You are on page 1of 31

1. Khoan dung có nghĩa là lấy lòng tốt mà dung thứ, mà đối xử.

Con người
bình thường cũng có lòng khoan dung nhưng để đạt tới văn hoá khoan dung
thì còn là cả một hành trình mà không phải ai cũng dễ dàng vươn tới. Điều
đó chỉ có thể có ở những con người có nhân cách cao thượng, vốn sống, vốn
hiểu biết phong phú như Hồ Chí Minh, bởi lẽ khi nói đến văn hoá khoan
dung là nói đến một tầm cao về văn hoá, nếu như không có một năng lực
vượt trội thì không thể vươn tới được.

Các dân tộc trên thế giới đều có cách ứng xử của riêng mình, song hiếm có
dân tộc nào lại có lòng nhân ái, bao dung như dân tộc Việt Nam, khoan dung
ngay đối với cả kẻ thù! Điều đó được chứng minh qua lịch sử có bề dày
hàng ngàn năm văn hiến của dân tộc ta. Dân tộc Việt Nam, do vị thế địa lí
cũng như quy mô của mình, đã hình thành nên lối ứng xử khoan dung, nhân
hậu. Đó là lối ứng xử thông minh, đậm chất nhân văn.

Việt Nam ta nằm ở ngã tư đường giao lưu văn hoá thế giới, có nhiều tôn
giáo, triết thuyết được du nhập vào nước ta từ rất sớm. Người Việt Nam tiếp
nhận những nét đặc sắc của các tôn giáo, triết thuyết đó. Tất cả những điểm
mạnh đó sau này đều được Hồ Chí Minh đánh giá một cách công bình. Điều
tuyệt vời là ở Việt Nam không có chiến tranh, hay xung đột tôn giáo một
cách cực đoan như ở Phương Tây. Người Việt chọn lấy, chắt lọc lấy để ứng
xử, để hành sự, để rồi tạo nên cái bản ngã độc đáo cho riêng mình.

Trong quan hệ với láng giềng, nhân dân ta chọn lấy cách ứng xử hoà bình,
thân thiện, hữu nghị, thân ái. Ngay cả đối với kẻ thù cũng mở đức khoan
hoà, độ lượng. Chiến đấu là vì mục tiêu độc lập, tự do, hoà bình chứ không
hiếu sát. Vì thế, khi thắng trận ta vẫn thực hiện chính sách ngoại giao thân
thiện, chủ động đặt quan hệ ngoại giao với Trung Hoa trong các triều đại.
Trong thời trung đại, tinh thần đó thể hiện kết tinh ở Nguyễn Trãi khi quân
sư cho Lê lợi không giết kẻ bại trận mà cấp cho: Ngựa, thuyền bè, lương
thực để về nước; hành sự theo lối “mưu phạt công tâm” (Bình Ngô đại cáo)
không phải mang tiếng xấu đến muôn đời. Đó phải chăng là đặc sắc cửa tư
duy Việt Nam: Nhu cương kết hợp, mềm dẻo và kiên định, dung hoà để vượt
lên, khoan dung, đúng mực trong hành xử. Có thể nói mỗi người Việt Nam
đều mang trong mình tính Phật, tâm Phật.

Sinh ra trong lòng dân tộc, Hồ Chí Minh được tiếp nhận tất cả những tinh
hoa đó. Dù rất căm thù giặc, cái ác, cái xấu, nhưng Người luôn bình tĩnh
chọn lối hành xử khoan dung, chứ không cực đoan một chiều. Đó là đặc sắc
trong tư duy Hồ Chí Minh, trong văn hoá khoan dung Hồ Chí Minh. Văn
hoá đó được thể hiện rất rõ trên các mối quan hệ với các dân tộc, với các tôn
giáo, với con người và đối với các cộng đồng và các nền văn hoá khác nhau.

Đối với con người, không phân biệt màu da, chủng tộc, Hồ Chí Minh đều có
tình yêu thương, đồng cảm. Người nói “Theo tinh thần bốn bể đều là anh
em, tôi yêu mến thanh niên Pháp cũng như yêu mến thanh niên Việt Nam.
Đối với tôi, sinh mệnh của một người Pháp hay sinh mệnh của một người
Việt Nam đều đáng quý như nhau”(1). Người luôn chủ trương lấy tình yêu
thương mà cảm hoá, đối xử với con người, với nhân dân của mình. Người
căn dặn: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu
bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có
thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải
giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho phần thiện trong mỗi con người nẩy nở
để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”(2)

Đối với các tôn giáo, phương châm của Người là tôn trọng tự do tín ngưỡng,
đoàn kết tôn giáo, song hướng tới mục tiêu là vì sự nghiệp chung: Đạo pháp
- dân tộc- Chủ nghĩa xã hội, “phần xác thong dong, phần hồn hạnh phúc”,
sống tốt đời, đẹp đạo “Toàn thể đồng bào ta, không chia lương giáo đoàn
kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, để giữ gìn non sông Tổ quốc, mà cũng
là để giữ gìn quyền tôn giáo tự do”(3).

Đối với các dân tộc trong nước, Người nêu lên nguyên tắc: bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ, quy về trong vòng đồng tâm là con Lạc - cháu Hồng “Năm
ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp lại nhau nơi
bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác nhưng thế
này hay thế khác, đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại
độ….Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tinh thần thân
ái mà cảm hoá họ”(4).

Đối với kẻ thù, nhân nhượng, đại độ lúc có thể được, nhưng kiên quyết lúc
cần; luôn với thiện chí mở rộng cánh cửa đón lấy cơ hội hoà bình nhưng sẵn
sàng thổi tiếng kèn xung trận khi tình thế đã thay đổi. Trong một bức thư
Người viết “Chính phủ và nhân dân Việt Nam kiên quyết cộng tác thật thà
với người Pháp. Song khi phải hi sinh giữ chủ quyền của Tổ quốc cần hi
sinh thì phải kiên quyết hi sinh”(5)

Đối với nền văn hoá các dân tộc Đông - Tây, Người coi trọng sự giao lưu,
học hỏi, đối thoại cởi mở và sẵn sàng tiếp nhận tinh hoa văn hoá khác nhau.
Người nói: Mác, Khổng tử, Giê su, Tôn giật Tiên chẳng có những điểm
chung đó hay sao, tôi nguyện làm học trò nhỏ của các vị ấy!

Văn hoá khoan dung của Người, có thể nói là sự kết lọc nhân cách cao đẹp
của các vị sáng lập các tôn giáo, triết thuyết trong truyền thuyết và lịch sử,
của các nhà cách mạng tiền bối một cách nhuần nhị và sâu sắc. Có lẽ, chính
văn hoá khoan dung của Người, đã làm cho các mâu thuẫn trở nên nhẹ
nhàng hơn. Người dường như không bị chi phối bởi những khó khăn, luôn
thể hiện phong thái bình tĩnh, ung dung, tự tại. Chúng ta có cảm nhận rằng,
dường như Hồ Chí Minh không vội vàng để mất đi cơ hội thể hiện sức mạnh
văn hoá này.

Yếu tố nào đã tạo nên đặc sắc của văn hoá khoan dung Hồ Chí Minh? Phải
khẳng định rằng, Hồ Chí Minh tạo nên văn hoá khoan dung của mình cốt lõi
là từ truyền thống dân tộc song lại trên cơ sở dung hoà với những tinh tuý
trong văn hoá Đông – Tây. Đó là tinh thần tha nhân, triết lí “Lục hoà” của
đạo Phật, “Khiêm ái” của Mặc tử, thế giới đại đồng của Nho giáo, lòng nhân
đạo cao cả của đức Giê su, đó là tinh thần “tự do, bình đẳng, bác ái” của Chủ
nghĩa Khai sáng, phép biện chứng khoa học của chủ nghĩa Mác, nền văn hoá
ưu việt của giai cấp vô sản. Trong đó, phép biện chứng duy vật là hạt nhân
có ý nghĩa xâu chuỗi, liên kết. Người tiếp thu, cô đúc để hoàn thiện nâng
cao, rồi viễn vượt lên tất thảy những cái đó, chứ không dập khuôn, máy móc.
Vì thế văn hoá khoan dung của Người đã đạt đến tầm độ cao của Đức khoan
dung dân tộc, vừa kết tinh được những tinh anh của nhân loại, tiêu biểu cho
lối ứng xử của bậc thiên tài có tầm văn hoá sâu rộng vô cùng. Có thể thấy
rằng, chính văn hoá đó đã giúp Người tập hợp lực lượng, ngay cả việc tranh
thủ sự ủng hộ của kẻ thù, tận dụng sức mạnh tinh thần vì sự nghiệp chung,
mục tiêu chung. Từ văn hoá khoan dung, Hồ Chí Minh đã đạt tới những đỉnh
cao thắng lợi trong cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú, sôi nổi và sâu
sắc của mình.

2. Ngày ngay, chúng ta kế thừa và học hỏi được gì từ văn hoá đó. Lẽ dĩ
nhiên, nói đến văn hoá là nói đến giá trị và giá trị chỉ có ý nghĩa trường tồn
khi nó không ngừng được phát huy. Chúng ta phải không ngừng học hỏi và
vận dụng văn hoá Hồ Chí Minh trong thực tế cuộc sống hoạt động của mỗi
người. Trong bối cảnh toàn cầu hoá (Globalization) được xác định là nhiều
cơ hội nhưng cũng đầy thách thức và cả những cám dỗ. Cần học hỏi và vận
dụng ở Hồ Chí Minh về tư duy khoa học biện chứng, lối ứng xử chấp nhận -
bao dung- thanh lọc...để tiếp nhận những cái hay, cái đẹp của quá trình toàn
cầu hoá, nhưng mặt khác, kiên quyết loại trừ tác động xấu của nó. Việt Nam
“Chủ động hội nhập”, “sẵn sàng là bạn”, là “đối tác tin cậy” nhưng luôn giữ
gìn bản sắc tinh hoa dân tộc. Trong cuộc sống, đó sẽ là lối ứng xử chân
thành, biết lắng nghe, đối thoại và đồng cảm, “sống với nhau có nghĩa có
tình”.

Tìm hiểu văn hoá khoan dung Hồ Chí Minh, ta tìm thấy trong đó lấp lánh cả
một chiều sâu và tầm cao văn hoá, tinh hoa dân tộc và nhân loại hoà quyện
trong nhân cách vĩ đại của một Con người. Chúng ta tin tưởng, văn hoá
khoan dung Hồ Chí Minh sẽ là nền “văn hoá của tương lai” (như nhận định
nhà báo Ôxíp Manđenxtam năm 1924), nhất định văn hoá đó sẽ toả sáng rực
rỡ đồng hành cùng tương lai dân tộc ta..

Lòng nhân ái của Bác Hồ đối với tù binh Pháp ở


Mặt trận Biên giới 1950
,
Bác đã chỉ thị phải cứu chữa tận tình cho thương binh địch, không
được để tù binh thiếu ăn trong lúc thuốc men lương thực ta không
hề dư dật. Bác chỉ thị cho Bộ chỉ huy chiến dịch thông báo cho
phía Pháp rằng tựa sẽ trao trả tất cả số tù binh bị thương tại Thất
Khê.

Bác Hồ ở mặt trận Đông Khê


Giữa tháng 8 năm 1950, Ban Quân báo Mặt trận Biên giới triệu
tập các cán bộ phụ trách chuẩn bị tài liệu về bố trí phòng ngự của
Pháp ở Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê về Bộ chỉ huy chiến dịch
nghe phổ biến chỉ thị.

Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh sẽ chọn tiêu diệt Đông


Khê trước, đánh tiếp viện từ Thất Khê lên rồi sẽ đánh Thất Khê,
Cao Bằng.

Đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng thay mặt Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, chỉ huy trưởng chiến dịch, nói lại lời Bác
Hồ dặn lúc ra trận là ở khu vực Cao Bằng, Lạng Sơn địch bố trí
nhiều đơn vị lính Âu Phi tinh nhuệ nên cần chọn cán bộ quân báo
thông thạo tiếng Pháp, quán triệt chính sách chủ trương khoan
hồng nhân đạo của Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đối với hàng
binh, tù binh địch đã hạ súng.

Vì ngoài một số tên chỉ huy nặng đầu óc thực dân, đa số binh lính
địch là người lao động đi lính cho Pháp vì nhiều lý do khác nhau,
giác ngộ cho họ mục đích chiến đấu chính nghĩa của chúng ta, để
họ trở thành người chống chiến tranh phi nghĩa, người dân lương
thiện khi được trả về nước sau này.

Tôi trở về làm Phó trạm trưởng quân báo Đông Khê, khẩn trương
chuẩn bị cho các đơn vị chủ lực bước vào trận đánh quyết định
đầu tiên. Tôi còn được lệnh chọn một mỏm núi đá cao gần Chỉ
huy sở Bộ chỉ huy chiến dịch ở Nà Lạn, cách Đông Khê độ 10
km, có thể quan sát được tình hình các mặt trận từ Thất Khê lên
Đông Khê và Cao Bằng. Vào buổi sáng ngày 16/9/1950, quan sát
đài này được vinh dự đón Bác Hồ lên theo dõi trận đánh mở màn
qua ống nhòm. Sự kiện này đã đi vào lịch sử qua bức ảnh nổi
tiếng của nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An.

1. Với lòng khoan dung, chúng ta sẽ nhanh chóng giác ngộ


cho tù hàng binh địch

Sau hai ngày chiến đấu ác liệt ta tiêu diệt hoàn toàn cụm Đông
Khê, diệt và bắt sống trên 300 địch gồm toàn bộ Bộ chỉ huy phân
khu. Tôi ở lại kiểm tra, xác minh lại các tài liệu mà trước đây ta
chưa nắm được.

Lúc này Trạm Quân báo Đông Khê được giao trông nom khoảng
20 sỹ quan và binh lính Âu Phi bị thương nặng không thể chuyển
về tuyến sau được. Chúng tôi cùng các y sỹ, y tá chăm sóc họ trên
tinh thần khoan dung mà Bác Hồ và Bộ chỉ huy mặt trận đã chỉ
thị.

Tôi chia tốp tù binh này ra thành từng nhóm: Binh sỹ riêng, sỹ
quan riêng mỗi nhóm ở một góc hang Ngườm Khảm, bản Bó
Bạch và cho họ ăn cháo nóng ngay.

Chính nhờ thái độ nhân đạo này, các lính Âu Phi báo cho chúng
tôi biết có viên quan ba tên là Vô-le (Vollaire), chỉ huy phó
Phong Khê, bị thương nặng, gãy 1 tay mất nhiều máu đang nằm
lả ở góc hang đằng kia. Chúng tôi chăm sóc viên quan ba này chu
đáo hơn, cho thêm thức ăn, thuốc lá làm cho y dần trở nên dễ gần
hơn.

Và y bắt đầu tâm sự về gia đình, vợ con, việc từ một người tham
gia giải phóng Paris (Pháp) sang Việt Nam đánh nhau ở chốn biên
ải này. Cũng chính viên quan ba Vô-le này sớm lộ thông tin Chỉ
huy Pháp ở Đông Dương đang có chủ trương rút khỏi Cao Bằng,
Đông Khê, Thất Khê về củng cố tuyến bảo vệ vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Tôi liền cho liên lạc về báo cáo Ban quân báo mặt trận
tin quan trọng này và được xác minh khớp với một số nguồn tin
khác.

Sáng ngày hôm sau, khi Vô-le thấy chúng tôi uống trà sáng thơm
thơm thì xin được uống một ca với thái độ thích thú, y khen nước
trà gì mà thơm, uống vào thấy tim mình bớt rộn ràng, dễ chịu. Tôi
giải thích đó là nước lá vối tươi mọc đầy ven suối quanh đây, Vô-
le nói rằng đây chắc là một loại cây thuốc quý và xin được uống
thường ngày.

Đang nói chuyện với Vô-le thì trinh sát ngoài đồn Đông Khê hớt
hải về báo: Phi cơ địch vừa thả 2 quả bom có cột khói hình nấm
đen lên cao và rất nóng làm nhiều chiến sỹ ta đang thu dọn trên
Đồn Cao bị thương, bỏng rất nặng.
Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng có lẽ Mỹ đã viện trợ cho Pháp loại bom
nguyên tử chiến thuật như báo chí phương Tây rêu rao. Tôi đem
tin này hỏi Vô-le, y lấy bàn tay trái còn lành lặn cầm bút chì tôi
đưa viết nguệch ngoạch mấy chữ “NAPALM” và giải thích đấy là
loại bom xăng đặc, tên là Napan rất lợi hại, phát minh mới của
Mỹ.

Tôi liền viết báo cáo, cho người chạy ngay về Nà Lạn báo sự việc
vừa xảy ra. Đồng chí Cao Pha, Trưởng ban quân báo cho biết Bộ
chỉ huy chiến dịch gửi lời khen Trạm đã khai thác, báo cáo tình
hình kịp thời giúp tìm ra biện pháp đối phó với bom Napan mới
sau này.

Sau này Vô-le đã viết trong hồi ký của mình: “Chủ tịch Hồ Chí
Minh và dân tộc của Cụ đã xem chúng tôi chỉ là những công cụ
mù quáng, những quân nhân bị lừa phỉnh bởi những luận điệu
tuyên truyền dối trá.

Sự giam giữ này không phải là sự trừng phạt mà là cơ hội cho


những tù binh biến cải trở thành những chiến sỹ hòa bình…”
(Theo tác giả Hữu Ngọc đăng trên báo Le Courrier du Viet Nam
số 1857 ngày 27/2/2000).

Thế là đúng 50 năm sau, tôi ngẫu nhiên nhận được một phần
thưởng thú vị, vì đã làm đúng theo lời dạy của Bác Hồ.

2. Bác gặp tù binh Pháp

Đồn Đông Khê bị đánh tan, trạm quân báo Đông Khê kết thúc
nhiệm vụ. Tôi phân công các trinh sát viên đi theo các đơn vị chủ
lực chuẩn bị chờ đánh binh đoàn Le Page (Lơ-pa) từ Thất Khê lên
đón binh đoàn Charton (Sác-tông) bỏ Cao Bằng rút chạy.

Tôi và hai đồng chí anh nuôi và liên lạc thu xếp gửi 5 thương
binh nặng của địch cho đơn vị bộ đội địa phương để chờ trao trả,
còn 15 tù binh đã khỏe theo chúng tôi về trại. Chúng tôi về Bộ chỉ
huy nhận nhiệm vụ xuống trạm Thất Khê. Chúng tôi vừa mang
vác tài liệu thu được của địch, vừa gồng gánh nồi niêu xoong
chảo lại còn đèo bòng 15 “Ông Tây” to lớn thì quả là lúng túng.
Đồng chí liên lạc hiến kế lột giầy, tất treo lên cổ tù binh là hắn hết
chạy chốn dọc đường, thấy hợp lý là chúng tôi thực hiện ngay.

Đoàn về qua Nà Lạn, gần Bộ chỉ huy chiến dịch Biên giới, Bác
trông thấy một tù binh áo rách tả tơi, Bác bảo đồng chí phục vụ
lấy một cái áo trong ba-lô đem ra cho.

Sau đó Bác gọi đồng chí Cao Pha – Trưởng ban quân báo đến
bảo: “Sao chú cho lột giày tù binh rồi treo lên cổ họ? Đối với
người phương Tây, không có giầy dép họ đi lại rất khó khăn, khổ
sở. Nếu sợ tù binh chạy trốn thì chí ít chú phải cho họ đi tất
chứ!”.

Qua chuyện này, tôi vô cùng ân hận vì Bác nhắc nhở rất đúng. Từ
đó về sau tôi tự nhủ phải luôn sửa mình, sống cho nhân hậu với
mọi người, kể cả họ là kẻ thù đã buông súng.

Một hôm khác, Bác muốn đi gặp tù binh. Để giữ bí mật, Bác hóa
trang giống như một chiến sỹ bị thương. Bác đến trạm, ba sỹ quan
gồm quan tư A-li-úc (Allioux), tiểu đoàn trưởng, trưởng đồn
Đông Khê và hai quan hai đứng dậy khi Bác vào.

Bác nói ngay bằng tiếng Pháp: “Tôi tự giới thiệu, tôi là Việt kiều
ở Pháp đã tham gia cùng nhân dân Pháp chống Phát xít Đức.
Nghe lời kêu gọi của Chính phủ Hồ Chí Minh, tôi về nước cùng
đồng bào tôi kháng chiến. Còn các anh đến đây làm gì?”.

Tên quan tư trả lời: “Chúng tôi đến đây theo lệnh của cấp trên”.
Bác nhấn mạnh: “Các anh đều là những kẻ thực dân. Nhân dân
Việt Nam chống đế quốc xâm lược để bảo vệ Tổ quốc của mình,
cũng như nhân dân Pháp chống phát xít Đức trước đây…

Bây giờ các anh đã bị bắt làm tù binh, các anh phải tuân theo
những quy định của trại. Sau này nếu các anh có thái độ tốt thì tôi
sẽ đề nghị Chính phủ Việt Nam cho các anh hồi hương. Các anh
có kiến nghị gì thì gửi lên cho tôi theo địa chỉ này: Nguyễn Thắng
– Cố vấn Chính trị mặt trận”.

Các sỹ quan Pháp lặng lẽ cúi đầu suy nghĩ. Còn chúng tôi đứng
xung quanh thì hớn hở, lần đầu tiên được nghe Bác Hồ nói tiếng
Pháp vô cùng chuẩn xác với giọng Pa-ri trầm ấm và truyền cảm.
Chúng tôi học được cách đối nhân xử thế của Bác vô cùng hợp
lòng người, dù đó là kẻ mới vài ngày trước là kẻ thù không đội
trời chung của chúng ta.

3.Đêm lửa trại chưa từng thấy

Sau chiến thắng Biên giới – 1950, số tù binh rất đông, có nhiều
người bị thương rất nặng. Đó là một gánh nặng quá lớn với ngành
hậu cần. Bác đã chỉ thị phải cứu chữa tận tình cho thương binh
địch, không được để tù binh thiếu ăn trong lúc thuốc men lương
thực ta không hề dư dật. Bác chỉ thị cho Bộ chỉ huy chiến dịch
thông báo cho phía Pháp rằng tựa sẽ trao trả tất cả số tù binh bị
thương tại Thất Khê.

Đồng chí Cao Văn Khánh, Đại đoàn phó Đại đoàn 308, được
phân công làm nhiệm vụ trao trả thương binh địch cho Hồng thập
tự Pháp. Đồng chí triệu tập Ban chính trị – địch vận của Đại đoàn
và Trưởng trạm quân báo Thất Khê đến bàn tổ chức một đêm lửa
trại theo kiểu Hướng đạo sinh để bộ đội ta chào mừng chiến thắng
giòn giã chiến dịch Biên giới và gây ấn tượng sâu sắc đối với
thương binh địch mà đồng chí biết trong số họ thể nào cũng có
nhiều người trước đây là Hướng đạo sinh Pháp (nguyên văn đồng
chí nói là: Scout de France).

Đồng chí Cao Văn Khánh giao Trưởng ban chính trị –địch vận
đại đoàn lo chuẩn bị và điều khiển nội dung chương trình cho sôi
nổi, liên tục và hoành tráng; và giao cho tôi – Trưởng trạm quân
báo (trước cũng là một hướng đạo sinh ở Huế cùng với đồng chí
Cao Văn Khánh) lo vật chất, tức là chuẩn bị củi đủ cho một “đài
lửa” thật lớn đảm bảo cháy suốt 4-5 tiếng đồng hồ.

Trong đêm lửa trại, hầu hết thương binh địch đều có mặt, kể cả
thương binh nặng nằm trong lều nghe tiếng hát, tiếng đàn, tiếng
vỗ tay vọng vào cũng xin các anh chị hộ lý khiêng cáng ra dự
cuộc vui. Quanh đống lửa hồng bốc cao sáng rực, các chiến sỹ,
bác sỹ, hộ lý, dân công hỏa tuyến ta hát vang các bài ca Cách
mạng. Các thương binh địch hát các bài ca quê hương mình bằng
tiếng Pháp và các thứ tiếng Âu, Phi.
Bất ngờ một tù binh bị thương nào đó hô to: “Vive Ho-Chi-
Minh!” (Hồ Chí Minh muôn năm!) thì tất cả thương binh đồng
loạt hô theo.

Một thương binh địch ôm cánh tay cụt đứng dậy nghẹn ngào nói
bằng tiếng Pháp: “Tôi là người Đức bị Pháp bắt làm tù binh rồi ép
sang đây làm lính Lê dương. Năm năm rồi tôi rất khổ mà không
thèm khóc. Tối hôm nay tôi khóc vì sung sướng.

Tôi không bao giờ quên được buổi tối hôm nay. Mãi mãi khi nhớ
tới buổi lửa trại này tôi sẽ lại khóc. Cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí
Minh”. Những tiếng hô “Vive Ho-Chi-Minh!” lại rộ lên hưởng
ứng câu nói của anh thương binh người Đức.

“Đúng thật lòng họ! Hay quá! Y dịch lại cho bộ đội mình nghe
ngay đi”, đồng chí Cao Văn Khánh thốt lên. Tôi bật dậy dịch to,
chậm rãi từng ý của anh thương binh người Đức vừa nói. Lập tức
các đơn vị bộ đội dự lửa trại hô vang liên tiếp: “Hồ Chủ tịch
muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!” và
đồng loạt vỗ tay rần rần.

Hôm sau, trong lúc đang tiến hành trao trả tù binh bị thương cho
phía Pháp, một tù binh nằm trên cáng xin được ở lại đi chuyến
sau và xin được gặp người cán bộ quân đội Việt Nam phụ trách
việc trao trả và nói:

“Tôi suốt đời sống cô đơn, xung quanh tôi chỉ là sự lừa gạt. Tôi
căm ghét tất cả, kể cả đàn bà đẹp. Vì thế tôi vào lính Lê dương để
bắn giết, để trả thù đời. Đêm hôm qua tôi không ngủ. Tôi kêu
khát năm lần. Cả năm lần cô y tá đều mang nước đến cho tôi với
vẻ mặt dịu hiền.

Tôi hỏi cô vì sao cô không căm ghét tôi? Cô trả lời: “Nếu gặp anh
ngoài mặt trận, tôi sẽ bắn anh như bắn một con chó dại. Nhưng ở
đây, anh là kẻ bại trận, anh đã bị thương, chúng tôi đối xử với anh
như những con người”.

Tôi chỉ còn sống ít ngày nữa, nhưng thời gian ngắn ngủi đó là
quãng đời đẹp nhất của tôi. Quân đội ông sẽ thắng quân đội Pháp.
Ông hãy tự hào. Xin ông nhận lấy lời chúc mừng đầy kính trọng
của một kẻ bại trận, bại trận mà sung sướng! Vĩnh biệt ông”.

Chúng tôi cảm nhận được những thái độ, những lời nói này của tù
binh địch bị thương nặng là những cảm xúc thực sự xuất phát từ
đáy lòng họ qua những ngày sống dưới sự quản lý của quân đội
chúng ta đã thấm nhuần chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà
nước ta trước lúc ra trận, nhất là các lời dặn dò nhân hậu của Bác
luôn vang vọng trong trí óc của chúng tôi cho đến tận bây giờ.

Hà Nội, ngày 5 tháng 7 năm 2007

Phạm Y
(Cựu chiến binh tại mặt trận Biên giới 1950

Khoan dung Hồ Chí Minh


TS - Một phẩm chất cao đẹp ẩn trong danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh không dễ
diễn đạt mà chỉ có thể cảm nhận qua những gì Người làm cho cuộc sống: tinh
thần khoan dung.

Thế kỷ 20. Ngày 2-9-1945, trong áng hùng văn của Tuyên ngôn độc lập do
Người soạn thảo và trịnh trọng công bố, ngoài ý nghĩa chính trị và pháp lý, Quốc
dân VN khi ấy còn nhận được thông điệp văn hóa trong đó tinh thần khoan dung
được cảm nhận ở các cấp độ khác nhau.

Tinh thần khoan dung của Người được thể hiện đậm nét hơn khi trả lời các
phóng viên báo chí nước ngoài ngay sau đó, xin trích nguyên văn bản dịch từ
một ấn phẩm Trung văn xuất bản năm 1949 ở Thượng Hải: “Học thuyết Khổng
Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là
lòng bác ái. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách phù hợp với điều kiện nước
chúng tôi.

Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao?
Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội.
Nếu họ còn sống trên đời này và họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung
sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm
người học trò nhỏ của các vị ấy”.

Tinh thần ấy chỉ có được sau nhiều năm bôn ba trải nghiệm năm châu bốn bể.
Khoan dung độ lượng của Người không có chỗ cho nhu nhược cam chịu, không
khuất phục trước cường quyền và bạo lực. Văn hóa VN với hiện thân là văn hóa
và khoan dung Hồ Chí Minh đã vượt qua các thế lực phi nhân ấy, đưa đất nước
và dân tộc đến độc lập, thống nhất, tự do.

Thế kỷ 21. Nay đến dịp kỷ niệm ngày sinh của Người, có lẽ cách tưởng niệm tốt
nhất là làm cho tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh thấm sâu vào lớp hậu sinh.
Có cái nhìn khách quan hơn và bao dung với những vấn đề của lịch sử để không
khơi lại vết thương của ngày hôm qua, để con người cư xử với nhau khoan hòa
nhân ái hơn. Chính quyền cần làm cho hình ảnh của mình thân thiện gần gũi
hơn trong suy nghĩ và tình cảm người dân.

Tăng trưởng kinh tế không thể chỉ là các con số mà cần sự bền vững. Chống
tham nhũng để giảm thiểu phân hóa mức sống. Tiết giảm sự lạm dụng tài
nguyên thiên nhiên và tàn phá môi trường. Đã có độc lập và hòa bình, người dân
phải có quyền tự do đi lại, cư trú và mưu sinh để không phải lệ thuộc hay chờ
ban phát.

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận để mỗi người thật sự làm chủ bản thân trước
khi làm chủ đất nước. Trong hội nhập, ngoài việc tôn trọng sự khác biệt văn hóa
chính trị còn phải cầu thị học hỏi cái hay của xứ người để sớm đưa đất nước ra
khỏi nghèo nàn lạc hậu.

Hãy kỷ niệm ngày sinh lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những suy ngẫm gần gũi và
việc làm giản dị như nhân cách, lối sống của Người lúc sinh thời.

VĂN HÓA KHOAN DUNG HỒ CHÍ MINH


(16-03-2009)
1. Khoan dung có nghĩa là lấy lòng tốt mà dung thứ, mà đối xử. Con người
bình thường cũng có lòng khoan dung nhưng để đạt tới văn hoá khoan dung
thì còn là cả một hành trình mà không phải ai cũng dễ dàng vươn tới. Điều
đó chỉ có thể có ở những con người có nhân cách cao thượng, vốn sống, vốn
hiểu biết phong phú như Hồ Chí Minh, bởi lẽ khi nói đến văn hoá khoan
dung là nói đến một tầm cao về văn hoá, nếu như không có một năng lực
vượt trội thì không thể vươn tới được.

Các dân tộc trên thế giới đều có cách ứng xử của riêng mình, song hiếm có
dân tộc nào lại có lòng nhân ái, bao dung như dân tộc Việt Nam, khoan dung
ngay đối với cả kẻ thù! Điều đó được chứng minh qua lịch sử có bề dày
hàng ngàn năm văn hiến của dân tộc ta. Dân tộc Việt Nam, do vị thế địa lí
cũng như quy mô của mình, đã hình thành nên lối ứng xử khoan dung, nhân
hậu. Đó là lối ứng xử thông minh, đậm chất nhân văn.
Việt Nam ta nằm ở ngã tư đường giao lưu văn hoá thế giới, có nhiều
tôn giáo, triết thuyết được du nhập vào nước ta từ rất sớm. Người
Việt Nam tiếp nhận những nét đặc sắc của các tôn giáo, triết thuyết đó. Tất
cả những điểm mạnh đó sau này đều được Hồ Chí Minh đánh giá một cách
công bình. Điều tuyệt vời là ở Việt Nam không có chiến tranh, hay xung đột
tôn giáo một cách cực đoan như ở Phương Tây. Người Việt chọn lấy, chắt
lọc lấy để ứng xử, để hành sự, để rồi tạo nên cái bản ngã độc đáo cho riêng
mình.
Trong quan hệ với láng giềng, nhân dân ta chọn lấy cách ứng xử hoà
bình, thân thiện, hữu nghị, thân ái. Ngay cả đối với kẻ thù cũng mở đức
khoan hoà, độ lượng. Chiến đấu là vì mục tiêu độc lập, tự do, hoà bình chứ
không hiếu sát. Vì thế, khi thắng trận ta vẫn thực hiện chính sách ngoại giao
thân thiện, chủ động đặt quan hệ ngoại giao với Trung Hoa trong các triều
đại. Trong thời trung đại, tinh thần đó thể hiện kết tinh ở Nguyễn Trãi khi
quân sư cho Lê lợi không giết kẻ bại trận mà cấp cho: Ngựa, thuyền bè,
lương thực để về nước; hành sự theo lối “mưu phạt công tâm” (Bình Ngô đại
cáo) không phải mang tiếng xấu đến muôn đời. Đó phải chăng là đặc sắc cửa
tư duy ViệtNam: Nhu cương kết hợp, mềm dẻo và kiên định, dung hoà để
vượt lên, khoan dung, đúng mực trong hành xử. Có thể nói mỗi người
Việt Nam đều mang trong mình tính Phật, tâm Phật.
Sinh ra trong lòng dân tộc, Hồ Chí Minh được tiếp nhận tất cả những
tinh hoa đó. Dù rất căm thù giặc, cái ác, cái xấu, nhưng Người luôn bình tĩnh
chọn lối hành xử khoan dung, chứ không cực đoan một chiều. Đó là đặc sắc
trong tư duy Hồ Chí Minh, trong văn hoá khoan dung Hồ Chí Minh. Văn
hoá đó được thể hiện rất rõ trên các mối quan hệ với các dân tộc, với các tôn
giáo, với con người và đối với các cộng đồng và các nền văn hoá khác nhau.
Đối với con người, không phân biệt màu da, chủng tộc, Hồ Chí Minh
đều có tình yêu thương, đồng cảm. Người nói “Theo tinh thần bốn bể đều là
anh em, tôi yêu mến thanh niên Pháp cũng như yêu mến thanh niên
ViệtNam. Đối với tôi, sinh mệnh của một người Pháp hay sinh mệnh của
một người Việt Nam đều đáng quý như nhau”(1). Người luôn chủ trương lấy
tình yêu thương mà cảm hoá, đối xử với con người, với nhân dân của mình.
Người căn dặn: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết
làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần
xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người
có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng
phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho phần thiện trong mỗi con người nẩy
nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”(2)
Đối với các tôn giáo, phương châm của Người là tôn trọng tự do tín
ngưỡng, đoàn kết tôn giáo, song hướng tới mục tiêu là vì sự nghiệp chung:
Đạo pháp - dân tộc- Chủ nghĩa xã hội, “phần xác thong dong, phần hồn hạnh
phúc”, sống tốt đời, đẹp đạo “Toàn thể đồng bào ta, không chia lương giáo
đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, để giữ gìn non sông Tổ quốc, mà
cũng là để giữ gìn quyền tôn giáo tự do”(3).
Đối với các dân tộc trong nước, Người nêu lên nguyên tắc: bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ, quy về trong vòng đồng tâm là con Lạc - cháu Hồng
“Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp lại
nhau nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác
nhưng thế này hay thế khác, đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ….Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tinh
thần thân ái mà cảm hoá họ”(4).
Đối với kẻ thù, nhân nhượng, đại độ lúc có thể được, nhưng kiên quyết
lúc cần; luôn với thiện chí mở rộng cánh cửa đón lấy cơ hội hoà bình nhưng
sẵn sàng thổi tiếng kèn xung trận khi tình thế đã thay đổi. Trong một bức thư
Người viết “Chính phủ và nhân dân Việt Nam kiên quyết cộng tác thật thà
với người Pháp. Song khi phải hi sinh giữ chủ quyền của Tổ quốc cần hi
sinh thì phải kiên quyết hi sinh”(5)
Đối với nền văn hoá các dân tộc Đông - Tây, Người coi trọng sự giao
lưu, học hỏi, đối thoại cởi mở và sẵn sàng tiếp nhận tinh hoa văn hoá khác
nhau. Người nói: Mác, Khổng tử, Giê su, Tôn giật Tiên chẳng có những
điểm chung đó hay sao, tôi nguyện làm học trò nhỏ của các vị ấy!
Văn hoá khoan dung của Người, có thể nói là sự kết lọc nhân cách cao
đẹp của các vị sáng lập các tôn giáo, triết thuyết trong truyền thuyết và lịch
sử, của các nhà cách mạng tiền bối một cách nhuần nhị và sâu sắc. Có lẽ,
chính văn hoá khoan dung của Người, đã làm cho các mâu thuẫn trở nên nhẹ
nhàng hơn. Người dường như không bị chi phối bởi những khó khăn, luôn
thể hiện phong thái bình tĩnh, ung dung, tự tại. Chúng ta có cảm nhận rằng,
dường như Hồ Chí Minh không vội vàng để mất đi cơ hội thể hiện sức mạnh
văn hoá này.
Yếu tố nào đã tạo nên đặc sắc của văn hoá khoan dung Hồ Chí Minh?
Phải khẳng định rằng, Hồ Chí Minh tạo nên văn hoá khoan dung của mình
cốt lõi là từ truyền thống dân tộc song lại trên cơ sở dung hoà với những tinh
tuý trong văn hoá Đông – Tây. Đó là tinh thần tha nhân, triết lí “Lục hoà”
của đạo Phật, “Khiêm ái” của Mặc tử, thế giới đại đồng của Nho giáo, lòng
nhân đạo cao cả của đức Giê su, đó là tinh thần “tự do, bình đẳng, bác ái”
của Chủ nghĩa Khai sáng, phép biện chứng khoa học của chủ nghĩa Mác,
nền văn hoá ưu việt của giai cấp vô sản. Trong đó, phép biện chứng duy vật
là hạt nhân có ý nghĩa xâu chuỗi, liên kết. Người tiếp thu, cô đúc để hoàn
thiện nâng cao, rồi viễn vượt lên tất thảy những cái đó, chứ không dập
khuôn, máy móc. Vì thế văn hoá khoan dung của Người đã đạt đến tầm độ
cao của Đức khoan dung dân tộc, vừa kết tinh được những tinh anh của nhân
loại, tiêu biểu cho lối ứng xử của bậc thiên tài có tầm văn hoá sâu rộng vô
cùng. Có thể thấy rằng, chính văn hoá đó đã giúp Người tập hợp lực lượng,
ngay cả việc tranh thủ sự ủng hộ của kẻ thù, tận dụng sức mạnh tinh thần vì
sự nghiệp chung, mục tiêu chung. Từ văn hoá khoan dung, Hồ Chí Minh đã
đạt tới những đỉnh cao thắng lợi trong cuộc đời hoạt động cách mạng phong
phú, sôi nổi và sâu sắc của mình.
2. Ngày ngay, chúng ta kế thừa và học hỏi được gì từ văn hoá đó. Lẽ
dĩ nhiên, nói đến văn hoá là nói đến giá trị và giá trị chỉ có ý nghĩa trường
tồn khi nó không ngừng được phát huy. Chúng ta phải không ngừng học hỏi
và vận dụng văn hoá Hồ Chí Minh trong thực tế cuộc sống hoạt động của
mỗi người. Trong bối cảnh toàn cầu hoá (Globalization) được xác định là
nhiều cơ hội nhưng cũng đầy thách thức và cả những cám dỗ. Cần học hỏi
và vận dụng ở Hồ Chí Minh về tư duy khoa học biện chứng, lối ứng xử chấp
nhận - bao dung- thanh lọc...để tiếp nhận những cái hay, cái đẹp của quá
trình toàn cầu hoá, nhưng mặt khác, kiên quyết loại trừ tác động xấu của nó.
ViệtNam “Chủ động hội nhập”, “sẵn sàng là bạn”, là “đối tác tin cậy” nhưng
luôn giữ gìn bản sắc tinh hoa dân tộc. Trong cuộc sống, đó sẽ là lối ứng xử
chân thành, biết lắng nghe, đối thoại và đồng cảm, “sống với nhau có nghĩa
có tình”.
Tìm hiểu văn hoá khoan dung Hồ Chí Minh, ta tìm thấy trong đó lấp
lánh cả một chiều sâu và tầm cao văn hoá, tinh hoa dân tộc và nhân loại hoà
quyện trong nhân cách vĩ đại của một Con người. Chúng ta tin tưởng, văn
hoá khoan dung Hồ Chí Minh sẽ là nền “văn hoá của tương lai” (như nhận
định nhà báo Ôxíp Manđenxtam năm 1924), nhất định văn hoá đó sẽ toả
sáng rực rỡ đồng hành cùng tương lai dân tộc ta./.
Phạm Xuân Hoàng
Chú thích:
(1)
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, t.4, tr.303.
(2)
sđd, t.12, tr.558). (3) sđd, CTQG, H, 2002, t.4, tr.490.
(4)
sđd, CTQG, H, 2002, t.4, tr.246. (5) sđd, H, 2002, t.4, tr.458.
(6)
sđd, t.1, tr.478, 479.

Khoan dung nhân ái Hồ Chí Minh - một giá trị đặc trưng cho văn hoá
hoà bình. (16/09/2009)

Thế kỷ XX đã qua với hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng trăm cuộc
chiến tranh khu vực lớn nhỏ. Nỗi khủng khiếp trước thảm họa Hirosima và
Nagasaki đến nay vẫn chưa thôi nhức nhối trong trái tim nhân loại. Trái đất
càng trở nên mong manh hơn khi vũ khí hủy diệt ngày càng được hoàn thiện,
sự tích lũy ngày càng lớn, đủ sức làm nổ tung cả hành tinh bé nhỏ của chúng
ta.

Hòa bình là khát vọng của nhân loại, bởi trong thực tế tồn tại mấy
nghìn năm qua, loài người chưa bao giờ được sống trong một thế giới hòa
bình. Sau nhiều nỗ lực tìm kiếm, bước vào thiên niên kỷ mới, loài người
càng thấm thía nhận ra rằng không thể giải quyết mọi tranh chấp, xung đột
bằng vũ khí mà phải bằng thông cảm, hiểu biết, đối thoại, bằng văn hóa
khoan dung. Muốn có hòa bình lâu dài phải tạo lập trước hết một nền văn
hóa hoà bình mà linh hồn của nó chính là lòng nhân ái, khoan dung.

"Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng bác ái". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói như vậy, và chính Người là biểu tượng, là tinh hoa của khoan dung, nhân
ái Việt Nam.
Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh biểu hiện ở lòng yêu thương mênh
mông, sâu sắc đối với con người, ở niềm tin vào phần tốt đẹp, phần thiện
trong mỗi con người, dù nhất thời họ có lầm lạc, còn nhỏ nhen, thấp kém; từ
đó Người nhắc nhở chúng ta "phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi". "Đối với những
đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hóa họ".
Đối với những quan lại cũ, cả với những người từng có nợ máu với
cách mạng, Người cũng khuyên "không nên đào bới những chuyện cũ ra làm
án mới,... mà nên dùng chính sách cảm hóa, khoan dung". Để làm được điều
đó, Người nhắc nhở chúng ta phải vượt qua những thiên kiến, hẹp hòi.
"Sông to, bể rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của nó
rộng và sâu".

Chính sách đại đoàn kết và tấm lòng khoan dung, độ lượng của Bác
Hồ đã làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù, đã cảm hoá được nhiều
nhân sĩ, trí thức có tên tuổi, kể cả các quan lại cao cấp của chế độ cũ, một
lòng một dạ đi theo cách mạng và kháng chiến, không quản ngại gian khổ,
hy sinh.

Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh biểu hiện ở thái độ trân trọng, cái
nhìn rộng lượng đối với những giá trị khác nhau của văn hoá nhân loại, là
chấp nhận giao lưu, đối thoại, tìm ra cái chung, nhằm đạt tới sự hoà đồng,
cùng phát triển.

Hồ Chí Minh xa lạ với mọi thói kỳ thị văn hoá. Trong khi chống Pháp,
Người vẫn yêu mến và đề cao văn hoá Pháp; chống Mỹ và vẫn ca ngợi
truyền thống đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân Mỹ. Bản thân Người
là hình ảnh kết tinh của tinh hoa văn hóa nhân loại Đông và Tây. Trong một
thế giới cộng sinh về văn hóa, có sự giao lưu giữa cái chung và cái riêng, cái
đồng nhất và cái dị biệt, khoan dung Hồ Chí Minh là chấp nhận đối thoại về
giá trị, là truy tìm cái chung, cái nhân loại để hòa đồng. Người đã viết: "Tuy
phong tục mỗi dân tộc mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống
nhau. ấy là dân nào cũng ưa sự lành, ghét sự dữ".

Là một nhà ngoại giao biết thương lượng, có đầu óc thực tế, Hồ Chí
Minh biết tìm ra mẫu số chung cho mọi cuộc đối thoại. Người nói với người
Pháp: "Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng vào đạo đức tự do, bình
đẳng, bác ái độc lập".

Với các tôn giáo, Hồ Chí Minh thành thật tôn trọng đức tin của người
có đạo, khẳng định lẽ sống cao đẹp, những giá trị đạo đức - nhân văn của các
vị sáng lập, không hề bài bác, phủ định mà khéo hướng lý tưởng của các tôn
giáo vào mục tiêu giải phóng dân tộc và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
G.Xanhtơny buộc phải thú nhận: Hồ Chí Minh là người đã đánh đắm
cả chế độ thực dân Pháp, nhưng lại vẫn là bạn của nước Pháp. Trong cuốn
hồi ký Một nền hòa bình bị bỏ lỡ ông đã dành viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh
với những lời rất trân trọng: “Về phần tôi, phải nói rằng chưa bao giờ tôi có
thể nhận thấy nơi các chương trình của Cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù
rất nhỏ của sự công kích, đa nghi hoặc chế giễu đối với bất kỳ một tôn giáo
nào”.

Mùa hè năm 1946 tại Paris, Người đã tiếp một nhóm linh mục công
giáo đến thăm, trong đó có linh mục Cao Văn Luận, một người công giáo
xác tín, chống cộng. Sau này, ông ta đã thuật lại trong cuốn hồi ký của mình
lời của Hồ Chí Minh trong buổi gặp: "Mục đích của Chính phủ ta là đeo
đuổi chiến đấu vì nền độc lập và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Để đạt
hạnh phúc đó mọi người cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu đức Giêsu
sinh ra vào thời đại chúng ta và phải đặt mình trước những nỗi đau của
người đồng thời, chắc Ngài sẽ là một người xã hội chủ nghĩa đi tìm cứu khổ
loài người".

Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh được xây dựng trên nguyên tắc
công lý, chính nghĩa, tự do, bình đẳng, không chấp nhận thỏa hiệp vô
nguyên tắc với tội ác, bất công, xã hội và tất cả cái gì chà đạp lên "quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" của mỗi con người và mỗi
dân tộc. Người nói: "Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí,
đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại
đến Đảng, đến nhân dân".

Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu sự nghiệp cách mạng của mình bằng
một cử chỉ hòa bình: đưa yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Vecxay (1919).
Nhưng Người biết: "Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động
bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu", bởi vậỵ, Người cũng đã nói từ rất sớm:
"Nếu chúng ta không đạt được (việc tự giải phóng) bằng phương pháp ôn
hòa thì chúng ta không ngần ngại hành động quyết liệt để trả thù nhà, nợ
nước và để chen vai, thích cánh với năm châu".

Trong cuộc xung đột Việt - Pháp, giữa hai giải pháp hòa bình và bạo
lực, Hồ Chí Minh luôn luôn chọn giải pháp hòa bình, nên Người đã chấp
nhận thỏa hiệp, nhân nhượng: ký Hiệp định sơ bộ 6.3 rồi "Tạm ước 14.9;
không quản bất trắc, hiểm nguy, Người sang tận thủ đô nước Pháp để tìm
kiếm hòa bình. Rất tiếc, thiện chí đó đã không được đáp lại.

Đến khi đối phương buộc chúng ta phải cầm súng đứng lên tự vệ,
Người đã luôn luôn giáo dục chúng ta biết phân biệt bọn thực dân xâm lược
phản động Pháp với nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình và công lý. Người
đã tìm mọi cách để hạn chế đến mức thấp nhất những thương vong trên
chiến trường, cho quân ta và cho cả quân địch. Người nói một cách xúc
động: "Trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt đều là máu, người
Pháp hay là người Việt đều là người". Người nhắc nhở mục tiêu của chúng
ta là đánh bại, đánh sập ý chí xâm lược của địch chứ không phải là đánh tiêu
diệt hoàn toàn chúng trên chiến trường. Ta hiểu vì sao Người không tán
thành cách gọi một trận đánh chết nhiều người là một trận đánh "đẹp"!
Người nói: "Đánh mà thắng là giỏi, nhưng không đánh mà thắng lại giỏi
hơn", nên theo binh pháp của cha ông, "đánh vào lòng người là hơn hết,
đánh vào thành trì là thứ hai", vì vậy Người tất coi trọng địch vận, ngụy vận,
coi "khéo ngụy vận thì đó cũng là một cách tiêu diệt sinh lực địch".

Đối với những tù binh và thường dân Pháp bị ta bắt trong chiến tranh,
Người kêu gọi đồng bào và chiến sĩ ta phải nêu cao lý tưởng chính nghĩa,
nhân đạo, phải đối xử khoan hồng đối với họ để "cho thế giới biết rằng ta là
một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước". Người
chỉ thị cho Bộ tài chính của ta cấp cho mỗi người lính hay thường dân Pháp
bị bắt 200 đồng/mỗi tháng, trong khi mức ăn của bộ đội ta chỉ có 150
đồng/tháng, với lý do "ta có thể chịu kham khổ được, nhưng đối với họ cần
phải rộng rãi hơn". Một lần đến thăm trại tù binh Pháp bị bắt trong chiến
dịch Biên giới, thấy một đại úy quân y Pháp ở trần, đang run lên vì lạnh,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cởi chiếc áo người đang mặc, trao cho anh ta.

Trong thư gửi cho tướng R.Xalăng, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở
Đông Dương, (6-1947), một người đã từng tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong suốt chuyến Người sang thăm nước Pháp, đã từng được Người coi là
bạn, có đoạn viết: "Chúng ta đã từng là những người bạn tốt... Nhưng hoàn
cảnh ngoài ý muốn đã biến chúng ta thành hai kẻ đối địch. Điều đó thật đáng
tiếc!... Vì chúng ta buộc phải chiến đấu, thì các ngài hãy tỏ ra là những chiến
binh hào hiệp, những đối thủ quân tử, trong khi chờ đợi chúng ta trở thành
bạn hữu của nhau".

Thật là ngôn luận của một chính nhân quân tử! Chúng ta chiến đấu vì
những mục tiêu cao cả hòa bình, độc lập dân tộc, chứ không vì lý do nào
khác. Hoàn cảnh đã buộc phải chiến đấu thì hãy chiến đấu ra trò, cao thượng
và chính trực, để sau chiến đấu, lại trở lại là những người bạn! Người đã làm
hết sức mình để không gây ra mối hận thù đối với dân tộc Pháp, một dân tộc
mà Người luôn luôn yêu mến và kính trọng.

Qua đó, có thể thấy: khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh không phải là
một sách lược mà là sự kế tục và phát triển truyền thống khoan dung, nhân
ái của dân tộc ta qua hàng ngàn năm lịch sử và cũng là sự thể hiện bản chất
nhân văn, chính nghĩa của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Khoan
dung cũng là một biểu hiện sức mạnh của cách mạng, chỉ có những cuộc
cách mạng chân chính, được lòng dân, mới có sức thuyết phục, cảm hóa trái
tim, khối óc của quần chúng, bao gồm cả những người lầm lạc và chống đối.

Ngày nay, trên thế giới, chiến tranh lạnh đã qua đi, nhưng loài người
vẫn đang phải sống trong "một nền hòa bình nóng". Nhiều nơi vẫn đang diễn
ra những cuộc chiến tranh, xung đột đẫm máu về lãnh thổ, dân tộc, sắc tộc
và tôn giáo. Do thiếu một thái độ khoan dung, người ta tự coi mình là độc
tôn, đi tới dị hóa, kỳ thị với tất cả cái gì không phải là mình! Ngược lại, cũng
đang có những thế lực mưu toan lợi dụng cái gọi là "bản chất chung của con
người" để áp đặt cho các dân tộc khác những giá trị xa lạ với truyền thống
văn hóa của họ. Khi không áp đặt được, họ sẵn sàng dùng sức mạnh của
bom đạn, sắt thép để khuất phục ý chí của một dân tộc có chủ quyền. Chủ
nghĩa khủng bố quốc tế đang đe dọa quyền được sống, quyền mưu cầu hạnh
phúc trong hòa bình, tự do, độc lập; quyền được lựa chọn con đường phát
triển riêng theo lý tưởng và truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc. Chính
trong điều kiện đó, giáo dục, bồi dưỡng và phát triển lòng nhân ái, khoan
dung đang là một yêu cầu cấp bách, trong đó tấm gương khoan dung, nhân
ái Hồ Chí Minh đang được nhắc nhở như một giá trị tiêu biểu cho đặc trưng
văn hóa của thế kỷ XXI - văn hóa hoà bình.
Một trong những điều đặc biệt tưởng chừng tương phản lẫn nhau
trong con người và tư tưởng Hồ Chí Minh là cùng với ý chí cách mạng kiên
cường, sắt thép, khi cần, sẵn sàng “thà đốt cháy cả dãy Trường Sơn để giành
độc lập cho dân tộc”, lại là một tâm hồn nhân ái bao la “yêu từng ngọn lá,
mỗi nhành hoa” và trước hết là tình yêu thương con người.

Có thể nói, suốt cuộc đời mình, cả trong suy nghĩ hành động, Hồ Chí
Minh đều dành trọn cho cuộc đấu tranh vì hạnh phúc chân chính của con
người, của mỗi số phận con người, của dân tộc và mở rộng ra phạm vi toàn
nhân loại, không phân biệt màu da, sắc tộc, tín ngưỡng khác nhau. Chính vì
vậy, khoan dung và hướng thiện luôn được bao trùm, nhất quán trong toàn
bộ tư tưởng của Người. Đây cũng là nét đặc trưng trong truyền thống văn
hóa Việt Nam, văn hóa phương Đông, lại được bổ sung kết hợp với những gì
tinh hoa của văn hóa phương Tây, tạo nên một thứ văn hóa dường như chưa
hề có từ cổ chí kim khiến ngay từ những năm đầu thập kỷ 20 của thế kỷ
trước, khi có dịp tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc ở Matxcơva, nhà thơ, nhà
báo Liên Xô Ôxip Manđenstam đã phải thốt lên: “Đây là thứ văn hóa của
tương lai”. “Anh hùng đoán giữa trần ai mới già”.

Gần 70 năm sau phát hiện của Manđenstam, năm 1990, nhân kỷ niệm
100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức UNESCO khi thông
qua Nghị quyết về kỷ niệm những danh nhân thế giới đã nhất trí khẳng định:
Người là “Anh hùng dân tộc và một danh nhân văn hóa thế giới”. Nghị
quyết này nêu rõ: “Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong lĩnh vực văn hóa giáo dục nghệ thuật là kết tinh truyền thống
hàng nghìn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là
hiện thân của những khát vọng của dân tộc trong việc khẳng định bản sắc
dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau”.

Trong cách mạng và kháng chiến, với những người lầm lỗi, từng đứng
về phía kẻ thù, để chống lại nhân dân, sau khi chỉ cho họ con đường sáng,
Người tha thiết: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm
ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn, dài đều hợp nhau lại
nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, người thế khác,
nhưng thế này hay thế khác đều thuộc dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải
khoan hồng, đại độ”.
Cũng hiếm có vị lãnh tụ cách mạng nào khi đã buộc phải kêu gọi nhân
dân nhất tề đứng lên “thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” để bảo vệ nền
độc lập, tự do vừa mới giành được, nhưng từ đáy lòng vẫn xót xa khi thấy
máu của cả hai bên đang đổ và kiên trì làm thức dậy lương tâm của những
người đang ở phía đối lập với dân tộc mình

“Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt
Nam đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh. Tôi cũng ngậm ngùi thương xót
cho những người Pháp đã tử vong. Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp
hay máu Việt cũng đều là máu; người Pháp hay người Việt cũng đều là
người. Trong hai cuộc đại chiến, Pháp hy sinh hàng triệu người để chống
bọn xâm lăng để tranh lại quyền thống nhất, độc lập. Nước Pháp, cách Việt
Nam muôn dặm, Việt Nam thống nhất, độc lập có động chạm gì đến người
Pháp mà người Pháp lại muốn cản trở Việt Nam. Người Việt Nam sẵn sàng
hoan nghênh và cộng tác với những người sĩ, nông, công thương Pháp qua
đây làm ăn. Những lợi ích về tiền tệ và văn hóa của người Pháp ở đây sẽ
được Việt Nam bảo vệ. Những người Pháp không muốn ai phạm đến chủ
quyền mình thì phải tôn trọng chủ quyền Việt Nam”.

Chính từ cuộc đời và tầm tư tưởng lớn lao của Người đã tạo ra sức
chinh phục, lòng kính yêu vô hạn của bất kỳ ai đã từng may mắn có dịp tiếp
xúc với Người, kể cả những người không cùng chính kiến. “Hồ Chí Minh là
con người suốt đời không có kẻ thù riêng” - Xanhtơny, người đại diện cho
Chính phủ Pháp đảm nhận việc đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh trong
thời gian 1945 - 1946, đã tìm mọi cách để có thể đè bẹp lực lượng cách
mạng Việt Nam, nhằm tái lập ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước
này, nhưng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, ông cũng lại là người thay
mặt Chính phủ Pháp sang viếng Người tại Hà Nội.

Trong di sản quý vô giá của tư tưởng Hồ Chí Minh mà Người đã để


lại cho chúng ta, khoan dung và hướng thiện là một trong những điểm sáng
không chỉ soi đường cho hôm nay mà chắc chắn còn cho mãi mai sau

Khoan dung, độ lượng, vị tha, hướng mọi người vào mục đích chung
cao cả.
Đức khoan dung, sự độ lượng và lòng vị tha là những đức tính, phẩm
chất trong con người Hồ Chí Minh và đây cũng là cách để Người thực hiện
đại đoàn kết dân tộc. Theo Hồ Chí Minh làm người phải biết khoan dung, độ
lượng bởi “Không ai hoàn toàn tránh khỏi sai lầm”, phải biết chấp nhận và
tha thứ những khuyết điểm, sai lầm của người khác. Người quan niệm, trong
mỗi người đều có phần thiện và ác, nhưng “cái ác” trong mỗi người cũng
không phải là thứ bất biến. Người cho rằng: Một người cán bộ khi trước có
sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị
sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm. Quá khứ, hiện tại và
tương lai của mỗi người không phải luôn giống nhau. Người cũng chỉ rõ
những trở ngại, cản trở sự đoàn kết dân tộc là sự nhìn nhận, đánh giá phiến
diện, thành kiến với con người, thấy cái tốt ở người thì ít, mà thấy cái xấu,
khuyết điểm ở họ thì nhiều. Với tấm lòng bao dung, độ lượng, Người chỉ rõ:
“Đối với những người có thói hư, tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc
và nhân dân, ta cũng phải giúp đỡ họ bằng cách làm cho phần thiện trong
con người nẩy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”.
Với những người phạm sai lầm, khuyết điểm Hồ Chí minh cũng lấy
sự khoan dung, độ lượng để cảm hoá, giáo dục. Người cho rằng: đã là con
Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào
lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Ngay cả với
những nguỵ binh, hàng binh, vì lý do nào đó mà lầm đường theo giặc, Hồ
Chí Minh cũng rộng lòng tha thứ, khoan hồng. Người chỉ rõ: “Nguỵ binh
cũng là con dân nước Việt, nhưng dại mà đi lầm đường, cho nên Tôi và hính
phủ sẵn sàng tha thứ những người sớm biết lỗi mà quay về với đại gia đình
kháng chiến”6. Với lòng độ lượng, khoan dung của Hồ Chí Minh và chính
phủ ta, nhiều nguỵ binh đã quay trở về với cách mạng, nhận rõ sai lầm của
mình, tự giác cải tà, quy chính, nguyện đi theo kháng chiến. Đúng như cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Đối với kẻ lầm đường, lạc lối lòng
Hồ Chủ Tịch còn rộng hơn biển cả… Cụ Hồ nói rằng người Việt Nam ai
cũng yêu nước, muốn nước độc lập, thống nhất, ta khéo nhen chút than hồng
ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”7. Sự khoan dung, độ lượng là một đức
tính và nó cũng là một giá trị văn hoá đã đưa nhân cách Hồ Chí Minh đến độ
hoàn hảo, khiến cho Người bình thường, giản dị mà vĩ đại. Bằng cách đó,
Người đã lôi kéo, cứu vớt và đem lại cuộc sống cho bao mảnh đời lầm lạc;
thu phục, quy tụ được những thành phần, lực lượng, đối tượng khác nhau
trong xã hội tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đưa sự nghiệp
cách mạng đi tới thắng lợi.
KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY TINH THẦN KHOAN DUNG HỒ CHÍ MINH
TRONG XÂY DỰNG ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI VÀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC

[I]Khoan dung, nhân ái là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Trên cơ
sở kế thừa truyền thống khoan dung của dân tộc kết hợp với chọn lọc và
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là tinh thần nhân văn cộng sản của
chủ nghĩa Mác - Lênin Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm tư tưởng
khoan dung truyền thống, nâng tư tưởng ấy lên một tầm cao mới - văn hóa
khoan dung Hồ Chí Minh. Tư tưởng khoan dung Hồ Chí Minh là bài học lớn đối
với nhân dân ta trong quá trình đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, hòa nhập vào xu thế phát triển chung của nhân loại. Kế thừa và
phát triển tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh là điều kiện quan trọng, là nhân tố
cơ bản để xây dựng đồng thuận xã hội và đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện
nay

Thế kỷ XX - một thế kỷ đầy biến động với các cuộc cách mạng rung chuyển
thế giới, làm thay đổi số phận các dân tộc. Thế kỷ XX cũng là thế kỷ của hàng
trăm cuộc chiến tranh lớn nhỏ mà tiêu biểu là hai cuộc đại chiến thế giới khủng
khiếp, trong đó lần đầu tiên bom nguyên tử được đưa ra sử dụng để hủy diệt
loài người. Cơn hãi hùng trước vũ khí giết người hàng loạt còn chưa qua khỏi
thì loài người lại đang phải đối phó với một đe dọa mới: sự kích động và trỗi dậy
của những tư tưởng cực đoan, phát xít, chủ nghĩa khủng bố, chiến tranh sắc
tộc, tôn giáo, nạn kỳ thị chủng tộc,… có nguy cơ kéo loài người vào vòng xoáy
của một cơn lốc bạo lực mới

Trong bối cảnh ấy, bước vào thế kỷ XXI, nhân loại không có khát vọng nào
khác hơn, lớn hơn là được sống trong hòa bình, hữu nghị, hiểu biết và
thông cảm lẫn nhau, chấp nhận sự khác biệt để cùng hợp tác và phát triển.
Vì vậy, nâng cao hơn nữa lòng khoan dung là nhiệm vụ của toàn nhân loại

Việt Nam là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, có truyền thống khoan
dung, nhân nghĩa, hòa hiếu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dân tộc ta
là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái” 1) và chính Người là đỉnh cao, là
tinh hoa của tinh thần khoan dung, nhân ái Việt Nam. Tư tưởng khoan dung Hồ
Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống
Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại. Hồ Chí Minh không những đã kế thừa
truyền thống khoan dung, nhân ái của dân tộc Việt Nam, mà còn nâng truyền
thống ấy lên tầm cao mới bằng việc kết hợp nó với chủ nghĩa nhân văn cộng
sản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính chủ nghĩa nhân văn ấy là nhân tố tạo nên
bước ngoặt về chất trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh. Khoan dung chính là điểm nổi bật nhất trong tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh. Có thể khẳng định, tư tưởng khoan dung Hồ Chí Minh là bài học
lớn đối với nhân dân ta trong quá trình đổi mới đất nước, hòa nhập vào xu thế
phát triển chung của nhân loại. Kế thừa và phát triển tinh thần khoan dung Hồ
Chí Minh là điều kiện quan trọng, là nhân tố cơ bản để xây dựng đồng thuận xã
hội và đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay

1.Đặc trưng cơ bản của tư tưởng khoan dung Hồ Chí Minh


Khoan dung không phải là nét riêng của dân tộc này hay dân tộc khác, mà
được hình thành từ lịch sử của nhiều dân tộc trong cuộc mưu sinh và bảo
vệ phẩm giá của mình. Đối với dân tộc Việt Nam, tinh thần và thái độ
khoan dung đã hình thành từ rất sớm và thể hiện trong sinh hoạt cộng
đồng, trong cách ứng xử, trong quan hệ bang giao với các nước, trong việc
tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác. Ở phương diện đạo
đức hay sinh hoạt tôn giáo, quần chúng nhân dân đôi khi chủ động đón
nhận cái mới (chứ không chỉ thụ động chờ đợi tín hiệu từ nhà cầm quyền),
sàng lọc và cải biến cho phù hợp với đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của
mình; đồng thời, sẵn sàng, bằng cách này hay cách khác, phản ứng các chuẩn
mực đạo đức, các tiêu chí chính trị có tính áp đặt, cứng nhắc của ngoại bang.
Có thể tìm thấy bằng chứng sinh động của thái độ khoan dung này trong quá
trình người Việt tiếp cận Nho giáo và Phật giáo. Nho giáo du nhập vào Việt Nam
thoạt đầu theo chân quân xâm lược phương Bắc, nhưng với thời gian, chịu sự
thẩm định của sinh hoạt cộng đồng, [I]một mặt[/I], nó được tầng lớp trí thức
nước ta sử dụng ở bình diện đạo đức, lối sống, đúc kết thành những bài học
phổ quát về rèn luyện nhân cách và tri thức; [I]mặt khác[/I], nó được các triều
đại phong kiến Việt Nam vận dụng vào việc củng cố các định chế pháp luật, bảo
đảm ổn định xã hội. Cùng với Nho giáo, các thành tựu khác của văn hóa Trung
Quốc cũng để lại dấu ấn đậm nét trong phong cách sáng tác, tư duy, bổ sung
vào hệ thống ứng xử của người Việt Nam trong suốt nhiều thế kỷ. Phật giáo với
hệ thống lý luận khá chặt chẽ và một triết lý nhân sinh giàu tính vị tha, bác ái đã
được các tầng lớp nhân dân đón nhận, làm phong phú thêm văn hóa tâm linh
của mình.

Như vậy, có thể nói rằng hội nhập có chọn lọc các giá trị từ bên ngoài vào đời
sống của người Việt Nam là đức tính cố hữu của người Việt Nam, trải qua thử
thách trong quá trình dựng nước và giữ nước. Ở dân tộc ta, rất hiếm thấy có
thái độ cực đoan, chối bỏ theo kiểu “vơ đũa cả nắm”, hay xuất phát từ mặc cảm
của dân nhược tiểu mà cúi mình trước các đại quốc để được yên thân. Đó có
thể gọi là truyền thống khoan dung Việt Nam. Trong thời trung đại, tinh thần đó
thể hiện ở tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và về sau, trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tinh thần ấy được thể hiện, phát huy
và nâng lên một chất lượng mới ở tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Ngày nay,
Đảng ta đã tiếp tục phát huy truyền thống khoan dung Việt Nam mà đỉnh cao là
tư tưởng khoan dung Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Khoan dung, trước hết là thừa nhận và tôn trọng sự khác nhau về thiên
hướng, nhân cách, niềm tin của những người trong một cộng đồng dân tộc; là
chấp nhận sự khác biệt về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng,… giữa các dân
tộc khác nhau để cùng tồn tại và phát triển trong hòa bình. Khoan dung là hài
hòa trong khác biệt, là học cách nghe, cách thông tin, cách hiểu người khác để
chia sẻ, cảm thông, miễn là những khác nhau đó không có hại gì cho lợi ích
chung của cộng đồng. Khoan dung đòi hỏi phải được xây dựng trên các nguyên
tắc: công lý, chính nghĩa, tự do, bình đẳng, tiến bộ,… nó chống lại mọi thái độ kỳ
thị, cuồng tín, giáo điều cũng như mọi thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc
với tội ác, bất công, với tất cả cái gì chà đạp lên các quyền cơ bản của mỗi con
người, mỗi dân tộc

Khoan dung Hồ Chí Minh là sự tiếp thu có chọn lọc các giá trị của nhân loại và
dân tộc, đồng thời là sự cải biến và phát triển các giá trị đó lên một chất lượng
mới, hệ thống và hoàn chỉnh dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể
khái quát tư tưởng khoan dung Hồ Chí Minh trong mấy đặc trưng cơ bản sau
đây
[I]Thứ nhất, khoan dung Hồ Chí Minh đã kết hợp được lương tri của cá nhân
mình với lương tri dân tộc và lương tri thời đại để đạt tới sự hài hòa giữa
cá nhân, dân tộc và nhân loại. Người đã thực hiện sự kết hợp giữa đấu
tranh giải phóng dân tộc mình với đấu tranh giải phóng các dân tộc khác
khỏi các thế lực thống trị, bóc lột, thực hiện tình yêu thương và bác ái. Vì vậy,
loài người tiến bộ đã tìm thấy ở Hồ Chí Minh biểu tượng cao đẹp của lương tri
thời đại
[I]Thứ hai, khoan dung Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ tình cảm nồng nàn và
lý trí sáng suốt, do đó đã vượt qua được những nhược điểm và hạn chế của
tinh thần khoan dung truyền thống, như thiên về tình cảm kiểu “yêu nên
tốt, ghét nên xấu”, màu sắc đẳng cấp của khoan dung Nho giáo, lối an
phận, nhẫn nhục của khoan dung Phật giáo nguyên thủy.

[I]Thứ ba, khoan dung Hồ Chí Minh là sự thể hiện niềm tin vào phần tốt đẹp,
phần thiện trong mỗi người. Người đã truyền cho chúng ta cái nhìn lạc quan
về con người: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm
cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất
dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật
xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ
bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác,
chứ không phải đập cho tơi bời” Người tin rằng, với sức mạnh cảm hóa của cách
mạng và của giáo dục, những con người nhất thời lầm đường, lạc lối vẫn có thể
cải tạo, vươn lên và trở thành có ích cho xã hội, bởi “hiền, dữ phải đâu là tính
sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”.
[I]Thứ tư[/I], khoan dung Hồ Chí Minh là sự tôn trọng đối với mọi giá trị khác
biệt trong văn hóa nhân loại, là không ngừng mở rộng để thâu hóa những yếu
tố tích cực, tiến bộ và nhân văn của thế giới để làm giàu cho văn hóa Việt Nam;
đồng thời, chấp nhận giao lưu và đối thoại bình đẳng để đạt đến sự đồng thuận,
cùng phát triển. Trong một thế giới có giao lưu, tồn tại giữa cái chung và cái
riêng, giữa cái đồng nhất và dị biệt, Hồ Chí Minh chấp nhận đối thoại về giá trị
để tìm ra cái chung, cái nhân loại. Người nói: “Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác,
nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau. Ấy là dân nào cũng ưa sự
lành, ghét sự dữ”(3).
[I]Thứ năm[/I], khoan dung Hồ Chí Minh được xây dựng trên nguyên tắc công lý,
chính nghĩa, tự do, bình đẳng, không chấp nhận thỏa hiệp vô nguyên tắc với
tội ác và bất công xã hội hoặc với những gì chà đạp lên quyền sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người và mỗi dân tộc. Khi chủ nghĩa
thực dân dùng bạo lực để đàn áp thì không có cách nào khác là phải dùng bạo
lực cách mạng để giành và giữ chính quyền. Người nói: “Nhân là thật thà yêu
thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại
những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân”(4). Trong bức thư
[I]Gửi đồng bào miền Nam, người Pháp và thế giới[/I], Người viết: “Chính phủ và
nhân dân Việt Nam kiên quyết cộng tác thật thà với người Pháp. Song khi phải
giữ chủ quyền của Tổ quốc, cần hy sinh thì cũng phải kiên quyết hy sinh”(5).

Tóm lại, khoan dung Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa Tâm - Đức - Trí. Đó là
một tinh thần khoan dung được xây dựng trên tầm văn hóa cao, kết hợp được
tình cảm với lý trí, nhận thức và hành động, yêu thương với đấu tranh. Sự
khoan dung như vậy đã trở thành [I]văn hóa khoan dung[/I] Hồ Chí Minh - một
bước phát triển mới của tinh thần khoan dung Việt Nam.
2. Xây dựng đồng thuận xã hội và đại đoàn kết dân tộc trên tinh thần khoan dung
Hồ Chí Minh[/B][

Ngày nay, chúng ta cần kế thừa và phát huy [I]văn hóa khoan dung[/I] Hồ Chí
Minh như thế nào? Trong bối cảnh toàn cầu hóa với nhiều cơ hội mở ra nhưng
cũng đầy thách thức và cả những nguy cơ, văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh là
nguồn nuôi dưỡng, dẫn dắt, thúc đẩy sự phát triển của tinh thần khoan dung
Việt Nam – một nhân tố cơ bản góp phần vào xây dựng đồng thuận xã hội và
đại đoàn kết dân tộc. Người đã dạy nhân dân ta phải đoàn kết rộng rãi và chặt
chẽ: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài… Trong mấy triệu người cũng
có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên
ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu
Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối
lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại
đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”(6). Trên tinh thần đó,
đối với những quan lại cũ, Người cho rằng, “chúng ta không nên đào bới những
chuyện cũ ra làm án mới. Đối với những người không nguy hiểm lắm, thì nên
dùng chính sách cảm hóa, khoan dung, không nên bắt bớ lung tung, không nên
tịch thu vô lý, làm cho dân kinh khủng”(7). Ngay cả với những người từng có nợ
máu với cách mạng, vì lợi ích của đoàn kết quốc gia, Người vẫn tỏ rõ một tinh
thần khoan dung đại lượng. Người nhắc nhở chúng ta cần phải vượt qua những
thiên kiến hẹp hòi: “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được vì
độ lượng của nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn thì một chút nước cũng
đầy tràn, vì độ lượng của nó hẹp và nhỏ”(8).
Có thể nói, chính sách đại đoàn kết dân tộc và tấm lòng khoan dung, độ lượng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù, đã
cảm hóa được nhiều nhân sĩ, trí thức có tên tuổi, kể cả các quan lại cao cấp của
chế độ cũ, một lòng, một dạ đi theo cách mạng đến cùng, không quản ngại gian
khổ, hy sinh như Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, Thượng thư Bùi Bằng Đoàn,
Đốc lý Hà Nội Trần Văn Lai và nhiều người khác. Quả thật, ở Hồ Chí Minh luôn
toát lên một tấm lòng nhân ái bao la, một sự khoan dung văn hóa cao cả, trân
trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi người.

Tinh thần khoan dung của Hồ Chí Minh là sự kế tục và phát triển truyền
thống nhân ái, bao dung của dân tộc qua hàng ngàn năm lịch sử. Tư tưởng
đó được biểu hiện nhất quán trong đường lối của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước; qua thái độ ứng xử của Người đối với những người
làm việc với chế độ cũ, những người lầm lạc, bằng tất cả sự chân thành
vì nghĩa lớn của dân tộc. Đối với Hồ Chí Minh, khoan dung chính là một
biểu hiện sức mạnh của cách mạng, chỉ có những cuộc cách mạng chân
chính, được lòng dân mới có sức thuyết phục, cảm hóa trái tim và khối óc
của quần chúng, bao gồm cả những người lầm lạc, chống đối. Tinh thần đó
được biểu hiện trong bài phát biểu tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn
quốc, tháng 1-1955: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất độc
lập, dân chủ thì dù người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng
thật thà, đoàn kết với họ”(9).

Tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh đang được Đảng ta kế thừa và phát
triển trong tình hình mới của đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đòi hỏi phải tập hợp và lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân
dân tham gia, để làm cho đất nước giàu mạnh, “sánh vai cùng với các
cường quốc năm châu” trong thế kỷ XXI. Hiện nay, như Đảng ta đã nhận
định, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới. Do
đó, để tạo ra sự đồng thuận xã hội, chúng ta cần ra sức học tập, bồi dưỡng và
phát triển tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh, coi đây là nhân tố cơ bản để xây
dựng đồng thuận xã hội và thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Trong thời kỳ quá độ,
khi đang còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều
giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, thì cố nhiên bên cạnh sự thống nhất về mục
tiêu chung, vẫn còn sự khác nhau về những mục tiêu cụ thể và đó cũng là điều
dễ hiểu. Do vậy, không thể đề ra yêu cầu cao là phải đạt tới sự nhất trí tuyệt đối
về chính trị và tinh thần của toàn xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX đã khẳng định rõ: “lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung
của dân tộc” 10). Tuy nhiên, như đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã phát
biểu, “chúng ta phải làm và sẽ làm tất cả những gì cần thiết để các điểm tương
đồng ngày càng được phát huy và nhân lên, những điểm khác nhau càng
giảm thiểu”(11), phải tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao
trách nhiệm công dân, xây dựng “[I]sự đồng thuận xã hội[/I]”(12).
Hiểu một cách chung nhất, đồng thuận là kết quả của sự tự giác, tự
nguyện đồng ý của mọi người với nhau chứ không phải là kết quả của sự
cưỡng bức. Sự cưỡng bức hay áp đặt dù dưới hình thức nào cũng không tạo
ra được sự đồng thuận đích thực, hoặc nếu có cũng là trạng thái đồng
thuận giả tạo vì nó không dựa trên cơ sở tôn trọng quyền tự do của mỗi
cá nhân. Con người trong mọi thời đại dù ở các chế độ xã hội khác nhau
đều luôn tìm kiếm và hướng tới sự đồng thuận. Theo quan điểm triết học,
đồng thuận chính là kết quả của đấu tranh, không có đấu tranh thì không thể có
đồng thuận. Do vậy, [I]đồng thuận[/I] chưa phải là hoàn toàn nhất trí, nghĩa là
vẫn còn sự khác nhau, nhưng cùng thỏa thuận tạm gác lại để thực hiện cái
chung. Đồng thuận cũng không loại bỏ đấu tranh giữa các ý kiến khác nhau,
quan điểm, xu hướng còn khác nhau, đồng thời cũng chống lại những gì có thể
dẫn tới sự phân rã của xã hội. Nói cách khác, đồng thuận chấp nhận còn mâu
thuẫn, khác biệt, nhưng đòi hỏi phải giải quyết nó bằng thương lượng. Trên ý
nghĩa đó, đồng thuận được coi là một giá trị chính trị cơ bản trong một chế độ
dân chủ, là nền tảng duy trì sự ổn định và phát triển xã hội.
Đảng ta quan niệm mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội ở thời
kỳ quá độ là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, do đó “khuyến
khích trao đổi, tranh luận với tinh thần xây dựng về những vấn đề có ý kiến khác
nhau, tránh chụp mũ, áp đặt”, đồng thời chủ trương “kết hợp thực hiện chế độ
tập trung dân chủ trong Đảng với chế độ hiệp thương dân chủ trong tổ chức Mặt
trận để làm phong phú thêm nền dân chủ ở nước ta”
Nếu hiểu đồng thuận là cùng thỏa thuận về cái chung, cái cơ bản nhất
đồng thời vẫn chấp nhận sự khác biệt nhất định về dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ,
văn hóa, lợi ích giữa những người Việt Nam, miễn là chúng không hại gì cho lợi
ích chung của toàn dân tộc thì chúng ta thấy đồng thuận cũng rất gần với tinh
thần khoan dung, là một biểu hiện khác của khoan dung. Khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái” thì cũng có
nghĩa đồng thuận và khoan dung như là những nhân tố cơ bản để thực hiện đại
đoàn kết dân tộc.

Theo đó, bồi dưỡng và phát triển tinh thần khoan dung là biện pháp hữu
hiệu để khắc phục thái độ cố chấp, bất khoan dung, để thực hiện đồng thuận
xã hội và đại đoàn kết dân tộc. Bồi dưỡng và phát triển tinh thần khoan dung là
dạy cho thế hệ trẻ biết tôn trọng sự khác nhau về thiên hướng, nhân cách, niềm
tin tôn giáo, tín ngưỡng của những người khác nhau trong cộng đồng dân tộc.
Mỗi con người được sinh ra trong một hoàn cảnh tự nhiên và xã hội nhất định,
là sản phẩm của một truyền thống lịch sử và văn hóa nhất định, có tâm lý, tính
cách, sở thích khác nhau, theo đuổi những giá trị không giống nhau; nhưng tất
cả đều có quyền được sống đúng như bản chất vốn có của họ. Trong khi khẳng
định và củng cố cái thiên hướng và bản sắc riêng của mình, mỗi dân tộc và mỗi
người cần phải biết tôn trọng và chấp nhận quyền của người khác, dân tộc
khác; không được áp đặt sự lựa chọn của mình, dân tộc mình cho người khác,
dân tộc khác. Như vậy, khoan dung chính là một biểu hiện của dân chủ, nó bác
bỏ chuyên chế và mọi vi phạm đến những quyền cơ bản của con người và
quyền của các dân tộc.

Ở nước ta, một trong những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới
là đem lại sự đa dạng, phong phú hơn về định hướng giá trị cho mỗi cá
nhân. Khoan dung chính là biết tôn trọng định hướng giá trị cũng như sự
theo đuổi các lợi ích riêng của mỗi cá nhân. Cuộc sống có nhiều loại giá trị: giá
trị đạo đức, giá trị văn hóa, giá trị kinh tế, giá trị pháp lý; có quan niệm đa dạng,
phong phú về cái đẹp, về hạnh phúc, về nhân cách, về tập quán, tín ngưỡng và
lợi ích,… Mọi người đều có thể theo đuổi những giá trị khác nhau đó miễn là
không làm hại đến mục tiêu chung là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”. Đó cũng là điều kiện cơ bản để xây dựng đồng thuận, thực
hiện đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay. Ngày nay, trên thế giới, chiến
tranh lạnh đã qua đi, nhưng loài người vẫn đang phải sống trong “nền hòa bình
nóng” (nếu không nói là mỏng manh). Nhiều nơi vẫn đang diễn ra những cuộc
chiến tranh, xung đột đẫm máu về lãnh thổ, sắc tộc, tôn giáo. Do thiếu một thái
độ khoan dung, người ta tự cho mình là độc tôn, đi tới dị hóa, kỳ thị với tất cả
cái gì không phải là mình. Ngược lại, cũng đang có những thế lực mưu toan lợi
dụng cái gọi là “bản chất chung của con người” để áp đặt cho các dân tộc
khác những giá trị xa lạ với truyền thống văn hóa của họ. Khi không áp
đặt được, họ sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế để hòng
khuất phục ý chí của dân tộc có chủ quyền. Tư tưởng dân tộc vị kỷ, hẹp
hòi, sôvanh nước lớn vẫn hiện diện trong ý thức của giới cầm quyền một
số nước phương Tây. Chủ nghĩa khủng bố quốc tế đang đe dọa những quyền
cơ bản của con người và các dân tộc, đó là quyền được sống, quyền mưu
cầu hạnh phúc trong hòa bình, độc lập, tự do và quyền được lựa chọn
con đường phát triển riêng theo lý tưởng và truyền thống văn hóa, điều kiện địa
lý, lịch sử của mỗi dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, trong bối cảnh đó, trên cơ
sở kế thừa và phát huy tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh, chúng ta luôn nêu
cao tinh thần “[I]sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước, không phân biệt chế độ
chính trị[/I]” và chủ trương “[I]hòa nhập nhưng[/I][I] không hòa tan[/I]”, mở cửa,
giao lưu tiếp thu tinh hoa của các dân tộc khác nhưng kiên quyết chống lại
những gì không phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân
tộc; luôn trau dồi bản lĩnh, giữ vững bản sắc, chủ động hội nhập vào trào lưu
chung của thế giới. Thế giới luôn đổi thay, nhưng chủ nghĩa nhân văn cộng sản,
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh (trong đó khoan dung là điểm nổi bật nhất) sẽ
sống mãi, tiếp tục là ánh sáng soi đường cho Đảng và nhân dân ta xây dựng
đồng thuận xã hội và đại đoàn kết dân tộc - một trong những cơ sở vững chắc
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

(*)[/SIZE][/FONT] Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thể dục thể thao, Tp. Hồ
Chí Minh.[/SIZE][/FONT]
(1)[/SIZE][/FONT]Hồ Chí Minh. [I]Toàn tập[/I], t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2000, tr.160. [/SIZE][/FONT]

(2)[/SIZE][/FONT] Hồ Chí Minh. [I]Sđd.[/I], t.12, tr.558.[/SIZE][/FONT]


(3)[/SIZE][/FONT] Hồ Chí Minh. [I]Sđd.[/I], t.4, tr.350.[/SIZE][/FONT]
(4) Hồ Chí Minh. [I]Sđd.[/I], t.5, tr.251-252.[/SIZE][/FONT]
(5)[/SIZE][/FONT] Hồ Chí Minh. [I]Sđd.[/I], t.4, tr.458.[/SIZE][/FONT]
(6)[/SIZE][/FONT] Hồ Chí Minh. [I]Sđd[/I]., t.4, tr.246.[/SIZE][/FONT]

(7)[/SIZE][/FONT] Hồ Chí Minh. [I]Sđd.[/I], t.4, tr.20.[/SIZE][/FONT]


(8[/SIZE][/FONT]) Hồ Chí Minh. [I]Sđd.[/I], t.5, tr.644.[/SIZE][/FONT]

(9[/SIZE][/FONT]) Hồ Chí Minh. [I]Sđd.[/I], t.7, tr.487.[/SIZE][/FONT]


(10)[/SIZE][/FONT] Đảng Cộng sản Việt Nam. [I]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX[/I]. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.123-124.[/SIZE]
[/FONT]

(11)[/SIZE][/FONT] [I]Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tại Hội
nghị lần thứ 5 Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam[/I]. Báo Nhân dân, ngày 27-02-
2003.[/SIZE][/FONT]
(12)[/SIZE][/FONT] [I]Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 7 khóa IX[/I]. Báo
Nhân dân, ngày 22-01-2003.[/SIZE][/FONT]
(13)[/SIZE][/FONT] Đảng Cộng sản Việt Nam. [I]Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương 7 khóa IX[/I]. Báo Nhân dân, ngày 20-3-2003.[/SIZE][/FONT]

[/SIZE][/FONT]
[I]Theo Tạp Chí Triết Học[/SIZE][/FONT][/I]

You might also like