới 50 người □ từ 50 người trở lên
9. Theo bạn, làm sao biết được là mình đã có kỹ năng nào đó rồi?
□ Tự cảm nhận
□ Trong quá trình làm việc, tự cảm nhận
□ Dựa trên kết quả công việc đã đạt được
□ Theo đánh giá, nhận xét của những người lớn hơn mình
10. Theo bạn, cách nào để kỹ năng của mình trở nên thành thạo?
□ Chủ động áp dụng kỹ năng vào công việc hàng ngày
□ Học và luyện tập với giảng viên thường xuyên
□ Đọc sách, báo, internet và phân tích các tình huống thực tế
□ Có môi trường bắt buộc mình phải sử dụng đến kỹ năng
11. Theo bạn, học phí của một khóa học khoảng bao nhiêu thì bạn chấp nhận theo học?
................................................................................................................................................
12. Bạn đã từng tham gia học lớp kỹ năng mềm nào chưa?
□ Rồi □ Chưa
13. Nếu có một chương trình tập huấn kỹ năng mềm cho Sinh viên, bạn mong muốn
chương trình đó về nội dung và hình thức sẽ như thế nào?
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................

You might also like