You are on page 1of 15

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................................................2
NỘI DUNG................................................................................................................................3
I. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CƯƠNG LĨNH
ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG............................................................................................3
1.Thống nhất các tổ chức cộng sản........................................................................3
2. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng...........................................................................4
II. Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930).....................10
III. Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội lần thứ II của Đảng
(2-1951) ....................................................................................................................................11
IV. So sánh chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt với cương lĩnh chính trị T10
năm 1930..................................................................................................................................12
KẾT LUẬN..............................................................................................................................16

1
MỞ ĐẦU
-NỘI DUNG
I. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CƯƠNG LĨNH
ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
1.Thống nhất các tổ chức cộng sản
Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Quốc tế cộng sản đã
gửi thư cho những người cộng sản ở Đông Dương nêu rõ: "nhiệm vụ quan trọng hơn hết và
tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sớm lập một đảng cách
mạng của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản quần chúng. Đảng ấy phải là một đảng
duy nhất và ở Đông Dương chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi".
Quốc tế cộng sản đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn ái Quốc chịu trách nhiệm "hợp nhất
các phần tử cộng sản chân chính lại, để thành lập một đảng duy nhất". Nhận chỉ thị này, mùa
thu nǎm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Thái Lan trở lại Hương Cảng chuẩn bị kế hoạch
thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại nói trên.
Từ ngày 3 đến 7 tháng 2 nǎm 1930, Hội nghị hợp nhất được tiến hành tại nhà một
công nhân ở xóm thợ đường Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc). Tham dự Hội nghị có
các đồng chí Trịnh Đình Cửu và Nguyên Đức Cảnh, đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng;
Nguyên Thiệu và Châu Vǎn Liêm, đại biểu của An Nam cộng sản đang. Hội nghị tiến hành
dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn ái Quốc, đại biểu của Quốc tế cộng sản.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, các đại biểu đã hoàn toàn nhất trí tán thành ý kiến
của đồng chí Nguyễn ái Quốc và thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên là
Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của
Đảng cộng sản Việt Nam. Những vǎn kiện quan trọng này đều do đồng chí Nguyễn ái Quốc
dự thảo. Hội nghị còn thông qua Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế
cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến quần chúng công, nông, binh, đồng bào và
đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị đã nhất trí về việc hợp nhất và tổ chức các đoàn thể quần chúng; thông qua
Điều lệ tóm tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên cộng sản, Hội phụ nữ, Hội cứu tế
đỏ, Hội phản đế (tức Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc)v.v..
Hội nghị còn quyết định kế hoạch thống nhất các cơ sở Đảng trong cả nước, thể thức
cử Ban chấp hành trung ương lâm thời và bàn việc liên hệ để thu nạp Đông Dương cộng sản
liên đoàn.
Hội nghị cũng nhất trí rằng, khi về nước các đại biểu đêu lấy danh nghĩa thay mặt đại
biểu quốc tế (tức là đồng chí Nguyễn ái Quốc) mà tiến hành công việc của Hội nghị hợp nhất.

2
Nói về nỗi vui sướng của ngươi cộng sản trước sự kiện lịch sử này, về sau đồng chí
Nguyễn Thiệu, đại biểu của An Nam cộng sản đảng dự Hội nghị hợp nhất đã viết: "Tôi vô
cùng cảm ơn đồng chí Vương (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã làm cho tôi được thoả lòng.
Đảng mới, tên mới, tất cả đều thống nhất theo tinh thần mới. Có thể nói rằng, mỗi người đều
được mà chẳng ai mất gì. Đồng chí Vương đã đem lại cho chúng tôi nhiều quá, nhiều gấp mấy
lần những điều mà chúng tôi mong ước. Đêm ấy về nhà, chúng tôi không ngủ được vì quá vui
mừng
Nhờ sự hoạt động tích cực của các đồng chí đại biểu thay mặt đồng chí Nguyễn ái
Quốc, chỉ trong một thời gian ngắn, các đảng bộ ở cơ sở đã được hợp nhất. Các tổ chức quần
chúng cũng thống nhất theo điều lệ mới. Lâm thời chấp uỷ của Đảng ở các xứ được chỉ định
và Ban chấp hành trung ương lâm thời được thành lập. Các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn
Hới, Trần Vân Lan, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao, Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt được các
đảng bộ cử vào Ban chấp hành trung ương lâm thời do đồng chí Trịnh Đình Cửu đứng đầu.
Đảng bộ Hoa kiều ở Chợ Lớn cũng cử đồng chí Lưu Lập Đạo '74ham gia Ban chấp
hành trung ương lâm thời của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 24 tháng 2 nǎm 1930, hai đồng
chí Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Thiệu thay mặt đại biểu quốc tế, các đồng chí Phan Hữu Lầu,
Hoàng Quốc việt thay mặt Ban chấp hành trung ương lâm thời cùng với đồng chí Ngô Gia
Tự, Bí thư lâm thời chấp uỷ của Đảng bộ Nam Kỳ đã họp và quyết định chấp nhận Đông
Dương cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.
Như vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ chức cộng sản
ở Đông Dương đã hoàn toàn thống nhất trong một đảng duy nhất Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 nǎm 1930 có ý nghĩa như
Đại hôi thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra một đường lối cách mạng và đường lối xây dựng
Đảng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Đường
lối đúng đắn đó là điều kiện quan trọng nhất để ba tổ chức cộng sản nhanh chóng thống nhất ý
chí và hành động, gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chiến lược đúng đắn là sự cổ vũ to lớn
đối với phong trào cách mạng đang ở thời kỳ phát triển sôi sục. Đường lối của Đảng được
công bố trở thành tiếng kèn tập hợp lực lượng quần chúng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc.
Chính cương lĩnh vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Lời kêu gọi được Hội nghị hợp nhất
thông qua làCương lĩnh đầu tiên của Đảng...
2. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng

3
Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam là một xứ thuộc địa, nửa
phong kiến, công nghiệp không phát triển "vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản, làm
cho nghành công nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được".
Kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế, "nông nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm
khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều". Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng kịch
liệt giữa một bên là dân tộc ta trong đó có công nhân, nông dân và toàn thể dân tộc với một
bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Đánh giá hai giai cấp tư sản và địa chủ là những đối
tượng cần xoá bỏ, Đảng ta đã có sự phân biệt: "Tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không
nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe
đế quốc chủ nghĩa". Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Đây là một thể loại cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa mà sinh thời Mác, Lênin
và ngay cả Quốc tế cộng sản cũng chưa nói đến. Sau này, Đang ta hoàn chỉnh tên gọi của thể
loại cách mạng này, và được gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai của
chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Theo tư tưởng của đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc vận động giải
phóng dân tộc và cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi giai
đoạn cách mạng là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuộc vận
động này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước
thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi, Vì vậy, giữa hai giai đoạn
cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngǎn
cách, không phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lân thứ hai để giải quyết vấn đê
chính quyền như cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc.
Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu suốt con
đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách
mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đâu tiên của Đảng là
cương lĩnh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng mà Cương lĩnh vạch ra là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập tổ chức ra quân đội công nông"
thâu hết sản nghiệp lớn... của tư bản đế quốc,..thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm

4
của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo mở mang công nghiệp và nông
nghiệp thi hành luật ngày làm 8 giờ"
Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội chủ nghĩa.
Song, nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng (đại địa chủ, đại tư sản phản
cách mạng và vua quan phong kiến) giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp
cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ
yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến
thắng lợi hoàn toàn.
Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng chủ
trương giải quyết hài hoà từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng dù còn có những
mâu thuẫn nhất định về quyền lợi. Vê vấn đê ruộng đất, "xương sống của cách mạng thuộc
địa", Đảng chủ trương tiến hành từng bước với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ
cách mạng. ở giai đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của
đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông dân nghèo, "phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" Đối với
chủ nghĩa tư bản thì "thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của
tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh". Còn đối với các tầng
lớp "phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải
lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập". Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc giành được
thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông, Đảng sẽ lãnh đạo tiến hành những cải cách nhằm
sửa đổi lại những bất công và phân phối lợi nhuận giữa những nhà tư sản và những người vô
sản một cách công bằng hơn.
Trong khi khẳng định "công nông là gốc cách mạng", Sách lược vắn tắt của Đảng
vạch rõ, "phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông Thanh niên, Tân Việt, v.v.
để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp"
Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các giai
cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào
đường thoả hiệp" Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực
cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng
ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong mặt
trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà đội quân tiên
phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong khi tuyên truyền cái khẩu

5
hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân
tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp"
Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng... phải thu phục
cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng
đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến", đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách
mạng và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân tộc
và để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Đảng cộng sản Việt Nam kết nạp đảng viên không những trong công nhân tiên tiến,
mà còn kết nạp những người tiên tiến trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và trong
các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ
nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động.
Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hǎng
hái tranh đấu và dám hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu
trong một bộ phận Đảng".
Trong tôn chỉ của mình, Đảng chỉ rõ phải "lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp
tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản". Do sớm
nhận thức được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, coi trọng độc lập tự chủ, tự lực tự cường của
từng quốc gia, Hội nghị hợp nhất chủ trương thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; đồng thời có
kế hoạch giúp những người cách mạng ở Lào và ở Campuchia sáng lập ra đảng tiên phong
của dân tộc mình. Sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, tháng 4 nǎm 1930, một số chi
bộ cộng sản đầu tiên của giai cấp vô sản và nhân dân lao động Lào đã ra đời ở Viên Chǎn,
Thà Khẹt, Bò Neng. Đầu nǎm 1930, một số nhóm cộng sản ở Campuchia được thành lập ở
Phnômpênh và ở Côngpôngchàm. Chi bộ cộng sản đâu tiên ở Campuchia được thành lập ở
trường trung học Xixôvát (Phnômpênh).
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân chỉ chiếm
1,2% dân số, đã có Cương lĩnh cách mạng đúng đắn nguy từ đâu. Điều đó chứng minh rằng,
Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và cách mang của chủ nghĩa Mác Llênin giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với
yếu tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
vô sản, phát huy được truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp cách
mạng, đoàn kết được các lực lương yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo
cách mang.

6
Cương lĩnh đâu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác
Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ
thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn ái Quốc về cách
mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nhưng không phải những giá trị tư tưởng, đường lối đúng đắn trên đã được mọi người
nhận thức, quán triệt. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10 nǎm 1930 đã phê
phán những "sai lầm" của Hội nghị hợp nhất và quyết định "thủ tiêu Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt và Điều lệ" của Đảng, thông qua Luận cương chính trị theo tinh thần chỉ thị
củaQuốc tế cộng sản, đổi tên đảng là "Đảng cộng sản Đông Dương ".
Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên do Hội nghị thành lập Đảng
vạch ra với Luận cương chính trị và các vǎn kiện của Hội nghị trung ương Đảng tháng l01930
là vì không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc, mà còn do xác định
đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện cụ thể của nước ta. Đồng chí
Nguyễn ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, đánh giá đúng hơn và đầy đủ
hơn yếu tố dân tộc trong cách mạng Việt Nam.
Tuy bị phê phán, nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho sự đúng
đắn, sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên.
Sau 30 nǎm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh;
(tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã viết: "Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha
của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng ta đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to
lớn chung quanh giai cấp mình.
Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó,
quyền lãnh đạo của Đảng ta Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tǎng
cường".
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự phát triển tất yếu khách quan của xã hội
Việt Nam.Điều kiện quốc tế cho sự ra đời của Đảng là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười
Nga, sự thành lập Quốc tế cộng sản và nhiều đảng cộng sản ở khắp các lục địa.
Ở nước ta, giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, phong trào
yêu nước đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác Lênin.
Đường lối cứu nước theo chủ nghĩa Mác Lênin, đã chiến thắng đường lối cải lương và
quốc gia cách mạng. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển dưới sự chỉ đạo của tư tưởng,
đường lối, phương pháp cách mạng của đồng chí Nguyễn ái Quốc.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng; đồng thời, với
sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (921930), đánh dấu sự chấm dứt ảnh hưởng của hệ tư
tưởng tư sản, xác lập ảnh hưởng của hệ tư tưởng vô sản trong cách mạng Việt Nam.

7
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đâu thời đại mới trong lịch sử nước ta, thời đại
giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung tâm, kết hợp mọi phong trào
yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương hướng phát triển của xã hội Việt Nam.
Đây là thời đại nhân dân Việt Nam không chỉ làm nên lịch sử vẻ vang của mình, mà còn góp
phần vào sự nghiệp chung của các dân tộc bị áp bức là xoá bỏ hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, giành độc lập, dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội.
Nắm vững chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Nguyễn ái Quốc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, cách mạng Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với phong trào cách mạng các nước, kết hợp
nhân tố dân tộc với nhân tố giai cấp, dân tộc với quốc tế, dân tộc với thời đại, độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội, tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc xâm
lược và xây dựng đất nước giàu mạnh. Quá trình chuẩn bị và thành lập Đảng eộng sản cho ta
những kết luận:
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phầm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Học thuyết Mác Lênin khẳng định rằng, Đảng công sản là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân. Quy luật chung này được đồng chí Nguyễn ái
Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp công nhân còn ít về số lượng,
nhưng người vô sản bị áp bức, bóc lột thì đồng. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong
trào công nông và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Muốn xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải coi trọng đầy
đủ cả ba yếu tố trên.
Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền cao và thống
nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đảng ta là con đẻ của phong trào cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp
lao động và trưởng thành thông qua đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến.
Muốn củng cố và phát triển Đảng, đòi hỏi phải củng cố và phát triển phong trào cách
mạng của quần chúng. Đảng mật thiết liên hệ với quần chúng, hướng dẫn, lãnh đạo phong
trào quần chúng, thông qua thực tiễn phong trào cách mạng mà củng cố và phát triển Đảng.
Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả thống nhất của phong trào
cách mạng trong cả nước, là sự đồng tâm nhất trí của những chiến sĩ tiên phong.
Những người cộng sản Việt Nam dù ở trong Đông Dương cộng sản đảng, An Nam
cộng sản đảng hay Đông Dương cộng sản liên đoàn, lúc bấy giờ tuy có những vấn đề bất
đồng, nhưng đã biết đề cao trách nhiệm của đội tiên phong, đặt lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp
lên trên hết nên đã sớm thống nhất vào một đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

8
Thứ tư, đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện
trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tãt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và
toàn dân.
Cương lĩnh đâu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo
phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập.
Thực tiễn cách mạng nước ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của
những tư tưởng chiến lược và sách lược trên đây của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đại hội đại
biểu toàn quốc lân thứ VII của Đảng đã khẳng định: "lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động" của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.

II. Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930)

Tháng 10-1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hương Cảng do điều kiện trong
nước bị đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao phong trào cách mạng. Hội nghị họp từ ngày 14-10
đến 31-10-1930 thảo luận và thông qua bản Luận cương chánh trị, án nghị quyết của Trung
ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng,
Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Hội nghị thông qua 17 văn
bản là Nghị quyết, Điều lệ của các tổ chức đoàn thể cách mạng ở nước ta, công tác vận động
công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, lập Hội đồng minh phản đế Đông Dương
và bản Thông cáo cho các Xứ ủy bổ sung nội dung của Cương lĩnh. Hội nghị Trung ương
quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bầu đồng
chí Trần Phú làm Tổng Bí thư, nên Cương lĩnh thứ hai mà bản Luận cương chánh trị là văn
kiện quan trọng, mang tên là Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Luận cương chánh trị do đồng chí Trần Phú (1904 - 1931) dự thảo từ mùa hè đến mùa
thu 1930, sau khi được Quốc tế Cộng sản và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phái về nước, cử bổ
sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, trên cơ sở nghiên cứu lý luận Mác - Lênin,
đường lối Đại hội VI (1928) Quốc tế Cộng sản về Đảng Cộng sản và cách mạng dân chủ tư
sản kiểu mới; các tài liệu, văn kiện Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng (2-1930) và khảo sát
các phong trào công nhân, nông dân một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định,
Thái Bình, khu mỏ than Hồng Gai - Cẩm Phả...

Từ phân tích tính chất, đặc điểm của xã hội các nước Đông Dương thuộc địa của đế
quốc Pháp; những mâu thuẫn kinh tế, giai cấp tạo nên mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân Đông

9
Dương và đế quốc chủ nghĩa Pháp, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương có
những điểm cơ bản giống với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đó là tính chất cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền tiến lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; là độc lập hoàn
toàn cho các dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân Đông Dương, lập chính phủ, quân đội nhân
dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết với giai cấp vô sản quốc tế, các dân tộc bị áp
bức trên thế giới và sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực theo phương thức tổng bãi công,
bạo động võ trang khi có thời cơ; Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, trung thành
và hy sinh hết thảy vì lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và nhân dân lao động...(2).

Tuy vậy, Luận cương chánh trị, Án nghị quyết và Điều lệ Đảng Cộng sản Đông
Dương có những điểm khác biệt, nhưng không đối lập về tư tưởng chính trị với Chánh cương,
Sách lược và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những điểm khác biệt đó là ở chỗ bỏ tên
"Việt Nam Cộng sản Đảng", lấy tên "Đông Dương Cộng sản Đảng"; chủ trương làm cách
mạng tư sản dân quyền trong toàn cõi Đông Dương; lực lượng cách mạng chỉ trong công
nhân, nông dân, binh lính, chưa thấy hết vai trò của lực lượng yêu nước trong tiểu tư sản, tư
sản dân tộc; xác định mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong
kiến, giữa độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân tuy biện chứng, sâu sắc nhưng chưa định được
xu hướng phát triển nhiệm vụ giải phóng dân tộc có tính quyết định hàng đầu; hệ thống tổ
chức của Đảng quy định thêm tổng bộ, xứ bộ, quận bộ, liên khu bộ và Đảng đoàn (3).

Có những nguyên nhân của sự tương đồng và nguyên nhân của sự khác biệt giữa
Cương lĩnh đầu tiên và Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Nguyên nhân chính là do nhận thức và
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản về lập Đảng Cộng sản, về
cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới vào điều kiện nước ta; vai trò của lãnh tụ Đảng, lãnh tụ
dân tộc và chính sách phản động đàn áp khủng bố của đế quốc, phong kiến.

III. Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội lần thứ II của Đảng
(2-1951)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 11
đến 19-2-1951 tại xã Vinh Quang (nay xã Kim Bình), huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Đại
hội đưa ra những văn kiện quan trọng: Diễn văn khai mạc Đại hội do đồng chí Tôn Đức
Thắng đọc; Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ
nghĩa xã hội, tức là bản Luận cương cách mạng Việt Nam, do đồng chí Trường Chinh trình
bày; Chính cương Đảng Lao động Việt Nam; Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam; Tuyên ngôn

10
của Đảng Lao động Việt Nam, là những văn kiện chủ yếu về nội dung Cương lĩnh thứ ba của
Đảng. Tại Đại hội có 6 báo cáo tham luận về Mặt trận, chính quyền dân chủ nhân dân, xây
dựng quân đội, kinh tế tài chính, xây dựng văn nghệ nhân dân và thi đua ái quốc cùng 4 Nghị
quyết Đại hội về Báo cáo chính trị, công tác quân sự, công tác mặt trận và dân vận, về tờ báo
Nhân dân là cơ quan Trung ương của Đảng, bổ sung cho nội dung Đại hội.

Báo cáo chính trị đã tổng kết khái quát tình hình thế giới trong nửa đầu thế kỷ XX;
thắng lợi cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời lãnh đạo qua các thời kỳ cho đến giai đoạn
tổng phản công của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đề ra từ năm 1950, đã chứng tỏ
đường lối, chính sách của Đảng ta là đúng; thành tích nhiều, khuyết điểm cũng không ít như
khuynh hướng hoặc "tả" hoặc "hữu", chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công
thần. Từ đó xác định tình hình mới, nhiệm vụ mới của Đảng, nhiệm vụ chính trước mắt là đưa
kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và tổ chức xây dựng Đảng Lao động Việt Nam, để lãnh
đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện tiến đến chủ nghĩa xã hội" (4).

Luận cương cách mạng Việt Nam là bản Cương lĩnh chính trị mới của Đảng. Phân tích
tính chất xã hội Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp: dân chủ nhân dân, một phần thuộc
địa và phần nửa phong kiến; mâu thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược
diễn ra quyết liệt dưới hình thức chiến tranh; đối tượng của cách mạng Việt Nam là thực dân
Pháp và can thiệp Mỹ cùng bè lũ Việt gian bù nhìn bán nước; xác định nhiệm vụ cơ bản hiện
thời của cách mạng là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập
thống nhất, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng,
phát triển chế độ dân chủ nhân dân; gây cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Điều
đó có nghĩa cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, nhiệm vụ phản
đế giải phóng dân tộc là trọng tâm, nhiệm vụ chống phong kiến, giành quyền dân chủ tiến
hành đồng thời nhưng phải có kế hoạch tiến hành từng bước, nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao
gồm cả hai nhiệm vụ phản đế và phản phong; cách mạng dân tộc dân chủ do nhân dân tiến
hành dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường
tiến đến chủ nghĩa xã hội trải qua một thời gian dài gồm 3 giai đoạn, kế tục nhau và quan hệ
mật thiết: kháng chiến tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà nước dân
chủ nhân dân; cải cách ruộng đất triệt để, phát triển nông nghiệp, công nghiệp dưới hình thức
hợp tác hóa, kỹ nghệ hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội.

IV. So sánh chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt với cương lĩnh chính trị T10
năm 1930

11
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử, là một bước ngoặt vĩ đại
của cách mạng Việt Nam. Để xác lập đường lối, chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng
Việt Nam và tôn chỉ mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam,
cương lĩnh chính trị đã được vạch ra. Tại hội nghị thành lập Đảng từ ngày 3/2/1930 đến ngày
7/2/1930 ở Hương Cảng – Trung Quốc, các đại biểu đã nhất trí thông qua Chính cương vắn
tắt, Sách lược văn tắt và Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó
hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta-Cương lĩnh Hồ Chí Minh. Tiếp theo đó,
vào tháng 10.1930 cũng tại Hương Cảng-Trung Quốc Ban chấp hành Trung ương họp Hội
nghị lần thứ nhất đã thông qua Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo.

Cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị là những văn kiện thể hiện đường lối cách
mạng của Đảng ta. Vậy giữa hai văn kiện này có những điểm gì giống và khác nhau ?. Chúng
ta hãy cùng tìm hiểu vấn đề này.

Hai văn kiện trên được xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, xác định rõ
phương hướng chiến lược, nhiệm vụ cụ thể và cơ bản, lực lượng cách mạng, phương pháp
cách mạng, đoàn kết quốc tế và vai trò lãnh đạo của Đảng.

Trong mỗi khía cạnh trên đều thể hiện rõ sự giống và khác nhau giữa hai văn kiện.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) và Luận cương chính trị(10/1930) có
những điểm giống nhau sau:

Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được tích
chất của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp
nhau không có bức tường ngăn cách. Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời
đại và nguyện vọng đông đảo của nhân dân Việt Nam.

Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và
giành độc lập dân tộc.

Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng
nòng cốt và cơ bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc
nước ta.

12
Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả
về chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và
phong kiến, giành chính quyền về tay công nông.

Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế
giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.

Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là đội
tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm
cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng Cộng sản
Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam”. Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần
chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ
đại năm 1917.

Bên cạnh những điểm giống nhau, hai cương lĩnh trên có một số điểm khác sau:
Cương lĩnh chính trị xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn Luận cương rộng hơn
(Đông Dương).

Một là, xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: Trong cương lĩnh chính trị xác
định kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau đó mới đánh đổ phong kiến và
tay sai phản cách mạng( nhiệm vụ dân tộc và dân chủ). Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm
vụ trọng đại của cách mạng, nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết.
Như vậy mục tiêu của cưong lĩnh xác định: làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân
được tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân cày
nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ chức cho quân đội công nông, thi hành
chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa. Trong
Luận cương chính trị thì xác định phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ
các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến
lược dân chủ và dân tộc được tiến hành cùng một lúc có quan hệ khăng khít với nhau. Việc
xác định nhiệm vụ như vậy của Luận cương đã đáp ứng những yêu cầu khách quan đồng thời
giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu
thuẫn giai cấp đang ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, Luận cương chưa xác định được kẻ thù,
nhiệm vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nên không nêu cao vấn đề dân tộc
lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề cách mạng ruộng đất.

13
Hai là, về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng cách
mạng là giai cấp công nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với
tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam
chưa rõ mặt phản cách mạng. Như vậy, ngoài việc xác định lực lượng nòng cốt của cách mạng
là giai cấp công nhân thì cương lĩnh cũng phát huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân
tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc. Với Luận cương thì xác định giai
cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó
giai cấp vô sản là đông lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân có số
lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp
khác ngoài công nông như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng,
còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao
thì họ sẽ theo đế quốc. Điều đó cho thấy ta chưa phát huy được khối đoàn kết dân tộc, chưa
đánh giá đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và
phong kiến ở mức độ nhất định của tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu
địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay sai. Tóm lại, Luận cương
đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm chủ yếu của Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được nhiệm vụ nòng cốt của cách mạng. Tuy
nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định: Sử dụng một cách dập khuân máy
móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp.
Còn Cương lĩnh chính trị tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra phương hương cơ bản
của cách mạng nước ta, phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-
Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam,
nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử .
Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn cùng với sự ra
đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát
triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta. Chúng là nền tảng cho những văn kiện
nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận, tư tưởng.

14
KẾT LUẬN

Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh
đạo đã đi qua chặng đường lịch sử 80 năm. Đảng đã tiến hành 10 Đại hội đại biểu toàn quốc,
có 3 Cương lĩnh về cách mạng dân tộc dân chủ, và 1 Cương lĩnh về thời kỳ đổi mới, xây dựng
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo thời gian và tiến trình lịch sử, mỗi Cương
lĩnh của Đảng chứa đựng những giá trị nội dung và ý nghĩa lớn lao riêng.

Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là đảng cầm quyền tại Việt Nam theo Hiến
pháp, đồng thời cũng là đảng duy nhất được phép hoạt động. Theo Cương lĩnh và Điều lệ
chính thức được công bố, Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx-Lenin (Marxism-
Leninism) và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Trên
thực tế, chủ nghĩa dân tộc, một số yếu tố tích cực của chủ nghĩa tư bản và cả một vài yếu tố có
tính truyền thống của ý thức hệ phong kiến cũng có những ảnh hưởng nhất định. Tại Việt
Nam, trong các ngữ cảnh không chính thức, các phương tiện truyền thông, các nhà lãnh đạo,
và đại bộ phận người dân thường dùng một từ "Đảng" (hoặc "Đảng ta") để nói về Đảng Cộng
sản Việt Nam.

15

You might also like