You are on page 1of 72

1.

XU HƯỚNG CHUẨN HOÁ VÀ CẤU TRÚC GIAO THỨC


Khi môi trường của xã hội thông tin được hoàn thiện, thì mạng giao tiếp thông tin
băng rộng cần thiết phải tỏ ra thích nghi với các tính năng như tốc độ cao, băng rộng, đa
phương tiện. Và vì vậy phải tính đến việc thiết lập mạng thông tin tốc độ siêu cao ở tầm
quốc gia.
Mạng thông tin tốc độ siêu cao đã dựa vào sử dụng công nghệ ATM (phương thức
truyền tải không đồng bộ) để tạo ra mạng lưới quốc gia rộng khắp với tính kinh tế và hiệu
quả cho phép các nhà cung cấp dịch vụ có thể cung cấp nhiều loại hình dịch vụ thông tin
khác nhau.
Công nghệ ATM được hình thành từ công nghệ ATD (Asynchronous Time
Division - phân chia theo thời gian không đồng bộ) đã được đưa ra trên mạng viễn thông
của Pháp năm 1983 và FPS (Fast Packet Switchinh - chuyển mạch gói tốc độ cao) của
Bell Lab của nước Mỹ.
ATM là sự kết hợp của công nghệ truyền dẫn và công nghệ chuyển mạch qua
mạng giao tiếp chuẩn, dựa vào công nghệ ATM để phân chia và ghép tiếng nói, số liệu,
hình ảnh,... vào trong một khối có chiều dài cố định được gọi là tế bào. Đặc điểm chính
của ATM là thông tin được cấu tạo từ các tế bào ở trong một khổ thích hợp của thời gian
thực truyền tải thông tin và cách thức truyền tải có thể chứng minh rằng tất cả các dịch vụ
băng rộng không ảnh hưởng tới tốc độ thông tin.
Trong mạng ATM tin tức là các tế bào được gửi từ thiết bị đầu cuối được xắp xếp
trong tín hiệu số sao cho mạng với tốc độ xử lý khoảng vài Gbps có thể được sử dụng để
truyền hoặc chuyển mạch các tế bào đó, cũng như vậy toàn bộ các thông tin đã được
truyền bằng các tế bào với chiều dài cố định. Từ đây ta có thể thiết lập mạng liên kết đa
phương tiện mà nó có thể xử lý nhiều loại hình thông tin khác nhau như tiếng nói, số liệu,
hình ảnh, ... một cách đồng nhất. Hiện nay mạng giao tiếp số liệu tốc độ cao, mạng liên
kết phương tiện ATM-LAN và mạng giao tiếp hình ảnh là các hệ thống mới hiện hành
đang sử dụng các đặc điểm của ATM.
1.1 Xu hướng chuẩn hoá ATM
Vì việc chuẩn hoá giao thức xoay quanh OSI được coi là quan trọng trong môi
trường nhiều nhà sản xuất thiết bị của mạng máy tính, nên việc chuẩn hoá môi trường
ATM được phát triển để có tính tương hợp chung trong các lĩnh vực khác nhau. Chuẩn
hoá ATM trong mạng công cộng được thực hiện bởi chính phủ và các nhà cung cấp thông
tin đã được đề xướng bởi tổ chức trước đây nguyên từ CCITT năm 1987 và các khuyến
nghị về các chỉ tiêu kỹ thuật đã được thiết lập bởi ITU-I hiện hành. Mặt khác, ATM
Forum và IETF Internet đã áp dụng việc chuẩn hoá trong mạng riêng từ năm 1992.
ATMF nhằm vào sự phát triển tiêu chuẩn thiết bị ATM để có thể ứng dụng cho
các hệ thống công cộng cũng như chuẩn công nghiệp đã đòi hỏi cung cấp công nghệ
ATM cho mạng công cộng ngay tức thì. Nó cũng mở rộng vùng phát triển để chuẩn cho
sự cân đối mối quan hệ giữa ATM-LAN và ATM-WAN.
Trang 1/72
IETF giải quyết kỹ thuật chuẩn hoá trên bản đồ IP, giao thức chuẩn trong Internet.
Tại thời điểm này, trong mạng ATM, ITU-T, ATMF và IETF hợp tác với nhau nhưng
không gối lên nhau theo hướng của kỹ thuật chuẩn hoá.
1.1.1 Chuẩn hoá các hoạt động trong ITU-T
Trong lĩnh vực ATM-WAN, CCITT đã bắt đầu nghiên cứu và phát triển mạng
thông tin liên kết số đa dịch vụ băng rộng vào năm 1987 và đã chấp nhận tiêu chuẩn đối
với việc truyền dẫn đồng bộ SDH giữa 155Mbps - 2,5Gbps và ATM như phương thức
truyền tải để chuyển tải thông tin đa phương tiện. Năm 1990, CCITT đã xác định cấu
hình giao thức ATM cơ bản và dạng tế bào, đã thiết lập sơ bộ 13 khuyến nghị và quy
định các thông số lưu lượng và các thông số được sử dụng để xác định loại thông tin. Sau
đó CCITT được tổ chức lại vào trong ITU-I, là tổ chức chịu trách nhiệm giải quyết vấn
đề như hệ thống báo hiệu, liên kết hoạt động giữa các lưu lượng, ...
Các tiêu chuẩn ATM quan trọng đã được ITU-T khuyến nghị được tổng kết trên
bảng 1-1:

SG1 SG2 SG11 SG13


SG7 SG13 SG15
Định Mạng SG4 Báo Mạng SG13
Mạng Mạng Truyền
nghĩa OM& TMN hiệu B- công B-ISDN
số liệu trí tuệ dẫn
phục vụ M ISDN cộng

M.811 E.71x M.60 X.700 Q.141X Q.1200 1.121 I.113 G.702

M.812 E.72x M.3000 X.701 Q.2931 Q.1210 I.150 I.311 G.707

M.722 E.73x M.3010 X.710 Q.2761 Q.1202 I.211 I.356 G.708

M.732 E.73x M.3020 X.711 Q.2762 Q.1203 I.321 I.35BÂ G.709

M.821 E.74x M3100 X.720 Q.2763 Q.1204 I.327 I.35X G.781

M.822 M.320 X.721 Q.2764 Q.1205 I.361 I.580 G.782

M.3300 X.722 Q.2730 Q.1208 I.362 G.783

M.3400 X.730 Q.2610 Q.1211 I.363 G784

X.731 Q.2650 Q.1213 I.364 G.7803

X.732 Q.2660 Q.1214 I.371 G.957

X.733 Q.2100 Q.1215 I.413 G.958

X.734 Q.2110 Q.1218 I.432 H.230


Trang 2/72
X.735 Q.2130 Q.1219 I.610 H.242

X.736 Q.2140 Q.1290 G.rav

G.sdxc 1-
X.738 Q.2120
4

X.740

X.745

<Bảng 1-1> Các khuyến nghị ATM thích hợp của hệ thống ITU-T
1.1.2 Chuẩn hoá các hoạt động trong ATM
Tháng 10 năm 1991 các nhà đầu tư thiết bị thông tin của Mỹ bao gồm Cisco,
Adaptive, Northem Telecomm, Sprint và Bellcore đã tổ chức hội nghị bàn về khả năng
ứng dụng công nghệ ATM dưới môi trường LAN, đây là tiền thân của tổ chức TMF. Tổ
chức này đã mở rộng lên tới 150 thành viên vào năm 1992 và hiện nay có khoảng 600
thành viên trong các lĩnh vực máy tính và thông tin.
Sau khi ATMF đã được tổ chức ở Bắc Mỹ năm 1991 thì ATMF Bắc Âu đã tổ chức
năm 1992 và mở rộng đến vùng Đông Nam á & Thái Bình Dương vào năm 1993, và
ATM của Nhật Bản đã được thành lập vào tháng 12 năm 1993. Hiện tại ATMF là một
liên hiệp công ty thiết lập chỉ tiêu kỹ thuật thích hợp và xác định tiêu chuẩn thiết bị trong
thời gian ngắn để thực hiện hệ thống một cách tức thời cho mục đích phát triển sớm dịch
vụ và hệ thống ATM. Thậm chí ATM không phải là tổ chức tiêu chuẩn chính thức nhưng
nó có sức ảnh hưởng rất lớn. Các hoạt động khác nhau đang được thực hiện bởi các nhà
đầu tư máy tính và liên kết mạng bao gồm các nhà đầu tư thiết bị thông tin và các công ty
quản lý mạng được thiết lập để thiết lập các tiêu chuẩn cho LAN và WAN đa phương tiện
nhằm để ứng dụng có hiệu quả đối với máy tính đa phương tiện. Như vậy các thiết bị
ATM chuẩn chắc chắn được phát triển tuân theo chỉ tiêu kỹ thuật của ATMF.
Chỉ tiêu kỹ thuật của ATM dựa trên tiêu chuẩn quốc tế cho mục đích liên kết tiêu
chuẩn quốc tế và được cung cấp và nó bù cho các sự thiếu hụt khác nhau của các thủ tục
chuẩn hoá quốc tế bằng cách đưa ra chỉ tiêu kỹ thuật kịp thời tới các tổ chức chuẩn hoá
quốc tế như ITU-T. ATMF được thành lập bởi các uỷ ban kỹ thuật, uỷ ban MA & E (giáo
dục và nhận thức về thị trường), và uỷ ban ENR (hội nghị bàn tròn về mạng liên kết các
xí nghiệp).
1.1.3 Uỷ ban kỹ thuật ATMF
Uỷ ban kỹ thuật ATMF gồm có 9 nhóm được chỉ ra trên hình 1-1. Đầu tiên uỷ ban
kỹ thuật được bắt đầu với 8 nhóm biên tập kỹ thuật gồm: nhóm các lớp vật lý, nhóm quản
lý mạng, nhóm giao diện nút mạng riêng, nhóm quản lý lưu lượng, nhóm báo hiệu, nhóm

Trang 3/72
mô phỏng LAN, nhóm B-ICI (giao diện liên kết vận chuyển băng rộng) và nhóm kiểm
tra. Còn các hướng dịch vụ và nhóm ứng dụng đã được thêm vào tháng 7 năm 1993.
1) Nhóm các lớp vật lý:
Nhóm các lớp vật lý đã hoàn thiện chỉ tiêu kỹ thuật của giao diện lớp vật lý như
giao diện SONET 155,52Mbps, giao diện TAX 100Mbps và DS-3 từ chỉ tiêu kỹ thuật
ATM UNT và thiết lập chỉ tiêu kỹ thuật của giao diện lớp vật lý cho dây cáp đồng UTP-3
tại hội nghị tháng 3 năm 1993.
Hai tốc độ của giao diện UTP-3 là 25,6Mbps và 51,84Mbps đã được thảo luận và
cuối cùng tốc độ 51,84Mbps đã được lựa chọn.
Dạng báo hiệu BP RIP (đáp ứng cục bộ lớp IV nhị phân) và CAP-16 (điều chế pha
biên độ không sóng mang 16) đã được đề nghị và CAP-16 đã được lựa chọn. Thêm vào
đó để kết nối đường 155,52Mbps sử dụng dây cáp đồng, thì được nghiên cứu trên UTP-5
đã được thực hiện và đã được khẳng định vào tháng 7 năm 1949.
Cũng vậy chỉ tiêu kỹ thuật của giao diện cho DSI ATM UNI của tốc độ
1,544Mbps và UTOPIA (giao diện PHY của việc vận hành và kiểm tra toàn thể cho
ATM), là chỉ tiêu kỹ thuật của giao diện chuẩn giữa lớp ATM và lớp PHY đã được khẳng
định.
2) Nhóm quản lý mạng
Điều quan tâm chính của nhóm quản lý mạng là quản lý lỗi, quản lý cấu hình, giao
diện liên kết vận tải và giao diện mạng từ mạng vận tải tới mạng riêng. Nhóm này nghiên
cứu luồng đô thông báo quản lý và giao thức quản lý để cung cấp cho tính khả năng liên
kết hoạt động.
Như vậy sau khi xác định các chỉ tiêu kỹ thuật ILMI (giao diện quản lý địa
phương tạm thời) từ các chỉ tiêu kỹ thuật ATM UNI 3.0 ở giai đoạn sơ khai, thì nó kiểm
tra các yêu cầu quản lý theo quan điểm khả năng liên kết hoạt động và nghiên cứu sự hợp
tác với nhóm chuẩn hoá liên quan hay tổ chức khác mà sẽ sử dụng kết quả của ATMF.
Đặc biệt nhóm quản lý mạng dường như cống hiến hết cho việc ứng dụng các yêu
cầu và công nghệ hiện có hơn là giới thiệu công nghệ mới trong quản lý mạng và sẽ tập
trung định nghĩa luồng số liệu giữa các hệ thống quản lý mạng riêng và mạng công cộng.
Kết quả nghiên cứu của nhóm này bao gồm chỉ tiêu kỹ thuật giao diện M4 giữa hệ
thống quản lý mạng và mạng cũng như các chỉ tiêu kỹ thuật giao diện M3 giữa các hệ
thống quản lý mạng riêng và mạng công cộng.
3) Nhóm giao diện nút mạng riêng
Mục đích của nhóm này là thực hiện hệ thống ATM mà cung cấp sự tác động qua
lại nhau cho giao diện giữa các hệ thống chuyển mạch riêng hoặc giữa các mạng. Chỉ tiêu
kỹ thuật P-NNI đã được nghiên cứu trong nhóm này hầu như xử lý việc định tuyến và lấy
địa chỉ ATM-LAN. Nó cũng xử lý sự giàn xếp với tính hoạt động của IETF.

Trang 4/72
4) Nhóm quản lý lưu lượng
Các hoạt động của nhóm quản lý lưu lượng đã chậm lại một ít sau khi hoàn thành
chỉ tiêu kỹ thuật của ATM UNI 3.0. Sau đó nó đã xác định việc luôn trao đổi thông tin
trong bộ chỉ thị lưu lượng, đăng ký lưu lượng, sử dụng phần CLP (tỷ lệ mất mát tế bào),
sự dịch chuyển lưu lượng dư thừa, phương pháp EFCI (biểu thị tắc nghẽn ở phía trước
một cách rõ ràng), hệ thống thực hiện ban đầu, kinh nghiệm quản lý lưu lượng trong
mạng thực tế và kỹ thuật điều khiển lối vào ở mức bùng nổ. Nhóm này coi tốc độ tế bào
đỉnh, có thể chấp nhận được, và chiều dài bùng nổ cực đại giống như là các thông số để
xác định kiểu lưu lượng và thiết lập 5 lớp QoSs (chất lượng của dịch vụ) của đường mô
phỏng đường đây, truyền hình/âm thanh - gói, số liệu kết nối định hướng, loại số liệu
không kiểu kết nối, chất lượng không định nghĩa của dịch vụ. Cũng vậy nhóm này đã giới
thiệu thuật ngữ ABR (tốc độ bít khả dụng) và UBR (tốc độ bít không được định nghĩa).
Hiện nay, nhóm này đang rất tích cực nghiên cứu việc điều khiển và quản lý lưu
lượng cho dịch vụ ABR rất khả quan.
5) Nhóm mô phỏng LAN
Vào tháng 8 năm 1993 nhóm mô phỏng LAN của ATMF đã hoàn thành các chỉ
tiêu kỹ thuật DXI (giao diện trao đổi số liệu) cung cấp giao diện chuẩn để kết nối các
tuyến không phải ATM, cầu nối, HUB đến mạng ATM.
Cũng vậy nhóm này đã chuẩn bị thành công chỉ tiêu kỹ thuật cho mô phỏng LAN,
vấn đề được quyết định vào tháng 12 năm 1994.
6) Nhóm báo hiệu
Nhóm báo hiệu đã thừa nhận phần thiết yếu của ITU-T Q.2931 được yêu cầu để
thực hiện nó, đã hoàn thành các chỉ tiêu kỹ thuật ATM UNI 3.0 vào năm 1993 và đã công
bố rộng rãi thế hệ 3.0 vào tháng 10 năm 1994.
UNI 3.1 hỗ trợ thiết lập cuộc gọi nhanh chóng, kết nối điểm-đa điểm và chức năng
lấy cấu hình tự động của địa chỉ ATM.
Các vấn đề quan tâm chính của nhóm báo hiệu là kết nối đa điểm-đa điểm, phương
pháp và thủ tục nhân bản, cách thức xử lý chế độ điểm-đa điểm được thêm vào kế nối
hiện có, tái sắp xếp lớp dịch vụ và băng tần, kết nối và huỷ bỏ thêm tới/từ cuộc gọi hiện
có, ảnh hưởng lẫn nhau giữa lặp khung (Q.933) và hỗ trợ NNI riêng.
7) Nhóm B-ICI
Nhóm này đã nghiên cứu mô hình giao diện vận tải để hỗ trợ các dịch vụ khác như
là mô phỏng đường, dịch vụ lặp khung và SMDS cũng như đã các chỉ tiêu kỹ thuật B-ICI
1.0 đã hoàn thành vào tháng 8 năm 1993. Thêm vào đó các chỉ tiêu kỹ thuật thế hệ 1.1 đã
được phát hành thêm vào tháng 10 năm 1994.
Các nội dung bao gồm chỉ tiêu kỹ thuật giao diện B-ICI chung thông qua tổng đài
ATM và 3 loại chỉ tiêu kỹ thuật ảnh hưởng lẫn nhau của dịch vụ (SMDS-ATM IWF,
CES-ATM IWF và FR-ATM IWF) phù hợp với các kiểu dịch vụ. Trong tương lai nhóm
Trang 5/72
này sẽ nghiên cứu chỉ tiêu kỹ thuật dịch vụ mô phỏng đường dây cho dịch vụ lặp khung
sử dụng kênh ảo cố định, dịch vụ kênh ảo cố định và dịch vụ lặp tế bào.
Thêm vào đó, nó đang khai thác hỗ trợ kênh ảo kiểu chuyển mạch giữa các B-ICI,
kỹ thuật ghi cước, thủ tục vận hành, thêm lớp vật lý o như E3 và SDH, hỗ trợ dịch vụ mới
như CBDS.
8) Nhóm kiểm tra
Nhóm kiểm tra xử lý môi trường để kiểm tra hệ thống ATM, điều đó có nghĩa là
truy nhập phương pháp kiểm tra bằng cách chuẩn đoán, kiểm tra tính tương hỗ qua lại lẫn
nhau, kiểm tra tính phù hợp và cách thức tổ chức phòng thí nghiệm ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau. Nhóm kiểm tra vận hành không theo qui tắc, bởi vì nó hỗ trợ từng hội nghị nhóm
chính thức.
9) Nhóm ứng dụng và các hướng dịch vụ
Nhóm ứng dụng và dịch vụ xử lý các vấn đề hỗ trợ sự giao tiếp với lớp AAL trong
API (giao diện lập trình ứng dụng) tạo thành cho các dịch vụ đang tồn tại hoặc ứng dụng
mới.
Cụ thể là, nó thực hiện nghiên cứu trên sơ đồ để phù hợp với LAN hoặc WAN
phía trên lớp AAL cũng như trên sơ đồ hỗ trợ mô phỏng LAN, dịch vụ Internet, hội nghị
đa phương tiện và các dịch vụ truyền hình phân tán.
Nó thừa nhận sự cần thiết hợp tác EUFG (nhóm tập trung vào khách hàng đầu
cuối) cho thông tin thị trường ATM và đã thừa nhận tổ chức A/MV (các nhà đầu tư ứng
dụng/thiết bị cỡ trung). Thêm vào đó, nó đã ưu tiên sự phân tích các chướng ngại mà nhà
phát triển phần mềm đang phát triển thiết bị cỡ trung và ứng dụng ATM phải đương đầu.
Các phần mềm ứng dụng khách hàng đầu cuối đang được quan tâm bao gồm CAD, in ấn
văn phòng, hình ảnh y học, cơ sở dữ liệu đa phương tiện, hệ thống đa phương tiện/y học,
soạn thảo sản phẩm bưu chính, truyền hình/hội nghị từ xa. Các phần mềm thiết bị cỡ
trung khả dụng chuyển giao tài liệu S/W, băng rộng/ATM S/W và thông tin đa phương
tiện S/W.
1.1.4 Uỷ ban ATMF MA&E
Uỷ ban MA&E của ATMF đã được thành lập vào tháng 10 năm 1992 nhằm mục
đích công bố mục tiêu của ATMF và công nghệ ATM cho các ngành công nghiệp và các
khách hàng đầu cuối.
Hiện nay MA&E bao gồm nhóm tập trung vào khách hàng đầu cuối, nhóm đào tạo
và nhóm phát hành công cộng và giao tiếp thị trường như được chỉ ra trên hình 1-1. Uỷ
ban MA&E là một trong những uỷ ban quan trọng nhất của ATMF, giám sát các cuộc
họp thường lệ và chỉ những thành viên chính thức được phép tham dự các cuộc họp.
Nhóm tập trung vào khách hàng đầu cuối được thành lập để phân tích các mối
quan tâm và các yêu cầu chính trong lĩnh vực công nghiệp và điều tra sự phản ứng của
khách hàng đầu cuối giao tiếp thông tin.
Trang 6/72
Kết quả của các hoạt động chính bao gồm tổ chức của ENR (Hội nghị bàn tròn các
doanh nghiệp), nó là một tổ chức cho khách hàng đầu cuối liên quan đến các hoạt động
của ATMF.
1) Nhóm tập trung khách hàng đầu cuối
Hoạt động chính của nhóm này bao gồm các nghiên cứu xu hướng thị trường được
thực hiện để nắm bắt được các yêu cầu khách hàng đầu cuối, và các kết quả nghiên cứu
được phân phối tới các tổ chức quan trọng bên ngoài và toàn bộ các thành viên của ATM
Forum.
2) Nhóm đào tạo
Nhóm đào tạo đã được thành lập để cải tiến các hoạt động của ATMF và công
nghệ ATM. Bằng việc giám sát các cuộc hội thảo và các cuộc họp, các nguyên tắc của
công nghệ ATM được giải thích và công bố lĩnh vực tiềm tàng của nó.
3) Nhóm phát hành công cộng và giao tiếp thị trường
Nhóm này đóng vai trò là người phát ngôn của ATMF về lĩnh vực công nghiệp.
Nó có nhiệm vụ giới thiệu các hoạt động ATMF và tiếp xúc gần gũi với các thông tin mới
nhất, các tạp chí hàng đầu và các tổ chức tư vấn.
1.1.5 Uỷ ban ATMF ENR
ATMF đã chấp nhận lời đề nghị của nhóm khách hàng ATM tại hội nghị vào
tháng giêng năm 1993 và đã xác định thành lập ENR để quan tâm đến các yêu cầu của
các khách hàng. Nhiệm vụ chính của ENR là sớm phát triển việc đưa hệ thống ATM đầy
tiềm năng vào thương trường và gia tăng giới thiệu dịch vụ dựa trên ATM.
Do vậy các thành viên của ENR bao gồm các khách hàng giao tiếp thông tin, các
nghiên cứu viên trong trường đại học và các nhà máy tính công nghiệp, người làm ảnh
hưởng đến, mua bán hay sử dụng hệ thống hoặc các dịch vụ ATM. Mục tiêu cuối cùng
của ENR là thiết lập cơ sở hạ tầng giao tiếp thông tin đa phương tiện trên toàn thế giới
được sử dụng để cung cấp các dịch vụ cho mọi người. Bốn mục tiêu chính của ENR là sự
tuyển bổ sung các thành viên mới, thẩm tra và loại bỏ các chướng ngại ẩn sau sự phát
triển của ATM, thẩm tra và thiết lập tiêu chuẩn công nghệ ATM mấu chốt và sự đồng
nhất nền công nghiệp kết hợp thông qua các yêu cầu chức năng và sự phân tích tóm tắt.
Uỷ ban ENR bao gồm nhóm yêu cầu, nhóm đào tạo và các nhóm thành viên.
1.1.6 Các hoạt động tiêu chuẩn hoá trong IETF
IETF là tổ chức xử lý tiêu chuẩn giao diện của Internet là mạng máy tính TCP/IP.
Nhiều nghiên cứu được thực hiện trên mạng ATM, IETF đã tổ chức các phân
nhóm được gọi là IOA (IP trên ATM) để thiết lập tiêu chuẩn cho sự thực hiện giao tiếp IP
thông qua mạng ATM. Mục tiêu chính được xử lý bởi IOA bao gồm kết bao các loại khác
nhau của các gói giao thức để ứng dụng ATM cho lớp MAC như thế nào và gói cơ sở có
độ rộng như thế nào để truyền gói IP tới mạng ATM. Thêm vào đó, phương pháp định
Trang 7/72
địa chỉ của việc thực hiện nhiều phân mạng IP trong một mạng ATM nằm trong mục đích
đó.
Các chỉ tiêu kỹ thuật đã được phê chuẩn bởi IETF đã được công bố trong hệ thống
tài liệu RFC, IETF, RFC 1577 đã được phê chuẩn vào những tháng đầu năm 1994 định
nghĩa mô hình tham khảo cho giao tiếp IP sử dụng kênh ảo ATM và ATMARP/In
ATMARP cho việc chuyển đổi lẫn nhau của địa chỉ IP và địa chỉ ATM. Thêm vào đó,
kích thước MTU cơ sở (Đơn vị truyền dẫn cực đại) của gói IP sử dụng trong ATM AAL5
đã được chỉ rõ trong RFC 1626.
RFC 1483 đưa ra hai phương pháp của sự truyền gói cầu nối/định tuyến phát sinh
trên giao diện liên kết LAN sử dụng mạng ATM; hệ thống kết bao LLC truyền các gói
bằng cách kết bao nó vào trong khung LLC và ghép vào một kênh ảo và hệ thống ghép
kênh dựa trên VC mà truyền gói sử dụng một vài kênh ảo khác nhau bằng các loại giao
thức mức cao đã được tải vào trong gói
1.2 Cấu trúc phân bậc của giao thức ATM
1.2.1 B-ISDN và phương thức truyền thông ATM
Mạng số hoá đa dịch vụ băng rộng B-ISDN được phát triển bằng cách mở rộng
khả năng của mạng ISDN đang tồn tại với mục đích trang bị thêm các loại tín hiệu băng
rộng và nhờ ảnh hưởng của tiêu chuẩn truyền dẫn quang đồng bộ Phương pháp truyền
thông ISDN được đưa vào ứng dụng trong mạng B-ISDN Mục đích chính của mạng
BISDN là kết hợp tín hiệu liên tục thời gian thực và nhóm các tín hiệu dữ liệu nhờ cách
phân bố băng rộng từ nhóm các dịch vụ băng hẹp như giám sát từ xa các thiết bị truyền
số liệu điện thoại, FAX đến các dịch vụ băng rộng bao gồm điện thoại thấy hình, hội nghị
truyền hình, truyền ảnh với độ chính xác cao, truyền số liệu tốc độ cao và truyền hình
ảnh. Như vậy, cần có hệ thống xử lý hiệu suất để điều khiển các dịch vụ khác nhau nói
chung và ATM được coi là giải pháp cho mục đích này.
Khái niệm BISDN được đưa ra với nhu cầu ngày một tăng đối với các dịch vụ
băng rộng bao gồm cả dịch vụ truyền ảnh. Để sắp xếp tất cả các dịch vụ băng rộng cần
phải có khả năng kết hợp các dịch vụ như dịch vụ điện thoại thấy hình và các dịch vụ
phân bố như truyền hình cáp. Ngoài ra còn cần đến các chế độ dịch vụ chuyển mạch kênh
và chuyển mạch gói.
Mặt khác cũng cần đến các hệ thống truyền thông có khả năng cung cấp các dịch
vụ băng rộng từ tốc độ truyền dẫn cực thấp vài kb/s như dịch vụ giám sát từ xa đến các
tốc độ truyền dẫn vài trăm Mbit/s như tín hiệu hình ảnh. Giải pháp ở đây là nhờ bộ ghép
kênh thống nhất bên ngoài các tín hiệu khác nhau với dạng tín hiệu như nhau và xếp lại
với nhau theo thứ tự nối tiếp. Việc thống nhất bên ngoài tạo nên các tế bào và phương
pháp ghép các tế bào ATM gọi là ATDM (Asynchronous Time Division Multiplexing -
Ghép kênh theo thời gian không đồng bộ) và hệ thống truyền thông dựa trên cơ sở các tế
bào ATM được gọi là phương pháp thông tin ATM.

Trang 8/72
Phương pháp thông tin ATM có thể được coi như việc kết hợp giữa phương pháp
chuyển mạch kênh hiện thời và hệ thống thông tin chuyển mạch gói. Trong khi hệ thống
thông tin ATM rất gần với hệ thống chuyển mạch gói - trên quan điểm là nó sử dụng các
tế bào ATM như phương pháp truyền tin cơ bản - nó cũng có một điểm khác với thông
tin chuyển mạch gói ở chỗ thông tin ATM có thể truyền tin thời gian thực và các tín hiệu
có tốc độ truyền dẫn không đổi.
Hơn thế nữa, hệ thống chuyển mạch gói được ứng dụng chủ yếu cho mạng LAN
trong đó ATM gặp phải một số khó khăn trong việc chỉ định địa chỉ, điều khiển giao diện
và địa chỉ, chuyển mạch, truyền dẫn, ... bởi vì nó được áp dụng cho mạng công cộng lớn.
So với hệ thống thông tin chế độ chuyển mạch kênh, điểm khác biệt cơ bản giữa hệ thống
thông tin chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói là chế độ chuyển mạch kênh chỉ rõ từng
kênh cho từng dịch vụ và truyền luồng tín hiệu dưới dạng chuỗi bít thông qua kênh, trong
khi đó hệ thống thông tin ATM chia tín hiệu thành phần nhỏ và truyền tín hiệu bằng các
tế bào ATM nhờ các kênh ảo. Vì vậy có thể nảy sinh nhiều vấn đề như thiết lập kênh, xử
lý tín hiệu, truyền dẫn và chuyển mạch.
Từ khi BISDN hoặc ATM là các phương pháp cập nhật thông tin được đưa ra từ
cuối những năm 1980, các chi tiết liên quan đến chúng vẫn đang trong giai đoạn phát
triển, và BISDN - ATM thường được sử dụng mà không có phân biệt nào vì ATM là một
phương pháp thông tin mới được áp dụng cho mạng BISDN.
1.2.2 Phương pháp phân kênh theo thời gian không đồng bộ.
TDM (Ghép kênh theo thời gian) được sử dụng rộng rãi để ghép các tín hiệu đồng
bộ tương tự nhau có thể được coi là ghép kênh đồng bộ vì đồng hồ của hệ thống. Tín hiệu
dịch vụ tốc độ thấp được ghi bên trong xuất hiện tại các vị trí cố định trong khung tín
hiệu như trên hình 1-2 trong khi tín hiệu ghép kênh được tạo nên trên cơ sở các khung
ghép kênh được lặp lại trên cơ sở đồng hồ hệ thống. Như vậy theo thời gian tín hiệu dịch
vụ tốc độ thấp luôn luôn tồn tại tại điểm đồng bộ với đồng hồ hệ thống.
ATDM trước hết lưu tín hiệu dịch vụ đầu vào tại các bộ đệm và đọc ra lần lượt,
tuân theo luật ưu tiên của hệ thống ghép kênh để chèn vào các khe thời gian ghép kênh.
Một trong các luật ưu tiên đơn giản nhất là FIFO (vào trước ra trước). Trong trường hợp
đó tín hiệu dịch vụ đầu vào trở thành các tế bào ATM khi sử dụng hệ thống truyền dẫn
ATM. Trên hình 1-2 (b) là một ví dụ, vì tín hiệu ATDM không xuất hiện tại các vị trí cố
định, nên nó làm việc theo kiểu "không đồng bộ" không giống như trường hợp TDM.

Hình 1-2 So sánh giữa TDM và ATDM


Hiệu suất sử dụng kênh của phương pháp ATDM cao hơn so với TDM. Vì trong
khi TDM không truyền thông tin khác, thậm chí ở trạng thái rỗi - khi không có thông tin
hợp lệ vì TDM chỉ định kênh cố định không phụ thuộc vào từng tín hiệu đầu vào -
ATDM có thể truyền các thông tin khác trong các trạng thái rỗi vì không có sự chỉ định
kênh cố định, bằng cách đó mà hiệu suất sử dụng kênh được tăng lên.
Trang 9/72
Hình 1-3 Chỉ ra mối quan hệ này. Trên hình này, trục tung là dung lượng kênh còn
trục hoành là chỉ thời gian. Các đường kẻ sọc chỉ các thông tin cần truyền tương ứng với
một tế bào ATM. Trong trường hợp TDM các chu kỳ rỗi của mỗi kênh bị tách riêng vì tín
hiệu ghép kênh chỉ là sự kết hợp các kênh độc lập. Trong khi đó đối với trường hợp
ATDM hiệu suất sử dụng kênh được tăng lên do tín hiệu ghép kênh chỉ sử dụng một kênh
và các chu kỳ rỗi có thể sử dụng để cung cấp các dịch vụ mới.

Hình 1-3 So sánh quan hệ của việc sử dụng kênh


ATM là một loại hệ thống truyền dẫn thông tin dạng gói đặc biệt sử dụng kiểu
ghép kênh không đồng bộ. BISDN truyền các thông tin dịch vụ trên cơ sở một dòng liên
tục các gói có kích thước khác nhau được gọi là tế bào ATM. Như vậy, các thông tin dịch
vụ trước hết được chia ra thành các kích cỡ đặc biệt rồi ghép thành các tế bào ATM. Sau
đó tín hiệu bên trong BISDN được tạo nên nhờ kỹ thuật ATDM để ghép các tế bào lại với
nhau. Trong trường hợp này, ATDM chính là kiểu ghép kênh thống kê thực hiện việc
ghép các tế bào ATM với một số kênh theo kiểu ghép kênh theo thời gian.
Khi sử dụng kỹ thuật ATM, dung lượng kênh dịch vụ được tính trên cơ sở số các
tế bào ATM. Tương ứng với nó, dung lượng thông tin được truyền đi được thể hiện bởi
số các tế bào và độ tập trung thông tin được tính trên cơ sở mức độ phân bố các tế bào
ATM. Trong khi đó dung lượng truyền dẫn được chỉ định bởi việc thiết lập cuộc gọi theo
yêu cầu của khách hàng, và dung lượng truyền dẫn có khả năng thay đổi mềm dẻo được
tạo nên cho tất cả các loại dịch vụ bao gồm cả loại dịch vụ phi kết nối.
ATM cũng chấp nhận loại dịch vụ kết nối trong đó kênh ảo được tạo nên để truyền
các thông tin dịch vụ. ID để kết nối được chỉ định khi thiết lập kênh và ID được giải
phóng khi kết nối kết thúc. Trình tự ATM của các tế bào ATM của kênh ảo nhất định
được tạo nên bởi chức năng của lớp ATM và thông tin báo hiệu cho việc thiết lập kết nối,
và được truyền đi theo các tế bào ATM khác nhau.
Như vậy, nhờ có công nghệ ATM ta có thể kết hợp các dịch vụ BISDN khác nhau.
Đó là các dịch vụ băng rộng và băng hẹp khác nhau cùng tồn tại trong mạng viễn thông
trong cùng một kích cỡ tế bào ATM. Các dịch vụ có tốc độ bit không đổi tạo nên các tế
bào ATM được phân bố đồng nhất và các dịch vụ có tốc độ bit thay đổi được phân bố
rộng hơn nhưng vẫn tạo nên cùng một loại tế bào ATM. Ngoài ra dịch vụ thời gian thực
được tạo nên nhờ cách loại bỏ hiện tượng trễ nhờ kênh ảo.
Hệ thống ATM quy định mô hình tham chiếu giao thức phân bậc cho việc truyền
dẫn các thông tin đối xứng và các thông tin truyền dẫn linh hoạt. Các lớp thông tin được
quy định là lớp vật lý, lớp ATM, lớp thích ứng ATM (AAL) và lớp bậc cao. Lớp AAL
thực hiện việc ghép các tín hiệu dịch vụ vào phần tải tin. Lớp ATM thực hiện chức năng
liên quan đến tín hiệu ghép đầu của tế bào ATM để truyền tải một cách thông suốt còn
lớp vật lý chuyển các tế bào ATM thành các dòng bít tín hiệu.

Trang 10/72
1.2.3 Tế bào ATM
ATM là khối truyền tin cơ bản trong phương pháp truyền tin ATM. Như trên hình
1-4, tế bào ATM cấu tạo nên từ 53 byte. Trong đó 5 byte dành cho phần tín hiệu ghép
đầu, còn 48 byte lại dành cho phần thông tin. Phần tín hiệu ghép đầu được chia ra thành
các phần điều khiển chung cho luồng tín hiệu (General Flow Control), phần tín hiệu xác
định luồng ảo (VPS), xác định kênh ảo (VCI) loại tải (PT), tín hiệu xác định tế bào ưu
tiên và tín hiệu kiểm tra lỗi phần tín hiệu ghép đầu. Số bít dành cho mỗi phần giữa UNI
và NNI khác nhau, và số lượng và vị trí của các bít tương ứng được chỉ ra trên hình 1-2
và 1-4 (b), (c).

Hình 1-4 Cấu trúc tế bào ATM

Sắp xếp các bit


Chức năng
UNI NNI

GFC 4 0

VPI 8 12

VCI 16 16

PT 3 3

CLP 1 1

HEC 8 8

Bảng 1-2 Sắp xếp các bít ghép đầu


Phần GFC trong tế bào ATM dùng để chỉ giao diện của môi trường dịch vụ. Ngoài
ra nó còn dùng làm giảm độ rung pha của các dịch vụ có tốc độ bít không đổi, việc chỉ
định dung lượng đồng nhất đối với dịch vụ có độ bit thay đổi (VBR) và điều khiển mức
độ quá tải của dòng VBR. Các chức năng như vậy đòi hỏi khả năng kiểm soát đối với cấu
trúc UNI của cấu hình sao, loại hình vòng, loại đơn tuyến hoặc sự kết hợp các loại cấu
hình này.
Phần VPI/VCI ghi nhận sự nhận dạng luồng ảo và kênh ảo để phân chia các tế bào
ATM trong cùng một đường truyền. Các phần VPI/VCI cố định được chỉ định riêng biệt
để chỉ các tế bào không được chỉ định. Các tế bào dành cho điều khiển và bảo dưỡng
trong lớp vật lý, kênh báo hiệu meta và các kênh báo hiệu quảng bá.

Trang 11/72
PT dùng để chỉ các thông tin khách hàng và sự quá tải của tế bào thông tin khách
hàng.
CLP dùng để chỉ khả năng cho phép hoặc không cho phép mất cuộc gọi trong
trường hợp mạng quá tải.
HEC là byte kiểm tra dư theo chu kỳ (CRC) đối với vùng tín hiệu ghép đầu của tế
bào. Nó được dùng để phát hiện và sửa lỗi của tế bào cũng như xác định tín hiệu ghép
đầu.
Tế bào ATM có thể được phân loại theo lớp cấu thành và chức năng như chỉ ra
trên hình 1-3. Trước hết tế bào ATM được chia ra thành tế bào lớp ATM và tế bào lớp vật
lý.
Tế bào lớp ATM được tạo ra trong lớp ATM và tế bào lớp vật lý được tạo trong
lớp vật lý. Tế bào lớp ATM được phân chia thành tế bào được chỉ định và tế bào không
được chỉ định. Còn tế bào lớp vật lý được chia ra thành tế bào rỗi và tế bào điều hành
khai thác bảo dưỡng (OAM) lớp vật lý. Tế bào chỉ định dùng để chỉ những tế bào dành
cho dịch vụ trong lớp ATM. Còn tế bào không chỉ định là các tế bào không được chỉ
định. Tế bào rỗi dùng để lấp chỗ trống trong trường hợp không có tế bào cần truyền còn
tế bào OAM lớp vật lý dùng cho việc quản lý, khai thác và bảo dưỡng. Mặt khác tế bào
ATM có thể tiếp tục phân loại theo tế bào phù hợp và tế bào không phù hợp trên quan
điểm của lớp vật lý. Tế bào phù hợp là tế bào không có lỗi trong tín hiệu ghép đầu, tế bào
có lỗi được hiệu chỉnh còn tế bào không phù hợp để chỉ các loại tế bào khác mà sẽ bị loại
bỏ trong lớp vật lý.

Lớp Tế bào Các chức năng

Tế bào được chỉ định Liên quan đến lớp bậc cao
Lớp ATM
Tế bào không được chỉ định Dịch vụ sẵn có trong lớp ATM

Tế bào rỗi Lấp chỗ trống


Lớp vật lý
Tế bào ATM lớp vật lý Tế bào OAM

Bảng 1-3 Phân loại tế bào ATM

1.2.4 Mẫu tham chiếu giao thức


Mẫu tham chiếu giao thức PRM của mạng BISDN bao gồm mặt bằng quản lý, mặt
bằng kiểm tra và mặt bằng người sử dụng như chỉ ra trên hình 1-5 và mặt bằng điều hành
được phân chia ra thành điều hành mặt bằng và điều hành lớp.

Hình 1-5 Mẫu tham chiếu giao thức BISDN


Trang 12/72
Điều hành mặt bằng trong mẫu tham chiếu giao thức ATM thực hiện việc điều
hành chung hệ thống còn điều hành lớp thực hiện việc điều hành các tham số khách hàng
và điều hành các thông tin quản lý khai thác và bảo dưỡng. Ngoài ra lớp điều khiển thực
hiện việc kiểm tra thông tin điều khiển và kết nối cuộc gọi và mặt bằng khách hàng kiểm
soát các thông tin khách hàng. Giao thức của mặt bằng điều khiển và mặt bằng khách
hàng được phân loại tiếp thành lớp mức cao. Lớp thích ứng ATM (AAL), lớp ATM và
lớp vật lý, các chức năng của các lớp được mô tả trong bảng 1-4.

Lớp Phân lớp Các chức năng

Lớp bậc cao Chức năng lớp bậc cao

Thích ứng ATM Kết hợp Chức năng kết hợp


(AAL)
Phân định và kết hợp lại Chức năng phân chia và kết hợp lại

Điều khiển lưu lượng chung


Tạo và tách thông tin ghép đầu
Lớp ATM
Dịch các tế bào VPI/VCI
Ghép và tách tế bào

Phân chia tốc độ tế bào


Tạo và xác định tín hiệu HEC
Kết hợp chuyển đổi
Nhận dạng biên của tế bào
Lớp vật lý Tạo và xác định khung truyền dẫn

Chức năng thông tin thời gian bit


Môi trường vật lý Chức năng tương ứng môi trường vật

Bảng 1-4 Chức năng của lớp mẫu tham chiếu giao thức mạng BISDN
Lớp AAL bao gồm phân lớp kết hợp CS tạo ra thông tin dịch vụ khách hàng lớp
bậc cao chia trong khối dữ liệu giao thức PDU và phân lớp phân định và kết hợp lại với
nhiệm vụ phân PDU để tạo nên phần thông tin khách hàng trong tế bào ATM.
Lớp ATM có đoạn GFC để điều khiển giao thức và dòng thông tin trong UNI.
Ngoài ra nó còn dịch VPI/VCI thành các điểm truy nhập dịch vụ SAP và các tế bào ghép
và tách kênh. Thêm vào đó, nó thực hiện việc tạo ra và xác nhận tín hiệu ghép đầu tế bào.
Lớp vật lý tạo nên bởi phân lớp kết hợp truyền dẫn TC và phân lớp môi trường vật lý.
Phân lớp TC phân định tốc độ tế bào, tạo/xác định byte kiểm tra lỗi và xác định điểm giới
hạn của tế bào. Ngoài ra, khi phân lớp TC được truyền đi trên cơ sở kỹ thuật SDH, nó
thực hiện việc tạo và xác định khung. Phân lớp vật lý cung cấp trạng thái truyền dẫn cuối
cùng nhờ cáp quang hay cáp đồng trục.

Trang 13/72
1) Chức năng của từng mặt bằng.
Mặt bằng khách hàng cung cấp chức năng điều khiển như vận chuyển các luồng
thông tin khách hàng, điều khiển dòng tin, sửa lỗi, v.v... Trong trường hợp này, thông tin
khách hàng chỉ ra các thông tin dịch vụ trong BISDN khác nhau như thoại, hình ảnh, dữ
liệu, đồ hoạ v.v... Thông tin khách hàng có thể được truyền riêng trong mạng BISDN hay
bằng các quy trình tương ứng.
Mặt bằng điều khiển cung cấp chức năng kết nối và điều khiển cuộc gọi. Nói cách
khác, mặt bằng điều khiển cung cấp các chức năng liên quan đến thiết lập cuộc gọi, giám
sát cuộc gọi, giải phóng cuộc gọi v.v... Ngoài ra nó có thể cung cấp các chức năng điều
khiển để thay đổi các đặc tính của dịch vụ đối với đường kết nối đã được thực hiện.
Mặt bằng điều hành cung cấp chức năng giám sát mạng viễn thông liên quan đến
thông tin khách hàng và truyền thông tin điều khiển. Nó được phân loại thành chức năng
điều khiển và chức năng điều khiển lớp. Chức năng điều hành mặt bằng điều khiển tổng
thể hệ thống bằng cách can thiệp vào giữa các mặt bằng, và chức năng điều khiển lớp
cung cấp việc điều hành liên quan đến nguồn và tham số của giao thức tương ứng. Ngoài
ra nó còn điều khiển dòng thông tin đối với các lớp cấu thành.
1.2.5 Lớp vật lý
Lớp vật lý được tạo lên bởi lớp con môi trường vật lý PM và lớp con kết hợp
truyền dẫn TC. Và chức năng của mỗi lớp con được mô tả trên bảng 1-4. Lớp con PM
cung cấp thông tin liên quan đến môi trường vật lý, và các thông tin thời gian bit, lớp con
TC chuyển đổi luồng tế bào ATM thành luồng mã hoá bít dữ liệu.
(1) Chức năng môi trường vật lý.
Chức năng PM liên quan đến môi trường vật lý để truyền dẫn như sợi quang, phần
tử phát quang, phần tử nhận quang, bộ nối v.v...
(2) Chức năng thông tin thời gian bit
Chức năng này chuyển đổi luồng bit dữ liệu thành dạng sóng phù hợp với môi
trường truyền dẫn hoặc ngược lại, đưa vào hoặc lấy ra các thông tin về thời gian của bit,
và thực hiện mã hoá và giải mã đường truyền. Như vậy thông tin được chuyển từ phân
lớp PM sang phân lớp TC bao gồm dòng bit/mã dữ liệu và thông tin thời gian tương ứng.
(3) Chức năng tạo và nhận dạng khung.
Chức năng này tạo ra hoặc xác định khung truyền dẫn. Trong trường hợp truyền
dẫn trên cơ sở các tế bào ATM, chức năng này không cần vì không có các khung truyền
dẫn riêng biệt. Tuy nhiên, trong trường hợp truyền dẫn SDH cần phải có khung STM-n
và trong trường hợp truyền dẫn dựa trên khuyến nghị G.702 cần có khung tín hiệu DS-3.
(4) Chức năng thích ứng khung truyền dẫn.

Trang 14/72
Chức năng này là ghép các dòng tế bào ATM vào những khoảng với tải phù hợp
của khung truyền dẫn hoặc lấy lại dòng các tế bào ATM từ khung truyền dẫn. Điều này
đòi hỏi đối với trường hợp truyền dẫn trên cơ sở SHD hay trên cơ sở khuyến nghị G.702.
(5) Chức năng nhận dạng biên của tế bào.
Chức năng này xác định khung của tế bào ATM trong dòng các tế bào ATM. Nó
thực hiện việc ngẫu nhiên hoá đối với hướng phát, xác định, và khẳng định đường biên
của tế bào ATM và thực hiện việc giải ngẫu nhiên theo hướng ngược lại.
(6) Chức năng tạo và xác nhận tín hiệu HEC.
Chức năng này tạo và xác định tín hiệu HEC (Giám sát lỗi ghép đầu) của tín hiệu
ghép đầu tế bào ATM. Theo hướng phát, nó tạo tín hiệu HEC nhờ 4 byte trong tín hiệu
ghép đầu ATM và đưa nó vào trong byte thứ 5. Theo hướng ngược lại, nó kiểm tra tính
thích hợp của tín hiệu HEC đối với tín hiệu nhận được trong cùng một quá trình và bỏ
qua tế bào nếu phát hiện ra lỗi không sửa được.
(7) Chức năng phân định tốc độ tế bào.
Chức năng này ghép thêm các tế bào rỗi vào các tế bào ATM với các thông tin phù
hợp để tạo ra tốc độ tế bào bằng với dung lượng PT của hệ thống truyền dẫn hoặc loại bỏ
các tế bào rỗi để tách các tế bào có dữ liệu.
1.2.6 Lớp ATM
Lớp ATM độc lập đối với lớp vật lý và các chức năng được chỉ ra trong bảng 1-4.
(1) Chức năng ghép và tách tế bào.
Chức năng này ghép các tế bào ATM với các luồng ảo và kênh ảo khác nhau để
tạo nên dòng tế bào tổng hợp, hoặc ngược lại cung cấp chức năng tách các tế bào. Trong
khi đó, các tế bào ghép không nhất thiết phải là dòng tín hiệu liên tục.
(2) Chức năng chuyển đổi tế bào VPI/VCI
Chức năng này được yêu cầu đối với tổng đài ATM hay các nút nối chéo ATM.
Nó ghép các giá trị mới vào các giá trị trong trường VPI/VCI.
(3) Chức năng tạo ra và nhận dạng tín hiệu ghép đầu của tế bào.
Chức năng này được dùng cho điểm xác định lớp ATM để tạo ra hoặc nhận dạng 4
byte đầu của tín hiệu ghép đầu tế bào ATM. Nó ghép các thông tin nhận được từ lớp bậc
cao đến các trường tương ứng để tạo ra tín hiệu ghép đầu tế bào và thực hiện quá trình
ngược lại để nhận dạng tín hiệu ghép đầu. Ngoài ra nó dịch tín hiệu nhận dạng điểm truy
nhập dịch vụ SAPI thành tín hiệu VPI và VCI.

(4) Chức năng điều khiển dòng chung.

Trang 15/72
Chức năng điều khiển dòng chung điều khiển việc truy nhập và dòng thông tin
trong UNI. Trong trường hợp này, thông tin điều khiển dòng được chuyển vào các tế bào
chỉ định và không chỉ định.
1) Kết nối lớp ATM
Sự kết nối riêng biệt cho lớp ATM đối với luồng bậc cao được gọi là kết nối
ATM. Nó thực hiện việc kết nối với thiết bị đầu cuối nhờ kết nối chuỗi các phần tử kết
nối. Kết nối ATM bao gồm 2 loại kết nối, kênh ảo CE và luồng ảo VP. VC cung cấp kết
nối logic một hướng giữa các đầu cuối thực hiện việc chuyển tế bào ATM và VP cung
cấp kết nối logic của kênh ảo.
Một VCI (nhận dạng kênh ảo) được chỉ định cho mỗi một kênh ảo và một VPI
(nhận dạng luồng ảo) được chỉ định cho mỗi luồng ảo. Có thể có các tuyến kênh ảo khác
nhau trong VPC (kết nối luồng ảo) được xác định bởi VCI được chỉ định cho từng tuyến.
Mặt khác, kênh ảo trong các luồng ảo khác nhau có thể có cùng một VCI. Như vậy một
kênh ảo hoàn toàn có thể xác định bởi sự kết hợp giữa VPI và VCI.
Trong trường hợp có chuyển mạch xảy ra trong việc kết nối kênh ảo, giá trị VCI
không giữ cùng một giá trị giữa các đầu cuối. Hơn nữa, trong trường hợp tuyến VP kết
cuối nhờ hệ thống nối chéo số, hệ thống tập chung và hệ thống chuyển mạch, VPI cũng bị
thay đổi. Tuy nhiên, vì VCI thay đổi chỉ khi tuyến VC được kết cuối, nó giữ cùng một giá
trị trong cùng một VPC (kết nối luồng ảo). Mối liên quan được chỉ ra trên hình 1-6. Trên
hình 1-6 (a). Svpi và Svci thể hiện tốc độ chuyển mạch VP và VC một cách tương ứng.
Như được chỉ ra trên hình này, VCI không thay đổi trong trường hợp chuyển mạch VP,
còn cả VCI và VPI thay đổi trong trường hợp chuyển mạch VC. Kết nối ATM, đối với
VP và VC tương ứng được chỉ ra trên hình 1-6 (b).

Trang 16/72
Hình 1-6. Kết nối lớp ATM
Hình 1-7 là ví dụ về chuyển mạch VP và chuyển mạch VC/VP. Trên hình vẽ
chuyển mạch VP tương ứng với xen rẽ kênh hoặc nối chéo, chuyển mạch VC/VP tương
ứng với chuyển mạch thông thường.
24 bit được chỉ định cho VPI/VCI trong giao diện mạng khách hàng (UNI) và 28
bit được chỉ định cho giao diện nút mạng (NNI). Số bit VPI/VCI thực sự được dùng cho
việc chỉ định luồng được xác định bởi sự thoả thuận giữa khách hàng và mạng. Trong
trường hợp này khách hàng sẽ yêu cầu ít hơn một số và mạng được xác định, trường VPI
được chỉ định sẽ được lắp đầy liên tục nhờ các bit có ý nghĩa thấp, và các bit VPI không
sử dụng phải được đặt về không. Mối quan hệ như vậy được ứng dụng tương tự cho VCI.
Như chỉ ra trên bảng 1-5 các giá trị VPI/VCI cố định được chỉ định trước trong UNI để
chỉ tín hiệu Meta VC và tín hiệu quảng bá chung VC.

Hình 1-7: Chuyển mạch VP và VC

Phần sử dụng VPI VCI

00000000 hoặc
Kênh ảo tín hiệu Meta 00000000 00000001
XXXXXXXX

Tín hiệu quảng bá kênh ảo 00000000 hoặc 00000000 00000010

Trang 17/72
XXXXXXXX

Dòng OAM Chặng YYYYYYYY 00000000 00000011


F4
Xuyên suốt YYYYYYYY 00000000 00000100

Bảng 1-5: Giá trị VPI/VCI xác định trước


(1) Kết nối kênh ảo
Kết nối kênh ảo VCC là kết nối tuyến kênh ảo với điểm kết nối giao diện với lớp
thích ứng ATM. Tuyến kênh ảo có nghĩa là luồng ảo một hướng để tải các tế bào ATM
giữa các điểm mà ở đó VCI được chỉ định, và các điểm mà ở đó VCI được dịch hoặc giải
phóng.VCC có thể được cung cấp nhờ các hệ thống chuyển mạch hoặc nhờ các kết nối
thường xuyên và bán thường xuyên. Trình tự tế bào được đảm bảo trong cùng một VCC.
Mạng tạo ra người sử dụng VCC với chất lượng dịch vụ QoS nhờ các tham số như độ tổn
thất các tế bào hoặc độ trễ của tế bào. Các tham số của lưu lượng sử dụng được xác định
trong quá trình thiết lập VCC với sự thoả thuận giữa khách hàng và mạng. Và mạng sẽ
giám sát xem các tham số có được giữ đúng không.
4 phương pháp sau được dùng cho việc thiết lập hoặc giải phóng VCC trong giao
diện khách hàng-mạng.
Thứ nhất, việc thiết lập và giải phóng có thể được thực hiện nhờ việc đặt trước mà
không cần trình tự báo hiệu. Nó được áp dụng cho kết nối cố định hoặc kết nối bán cố
định.
Thứ hai, áp dụng quá trình báo hiệu meta. Có nghĩa là báo hiệu VC được thiết lập
hoặc giải phóng nhờ tín hiệu meta VC.
Thứ ba, sử dụng quá trình báo hiệu mạng. Báo hiệu VCC được sử dụng để thiết
lập hoặc giải phóng đối với thông tin thông suốt.
Thứ tư, áp dụng cho quá trình báo hiệu khách hàng-khách hàng. Báo hiệu VCC
được sử dụng để thiết lập VCC trong VPC được chỉ định trước giữa hai UNI.
Bốn kiểu chỉ định giá trị VCI trong UNI được áp dụng: chỉ định bởi mạng, chỉ
định bởi khách hàng, thoả thuận giữa khách hàng và mạng và phương pháp tiêu chuẩn.
Nhìn chung, giá trị VCI được chỉ định không liên quan đến dịch vụ được cung cấp nhờ
VC. Đối với khả năng thay đổi đầu cuối hoặc để tiện lợi cho việc khởi tạo, điều mong
muốn là chỉ được giá trị cố định đối với cùng giá trị VCI đối với một vài dịch vụ. Ví dụ,
khởi tạo thiết bị đầu cuối có thể đơn giản hoá nhờ cố định báo hiệu meta VCI với cùng
một giá trị trong tất cả UNI. VPI/VCI chỉ định trước được chỉ ra trong bảng 1-5.
Quy trình chuyển đổi VCI hoặc VCI/VPI là cần thiết vì phần ghép đầu của tế bào
ATM được chứa trong phần tử mạng ATM chẳng hạn như hệ thống chuyển mạch ATM,
hệ thống phối luồng số, hệ thống tập chung v.v... như vậy việc thiết lập hoặc giải phóng
xảy ra trong một hoặc nhiều NNI khi thiết lập hoặc giải phóng VCC trong mạng ATM.
Trang 18/72
Trong trường hợp đó, tuyến VC được thiết lập hoặc giải phóng tương ứng với quá trình
báo hiệu trong mạng hoặc liên mạng.
VCI được chỉ định trước ứng với 4 trường hợp như sau: chỉ thị kênh không được
chỉ định trước, chỉ thị tế bào lớp vật lý, chỉ định kênh tín hiệu meta VC và chỉ thị kênh
quảng bá VC. Trong hai trường hợp đầu CVI (và VPI) được chỉ thị là "0".
(2) Kết nối luồng ảo.
Kết nối luồng ảo là kết nối giữa tuyến có luồng ảo với những điểm tại đó VPI
được chỉ định với những điểm tại đó VCI được dịch hoặc giải phóng. Tuyến có luồng ảo
là nhóm các tuyến có kênh ảo nối các điểm tại đó VPI được chỉ định và các điểm mà tại
đó VPI được dịch hoặc giải phóng. VPI có thể được cung cấp nhờ hệ thống chuyển mạch
hoặc kết nối cố định hoặc bán cố định. Chuỗi tế bào được đảm bảo trong mỗi VCC của
cùng VPC, và QoS được thể hiện bằng các tham số chẳng hạn như tỷ lệ tổn thất tế bào,
hoặc độ trễ được cung cấp đối với mỗi một kết nối. Trong trường hợp này QoS của VPC
phải đảm bảo chất lượng tốt nhất của VCC có trong VPC. Các tham số của lưu lượng
được sử dụng được xác định trên cơ sở thiết lập VPC theo thoả thuận giữa khách hàng và
mạng lưới và mạng giám sát xem tham số có được đảm bảo không. Hai phương pháp sau
được áp dụng cho việc thiết lập hoặc giải phóng VPC giữa VPC và các điểm cuối VPC.
Thứ nhất, việc thiết lập hoặc giải phóng được thực hiện mà không cần quá trình báo hiệu.
Trong trường hợp đó, VPC được thiết lập hoặc giải phóng theo kiểu định trước. Thứ hai,
việc thiết lập hoặc giải phóng tuỳ theo nhu cầu cần thiết. Điều đó bao gồm cả việc kết nối
VPI hoặc giải phóng bởi điều khiển phía khách hàng hoặc điều khiển do mạng lưới.
VPI được định trước giống như VCI định trước trong NNI. Như vậy, VPI được chỉ
định trước cho việc chỉ thị tế bào không được chỉ định trước, chỉ thị tế bào lớp vật lý, chỉ
thị kênh báo hiệu meta VC và tín hiệu quảng bá chung VC. Trong trường hợp tế bào
không chỉ định trước và tế bào lớp vật lý, VPI (và VCI) được chỉ định là "0". Trong
trường hợp báo hiệu meta VC và tín hiệu quảng bá VC, VPI được chỉ định trong UNI
như được chỉ ra trên bảng 1-5.
1.2.7 Lớp thích ứng ATM
Lớp thích ứng ATM được phân thành phân lớp kết hợp CS và phân lớp chia và kết
hợp SAR. CS tạo ra các thông tin dịch vụ khách hàng bậc cao trong khối dữ liệu giao
thức PDU và ngược lại. Phân lớp SAR chia PDU để tạo ra vùng thông tin khách hàng của
tế bào ATM và ngược lại. Chức năng lớp thích ứng ATM phụ thuộc vào loại dịch vụ mức
cao.
1) Phân loại AAL
(1) Phân loại theo chiều ngang.
Như đã mô tả ở trên, dịch vụ BISDN được phân chia loại A và D theo tốc độ bit
không đổi, tính chất thời gian thực, tính chất kết nối, v.v... Theo việc tiêu chuẩn hoá ban
đầu của ITU-T, các loại AAL được gọi là AAL 1-4 tương ứng với 4 loại. Tuy nhiên
AAL-3 và AAL-4 được kết hợp thành AAL-3/4 vì chúng tương tự ở nhiều điểm và AAL-
Trang 19/72
5 được thêm vào cho các thông tin tốc độ cao. AAL-1 cung cấp chức năng AAL cho các
dịch vụ kết nối thời gian thực với tốc độ bit không đổi tại cùng một tốc độ bit, thông tin
thời gian chuyển đổi giữa phát và thu, phát hiện lỗi và chỉ thị lỗi không xác định được.
Cũng bằng cách đó, AAL-2 cung cấp dịch vụ loại B, AAL-3/4 cung cấp dịch vụ loại C và
D, còn AAL-5 đơn giản hoá chức năng AAL-3/4 để cung cấp thông tin tốc độ cao. Các
chức năng đại diện của AAL-1~5 được tổng kết trong bảng 1-6.

Loại AAL Chức năng đại diện

Chuyển SDU của cùng một tốc độ bit theo cùng một tốc độ
AAL-1 Chuyển thông tin thời gian giữa phát và thu
Chỉ thị việc xác nhận lỗi

Chuyển SDU theo tốc độ thay đổi


AAL-2 Chuyển thông tin thời gian giữa phát và thu
Chỉ thị việc xác nhận lỗi hoặc không phát hiện lỗi

Cung cấp dịch vụ loại C và D từ AAL-SAP đến ATM-SAPs


AAL-3/4
Chuyển nhờ phương thức kết nối hoặc không kết nối

Đơn giản hoá chức năng AAL-3/4


AAL-5
Truyền tốc độ cao

Bảng 1-6 Các chức năng đại diện của AAL-1 ~ AAL-5
(2) Phân loại theo chiều đứng
AAL được phân loại theo chiều đứng thành các phân lớp SAR (chia và ghép) và
CS (phân lớp kết hợp) ứng với việc chuyển đổi thông tin khách hàng (U-SDU) và tế bào
ATM thực hiện bởi AAL. Phân lớp SAR cung cấp chức năng liên quan đến chức năng
chia và ghép U-SDU, còn CS cung cấp các chức năng để kết hợp chức năng đặc trưng
liên quan đến dịch vụ của lớp dịch vụ cấp cao.
CS nhận U-SDU từ lớp sử dụng cấp cao hơn, thêm tín hiệu ghép đầu và cuối liên
quan đến việc xử lý lỗi và việc định trước chuỗi dữ liệu để tạo ra SAR-PDU, và gửi đến
lớp ATM.
Phân lớp SAR phân tích tín hiệu đầu và cuối của SAR-PDU nhận được từ lớp
ATM, kết hợp SAR-PDU vào CS-PDU nếu lỗi được phát hiện, rồi gửi tới CS. CS phân
tích tín hiệu ghép đầu và cuối của CS-PDU, rồi chỉ lấy ra U-SDU nếu lỗi được phát hiện
và chuyển đến lớp khách hàng.
Giao thức giữa các khách hàng giữa các phần giống như việc điều khiển lưu lượng
được thực hiện bởi CS. AAL thực hiện quá trình hư được mô tả trên hình 1-8. Việc phân
loại theo chiều dọc như vậy được áp dụng cho AAL-1 đến AAL-5.

Trang 20/72
Hình 1-8: Quá trình điều khiển AAL và ATM
2) Chức năng AAL - 1
AAL - 1 chuyển U-SDU tốc độ không đổi có cùng một tốc độ liên quan đến thông
tin thời gian và cung cấp dịch vụ chỉ thị các bit không phát hiện được cho các lớp cao
hơn.
AAL - 1 cung cấp chức năng chia và ghép các thông tin khách hàng. Ngoài ra, nó
còn xử lý việc chuyển đổi độ trễ của tế bào cung cấp chức năng xử lý việc loại bỏ hoặc
ghép thêm tế bào và tạo điều kiện để phía thu lấy lại thông tin về xung nhịp của phía
phát. AAL-1 quan sát thông tin kiểm tra giao thức PCI của AAL để kiểm tra lỗi bit và xử
lý AAL-PCI trong trường hợp có lỗi bit. Ngoài ra nó còn giám sát vùng thông tin khách
hàng và hiệu chỉnh lỗi bit nếu có.
AAL-1 phải chỉ ra lỗi tạo ra trong quá trình truyền thông tin khách hàng trong mặt
bằng quản lý. Thêm nữa, nó phải chỉ ra các tế bào bị mất và các tế bào được ghép thêm
vào, các tế bào có lỗi AAL-PCI và các thông tin về đồng bộ thời gian trạng thái lỗi.
(1) Phân lớp chia và ghép.
Phân lớp SAR của phần AAL-1 CS-PDU thêm các tín hiệu ghép đầu và ghép cuối
để tạo ra SAR-PDU rồi gửi đến lớp ATM. Ngược lại, nó tạo lại SAR-PDU trong phân lớp
SAR trong hình vẽ. SN chỉ số thứ tự, còn SNP để chỉ việc bảo vệ thứ tự. 4 bit được dành
một cách tương ứng cho SN và SNP. Như vậy phần tải SAR-PDU sẽ gồm 47B. SN dùng
cho việc kiểm tra việc tế bào bị mất hay thêm vào, còn SNP dùng cho việc hiệu chỉnh lỗi

Trang 21/72
bit để bảo vệ SN khỏi bị lỗi. Ngoài ra, SN có thể được sử dụng cho các mục đích đặc biệt
để chỉ ra sự tồn tại của chức năng CS.

Hình 1-9 Cấu trúc SAR-PDU của AAL-1


(2) Phân lớp kết hợp.
AAL-1 CS cung cấp chức năng hiệu chỉnh lỗi bit cho các tín hiệu hình ảnh và
thoại chất lượng cao. Nó còn cung cấp chức năng lấy lại tín hiệu xung nhịp bằng cách
giám sát trạng thái cước của bộ đệm tuỳ thuộc vào dịch vụ. Đối với dịch vụ đòi hỏi thể
hiện thời gian một cách chính xác, nó có thể cung cấp thông tin thời gian bằng cách thêm
vào trong CS-PDU. Bên cạnh đó, nó còn cung cấp việc điều hành số thứ tự hoặc chức
năng quản lý việc thêm bớt tế bào.
3) Chức năng AAL-2
AAL-2 chuyển thời gian thực với các thông tin thời gian tại các tốc độ thay đổi và
cung cấp các dịch vụ chỉ ra lỗi bit cho cấp cao hơn.
Cũng bằng cách đó AAL-1, AAL-2 cung cấp chức năng chia và ghép thông tin
khách hàng. Ngoài ra, nó còn thực hiện việc thay đổi độ trễ của tế bào, cung cấp chức
năng điều hành các tế bào thêm bớt, và cung cấp chức năng lấy lại tín hiệu xung nhịp ở
phía thu. AAL-2 quan sát thông tin kiểm tra giao thức AAL-PCI để kiểm tra lỗi bít, nếu
có đồng thời nó cũng giám sát thông tin khách hàng và hiệu chỉnh lỗi bit.
Cũng bằng cách đó, AAL-1, AAL-2 phải chỉ ra lỗi tạo ra trong quá trình truyền
thông tin khách hàng trong mặt bằng quản lý. Nó cũng phải chỉ ra việc thêm bớt tế bào, tế
bào có lỗi AAL-PCI và tín hiệu đồng bộ thời gian trạng thái mất.
4) Chức năng AAL-3/4.
AAL-3/4 chuyển đổi dữ liệu dịch vụ loại C và D với các đặc tính tốc độ bit thay
đổi. Các dịch vụ cung cấp bởi AAL-3/4 được phân thành chế độ truyền thông báo và chế
độ dòng thông tin tuỳ thuộc vào loại dữ liệu cần truyền AAL-SDU đến lớp AAL, đó là
loại giao diện AAL-IDU (khối dữ liệu giao diện). Trong chế độ truyền thông báo, một
cặp AAL-SDU phải qua giao diện AAL-SDU đến một cặp AAL-IDU. Trong chế độ
dòng, một AAL-SDU phải qua giao diện hai hoặc nhiều AAL-IDU. Trong mỗi một chế
độ, một AAL-SDU ứng với một hoặc nhiều SSCS-PDU, và trường hợp đặc biệt một vài
AAL-SDU có thể tương ứng với một SSCS-PDU trong chế độ truyền thông báo. Hình 1-
Trang 22/72
10 và 1-11 chỉ ra ví dụ về mối quan hệ này, dịch vụ trong cả hai chế độ cung cấp trình tự
cho việc chuyển đổi chế độ làm việc đảm bảo và không đảm bảo. Chế độ làm việc đảm
bảo chuyển tất cả các SDU hoàn toàn tương ứng với trình tự được gửi đi trong lớp khách
hàng, chế độ làm việc đảm bảo truyền bằng cách gửi các tế bào thêm bớt và bắt buộc
kiểm tra dòng thông tin.

Hình 1-10 Chế độ truyền thông báo.


Chế độ truyền đảm bảo chỉ được áp dụng cho kết nối điểm điểm lớp ATM. Chế độ
không đảm bảo không gửi các dữ liệu mất hoặc bị hỏng. Nó có thể cung cấp chức năng
chuyển các SDU bị hỏng đến lớp cao hơn và chức năng điều khiển lưu lượng đối với việc
kết nối điểm-điểm trong lớp ATM tuỳ theo nhu cầu cần thiết. Tuy nhiên nó không thể
cung cấp chức năng điều khiển lưu lượng đối với kết nối điểm đa điểm ATM.

Hình 1-11 Chế độ truyền dòng tin.


(1) Phân lớp chia và ghép.
Phân lớp SAR của phần AAL-3/4 CS-PDU đối với dịch vụ có tốc độ thay đổi nhận
được từ CS thêm các tín hiệu ghép đầu và ghép cuối để tạo ra SAR-PDU rồi gửi đến lớp
ATM. Ngược lại nó ghép SAR-PDU để tại ra CS-PDU. Hình 1-12 chỉ ra cấu trúc SAR-
PDU của AAL-3/4. Trong hình vẽ ST (loại phân đoạn) để chỉ tải trong điểm bắt đầu của
bản tin BOM, tiếp tục bản tin COM, thông báo một phân đoạn SSM, và số trình tự SN chỉ
ra số nối tiếp của bản tin. Xác nhận ghép kênh MID chỉ ra số chỉ định dùng cho kết nối
ghép CPSC và chỉ ra thứ tự ưu tiên của mỗi một đoạn MID.

Trang 23/72
Hình 1-12: Cấu trúc SAR-PDU của AAL-3/4
LI (chỉ thị độ dài) chỉ ra độ dài của tải SAR-PDU trong khung còn CRC (kiểm tra
dư theo chu kỳ) chỉ ra mã CRC trong tất cả SAR-PDU.
(2) Phân lớp kết hợp AAL-3/4.
Cung cấp các chức năng khác nhau cho khách hàng có dịch vụ. AAL-3/4 CS cung
cấp chức chuyển đổi thông suốt SDU, ghép giữa AAL-SAP và lớp ATM, phát hiện lỗi và
thực hiện (quá trình phát hiện lỗi và xử lý chính xác) việc phân và ghép bản tin, xác định
thông tin, phân chia đệm. v.v...
CS của AAL-3/4 được chia thành phân lớp chia phần chung CPCS có các chức
năng dùng chung cho các dịch vụ kết nối và không kết nối và phân lớp kết hợp dịch vụ
đặc biệt SSCS để cung cấp các dịch vụ AAL đặc biệt. Chức năng SSCS còn đang được
tiếp tục nghiên cứu và việc ghép kênh sơ đẳng giữa lớp bậc cao và CPCS có thể được
thực hiện mà không cần các chức năng đặc biệt (xem hình 1-8).
Hình 1-12 chỉ ra cấu trúc CPCS. Trong hình này CPI (chỉ thị phần chung) chỉ ra
rằng PDU tương ứng có phải là phần chung hay không và dấu hiệu B/E (dấu hiệu bắt
đầu/kết thúc) có phải là dấu hiệu để làm cho tín hiệu ghép đầu và ghép cuối như nhau.
Kích thước BA chỉ ra kích cỡ của phần đệm phía phát và làm đầy tải CPCS-PDU để tạo
ra một chuỗi32 bit (4 cụm 8 bit). LI chỉ ra độ dài của CPCS-PDU và AL (sắp xếp) là
khung để tạo ra tín hiệu ghép cuối 32 bit. Các chức năng SSCS bao gồm việc xác định
trước trình tự SSCS-SDU sửa lỗi bằng cách gửi lại, việc chia và ghép SSCS-PDU điều
khiển lưu lượng trong cùng một lớp trợ giúp dịch vụ điểm đa điểm v.v ... Ngoài ra các
chức năng khác nhau như trợ giúp việc chỉ thị quá tải của mạng, điều khiển quá tải, thiết
lập và giải phóng kết nối trong các chức năng SSCS.
5) Chức năng AAL-5
Sự cần thiết của chức năng AAL-5 được nảy sinh do các quy trình khác nhau tiếp
theo các giao thức AAL-3/4 do sự phức tạp đáng kể của thông tin giữa các dữ liệu dịch
vụ kết nối và không kết nối, và chúng không phù hợp cho các dịch vụ tốc độ cao. AAL-5
nói chung tương tự như AAL-3/4 nhưng bản chất là việc đơn giản hoá các chức năng.
Cũng như AAL-3/5, AAL-5 có các phân lớp SAR, CPCS và SSCS và nó được phân
thành chế độ dịch vụ và chế độ dòng tin. Ngoài ra, có còn cung cấp chế độ truyền đảm
bảo và không đảm bảo. Khác với AAL-3/4, AAL-5 không trợ giúp ghép kênh. Việc ghép
kênh trong phân lớp AAL được thực hiện trong SSCS.
(1) Phân lớp chia và ghép.
Phân lớp SAR của AAL-5 nhận các SAR-SDU có các độ dài khác nhau là bội số
nguyên của 48 octet, từ CSPCS để tạo ra SAR-PDU của 48 octet. Hình 1-13 (a) chỉ ra cấu
trúc SAR-PDU. Lớp ATM chuyển các dữ liệu không cần tín hiệu mào đầu giao thức SAR
bằng cách cung cấp chức năng chỉ ra điểm cuối của SAR-SDU. Như vậy nó sử dụng

Trang 24/72
tham số AUU (chỉ thị khách hàng TU và khách hàng ATM) trong trường PT của tín hiệu
ghép đầu ATM để chỉ ra vị trí của SAR-PDU trong SAR-PDU. SAR-PDU ở cuối của
SAR-SDU nếu AUU=1 hoặc ở tại điểm của SAR-SDU nếu AUU=0.

Hình 1-13 Cấu trúc SAR-PDU và CPCS-PDU của AAL-5


(2) Phân lớp kết hợp
Hình 1-13 (b) chỉ ra cấu trúc CPCS-PDU của AAL-5.
PAD lấp đầy CDCS-PDU từ cuối của phần tải đến đầu của tín hiệu ghép cuối tạo
lên độ dài của CPCS-PDU thành bội số nguyên của 48 octet và phần dự trữ được thêm
vào làm cho tín hiệu ghép cuối CPCS-PDU có độ dài 64 bit. Độ dài trường chỉ ra chiều
dài của phần tải CDCS-PDU và kết quả của việc tính CRC đối với CPCS-PDU (tải, PAD
và 4 octet đầu tiên của tín hiệu ghép cuối).
2. CÔNG NGHỆ GIAO DIỆN THUÊ BAO - MẠNG ATM
2.1 Tiêu chuẩn giao diện thuê bao - mạng
Tiêu chuẩn UNI (giao diện khách hàng - mạng) xác định các nguyên tắc cần phải
tuân theo khi các khách hàng ATM muốn kết nối với mạng. ở đây, các khách hàng ATM
có nghĩa là một hệ thống tuỳ chọn sử dụng mạng ATM như các tuyến ATM hay các tổng
đài riêng ATM.
Trong phạm vi tiêu chuẩn của ITU-T, thuật ngữ UNI được định nghĩa trong mục
I.413 và lưu lượng thông tin cũng như chức năng giao tiếp của bề mặt giao diện UNI
được điều chỉnh dựa trên cấu hình tham khảo UNI phù hợp với mô hình tham khảo của
giao thức B-ISDN.

Trang 25/72
Thêm vào đó, các nguyên tắc của lớp vật lý của bề mặt giao diện UNI được mô tả
chi tiết trong mục I.432 và các nguyên tắc cũng như các chức năng của OAM được điều
chỉnh trong mục I.610. Chúng bao gồm các chức năng truyền dẫn, thu nhận và giám sát
hoạt động của tín hiệu bảo dưỡng (AIS: Tín hiệu chỉ thị cảnh báo) hay FERF (thu nhận sự
cố từ xa).
1. Ba kiểu của giao diện ATMF UNI:
Trong ATMF, định nghĩa UNI được phân thành UNI công cộng và UNI riêng và
điều này khác đôi chút so với định nghĩa được sử dụng trong ITU-T.
UNI công cộng là các quy tắc được áp dụng khi khách hàng được kết nối trực tiếp tới
tổng đài ATM của mạng ATM công cộng, và UNI riêng là các chỉ tiêu kỹ thuật được sử
dụng khi khách hàng được kết nối với tổng đài ATM riêng hay tổng đài ATM LAN. Các
chỉ tiêu kỹ thuật ATMF UNI là các quy tắc cho 3 kiểu giao diện như được chỉ ra ở hình
vẽ 2-1.
(i) Giao diện giữa các khách hàng ATM và các hệ thống mạng ATM riêng hoạt động
như các thiết bị của mạng riêng của thuê bao.
(ii) Giao diện giữa các hệ thống mạng ATM riêng và các hệ thống mạng ATM công
cộng.
(iii) Giao diện trực tiếp giữa các khách hàng ATM và các hệ thống mạng ATM công
cộng.

Hình 2-1 Ba kiểu của giao diện ATMF UNI


Hầu hết sự khác nhau trong hai loại ATMF UNI là phần vật lý mà mỗi UNI hỗ trợ
. Thêm vào đó, sự khác nhau của các đặc tính chức năng hiện có là phù hợp với dịch vụ
vận chuyển ATM hỗ trợ cho các kiểu mà từng UNI yêu cầu. Hai chỉ tiêu kỹ thuật được
chỉ ra trong bảng 2-1 được so sánh phù hợp với tình trạng dự phòng của các dịch vụ vận
tải ATM.

Các đặc tính của dịch vụ ATM UNI riêng UNI công cộng

Trang 26/72
Đường dẫn ảo điểm-điểm Tuỳ chọn Tuỳ chọn

Kênh ảo điểm-điểm Được cung cấp Được cung cấp

Đường dẫn ảo điểm-đa điểm Tuỳ chọn Tuỳ chọn

Hỗ trợ SVC điểm-đa điểm Được cung cấp Được cung cấp

Hỗ trợ PVC điểm-đa điểm Tùy chọn Tuỳ chọn

Kênh ảo cố định Được cung cấp Được cung cấp

Kênh ảo chuyển mạch Được cung cấp Được cung cấp

Lớp dịch vụ được điều chỉnh Tuỳ chọn Được cung cấp

Lớp dịch vụ không được điều


Tuỳ chọn Tuỳ chọn
chỉnh

Băng tần ghép Tùy chọn Được cung cấp

Điều khiển PCR qua UPC Tuỳ chọn Được cung cấp

Điều khiển SCR qua UPC Tuỳ chọn Tuỳ chọn

Khuôn dạng lưu lượng Tuỳ chọn Tuỳ chọn

Quản lý lỗi của lớp ATM Tuỳ chọn Được cung cấp

Hỗ trợ ILMI Được cung cấp Được cung cấp

Bảng 2-1 So sánh các đặc tính của dịch vụ vận chuyển ATM của ATMF UNI
Các chỉ tiêu kỹ thuật của ATMF UNI thế hệ 3.0 đã được phát hành vào 7-1993 và
thế hệ 3.1 được đưa ra vào 9-1994
Các chỉ tiêu kỹ thuật của ATMF UNI chọn lọc các quy tắc tiêu chuẩn liên quan
đến các giao thức lớp 1 (PHY) và lớp 2 (ATM) để đảm bảo cho giai đoạn khởi động của
sự phối hợp hoạt động. Thêm vào đó, các giao thức báo hiệu UNI và các thủ tục báo hiệu
(được sử dụng để điều khiển các cuộc gọi SVC) được xác định như là chức năng của lớp
3. và vấn đề liên quan tới ILMI (giao diện quản lý địa phương tạm thời) được điều chỉnh
trên cơ sở của SNMP (giao thức quản lý mạng đơn giản) đó là tiêu chuẩn quản lý giữa
các mạng với nhau. Chỉ tiêu kỹ thuật của giao diện M4 cho sự kết nối giữa các mạng và
các hệ thống quản lý mạng, và các chỉ tiêu kỹ thuật của giao diện M3 cho sự kết nối giữa

Trang 27/72
các hệ thống quản lý mạng riêng và các hệ thống quản lý mạng công cộng đều có trong
bộ chỉ tiêu.
2.2. Điều khiển lưu lượng và điều khiển tắc nghẽn ATM
Từ lúc hệ thống ghép kênh thống kê được sử dụng để thích nghi có hiệu quả các
tốc độ lưu lượng khác nhau thì các chức năng điều khiển cũng như quản lý lưu lượng
phức tạp và đa dạng phải được cung cấp nhiều hơn là các mạng STM quy ước (là nơi mà
băng tần truyền dẫn cực đại được phân đều đặn cho mỗi lưu lượng).
Các mạng ATM sử dụng các kiểu khác nhau của các chức năng điều khiển tắc
nghẽn và điều khiển lưu lượng như được chỉ ra trong sự so sánh ở bảng 2-2.

Kỹ thuật điều khiển lưu lượng Chức năng

UPC (Điều khiển thông số sử Giám sát và điều khiển lưu lượng của khách hàng
dụng) ở UNI

Khách hàng: Yêu cầu kết nối cuộc gọi mới cùng
với thông số kết nối.
CAC (Điều khiển tiếp nhận cuộc
Mạng: Xác định liệu có nên cho phép kết nối cuộc
gọi)
gọi trong khi đang đáp ứng yêu cầu về đòi hỏi chất
lượng dịch vụ

Cung cấp các kiểu khác nhau của chất lượng dịch
PC (Điều khiển ưu tiên)
vụ sử dụng CLP

Chức năng Giải phóng (Release) khi phát sinh tắc


CC (Điều khiển tắc nghẽn)
nghẽn

Điều khiển sự giám sát lưu lượng giữa các mạng


NPC (Điều khiển thông số mạng)
hay trong mạng NNI

Chịu trách nhiệm giám sát sự sắp xếp có hiệu quả


RM (Quản lý tài nguyên)
tài nguyên mạng với các đặc tính của dịch vụ

Bảng 2-2 So sánh chức năng điều khiển lưu lượng và điều khiển tắc nghẽn của mạng
ATM
Các chỉ tiêu kỹ thuật chỉ định nghĩa một cách có giới hạn việc điều khiển lưu
lượng và điều khiển tắc nghẽn bằng việc quan tâm đến các mạng ATM thực tế trong giai
đoạn ban đầu về mặt công nghệ và do vậy, phù hợp với các quy tắc quản lý lưu lượng
I.371 của ITU-T. Tuy nhiên, việc sửa đổi từng phần và xoá các phần là được loại trừ.
Trong ATMF, 5 kiểu của các thông số lỗi tế bào được định nghĩa đặc biệt và dựa trên các
kiểu này, 2 kiểu của các lớp QoS (Chất lượng của dịch vụ) (là lớp QoS được điều chỉnh

Trang 28/72
và lớp QoS không được điều chỉnh) được gợi ý cho các đường lối chỉ đạo của quản lý
hoạt động lưu lượng.
Các quy tắc của lớp QoS và điều khiển lưu lượng cho mỗi ATMF chỉ được ứng
dụng với UNI (giao diện khách hàng - mạng) và không ứng dụng cho NNI.
Hơn nữa, các thủ tục điều khiển và các lớp hoạt động cho các chức năng ABR (tốc
độ bit khả dụng) đã được nghiên cứu mạnh mẽ nhằm để đem lại dịch vụ số liệu tốc độ
cao bởi vì các nhu cầu của giao diện internet gần đây tăng lên rất nhanh. Bởi vậy, sự diễn
tả tuân theo các quy tắc của ITU-T sẽ được giải thích trong các phần sau.
Nói chung, trạng thái tắc nghẽn có thể xảy ra do sự khác nhau của tỉ lệ tế bào
thống kê không mong đợi cho dòng lưu lượng hay lỗi của mạng. Nói cách khác, trạng
thái tắc nghẽn xảy ra khi mạng yêu cầu giao diện sắp đặt trước vì thiếu các tài nguyên
mạng hay với mức độ hoạt động cần thiết của mạng thì yêu cầu của giao diện mới không
được đáp ứng. Điều khiển lưu lượng và điều khiển tắc nghẽn ATM được định nghĩa như
là các hành động do mạng đưa ra để tránh các tình trạng tắc nghẽn và tối thiểu hoá mật
độ, sự lan truyền và khoảng thời gian của tắc nghẽn đã phát sinh.
Các chức năng điều khiển tắc nghẽn và điều khiển lưu lượng của B-ISDN được
yêu cầu đối với các bề mặt giao diện UNI là nơi mà lưu lượng đi vào, và có thể được
phân chia thành các mức phù hợp với các hiệu quả nhanh chóng trong việc điều khiển.
Cho ví dụ, việc điều khiển thông qua việc thay đổi các tài nguyên mạng là để
mong đợi hiệu quả của thang thời gian dài và mỗi tế bào được điều khiển bởi một đơn vị
thời gian khi 1 tế bào vượt qua các nút (hay các tổng đài) và có hiệu quả ngay lập tức.
Đối với các chức năng điều khiển thuộc về mức thang thời gian lớn, các hiệu quả cơ sở
có thể được mong đợi và chức năng điều khiển thuộc về mức thang thời gian nhỏ có thể
đem ra các hành động thích hợp đối với các tình huống tự phát. Bởi vậy, các hành động
phải được bổ sung lẫn nhau. Nói chung, các chức năng điều khiển lưu lượng và điều
khiển tắc nghẽn trong các mạng ATM cơ bản được phân chia thành 4 giai đoạn : Điều
khiển mức Mạng, điều khiển mức Cuộc gọi, điều khiển mức Chùm, và điều khiển mức
Tế bào.
2.2.1 Điều khiển mức mạng
Điều khiển mức Mạng được sử dụng trong một vài giờ hay vài ngày hay lâu hơn,
và hệ thống quản lý mạng định vị lại các tài nguyên mạng một cách thích hợp hoặc tổ
chức các tiêu chuẩn tiếp nhận cuộc gọi dựa trên số liệu về lưu lượng và trạng thái tắc
nghẽn được thông báo từ mỗi nút.
Các hoạt động điều khiển mức mạng sẵn có là phép đo lưu lượng và trạng thái tắc
nghẽn, bản tin trạng thái tắc nghẽn, sự thay đổi của các tiêu chuẩn tính toán băng tần
tương đương cho việc tiếp nhận cuộc gọi và định vị lại một cách thích hợp các tài nguyên
mạng.
Tắc nghẽn có thể được phát sinh ở điểm mà nút cổ chai xảy ra có tính cấu trúc
nhiều hơn tất cả các điểm khác của mạng và nguyên nhân do giới hạn hoạt động của cấu
Trang 29/72
trúc chuyển mạch, sự tập trung tế bào trong liên kết lối ra, tốc độ xử lý của phần tử đang
hoạt động ở lớp vật lý hay lớp ATM.
Do đó, lưu lượng và các trạng thái tắc nghẽn được đo ở các điểm đó (điểm có nút
cổ chai), và mục đích của phép đo là khả năng sử dụng của bộ đệm và liên kết, cũng như
tỷ lệ mất mát tế bào.
Nếu như trạng thái tắc nghẽn được tìm thấy thì sự phát sinh và giải phóng được
báo tới hệ thống quản lý mạng, và chức năng quản lý cấu hình của hệ thống sẽ xác định
sự mở rộng cũng như định vị lại các tài nguyên mạng dựa trên số liệu thống kê của sai
hỏng kết nối do thiếu số liệu thông báo và các tài nguyên mạng.
Nếu như tồn tại một trường hợp mà tắc nghẽn được phát sinh tập trung chỉ tại một
điểm của mạng thì điều này được đánh giá như là sự thiếu khả năng của các phần tử
mạng tại điểm đó hơn là do lỗi điều khiển lưu lượng của bề mặt giao diện UNI hay tình
huống lỗi được tìm thấy. Bởi vậy, các phương tiện nên được kiểm tra kỹ lưỡng hay được
mở rộng.
2.2.2 Điều khiển mức Cuộc gọi
Điều khiển mức cuộc gọi có thời gian phù hợp với khoảng thời gian kết nối và tập
trung vào chức năng quản lý kết nối của hệ thống quản lý mạng nhằm để thừa nhận việc
thiết lập kết nối cuộc gọi hay thoả thuận lại và thay thế điều đó cho các tài nguyên mạng
một cách thích hợp. RM (quản lý tài nguyên) và CAC (điều khiển tiếp nhận cuộc gọi) là
sẵn có trong điều khiển mức cuộc gọi.
RM là một chức năng của các tài nguyên mạng để lưu lượng có thể được phân
chia phù hợp với các đặc tính dịch vụ và được sử dụng cho mục đích làm cho việc điều
khiển chất lượng dịch vụ cho cuộc gọi đã thiết lập được dễ dàng.
Mạng ATM thường bao gồm chỉ các VC với cùng các đặc tính dịch vụ trong VP
để đảm bảo cho dịch vụ của bộ VP.
CAC là chức năng đánh giá khả năng thực thi bởi chức năng quản lý kết nối của
hệ thống quản lý mạng khi thiết lập cuộc gọi hay việc thoả thuận lại được yêu cầu từ các
khách hàng ATM. Thuật toán cho CAC đã được nghiên cứu theo 3 hướng.
Thứ nhất, trong trường hợp lưu lượng được cộng thêm càng nhiều thì càng có dải
thông mới được yêu cầu trên cơ sở của các kết quả đo lưu lượng và trạng thái tắc nghẽn
được thông báo từ mỗi phần tử mạng, tình trạng chất lượng cho việc mất mát tế bào được
đánh giá thông qua sự ước đoán.
Thứ hai, băng tần tương đương của việc kết nối cuộc gọi được tính toán từ các đặc
tính lưu lượng và chất lượng dịch vụ cho mất mát tế bào được yêu cầu bởi cuộc gọi mới
băng tần đã tính toán được cộng thêm vào băng tần tương đương mà các cuộc gọi đang
tồn tại sử dụng. Lúc này, nếu kết quả tính toán không vượt quá băng tần tương đương
dành riêng cho mạng thì cuộc gọi được tiếp nhận.

Trang 30/72
Thứ ba, phương pháp thứ hai được sử dụng, tuy nhiên, giá trị của yếu tố đặc trưng
(thí dụ băng tần tương đương mà mạng dành sẵn hay băng tần tương đương của các cuộc
gọi đang tồn tại) được thay đổi thích hợp dựa trên các kết quả đo của lưu lượng và trạng
thái tắc nghẽn ở mức cuộc gọi có thể có các lỗi do sự thay đổi tình trạng lưu lượng thời
gian ngắn.
Các thông số lưu lượng được sử dụng trong khi cuộc gọi thiết lập được biểu thị
bởi việc nhóm vào bộ mô tả lưu lượng để đại diện cho các đặc tính lưu lượng giữa các
khách hàng ATM và mạng hay nhiều mạng với nhau.
Các thông số lưu lượng khả dụngđược ITU-T và ATMF quan tâm là PCR (tốc độ
tế bào đỉnh), SCR (tốc độ tế bào có thể chấp nhận được), BT (Dung sai bùng nổ), và
CDVT (dung sai biến dạng trễ tế bào) và hiện nay chỉ có PCR được định nghĩa như là
một thông số lưu lượng hình thức. Tốc độ tế bào là số lượng tế bào trên một giây và dung
sai như là một đơn vị của thời gian. Tốc độ tế bào và thời gian phát ra tế bào (là nghịch
đảo của số lượng của tốc độ tế bào) được định rõ trong các khuyến nghị của ITU-T I.361.
Các khách hàng ATM yêu cầu các hợp đồng lưu lượng sau đối với mạng phụ
thuộc vào các đặc tính dịch vụ khi sự kết nối được thiết lập (PVC hay SVC)
Bộ mô tả lưu lượng
Được phép chống lại các tế bào vi phạm lỗi.
Sự xác định tính phục tùng.
QoS
Tình trạng điều khiển tốc độ tế bào trong lúc tắc nghẽn
Các loại hợp đồng được sử dụng như là các tiêu chuẩn đánh giá của các tế bào vi
phạm lỗi làm phát sinh kết nối. Tính phục tùng được định nghĩa như là số lượng của các
tế bào vi phạm lỗi được phát sinh trên một giây.
Việc kết nối làm phát sinh các tế bào vi phạm lỗi vượt quá các giới hạn tự động
được giải phóng bởi chức năng quản lý kết nối của hệ thống quản lý mạng. Việc trực tiếp
nghiên cứu QoS cơ bản được phân ra làm hai phần.
Đầu tiên chỉ quan tâm đến sự ưu tiên mất mát tế bào hoặc coi như sự ưu tiên mất
mát tế bào và sự ưu tiên trễ truyền như nhau. Điều này dựa trên tình trạng mà hầu hết các
dịch vụ có tất cả các độ ưu tiên cao (thí dụ sự cạnh tranh đường dây, dịch vụ ảnh của lớp
MPEG-2) hay các độ ưu tiên thấp (thí dụ giao diện giữa các LAN) của mất mát tế bào và
trễ truyền. Từ lúc tỉ lệ trễ truyền phát sinh trong liên kết ở mạng giao tiếp tốc độ cao được
tăng lên, không có sự khác nhau lớn trong sự ưu tiên trễ truyền tại các nút. Điều này có
thể đem lại các dịch vụ có hiệu quả cho việc kết nối mà sự ưu tiên mất mát tế bào không
phù hợp với sự ưu tiên trễ truyền (thí dụ dịch vụ hình ảnh lớn thấp, âm thanh, truyền số
liệu quan trọng). Thêm vào đó, nó đem đến thuận lợi để đạt được hiệu quả sắp đặt lưu
lượng bởi việc đệm tế bào với độ ưu tiên thấp trong trễ truyền.

Trang 31/72
2.2.3 Điều khiển mức chùm
Điều khiển mức Chùm có thời gian hàng trăm ms hay nhỏ hơn. Nó tập trung vào
bảng giao tiếp được trang bị tại mỗi nút hay chức năng quản lý nút để điều khiển nguồn
chùm hoặc nguồn VBR mà có thể điều khiển được tốc độ tế bào. Điều khiển mức chùm
bao gồm điều khiển nối tiếp và quản lý tài nguyên nhanh.
Điều khiển nối tiếp được sử dụng để điều chỉnh tốc độ tế bào hay làm ngừng sự
phát sinh tế bào bởi việc thông báo trạng thái tắc nghẽn tới khách hàng khi tắc nghẽn xảy
ra.
Nguồn chùm điều khiển tốc độ tế bào thông qua việc gắn thêm bộ đệm, bởi vậy có
thể làm tốc độ tế bào thấp hơn hoặc việc ngừng sự phát sinh tế bào bởi yêu cầu của mạng.
Nguồn VBR, khả năng vạch kế hoạch lấy mã nguồn của việc điều khiển số lượng thông
tin được phát sinh phụ thuộc vào các tình huống là được chấp nhận cũng như có thể nhận
được việc điều khiển nối tiếp.
Có EFCN (thông báo tắc nghẽn rõ ràng ở phía trước) và EBCN (thông báo tắc
nghẽn rõ ràng ở phía sau) trong điều khiển nối tiếp.
EFCN là quá trình được sử dụng để chỉ thị sự phát sinh tắc nghẽn bởi việc thiết lập
bit ở giữa trong các trường PTI của tiếp đầu tế bào chuyển theo hướng tắc nghẽn phát
sinh lên 1, và EBCN là quá trình được sử dụng để biểu thị sự phát sinh tắc nghẽn theo
hướng ngược lại hướng tắc nghẽn phát sinh.
Trong EFCN, tế bào biểu thị trạng thái tắc nghẽn được truyền tới đích và đích phải
thông báo lại điều này tới nguồn, bởi vậy có thể không mong đợi hiệu quả thích hợp.
Nhưng trong EBCN, trạng thái tắc nghẽn được thông báo trực tiếp tới nguồn và được so
sánh có hiệu quả với EFCN. Tuy nhiên, cần tạo ra tế bào cho việc biểu thị tắc nghẽn một
cách tách biệt.
Quản lý tài nguyên nhanh có thể được ứng dụng cho các cuộc gọi mà khoảng thời
gian giữa các chùm và kích thước các chùm là tương đối lớn. Quá trình này duy trì sự kết
nối và không gán cho các tài nguyên mạng nếu như không có các chùm đang được truyền
đi. Hai phương pháp sau được sử dụng cho việc quản lý nguồn nhanh: phương pháp gán
băng tần và phương pháp gán đệm.
Mặc dầu phương pháp gán đệm được đánh giá là rất hay theo triển vọng của tốc độ
mất mát tế bào được so sánh với phương pháp gán băng tần, nó có khả năng thấp về tính
thương mại hoá bởi vì dung lượng của các bộ đệm đòi hỏi trên một nút là lớn .
Khi chùm được phát sinh, nguồn chùm truyền đi tế bào mà trong đó có việc truyền
đi chùm yêu cầu được bao gồm để hỏi tình trạng truyền.
Mọi nút nhận được tế bào này kiểm tra xem liệu nó có khả năng gán các tài
nguyên mạng để truyền đi chùm đã định không và nếu có thể, thì tế bào tại nơi bao gồm
Ack được truyền đi. Nếu không có thể, tế bào tại nơi chứa Nack được truyền đi.

Trang 32/72
Nguồn chùm không truyền đi chùm cho đến khi nó nhận được Ack từ tất cả các
nút trên đường truyền. Ngay khi nhận được Nack từ bất kỳ một nút nào, yêu cầu tiếp tục
truyền được thực hiện để nhận Ack và mỗi nút sẽ giải phóng tài nguyên đã được gán sau
khi chùm đã vượt qua nút riêng của nó. Quá trình này có thuận lợi là không ảnh hưởng
tới chức năng báo hiệu trong khi sử dụng các tài nguyên mạng có hiệu quả bởi vì nó
không cho phép gán các tài nguyên mạng khi chùm không được truyền đi.
Tuy nhiên, hệ thống có sự không thuận lợi đó là lưu lượng có thể ứng dụng được
là không lớn trong khi mà việc xử lý tại mỗi nút hay bảng giao diện là phức tạp.
2.2.4 Điều khiển mức tế bào
Điều khiển mức tế bào có thời gian vài ms hay nhỏ hơn. Nó tập trung vào các phần
tử chức năng của bảng giao diện tại một nút và được sử dụng cho các tế bào riêng biệt.
Tại đó tồn tại các chức năng PC (Điều khiển ưu tiên), TS (khuôn dạng lưu lượng) và UPC
(Điều khiển thông số sử dụng) trong điều khiển mức tế bào .
PC được định nghĩa như một loạt các hành động xảy ra để loại bỏ tế bào có sự ưu
tiên thấp từ phía mạng một cách chọn lựa để bảo đảm chất lượng dịch vụ của mức xác
định, mức này được mạng thiết lập trước đối với các tế bào có ưu tiên cao và có quan hệ
gần gũi với chức năng UPC. Sự ưu tiên liên quan của tế bào ATM có thể được gán cho
việc sử dụng bit CLP hay phần VPI/VCI.
Trong trường hợp các tế bào bị huỷ bỏ vì các tế bào không được xử lý do thiếu tài
nguyên trong mạng (thí dụ dung lượng đệm bị quá tải), hay chúng được xem như các tế
bào vi phạm lỗi với chức năng UPC, tế bào của CP=1 (ưu tiên thấp) bị loại bỏ mà không
phải của CLP=0 (ưu tiên cao).
TS là phương pháp thay đổi kiểu đi tới của mỗi kết nối lưu lượng dựa trên bộ mô
tả lưu lượng của kết nối tương ứng để tránh sự tắc nghẽn.
Logic điều khiển phức tạp được đòi hỏi từ lúc chuỗi liên tục của các tế bào phải
được duy trì cho ứng dụng của khuôn dạng lưu lượng. Thêm vào đó, các bộ mô tả lưu
lượng của các kết nối phải được cất giữ tại các điểm không có ứng dụng UPC.
UPC là hàng loạt các hành động xảy ra để giám sát liệu có lưu lượng đã phát sinh
do khách hàng thông qua mặt tiếp xúc UNI quan sát các loại được CAC chấp nhận và
chịu các sự hạn chế trong các tế bào vi phạm lỗi để bảo vệ cho chất lượng dịch vụ cho
các kết nối khác hay không.
Theo nguyên tắc, UPC phải được ứng dụng tới tất cả các tế bào của lớp ATM
ngoại trừ các tế bào không được gán.
Các tế bào OAM phải được xử lý như một phần của lưu lượng khách hàng.
Mỗi nút duy trì các thống kê tế bào vi phạm lỗi và sau đó báo cáo các kết quả
thống kê tới hệ thống quản lý mạng.
Điều này được sử dụng như số liệu cho việc phân biệt các kết nối không tuân thủ.

Trang 33/72
Các tế bào không được đánh giá là vi phạm lỗi do UPC bị bịt đầu (Có nghĩa là tế
bào CLP=0 bị đảo thành CLP=1) hay bị cắt nhỏ, và sau đó các tế bào này tính toán tốc độ
mất mát tế bào của kết nối ATM tương ứng.
Trong khi ITU-T 1.371, việc sử dụng chức năng UPC được cho phép là tuỳ chọn
trong khi ARMF UNI bắt buộc các yêu cầu mà chức năng UPC được cung cấp trong UNI
công cộng.
2.2.5 Thuật toán gáo rò
Chức năng UPC có thể phân biệt rõ ràng giữa các tế bào theo dõi sự vi phạm
tương ứng trong kết nối đặc biệt và các tế bào khác vi phạm lỗi thông qua ứng dụng
GCRA (thuật toán tốc độ cơ bản) trong mỗi kết nối ATM.
Trong ITU-T I.371 phụ chương 1, thuật toán GCRA được khuyến nghị để sử dụng
như là thuật toán chuẩn cho PCR cũng như CDVT, và cho SCR cũng như BT. Hơn nữa
nó có thể được phân loại thêm vào trạng thái liên tục của gáo rò (CSLB) hay thuật toán
lịch trình ảo (VS). Cho việc xử lý thời gian thực, nó thông thường được thực hiện như là
phần cứng (Phần tử VLSI). Từ lúc GCRA thuật toán sử dụng hai thông số (T và t), nó
thông thường được biểu thị như là GCRS (T.t).
Giá trị của thời gian phát đi tế bào (T) là giá trị nghịch đảo của tốc độ tế bào đã
hợp động trong khi hợp đồng lưu lượng và giá trị của dung sai (t) được đem ra như
CDVT.
Trong phần dưới, thuật toán gáo rò được mô tả vắn tắt.
Nó có thể được xem như thủ tục rót nước vào gáo với một cái lỗ ở đáy gáo, thông
qua đó nước tiếp tục di chuyển theo một đơn vị đặt trước trước một tiếng, và sau đó điều
chỉnh mức nước của nó.
Hoặc là đổ nước đầy gáo hoặc là không thể xác định được tiêu chuẩn đánh giá
theo sau. Nếu mức nước của gáo thấp hơn 't' ở thời điểm đưa một tế bào xác định vào từ
khách hàng đến mạng, tế bào đó được xem như một tế bào đang quan sát hợp đồng trao
đổi thông tin và kết quả là nước được rót vào gáo theo một đơn vị T để nâng mức nước
lên Ngay khi mức nước của gáo cao hơn 't', tế bào được đánh giá như là tế bào vi phạm
lỗi và do đó, gáo không được rót đầy nước.
Trong hình vẽ 2-3 (a), thuật toán CSLB được minh hoạ như là biểu đồ dòng chảy.
Khi giả sử thời gian đi đến của tế bào thứ k là Ta(k) và thí dụ đó thì X(k) là mức
nước của gáo, và thời gian đi đến của tế bào được đánh giá phù hợp với hợp đồng (mà
vừa đi đến chỉ ngay trước tế bào thứ k) là LCT (thời gian phù hợp cuối cùng) và mức
nước của gáo đo ở thời điểm đó là X thì điều tiếp sau đó là đúng.
Nếu thực sự có nước trong gáo, nước được giảm xuống một lượng (Ta(k)-LCT)
trong khi có sự khác nhau về thời gian giữa các thời điểm đi đến của tế bào thứ k và tế
bào đang quan sát hợp đồng trước đấy.

Trang 34/72
Phù hợp với điều đó, giá trị của X(k) có thể được tính toán bởi phép trừ (Ta(k)-
LCT) từ giá trị của X. Nếu việc so sánh giá trị kết quả và dung sai t là X(k)>t thì nó được
xem như tế bào vi phạm lỗi và sau đó bị loại bỏ. Nếu X(k)<t thì nó được xem như tế bào
đang quan sát hợp đồng và kết quả là mức nước của gáo được tăng lên một lượng T và
việc chuẩn bị từng bước, việc xử lý tế bào kế tiếp được thực hiện (có nghĩa là các giá trị
X và LCT được cất giữ).
Nếu không có nước rời khỏi gáo khi tế bào thứ k đi đến thì tình trạng mức nước
của gáo thấp hơn 't' được tự động đáp ứng và do đó tế bào được đánh giá là đang quan sát
hợp đồng trao đổi thông tin.
Vào thời điểm này, giá trị ban đầu của thuật toán CSLB được giả sử là X--->0 và
LCT có thể được tính toán dựa trên thời gian đi đến của tế bào đầu tiên được tạo bởi kết
nối ATM riêng biệt (Ta(1)).
Thuật toán VS được minh hoạ trong hình 2-3 (b).
Thời gian đi đến theo lý thuyết (TAT) của tế bào có thể được tính toán bởi đơn vị
T.

Hình 2-3 Hai kiểu của thuật toán tương đương GCRA
Nếu thời gian đi đến của tế bào thực sự nhanh hơn thời gian đi đến theo lý thuyết
do nhiều hơn thời gian 't' (Ta(k)<TAT-t) thì tế bào đó được xem như tế bào vi phạm lỗi.
Trang 35/72
Nếu thời gian đi đến thực sự nhanh hơn thời gian đi đến theo lý thuyết(Ta(k)>TAT hay tế
bào đi đến nhanh hơn thời gian đi đến theo lý thuyết nhưng sự khác nhau là trong phạm
vi dung sai (Ta(k)>TAT-t) thì tế bào tương ứng được xem như tế bào quan sát lưu lượng.
Dưới đây, các thuật toán CSLB và VS được phân tích so sánh với nhau.
Như được minh hoạ trong biểu đồ dòng chảy của hình 2-3, chúng ta có thể thấy
rằng mối quan hệ của TAT=X+LCT tồn tại giữa các thông số tương ứng được sử dụng ở
thí dụ đầy đủ của các thời gian thi hành biểu đồ dòng chảy và do đó hai thuật toán có
chức năng tương đương qua lại lẫn nhau.
2.3 Thủ tục báo hiệu của mạng giữa các khách hàng với nhau.
Thủ tục cho việc thiết lập, duy trì, và xoá sự kết nối ATM giữa khách hàng ATM
và mạng sử dụng thủ tục báo hiệu đã được định nghĩa trong khuyến nghị ITU-T Q.2931.
Kiểu của thủ tục báo hiệu này được thực hiện bởi việc trao đổi thông báo lớp 3 của
Q.2931 với việc sử dụng dịch vụ AAL (SAAL) được dùng cho thủ tục báo hiệu định
nghĩa trong Q.2130.
Hệ thống báo hiệu đa dạng cho phép khách hàng nhận được các giá trị VPI/VCI
mà được sử dụng bởi tính tương ứng điểm - điểm hoặc kênh báo hiệu của kiểu truyền
rộng rãi tại lớp ATM đã được định nghĩa trong Q.2120.
Phù hợp với sự giải thích SAAL ngắn gọn của Q.2100, lớp SAAL được tạo thành
một cấu trúc sử dụng SSCF (Chức năng sắp xếp đặc biệt của dịch vụ), chức năng này là
chức năng điều chỉnh liên quan đến dịch vụ của hệ thống báo hiệu và giao thức kiểu kết
nối liên quan đến dịch vụ, SSCOP (giao thức định hướng kết nối đặc biệt của dịch vụ).
SSCOP thực hiện chức năng sắp xếp giữa giao thức lớp 3 Q.2931 và giao thức lớp
2
SSCOP và được định nghĩa trong Q.2130 cũng như Q.2140.
SSCOP đã được định nghĩa trong Q.2110 là giao thức quản lý liên kết cho việc gửi
các thông báo của lớp 3. Nó được sử dụng để đảm bảo sự trao đổi trật tự của các thông
báo Q.2931 và điều khiển luồng các thông báo và sửa lỗi bởi việc truyền lại.
Chỉ tiêu kỹ thuật Q.2931 định nghĩa các đặc tính cơ sở (trạng thái kết nối cuộc gọi,
các phần tử thông tin và thông báo, bộ đếm thời gian, và các thủ tục trong phạm vi của hệ
thống báo hiệu Giải phóng 1 của B-ISDN. Các phần tử thông tin hoặc thông báo phải
được cộng thêm và các phần tử thông tin phải được thay đổi để cung cấp khả năng báo
hiệu mới vượt quá vùng giải phóng1.
Khả năng cơ sở thiết lập định nghĩa trong Q.2931 được gọi là CSI và minh hoạ ở
bảng 2-3.

- Kết nối kênh chuyển mạch (svc)


- Kết nối kênh chuyển mạch tương ứng điểm-điểm
- Kết nối có băng tần đối xứng hoặc không đối xứng
Trang 36/72
- Cuộc gọi kết nối đơn lẻ (chỉ một kết nối trên một cuộc gọi)
- Chức năng của hệ thống báo hiệu cơ sở dựa trên các thông báo giao
thức, các phần tử thông tin và các thủ tục
- Dịch vụ chuyển giao ATM cho lớp dịch vụ X, A và C
- Các yêu cầu và chỉ dẫn của các thông số báo hiệu
- Đàm phán VPCI/VPI/VCI
- Ngoài dải các kênh đã được sắp xếp cho tất cả các thông báo báo hiệu
- Chữa lỗi
- Dạng địa chỉ UNI công cộng cho việc nhận dạng điểm kết thúc ATM
- Sự hỗ trợ của phương pháp quản lý khách hàng cho việc trao đổi địa
chỉ thông tin
- Nhận dạng các thông số thích hợp từ đầu cuối này tới đầu cuối này
tới đầu cuối kia

Bảng 2-3 Khả năng của ITU-T Q.2931


Trong giải phóng 1, tất cả các kênh mà giá trị của nó là 5 được dành riêng trong
VPCI cho hệ thống báo hiệu điểm - điểm. Hệ thống báo hiệu đa dạng và hệ thống báo
hiệu kiểu truyền đi rộng rãi không được hỗ trợ trong Giải phóng 1. Khuyến nghị ITU-T
I.311 cho kết nối của hệ thống báo hiệu là không có hệ thống báo hiệu đa dạng. Sự phân
loại lớp dịch vụ được biểu thị trong bảng 2-3 được định nghĩa trong ITU-T I.211. Khách
hàng ATM, nhằm để thiết lập kết nối của lớp mong muốn sẽ tải độ rộng băng tần được
yêu cầu và QoS thích hợp đã được lựa chọn vào trong thông báo thiết lập. Dịch vụ lớp A
là một kiểu kết nối và là dịch vụ chuyển giao ATM của tốc độ bit cân bằng, chúng yêu
cầu sự phối hợp thời gian từ đầu này tới đầu kia. Mất mát tế bào hoàn toàn, trễ tế bào, và
hoạt động thay đổi trễ tế bào .
Lớp dịch vụ C là dịch vụ chuyển giao ATM của tốc độ bit biến đổi kiểu kết nối và
nó không có loại yêu cầu phối hợp thời gian từ đầu này tới đầu kia. Tốc độ bit biến đổi là
không có trong Giải phóng 1.
Lớp dịch vụ X là dịch vụ chuyển giao ATM kiểu kết nối mà kiểu AAL của nó,
kiểu lưu lượng (tốc độ bit cân bằng hoặc tốc độ bit biến đổi) và các loại yêu cầu phối hợp
thời gian được định nghĩa bởi khách hàng (Có nghĩa là nó duy trì tính thông suốt). Khi
các thông số cho việc đảm bảo tính tương hợp từ đầu này tới đầu kia được xác định trong
bảng 2-3 thì có các kiểu AAL, phương pháp ghép kênh giao thức (thí dụ LLC hay VC),
các thông số AAL và giao thức mức cao của lớp AAL.
2.3.1 Thủ tục báo hiệu của ATM forum UNI 3.1
Thủ tục báo hiệu mà ATMF UNI 3.1 định nghĩa được dựa trên ITU-T Q.2931.
Một số chức năng đã được huỷ bỏ và được thêm để phản ánh các yêu cầu thị trường của
ATM và đảm bảo khả năng liên kết hoạt động lẫn nhau. Trong bảng 2-4, các khả năng cơ
sở của ATM UNI 3.1 được minh họa.

Trang 37/72
- Kết nối kênh chuyển mạch (svc)
- Kết nối kênh chuyển mạch điểm-điểm và điểm-đa điểm
- Kết nối có băng tần đối xứng và không đối xứng
- Cuộc gọi kết nối đơn lẻ (chỉ một kết nối trên một cuộc gọi)
- Chức năng của hệ thống báo hiệu cơ sở dựa trên các thông báo giao
thức, các phần tử thông tin và các thủ tục
- Dịch vụ chuyển giao ATM cho lớp dịch vụ X, A và C
- Các yêu cầu và chỉ dẫn của các thông số báo hiệu
- Đàm phán VPCI/VPI/VCI
- Ngoài dải các kênh đã được sắp xếp cho tất cả các thông báo báo hiệu
- Chữa lỗi
- Dạng địa chỉ UNI công cộng cho việc nhận dạng điểm kết thúc ATM
- Sự hỗ trợ của phương pháp quản lý khách hàng cho việc trao đổi địa
chỉ thông tin
- Nhận dạng các thông số thích hợp từ đầu cuối này tới đầu cuối này
tới đầu cuối kia

Bảng 2-4 Các khả năng giai đoạn 1 của ATMF UNI 3.1
Kết nối kênh chuyển mạch (SVC).
Kết nối kênh chuyển mạch điểm - điểm và điểm - đa điểm.
Kết nối có băng tần đối xứng và không đối xứng.
Cuộc gọi kết nối đơn lẻ (Chỉ một kết nối trên một cuộc gọi)
Chức năng của hệ thống báo hiệu cơ sở dựa trên các thông báo giao thức, các phần
tử chức năng và các thủ tục.
Dịch vụ chuyển giao ATM cho lớp dịch vụ X, A và C.
Các yêu cầu và chỉ dẫn của các thông số báo hiệu.
Đàm phán VPCI/VPI/VCI
Ngoài dải các kênh đã được sắp xếp cho tất cả các thông báo báo hiệu.
Chữa lỗi.
Dạng địa chỉ UNI công cộng cho việc nhận dạng điểm kết thúc ATM.
Sự hỗ trợ của phương pháp quản lý khách hàng cho việc trao đổi địa chỉ thông tin
Nhận dạng các thông số thích hợp từ đầu cuối này tới đầu cuối kia.
Các loại đã được chèn thêm vào không giống như trường hợp của Q.2931 là hỗ trợ
kết nối điểm - đa điểm, các bộ mô tả lưu lượng tăng thêm , hai kiểu của các phần tử thông
tin được thêm, và hai kiểu của các dạng địa chỉ của mạng riêng đặc biệt có thể được liệt
kê. Các loại đã bị huỷ bỏ bao gồm 5 kiểu thông báo khác nhau và 10 kiểu của phần tử
thông tin và cuộc gọi/kết nối.
Trang 38/72
Trong phụ lục E của ATMF UNI 3.1, các khác nhau trong mối liên quan với
Q.2931 đã được so sánh bằng sơ đồ. Các thông báo báo hiệu được tạo thành bởi phần
chung 9 octet có 4 kiểu của các phần tử thông tin (bộ phận dạng giao thức, giá trị tham
chiếu cuộc gọi, số của kiểu thông báo, và chiều dài thông báo) và phần khác nhau có các
phần tử thông tin chiều dài khác nhau được bao gồm có lựa chọn phụ thuộc vào mỗi kiểu
thông báo.
Trong bảng 2-5, toàn bộ 21 kiểu phần tử thông tin chiều dài khác nhau mà ATMF
UNI 3.1 định nghĩa được sắp xếp.

Giá trị của bộ nhận Chiều dài Octet cực


Các phần tử thông tin
dạng đại

Nguyên nhân 0x08 34

Trạng thái cuộc gọi 0x14 5

Tham chiếu điểm cuối 0x54 7

Trạng thái điểm cuối 0x55 5

Thông số lớp thích nghi ATM 0x58 20

Bộ mô tả lưu lượng ATM 0x59 30

Bộ nhận dạng kết nối 0x5a 9

Thông số QoS 0x5c 6

Thông tin lớp cao băng rộng 0x5d 13

Khả năng vận tải băng rộng 0x5e 7

Thông tin lớp thấp băng rộng 0x5f 17

Thay đổi khoá băng rộng 0x60 5

Thay đổi không khoá băng rộng 0x61 5

Hoàn thành việc gửi băng rộng 0x62 5

Bộ chỉ thị lặp băng rộng 0x62 5

Số thuê bao chủ gọi 0x6c 26

Trang 39/72
Địa chỉ chủ gọi 0x6d 25

Số thuê bao bị gọi 0x70 25

Địa chỉ bị gọi 0x71 25

Lựa chọn mạng chuyển tiếp 0x78 8

Bộ chỉ thị khởi động lại 0x79 5

Bảng 2-5 Các phần tử thông tin chiều dài khác nhau của ATMF UNI 3.1
3. QUẢN LÝ ATM VÀ CÔNG NGHỆ MẠNG PHÂN TÁN THUÊ BAO
3.1 Công nghệ quản lý mạng B-ISDN
3.1.1.Tổng quan TMN
TMN (Quản lý mạng viễn thông) là cấu trúc quản lý mạng được chuẩn hoá mà các
ý tưởng cơ sở của nó đã được định nghĩa trong CCITT M.30 vào năm 1988, được sử
dụng để cung cấp các chức năng quản lý trong các dịch vụ được đưa ra bởi sự mạng
thông tin với mạng, và sự thông tin giữa mạng thông tin với các phần tử mạng.
Nói cách khác, nó là tiêu chuẩn quản lý mạng B-ISDN hiện hành đang được chuẩn
hoá bởi ITU-T dựa trên kỹ thuật quản lý hệ thống OSI của ISO.
Khái niệm cơ bản của TMN là thiết lập thủ tục được chuẩn hoá cho việc trao đổi
số liệu và thông tin quản lý giữa hệ thống hoạt động và các kiểu khác nhau của các phần
tử mạng thông tin tạo nên mạng hay giữa các hệ thống do việc sử dụng giao diện được
chuẩn hoá. Khái niệm TMN được định nghĩa chi tiết trong các khuyến nghị của ITU-
TM.3010.
Cấu trúc của TMN có thể được kiểm tra trong chức năng tương lai cũng như cấu
trúc vật lý.
1) Cấu trúc chức năng của TMN.
Như được chỉ ra trong hình 3-1, các chức năng của TMN được tạo thành bởi các
chức năng cơ sở được gọi là khối chức năng TMN và các điểm tham chiếu.
OSF = Các chức năng của hệ thống hoạt động
MF = Chức năng dàn xếp
WSF = Chức năng của trạm làm việc.
NEF = Chức năng của phần tử mạng.
QAF = Chức năng của bộ thích nghi Q.
DCF = Chức năng giao tiếp số liệu.

Trang 40/72
Hình 3-1 Điểm tham chiếu giữa các khối chức năng TMN
Khối OSF (chức năng của hệ thống hoạt động) xử lý thông tin quản lý được sử
dụng để giám sát, điều chỉnh, và điều khiển mạng giao tiếp.
Khối NEF (chức năng phần tử mạng) thực hiện chức năng điều khiển và giám sát.
Khối WSF (chức năng của trạm làm việc) giải thích thông tin TMN tới các khách
hàng của thông tin quản lý.
Khối QAF (chức năng của bộ thích nghi Q) kết nối các đối tượng không phải
TMN tới TMN.
Khối MF (chức năng dàn xếp) giám sát việc biên dịch, lọc và tập hợp thông tin
trong khi xử lý chuyển giao thông tin giữa OSF và NEF (QAF).
DCF (chức năng giao tiếp số liệu) là chức năng truyền thông tin được sử dụng để
trao đổi số liệu giữa các khối chức năng TMN.
Thêm vào đó, giao diện trong số một vài khối chức năng được định nghĩa với các
điểm tham chiếu. Các điểm tham chiếu được sử dụng để chỉ ra ranh giới dịch vụ giữa các
khối chức năng và có chức năng của việc kiểm tra thông tin chuyển giao giữa các khối
chức năng.
Các điểm tham chiếu này có sự thích ứng điểm - điểm với giao diện của cấu trúc
vật lý được mô tả bên dưới. Có nghĩa là, các điểm tham chiếu q', 'qx', 'q3', 'f và 'x' tương
ứng phù hợp với các giao diện Q, Qx, Q3, F và X.
2) Cấu trúc vật lý của TMN
Cấu trúc vật lý chung giữa TMN và các mạng giao tiếp trong sự giám sát của nó
được chỉ ra trong hình 3-2.

Hình 3-2 Cấu trúc vật lý của TMN


Trang 41/72
OS là một hệ thống trong TMN xử lý thông tin liên quan tới hoạt động của mạng
và duy trì và quản lý, nó thực hiện chức năng của OSF và cung cấp chức năng WSF một
cách chọn lựa
MD (Thiết bị dàn xếp) là việc xử lý TMN được sử dụng để chuyển giao thông tin
giữa NE và OS, nó sử dụng giao diện chuẩn để cấp MF.
Chức năng của MD được phân loại cao hơn thành các chức năng từ NE tới OS và
ngược lại. Được bao gồm trong đó là sự tập trung một lượng nhỏ số liệu, việc đệm số liệu
thời gian thực, chuyển đổi giao thức, thay đổi dạng nội dung số liệu, mối quan hệ qua lại
và tóm tắt của số liệu, tính ưu tiên và các chức năng định tuyến.
QA (Bộ thích nghi Q) có chức năng kết nối NE hay OS mà có giao diện không
tương thích với giao diện Q3 hay Qx.
DCN (Mạng giao tiếp số liệu) là mạng chuyển giao của TMN được sử dụng để hỗ
trợ DCF (Chức năng giao tiếp số liệu). Nó thực hiện các chức năng lớp OSI 1~3 chức
không phải các chức năng lớp 4 ~ lớp 7.
NE đề cập tới thiết bị trên mạng thông tin mà thi hành NEF. Trong NE, phụ thuộc
vào chức năng của mỗi thiết bị, có thể bao gồm chức năng khác nhau tương ứng. Có
nghĩa là, nó có giao diện kiểu Q nhưng có thể có các giao diện F và X cũng với tính chọn
lựa. WS (trạm làm việc) thi hành WSF và chỉ ra thông tin quản lý của TMN tới các khách
hàng hay tạo nên việc đưa vào và điều khiển thông tin mà các khách hàng có thể mong
muốn.
Các phần tử cấu trúc vật lý đã được mô tả trước đấy phải hỗ trợ các giao diện
tương thích lẫn nhau thậm chí, nếu chúng là các sản phẩm có các chức năng bổ trợ khác
tương ứng. MD phải luôn thoả mãn các điều kiện đòi hỏi làm thích hợp thiết bị tương
thích TMN bởi việc có các giao diện Qx hay Q3. Giao diện Q cung cấp việc thực thi
TMN linh hoạt và Qx được bố trí giữa các NE khi hai MD, NE và MD, QA và MD, và
nếu nhiều hơn một NE có các chức năng MD, nó sẽ được bố trí giữa hai NE. Q3 được bố
trí giữa phần kết nối MD, QA và NE cũng như hai OS sẽ đi qua DCN.
Giao diện F được bố trí giữa hai TMN hay giữa các hệ thống quản lý có các chức
năng quản lý như OSF và nó được sử dụng để yêu cầu chức năng bảo vệ.
Giao diện G được bố trí giữa WS và nhân viên điều hành trong khi mà giao diện
M được bố trí giữa QAF và đối tượng quản lý không phải TMN.
3.1.2 Các hoạt động chuẩn hoá cho quản lý mạng B-ISDN
Quản lý mạng của B-ISDN thực hiện tiêu chuẩn hoá các công việc tại mỗi tổ chức
tiêu chuẩn hoá trong tương lai của TMN.
Sau đây là các khuyến nghị được tiêu chuẩn hoá điển hình đã được công bố: ATM
Forum đã công bố các tài liệu ATMF94-744 mô tả CMIP (Giao thức thông tin quản lý
chung) trên giao diện M4 và ANSI đã công bố các tài liệu T1.PM-199x; ETSI đã công bố

Trang 42/72
các tài liệu NA5-2210 trong khi mà IETF đã công bố các tài liệu RFC 1695; cuối cùng,
Bellcore đã công bố các tài liệu TA-NWT-1114.
ITU-T thành lập một vài SG (Nhóm nghiên cứu) thực hiện các hoạt động đang tiêu
chuẩn hoá của quản lý mạng B-ISDN cho mỗi lĩnh vực và nhằm để tránh việc trùng lặp
công việc, nó bố trí các vùng khác nhau của TMN cho mỗi SG. Trong các tài liệu
ATMF95-0449, một vài tài liệu được chuẩn hoá đã được liệt kê ở trên được so sánh và
sau đó được phân tích chi tiết. Dưới đây, lĩnh vực chuẩn hoá của quản lý mạng B-ISDN
được mô tả với sự nhấn mạnh đặc biệt các hoạt động của ITU-T.
1) SG1
SG1 của ITU-T định nghĩa các dịch vụ liên quan với B-ISDN trong khi mà SG13
định nghĩa các loại khả năng mạng và cấu trúc mạng cho sự hoạt động, quản lý trên mạng
B-ISDN.
2) SG11
SG11 định nghĩa mô hình thông tin được đòi hỏi bởi thiết bị báo hiệu và thiết bị
chuyển mạch B-ISDN và các yêu cầu về sự hoạt động của thiết bị. Thêm vào đó, nó thực
hiện mô hình thông tin liên quan tới các yêu cầu quản lý lưu lượng B-ISDN của SG 13 và
mô hình thông tin liên quan đến các báo hiệu B-ISDN và thực hiện các hoạt động nghiên
cứu cho việc mở rộng tiêu chuẩn giao diện quản lý mạng chuẩn. Bởi vậy giao thức Q3 trở
nên phù hợp với B-ISDN.
3) SG 15
SG 15 định nghĩa mô hình thông tin trên thiết bị truyền B-ISDN và các yêu cầu về
hoạt động của thiết bị.
4) SG 4
SG 4 hiện hành thực hiện công việc trên hai WP (Phần đang làm việc): SG 5 WP5
(cũng được gọi vắn tắt là WP 4/5) định nghĩa các dịch vụ quản lý TMN và các chức năng
cho việc hỗ trợ B-ISDN trong khi SG 5 WP3 (cũng được gọi vắn tắt là WP4/3) là có khả
năng đáp ứng cho việc mở rộng và sau đó, định nghĩa GNIM (mô hình thông tin mạng cơ
bản) là mô hình cơ sở của TMN, nhằm để hỗ trợ B-ISDN.
Trong hình 3-3, mối quan hệ qua lại của các công việc giữa các nhóm nghiên cứu
ở trên được thực hiện để định nghĩa tiêu chuẩn TMN cho B-ISDN là được minh hoạ.

Trang 43/72
Hình 3-3 Quan hệ qua lại giữa các SG của ITU-T để hỗ trợ TMN trong B-ISDN
ITU-T SG4 WP5 hiện nay đang thực hiện các hoạt động cho việc thiết lập một hệ
thống toàn thể của việc duy trì và sửa chữa B-ISDN, các chức năng được yêu cầu và các
điều này được mô tả trong khuyến nghị M.3610.M.3610 sau khi định nghĩa mối quan hệ
giữa B-ISDN và TMN sẽ qui định các khái niệm lỗi, hoạt động, và quản lý cấu hình là
phần duy trì và sửa chữa của TMN. Cũng được bao gồm ở trên là các hoạt động lẫn nhau
của các phương tiện thuê bao B-ISDN, giữa mạng truy nhập và mạng chuyển mạch
truyền dẫn, cũng như giữa mạng B-ISDN và các mạng khác.
Theo nguyên tắc, các chức năng sửa chữa và duy trì quản lý mạng thực hiện trên
B-ISDN phải theo các quy tắc và điều lệ được định nghĩa trong M.20, M.3010, và
M.3200 là các khuyến nghị quản lý mạng của ITU-T. Như các chức năng sửa chữa và
duy trì B-ISDN chủ yếu, có sự giám sát hoạt động, sự giảm giá trị hoạt động/sự phát hiện
lỗi, hệ thống chuyển đổi chéo và chức năng phát hiện lỗi, sự tập trung thông tin hoạt động
và hạn định lỗi, cũng như các chức năng phục hồi.
3.1.3 Chức năng quản lý của TMN
Trong khuyến nghị X.700 của ITU-T, các chức năng quản lý của TMN được phân
loại cao hơn thành 5 lĩnh vực phù hợp các đối tượng quản lý. Điều này được gọi là SMF
(Chức năng quản lý hệ thống). Tính khả dụng trong SMF là sự quản lý lỗi, họat động, cấu
hình, tính toán và an toàn. Dưới đây, các khái niệm chính được sử dụng trong mỗi phần
SMF được mô tả.
1) Quản lý lỗi.
Quản lý lỗi là chức năng phát hiện các vấn đề H/W hay S/W trong các phần tử
mạng, cô lập chúng để chúng không ảnh hưởng tới toàn thể hoạt động của hệ thống.
Thêm vào đó, nó thực hiện việc kiểm tra các phần lỗi nhằm để khôi phục hoạt động của
hệ thống trở lại trạng thái bình thường.
Nó là chức năng quan trọng nhất trong số các chức năng SMF và phù hợp với điều
đó, trong ATMF UNI 3.1, nó được định nghĩa như chức năng duy nhất trong số các chức
Trang 44/72
năng SMF mà phải được hỗ trợ nhằm để giảm càng nhiều càng tốt sự hoạt động lẫn nhau
cho chức năng quản lý mạng giữa trạm cuối thuê bao và thiết bị mạng trong khi mà các
SMF khác không được xem là quan trọng.
Quản lý lỗi được phân loại trên quy mô lớn thành chức năng giám sát cảnh báo và
chức năng cô lập. Chẩn đoán lỗi nói chung, thủ tục quản lý lỗi được thực hiện thành 4
bước. Bước thứ nhất là phát hiện các lỗi từ các lớp vật lý trong vài lớp ATM và các NE.
Bước thứ hai là trao đổi các tín hiệu AIS (Tín hiệu chỉ thị cảnh báo) và RDI (Chỉ thị phát
hiện từ xa) giữa các NE mà dưới ảnh hưởng phủ nhận của trạng thái phát hiện NE các
chức năng mạng đang được hạn chế.
Bước thứ ba, OS, vào lúc nhận được các thông báo trạng thái hư hỏng báo cho các
NE hỏng thực hiện các chức năng mạng thích hợp, thực hiện thủ tục chẩn đoán như chức
năng lặp vòng trở lại hay tiếp tục kiểm tra nhằm để kiểm tra liệu có các vấn đề nào thực
sự tồn tại hay không. Bước thứ tư là khởi tạo thủ tục chữa lỗi và cô lập lỗi cho việc cô lập
và hạn định các lỗi đã phát sinh.
Khi phát hiện thấy như LOS (mất mát tín hiệu), LOF (mất khung) và LCD (tổn
thất của tế bào trong khi phát) hay mạch hở xảy ra trên lớp vật lý, các phần tử mạng (các
nút và các loại khác) mà đã phát hiện các lỗi gửi đi các tín hiệu AIS của lớp vật lý tới các
phần tử mạng của phía kia được bố trí trên đường số liệu về và sau đó, các phần tử mạng
đã nhận được các AIS gửi tín hiệu RDI tới hướng của đường số liệu đi. Việc gửi và nhận
của các tín hiệu AIS/RDI phát sinh trên lớp vật lý được gọi là luồng OAM. Luồng OAM
có thể được phân loại cao hơn thành luồng F1, luồng F2 của lớp phiên số, và luồng F3
của lớp truyền dẫn.
Các kiểu luồng OAM F1, F2 và F3 được hỗ trợ tương ứng với các phương pháp
khác nhau phụ thuộc vào các kiểu truyền dẫn được sử dụng.
Trong hệ thống truyền dẫn SDH cơ sở, F1, và F2 được truyền sau khi được tải vào
phần mặt cắt overhead trong khi F3 được gửi lên phần đường dẫn overhead của khung
truyền.
Trong hệ thống truyền dẫn SDH cơ sở, F1 và F3 được gửi đi bằng việc được tải
vào tế bào OAM của lớp vật lý và các chức năng của F2 không được hỗ trợ.
Lớp ATM, khi phát hiện luồng OAM của lớp vật lý, tự nó thay đổi thành trạng
thái thiếu và thực hiện chức năng giám sát cảnh báo thông qua việc sử dụng các tế bào đã
được sắp xếp riêng cho OAM cho tất cả các đường dẫn ảo và kênh ảo thuộc về lớp vật lý
phù hợp.
Lớp vật lý ATM hỗ trợ hai kiểu của các mức OAM.
OAM mà được thi hành bởi mức VP được gọi là luồng F4 và các tế bào OAM
được sử dụng được gọi là các tế bào F4 OAM. Luồng F4 là hai hướng và tế bào F4 OAM
có gía trị VPI giống như tế bào của khách hàng trong đường dẫn ảo tương ứng. Các kiểu
của luồng F4 OAM được phân loại dựa trên các giá trị VCI. Tính khả dụng trong F4

Trang 45/72
OAM là luồng F4 từ đầu này tới đầu kia mà giá trị VCI của nó là 4 và luồng F4 phân
đoạn thì giá trị VCI của nó là 3.
Các kiểu này của các luồng F4 có thể được xử lý chỉ ở nơi cuối cùng: Điểm cuối
của đường dẫn ảo tương ứng và điểm cuối phân đoạn. Chúng không được xử lý trên bất
kỳ một điểm kết nối nào khác nhưng thay cho điều đó phải được chuyển đi thông suốt.
Theo phương diện khác, OAM tạo nên mức VC được gọi là luồng F5. Luồng F5 là
hai hướng như trong trường hợp của luồng F4. Nó được phân loại cao hơn thành luồng
F5 giữa các điểm cuối và luồng F5 phân đoạn. Tuy nhiên, giá trị VPI/VCI của tế bào F5
OAM là giống như giá trị VPI/VCI của tế bào khách hàng trong kênh ảo tương ứng.
Thêm vào đó, các giá trị PTI được sử dụng để phân loại các điểm cuối và các luồng F5
phân đoạn.
PTI của luồng F5 giữa các điểm cuối là 5 và 4 được sử dụng như PTI của luồng F5
phân đoạn. Trong các khuyến nghị 1.610 của ITU-T và T1S1.5/92-029R3 của ANSI.
Luồng OAM giữa lớp vật lý và lớp ATM được mô tả chi tiết. Trong hình 3-4, luồng
OAM của lớp ARTM được minh hoạ trong giao diện tương lai giữa khách hàng và mạng,
và trong hình vẽ 3-5 các kiểu tế bào OAM của luồng F4 và luồng F5 được miêu tả.

Hình 3-4 Luồng OAM của lớp ATM trong giao diện UNI

Hình 3-5 Dạng tế bào OAM của lớp ATM

Trang 46/72
Cho việc quản lý lỗi của lớp ATM, có chức năng giám sát cảnh báo AIS/RDI,
chức năng tiếp tục kiểm tra, và chức năng lặp vòng trở lại. Chúng được mô tả chi tiết
trong ITU-T.610 và số liệu của Bellcore TA-NWT-1248.
Chức năng tiếp tục kiểm tra không nằm trong ATMF UNI-3.1.
Chức năng giám sát cảnh báo AIS/RDI chỉ được ứng dụng giữa các điểm cuối F4
và F5. Nó phát hiện các lỗi của kết nối đường dẫn ảo hoặc kết nối kênh ảo và sau đó báo
cáo tới mỗi điểm cuối. Thêm vào đó, nó gửi đi tế bào OAM VP-AIS (VS-AIS) tới đường
về nhận tế bào này và làm cho nó phát hiện lỗi của VPC (VCC). Vào thời điểm đó, điểm
cuối sẽ gửi tế bào OAM VP-RDI (VC-RDI) tới hướng ngược lại vì thế cho phép các điểm
cuối được sắp xếp ở đường lên có thể biết được tình trạng của các lỗi nhận được.
Một tế bào VP-AIS (VC-AIS) được gửi từ điểm kết nối tới phía đường về cứ mỗi
giây khi các lỗi được phát sinh và việc gửi bị ngừng ngay lập tức khi các lỗi được giải
phóng.
Điểm cuối, vào lúc nhận được tế bào VP-AIS (VC-AIS), công bố tình trạng của
VP -AIS (VC-AIS) và sau đó, đi vào trạng thái quản lý lỗi. Trạng thái này được giải
phóng khi không nhận được tế bào AIS sau 3 giây hay lâu hơn hoặc khi nhận được các tế
bào hợp lệ như các tế bào kiểm tra tiếp tục hay khách hàng. Một tế bào OAM VP-RDI
(VC-RDI) được gửi cứ mỗi một giây khi các lỗi VPC (VCC) phát sinh thậm chí nếu trạng
thái VP-AIS (VC-AIS) được công bố ở điểm cuối và việc gửi được dừng ngay lập tức khi
các nguyên nhân gây lỗi được sửa chữa.
Vào lúc nhận được tế bào OAM VP-RDI (VC-RDI), điểm cuối tự nó thay đổi
thành trạng thái VP-RDI (VC-RDI) và bắt đầu thực hiện chức năng quản lý lỗi. Nó khôi
phục trở lại trạng thái bình thường khi các sai hỏng của nó nhận được tế bào RDI sau 3
giây hoặc lâu hơn.
Mối quan hệ tín hiệu AIS/RDI và sơ đồ lưu lượng của lớp vật lý cũng như lớp
ATM được minh hoạ trong hình 3-6.

Trang 47/72
Hình 3-6 Mối quan hệ tín hiệu AIS/RDI
và sơ đồ lưu lượng của lớp vật lý và lớp ATM.
Chức năng kiểm tra tiếp tục được sử dụng để giám sát trạng thái của kết nối VPC
hay VCC. Nó được kích hoạt hay xoá bỏ kích hoạt cho VPC hay VCC xác định do chức
năng kích hoạt / xoá bỏ kích hoạt được giám sát bởi TMN OS.
Chức năng kiểm tra tiếp tục được ứng dụng giữa các đầu cuối hay các phân đoạn
VPC và VCC. Điểm cuối giữa hai đầu cuối hay phân đoạn gửi đi tế bào kiểm tra tiếp tục
tới điểm cuối của phía đối diện khi không có tế bào được gửi đi hay không có lỗi được
phát sinh trên kết nối tương ứng trong thời gian 't' (Ts<t<2Ts) nhằm để không thông báo
là kết nối được thực hiện thích đáng.
Sau đó, mỗi điểm cuối VPC (VCC) quan tâm đến trường hợp mà trong đó không
có tế bào nào được nhận trong thời gian Tr (Tr>2Ts) như là lỗi và sau đó gửi đi VP-RDI
(VC-RDI) tới hướng đường lên.
Kiểu của chức năng này đặc biệt có ích khi đòi hỏi sự đảm bảo độ tin cậy của kết
nối như trong trường hợp PVC. Hiện tại, 2 giây đã được sử dụng như là giá trị mặc định
cho Ts và 5 giây cho Tr. Chức năng lặp trở lại của lớp ATM được sử dụng để kiểm tra
khả năng hoạt động của kết nối VPC hay VCC. Tế bào lặp vòng trở lại có thể được chèn
vào điểm kết nối xác định giữa các đầu cuối hay phân đoạn VPC và VCC. Thêm vào đó
việc lặp vòng cũng có thể được điều chỉnh để nó được phát sinh trên điểm kết nối xác
định. Như các chức năng lặp vòng trở lại, có sự lặp vòng trở lại của điểm liên kết đầu
cuối, việc lặp vòng trở lại giữa khách hàng và mạng, việc lặp vòng trở lại giữa các miền,
và việc lặp vòng trở lại miền tương ứng. Trong hình 3-7, thí dụ của thủ tục lặp vòng được
minh hoạ.

Hình 3-7 Thí dụ của ứng dụng lặp vòng trở lại.
Trang 48/72
2) Quản lý hoạt động
Quản lý hoạt động được nhận biết dựa trên sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các NE
của mạng và các OS. Nó thường xuyên tập trung, phân tích, và điều khiển số liệu hoạt
động của mạng để tránh làm hỏng hoạt động bởi vậy tất cả các tài nguyên trong mạng có
thể được duy trì ở trạng thái tối ưu của chúng.
Quản lý hoạt động có thể được phân loại cao hơn thành chức năng giám sát hoạt
động, điều khiển hoạt động, phân tích hoạt động và quản lý lưu lượng mạng. Sự tập trung
số liệu hoạt động của mạng là bước đầu tiên của chức năng giám sát hoạt động, được
thực hiện chủ yếu từ các nút của mạng hay liên kết truyền dẫn. Nói chung, số liệu hoạt
động và số liệu lưu lượng được thu thập như là dữ liệu.
Thêm vào đó, số liệu hoạt động có thể được phân loại cao hơn thành số liệu lớp
ATM và lớp vật lý. Như trước, có một số lượng các lỗi CRC phát sinh, một số lượng lỗi
khung, và một số lượng các LOS hay LCD phát sinh trong khi các tế bào VCI/VPI sai
hỏng tương ứng sẽ đến trễ hơn. Số liệu hoạt động lưu lượng được tập trung bởi một bộ
của liên kết truyền dẫn và giao diện.
Số lượng của các tế bào đã gửi/ nhận, số lượng các tế bào bị nối đuôi hay bị loại
bỏ, phần trăm tốc độ sử dụng của lưu lượng, khoảng thời gian của giờ cao điểm, và số
lượng các tế bào bị loại bỏ vì giờ cao điểm, và số lượng các tế bào bị loại bỏ vì các lý do
hệ thống bên trong được bao gồm ở đây.
Số liệu được tập trung sau khi thực hiện giám sát hoạt động có thể được quản lý
qua việc sử dụng thuật toán phân tích hoạt động. Vào thời điểm này, các đối tượng quản
lý như các giá trị đầu, các lịch trình giám sát, và chất lượng dịch vụ, được sử dụng như
các tiêu chuẩn giám sát trong khi giai đoạn giám sát hoạt động phải được điều khiển thích
hợp để thực hiện chức năng giám sát hoạt động trên các đối tượng quản lý chung hay đặc
biệt.
Đối với các kiểu công việc này, chức năng điều khiển hoạt động có thể được thực
hiện.
Trong giai đoạn phân tích và hoạt động, các việc xử lý thêm và các phân tích có
thể được thực hiện với các chương trình phân tích dựa trên số liệu hoạt động tập trung
nhằm để cho phép nhân viên điều hành có khả năng đáp ứng việc điều khiển hoạt động tự
động và chức năng quản lý mạng thực hiện chức năng điều khiển bằng tay. Kết quả phân
tích được biểu thị bởi các mức hoạt động. Đối tượng của quản lý lưu lượng mạng là cải
thiện khả năng sử dụng các tài nguyên mạng khi mạng bị quá tải và các lỗi phát sinh
nhằm để cải thiện hoạt động lưu lượng. Chức năng quản lý lưu lượng khả dụng được sử
dụng cho đối tượng ở trên là phép đo tắc nghẽn, quản lý lưu lượng mạng, và các chức
năng điều khiển lưu lượng.
Thêm vào đó, như sự quản lý hoạt động của lớp ATM, có chức năng giám sát phía
trước, chức năng báo cáo phía sau, và chức năng giám sát /báo cáo.

Trang 49/72
Chức năng giám sát hoạt động giữa các điểm đầu cuối hay phân đoạn VPC và
VCC trên lớp ATM được sử dụng để đánh giá hoạt động liên quan tới việc truyền tế bào
ATM của kết nối tương ứng. Nó được thực hiện bởi việc chèn tế bào OAM giám sát hoạt
động vào điểm đầu cuối đặc biệt.
Mỗi điểm đầu cuối thực hiện việc giám sát hoạt động như sau: Cho tất cả khối có
kích thước đặt trước (số lượng các tế bào trên các khối), tế bào OAM được chèn với mã
phát hiện lỗi phía trước được tải sau đó được gửi đi, tiếp đó các yếu tố làm hư hỏng hoạt
động phát sinh trong mỗi khối sử dụng mã tương ứng ở phía đối diện bị phát hiện và sau
đó được quay trở lại.
Như kích thước của khối, cả hai điểm cuối có thể lựa chọn một trong số 128, 256,
512 và 1024. Thêm vào đó, số lượng các tế bào được tính toán nhằm để tìm ra số lượng
các tế bào đã bị mất hay chèn sai. Chức năng giám sát hoạt động có thể được khởi động
chỉ bởi TMN OS hay khách hàng đầu cuối. Bởi việc thực hiện việc giám sát hoạt động, cả
hai điểm cuối đưa ra chức năng giám sát cuộc gọi, mà nhận được lệnh thực hiện sự thoả
thuận cuối cùng thông qua việc sử dụng phương pháp kích hoạt/bỏ kích hoạt giám sát
hoạt động.
Các chức năng OAM của lớp ATM sẵn có là chức năng giám sát cảnh báo
AIS/RDI, chức năng kiểm tra tiếp tục và chức năng lặp vòng trở lại được sử dụng cho
việc quản lý lỗi, và chức năng giám sát phía trước, chức năng báo cáo ngược, và chức
giám sát/báo cáo cho việc giám sát hoạt động, chức năng kích hoạt bỏ kích hoạt giám sát
hoạt động và chức năng kích hoạt/bỏ kích hoạt kiểm tra tiếp tục cho việc kích hoạt và bỏ
kích hoạt chức năng. Hơn nữa, các hoạt động nghiên cứu trên các chức năng đánh giá
hoạt động khác như các phép đo kiểm tra khác, chức năng cô lập lỗi và thời gian trễ tế
bào hiện nay được thực hiện.

Kiểu tế bào OAM Giá trị Kiểu chức năng OAM Giá trị

AIS
0000
RDI
0001
Quản lý lỗi 0001 Kiểm tra tiếp tục
0100
Lặp vòng trở lại của tế bào
1000
OAM

Giám sát phía trước 0000


Quản lý hoạt động 0010 Báo cáo phía sau 0001
Giám sát và báo cáo 0010

Giám sát hoạt động 0000


Kích hoạt/bỏ kích hoạt 1000
Kiểm tra tiếp tục 0001

0111 Thiết lập hệ thống bảo vệ.


Quản lý hệ thống Khách Không xác
Khác với duy trì hệ thống
Trang 50/72
hàng-Khách hàng bảo vệ định

Bảng 3-1 Kiểu tế bào OAM và kiểu chức năng OAM của lớp ATM
3) Quản lý cấu hình
Quản lý cấu hình thực hiện việc kiểm tra điều khiển và cung cấp các chức năng
thừa nhận, thu thập số liệu và các chức năng chuyển giao số liệu đối với các NE. Thêm
vào đó, nó quản lý các kết nối và việc khởi tạo mạng.
Các chức năng quản lý cấu hình bao gồm chức năng cung cấp, điều khiển trạng
thái phần tử mạng, và chức năng hỗ trợ cài đặt. Các công việc chuẩn bị mạng như chức
năng cung cấp và chức năng cung cấp dịch vụ là các thủ tục cho việc tạo các tài nguyên
mạng thành trạng thái khả dĩ của dịch vụ. Giám sát tài nguyên mạng là thủ tục cho việc
tạo các tài nguyên mạng để sử dụng và giám sát dịch vụ là thủ tục lựa chọn, chỉ định và
khởi tạo các tài nguyên được sưe dụng để cung cấp các dịch vụ tới khách hàng.
Chức năng điều khiển trạng thái mạng giám sát và điều khiển các NE bởi việc thực
hiện kiểm tra trạng thái dịch vụ, làm đúng, kiểm tra chẩn đoán, và khởi tạo của các NE.
Nằm trong các chức năng điều khiển trạng thái phần tử mạng là chức năng báo cáo trạng
thái và chức năng sắp xếp lịch trình. Các tài nguyên cài đặt đề cập tới các chức năng trao
đổi số liệu ban đầu giữa các NE hay từ OS hoặc tải xuống các chương trình từ dữ liệu cơ
sở và các chức năng hỗ trợ của chúng.
4) Quản lý tính toán.
Quản lý tính toán bao gồm một loạt nhóm chức năng được sử dụng để đo và ghi
lại các dịch vụ cũng như các tài nguyên được cung cấp bởi mạng. Các chức năng chính
của nó bao gồm thu thập và xử lý các bản ghi hoá đơn cước. Như thông tin được bao gồm
trong các bản ghi hoá đơn cước, có dịch vụ hay sự nhận dạng các đặc tính, phép đo số
lượng các tài nguyên được sử dụng, nhận dạng thiết bị và nhận dạng khách hàng.
5) Quản lý an toàn.
Quản lý an toàn thực hiện các kiểm tra an toàn khi khách hàng mong muốn sử
dụng các tài nguyên mạng. Trước tiên nó xác định khả năng truy nhập của khách hàng
tương ứng và sau đó tìm xem liệu yêu cầu truy nhập có hợp lệ hay không thông qua việc
sử dụng cơ chế xác nhận. Ngay khi truy nhập yêu cầu được chứng tỏ là hợp lệ, nó giám
sát và báo cáo thời gian và hoạt động được phép. Thêm vào đó, nó khởi tạo thủ tục phục
hồi bởi việc sử dụng chức năng phục hồi truy nhập hợp lệ ngay khi sự vi phạm an toàn
phát sinh.
4. CÔNG NGHỆ CHUYỂN MẠCH ATM
4.1 Chất lượng và mức độ thực hiện của mạng ATM
Những yêu cầu chung của mạng chuyển mạch ATM là xử lý tốc độ cao, dung
lượng lớn, chất lượng truy nhập cao, và việc điều khiển quá trình chuyển mạch dễ dàng
và đơn giản.
Trang 51/72
Ngoài ra, mạng chuyển mạch ATM còn phải có khả năng duy trì trật tự truyền dẫn
tế bào trên mạng và phải có tổng đài được mô đun hoá và có khả năng phát triển tốt.
Do những yếu tố trên nên, về triển vọng tương lai của chất lượng truy nhập ATM,
sự tổn thất tế bào (Sự khác nhau được gây ra bởi thứ tự ưu tiên tổn thất tế bào), sự trễ
trong quá trình truyền dẫn tế bào (thời gian trễ tuyệt đối và độ rộng biến đổi trễ), và tỷ lệ
chèn sai tế bào sẽ là những yếu tố chính cho việc chỉ định chất lượng của hệ thống
chuyển mạch.
Bảng 4-1 trình bày mức độ thực hiện của quá trình truy nhập ATM của Bellcore,
là mức độ về chất lượng truyền dẫn được cung cấp cho người sử dụng bởi mạng ATM.

Các tham số thực hiện CPL Các kết nối QOS1 Các kết nối QOS2

Tỷ lệ tổn thất tế bào 0 <1.7x10-10 <10-7

Tỷ lệ tổn thất tế bào 1 <10-4 <10-4

Sự trễ trong quá trình truyền tế bào


1/0 150 us 150 us
(99%)

Sự thay đổi độ trễ tế bào (10-10 về


0 250 us Chưa xác định
định lượng)

Sự thay đổi độ trễ tế bào (10-10 về


1 Chưa xác định Chưa xác định
định lượng)

<Bảng 4-1> Mức độ về chất lượng truyền dẫn của kết nối ATM
Theo số liệu của Bellcore, xác suất của sự trễ trong truyền dẫn, mà vượt quá 150
m sec , là nhỏ hơn 1% và xác suất của độ rộng biến đổi trễ trong truyền dẫn, mà vượt quá
250 msec, là không được lớn hơn 10 ..#...Những yếu tố như sự trễ trong quá trình thiết
lập tế bào, trễ trong truyền tín hiệu, trong truyền tế bào, trong hàng đợi tại nút và trong
quá trình xử lý tế bào bởi sự vận hành phần mềm, đều gây nên sự trễ trong mạng ATM.
Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất là sự trễ gây bởi quá trình thiết lập và tập hợp tế bào.
Ví dụ, khi tiếng nói được đưa vào tế bào CBR, cần một khoảng thời gian là 125 msec ứng
với mỗi byte để chuyển nó thành tín hiệu số 64 Kbps.
Do số lượng thông tin thực sự có trên mỗi tế bào là 48 byte không kể phần tiêu đề
nên thời gian trễ sẽ là 6 msec. Kết quả là thời gian trễ sẽ lớn hơn những yếu tố khác hàng
chục hoặc hàng trăm lần. Bên cạnh đó, do sự trễ trong quá trình truyền dẫn của mạng gây
bởi mỗi tế bào là khác nhau, nên khi độ rộng biến đổi của sự trễ trở nên lớn hơn bởi khối
tế bào, thì chất lượng dịch vụ của những ứng dụng yêu cầu quá trình xử lý thời gian thực
sẽ giảm xuống một cách đột ngột.

Trang 52/72
Ví dụ như trong trường hợp truyền tín hiệu hình, màn ảnh bắt đầu nhấp nháy hoặc
màn ảnh và tiếng nói là không phù hợp với nhau. Bảng 4-2 dưới đây trình bày một cách
chi tiết tiết những mức độ thực hiện mà nhất thiết phải được cung cấp bởi mạng một cách
phù hợp với tốc độ truy nhập của người sử dụng mạng ATM hoặc phù hợp với sự phân
loại dịch vụ.
(A) Các đối tượng thực hiện của sự mô phỏng mạch DSI

Các tham số thực hiện Giá trị

Tỷ lệ tổn thất tế bào <10-10

Sự trễ trong quá trình truyền tế bào (99%) 150 us

Sự biến đổi trễ trong quá trình truyền tế bào (10-10 về định
250 us
lượng)

Sự trễ trong quá trình đóng gói tế bào (99%) 250 us

Sự trễ trong quá trình tiếp nhận jitter (10-10 về định lượng) 750 us

(B) Các đối tượng thực hiện của sự mô phỏng DS3

Các tham số thực hiện Giá trị

Tỷ lệ tổn thất tế bào <10-10

Sự trễ trong quá trình truyền tế bào (99%) 150 us

Sự biến đổi trễ trong quá trình truyền tế bào (10-10 về định
250 us
lượng)

Sự trễ trong quá trình đóng gói tế bào (99%) 10 us

Sự trễ trong quá trình tiếp nhận jitter (10-10 về định lượng) 750 us

(C) Các đối tượng thực hiện đối với dịch vụ SMDS

Các tham số thực hiện Giá trị

Tỷ lệ tổn thất tế bào <10-10

Sự trễ trong quá trình truyền PDU(95%) 5 ms

Sự trễ trong quá trình truyền nhóm PDU được đánh địa chỉ 25 ms

Trang 53/72
(95%)

Tỷ lệ CL-SMDS chưa được chuyển đi <10-5

Tỷ lệ CL-SMDS PDU có lỗi <10-13

Tỷ lệ CL-SMDS PDU chuyển đi sai <10-8

Tỷ lệ CL-SMDS PDU có trình tự sai <10-9

(D) Các đối tượng thực hiện đối với sự lặp khung

Các tham số thực hiện Giá trị

Tỷ lệ tổn thất tế bào <10-7

Sự trễ trong quá trình truyền PDU (95%) 5 ms

Tỷ lệ FRS PDU chưa được chuyển đi <10-5

Tỷ lệ FRS PDU có lỗi <10-13

Tỷ lệ FRS PDU chuyển đi sai <10-8

Tỷ lệ FRS PDU có trình tự sai <10-9

<Bảng 4-2> Mức độ thực hiện theo dịch vụ và tốc độ truy nhập.
4.2 Xu hướng của công nghệ chuyển mạch ATM
Chuyển mạch ATM có chức năng phân phối mỗi tế bào tới nơi nhận tương ứng,
phù hợp với VPI/VCI, là nơi truyền đi thông tin của phần tiêu đề đối với mỗi kênh. Điều
đó có nghĩa là, như được trình bày trên hình 4-1, các tế bào được đưa vào hệ thống
chuyển mạch ATM để khôi phục bảng chuyển đổi địa chỉ bằng những phương tiện phần
cứng phù hợp với các giá trị của VPI/VCI và sau đó địa chỉ của cổng ra được lựa chọn
một cách tự động. Đồng thời, các giá trị của VPI/VCI được chuyển đổi thành giá trị mới
cho quá trình xử lý tiếp theo. Đặc tính của chuyển mạch ATM là ở chỗ nó thử nghiệm sự
biến đổi của độ trễ tế bào thông qua việc sử dụng kỹ thuật tự định tuyến của lớp phần
cứng, và có thể dễ dàng hỗ trợ cho truyền thông đa phương tiện sử dụng dữ liệu, tiếng nói
và hình ảnh. Hơn thế nữa, nó có thể đảm bảo việc điều khiển phân tán và song song ở
mức độ cao.

Trang 54/72
<Hình 4-1> Quá trình xử lý tế bào
Những yêu cầu đối với hệ thống chuyển mạch ATM là quá trình xử lý tế bào phải
thực hiện xong trong phạm vi 1 msec trên mỗi nút, trong trường hợp xử lý thông tin CBR
là 10-9 trên mỗi nút, và trong trường hợp xử lý thông tin VBR, tỷ lệ tổn thất tế bào cỡ 10-7
trên mỗi nút phải được đảm bảo chắc chắn. Ngoài ra, nó còn phải đảm bảo việc truyền
đạt 100% sự hỗ trợ của tốc độ truy nhập của lớp STM-1 (155 Mbps) hoặc của lớp cao
hơn trên cổng của yếu tố chuyển mạch, sự dễ dàng trong việc điều khiển phân tán và tự
định tuyến, và việc đảm bảo tính môđun hoá và mở rộng tuyệt vời của tổng đài.
Mặt khác, những vấn đề quan trọng nhất có liên quan tới công nghệ chuyển mạch
ATM mà nhất thiết hiện nay phải được giải quyết là đảm bảo sự hỗ trợ có hiệu quả của
truy nhập điểm - đa điểm trong hệ thống chuyển mạch, hổ trợ của chức năng phân nhóm
kênh được sử dụng nhằm mục đích liên kết các cổng chuyển mạch và nhóm chúng lại, sự
sử dụng dung lượng lớn của hệ thống chuyển mạch ATM (ví dụ : vượt quá 1024x1024),
và sự hỗ trợ của các dịch vụ vận chuyển ATM mới như ABR (tốc độ bit khả năng) và
UBR (tốc độ bit không xác định).
Do mạng chuyển mạch ATM nhất thiết phải hỗ trợ cho dịch vụ phân tán như VDT
mà người ta chờ đợi rằng nhu cầu của dịch vụ này sẽ tăng lên một cách mạnh mẽ, nên nó
nhất định phải có chức năng truy nhập điểm đa - điểm. Để đạt được mục tiêu này, hệ
thống chuyển mạch ATM cần phải có chức năng sao chép tế bào ngay trong hệ thống
chuyển mạch ATM. Chức năng sao chép và trao đổi tế bào cần phải có mạng sao chép
Trang 55/72
đứng trước hệ thống chuyển mạch có chức năng xử lý điểm - điểm, và những nghiên cứu
về việc thực hiện chức năng truy nhập đa điểm đã và đang được bắt đầu. Như vậy, cấu
trúc chuyển mạch ATM có chức năng điểm - điểm và chức năng đa điểm không có mạng
sao chép riêng biệt đang được xem xét lại một cách tích cực.
Nhược điểm của hệ thống chuyển mạch ATM trước đây là sự phức tạp của phần
cứng và sự tăng thêm của trễ truyền dẫn tế bào, trong khi đó nhược điểm của hệ thống
sau này là sự điều khiển phức tạp do việc chức năng sao chép và xử lý phải được thực
hiện đồng thời.
Do vậy, trong những hoạt động nghiên cứu được thực hiện trên mạng sao chép của
hệ thống cũ, trọng tâm được nhấn mạnh vào việc làm đơn giản phần cứng và thuật toán
của chức năng sao chép, trong khi đó, đối với hệ thống mới, việc nghiên cứu được tập
trung chủ yếu vào cấu trúc chuyển mạch kiểu vùng đệm kết xuất hoặc kiểu vùng đệm
phân chia (xem sự phân loại bởi vị trí vùng đệm ở phần sau). Bên cạnh đó, nghiên cứu
với thuật toán phân phối chức năng sao chép sử dụng đa điểm đang được thực hiện một
cách nghiêm túc cho việc thiết kế hệ thống chuyển mạch dung lượng lớn. Mạng sao chép
của Turner sử dụng mạng banyan có bộ nhớ đệm hiện nay đang phổ biến như một mạng
sao chép đã được đề nghị.
Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp này giảm xuống đối với tải xác định (ví dụ
như khi số lượng bản sao chép vẫn giữ nguyên sự giống nhau).
Mạng sao chép của T.T.Lee đang được đề nghị để giải quyết những thiếu sót của
hệ thống Turner và nó sử dụng mạng banyan quảng bá.
Những yêu cầu kỹ thuật cần phải được giải quyết đối với việc áp dụng tổng đài
ATM dung lượng lớn bao gồm điều khiển phân tán, khả năng mở rộng kích thước, sự dễ
dàng trong việc tái thiết lập cấu hình dựa trên thiết kế môđun, khả năng đồng bộ đối với
liên lạc khu vực, sự cải tiến trong việc tổ hợp yếu tố bằng cấu trúc thông thường, và làm
giảm xuống tới mức tối thiểu sự tiêu thụ năng lượng gây ra bởi sự kết nối liên tục của đầu
xa.

5. ỨNG DỤNG ATM


5.1 Các dịch vụ ứng dụng ATM
Dựa trên ITU-T I.211, các dịch vụ ứng dụng ATM được phân loại một cách rộng
rãi thành dịch vụ truyền thông và dịch vụ phân phối. Các dịch vụ truyền thông lại được
chia nhỏ thành dịch vụ tương tác qua lại, dịch vụ kiểu thông báo, và dịch vụ phục hồi,
trong khi đó các dịch vụ phân phối được chia nhỏ thành những dịch vụ mà người sử dụng
có thể điều khiển và những dịch vụ mà người sử dụng không thể điều khiển. Bảng 5-1 và
5-2 sẽ trình bày những loại dịch vụ khác nhau và các mẫu ứng dụng tương ứng với dịch
vụ truyền thông và dịch vụ phân phối, được phân loại trên cơ sở của kiểu thông tin.

Trang 56/72
Dịch vụ Kiểu thông tin Các mẫu dịch vụ Các mẫu ứng dụng

Điện thoại truyền


Giáo dục, mua bán, quảng cáo từ xa
hình băng rộng

Hội nghị truyền


Giáo dục, mua bán, quảng cáo từ xa
hình băng rộng
Hình ảnh chuyển
động và âm thanh Bảo vệ các toà nhà, canh phòng giao
Giám sát hình ảnh
thông

Dịch vụ truyền
Truyền dẫn tín hiệu TV, đàm thoại
thông tin bằng hình
bằng âm thanh và truyền hình
ảnh, tiếng nói

Chương trình đa âm Truyền dẫn đa ngôn ngữ, đa chương


Âm thanh
thanh trình
Dịch vụ Truyền dẫn thông Truyền dẫn tốc độ cao giữa các
tương tác tin số tốc độ cao LAN/MAN, truyền dẫn tranh tĩnh,
qua lại không bị giới hạn CAD/CAM

Truyền dẫn file


Truyền dẫn file dữ liệu
Dữ liệu dung lượng lớn

Xử lý từ xa tốc độ Điều khiển thời gian thực, chuông,


cao kiểm tra từ xa

Sao chép từ xa tốc Truyền dẫn văn bản, hình ảnh, hình
độ cao vẽ

Dịch vụ liên lạc


bằng hình ảnh Các hình ảnh đặc biệt, các ảnh y học
Tài liệu Precession

Dịch vụ liên lạc Thông tin được sử dụng dưới dạng


bằng tài liệu hỗn hợp

Hình ảnh chuyển Dịch vụ thư tín


Dịch vụ động và âm thanh Video/audio P.O.B điện tử
bằng truyền hình
kiểu
thông báo Dịch vụ thư tín P.O.B điện tử đối với thông tin dưới
Tài liệu
bằng tài liệu dạng hỗn hợp

Trang 57/72
Văn bản truyền hình bao gồm ảnh
Văn bản truyền
chuyển động, giáo dục, mua bán,
hình băng rộng
quảng cáo, khôi phục tin tức từ xa

Dịch vụ khôi phục


Giải trí, học tập, giáo dục từ xa
hình ảnh
Các dịch Văn bản, dữ liệu,
vụ phục hình vẽ, ảnh tĩnh, Dịch vụ khôi phục
Giải trí, học tập, giáo dục, từ xa, liên
hồi ảnh chuyển đổi hình ảnh chất lượng
lạc bằng hình ảnh đặc biệt, ảnh y học
cao

Dịch vụ khôi phục Khôi phục tài liệu đặc biệt từ trung
tài liệu tâm thông tin

Dịch vụ khôi phục


Phần mềm từ xa
dữ liệu từ xa

<Bảng 5-1> Sự phân loại của các dịch vụ ứng dụng truyền thông

Dịch vụ Kiểu thông tin Các mẫu dịch vụ Các mẫu ứng dụng

Dịch vụ phân phối TV


Phân phối chương trình TV
(như NTSC)
Hình ảnh, âm
thanh Dịch vụ phân phối TV
Phân phối chương trình TV
(như HDTV)

TV trả tiền Phân phối chương trình TV


Người sử dụng
Văn bản, đồ Dịch vụ phân phối tài
không thể điều In ấn điện tử, báo chí điện tử
hoạ, ảnh tĩnh liệu
khiển
Dịch vụ phân phối thông
Phân phối dữ liệu không bị
Dữ liệu tin không bị giới hạn tốc
giới hạn
độ cao

ảnh chuyển
Phân phối thông tin bằng Phân phối truyền hình/tiếng
đồng và âm
truyền hình nói
thanh

Người sử dụng Văn bản, đồ Tất cả các kênh truyền Học tập, giáo dục, quảng cáo,
có thể điều hoạ, âm thanh, thanh, tạp chi bằng khôi phục tin tức từ xa, phần
khiển ảnh tĩnh truyền hình mềm từ xa.

Trang 58/72
<Bảng 5-2> Sự phân loại của các dịch vụ ứng dụng phân phối
Dưới đây là sự tóm tắt của một số dịch vụ ứng dụng tiêu biểu.
1) VDT
Người ta áp dụng dịch vụ VDT, dịch vụ có giá trị then chốt được bổ sung vào
mạng truyền thông băng rộng, cho các thuê bao tại nhà.
Dịch vụ này cho phép lưu giữ các chương trình truyền hình như phim truyện, phim
tài liệu, các chương trình thể thao vào trạm thu truyền hình (video server) dưới dạng số
nén và cung cấp một loạt dịch vụ mà khách hàng yêu cầu thông qua mạng ATM/B-ISDN,
do đó người sử dụng có thể lựa chọn , thực hiện, điều khiển, khôi phục, và đặt câu hỏi
cho các chương trình.
Dịch vụ CATV và truyền hình cho thuê sẽ được thay thế bởi dịch vụ mạng tư nhân
này, dịch vụ mà người ta chờ đợi rằng nó sẽ nhanh chóng trở thành dịch vụ mạng công
cộng.
2) Dịch vụ bảo tàng/thư viện điện tử
Dịch vụ này cho phép bạn sử dụng dữ liệu của các thư viện hoặc bảo tàng dưới
hình thức đa phương từ những trạm thông tin đa phương tiện (multi-media server), nơi
mà dữ liệu được lưu trữ. Dịch vụ này được thiết lập đầu tiên bởi các trường đại học, các
thư viện công cộng và các viện nghiên cứu một cách riêng biệt, sau đó được đưa ra phục
vụ rộng rãi từng bước một bởi quá tình tập trung cùng với mạng.
3) Dịch vụ mua hàng từ xa
Dịch vụ này cho phép người sử dụng có thể mua các sản phẩm trên đầu cuối đa
phương tiện thông qua những danh mục hoặc những cửa hàng ảo được lưu giữ dưới hình
thức đa phương tiện tại nhà hoặc tại văn phòng. Đầu tiên, dịch vụ này được triển khai rất
chậm chạp xung quanh một số cửa hàng quy mô lớn hoặc những cửa hàng đặc biệt, tuy
nhiên nó sẽ được mỏ rộng trên tất cả các loại hình kinh doanh mua bán thông qua sự cải
tiến đối với hệ thống phần mềm trong tương lai hoặc đối với công nghệ định hình hệ
thống.
4) Dịch vụ học tập trên máy tính từ xa.
Dịch vụ này sẽ cung cấp một lúc nhiều môi trường giáo dục như tự nghiên cứu của
mỗi các nhân, nghiên cứu trong một nhóm có sự trao đổi qua lại, học tập qua thư tín điện
tử bằng cách sử dụng cơ sở dữ liệu về giáo dục tại nhà hoặc tại trường học thông qua
mạng máy tính và truyền thông.
5) Dịch vụ hội nghị lý thuyết từ xa.
Dịch vụ này có nhiệm vụ cung cấp nội dung chi tiết của hội nghị lý thuyết bởi việc
sử dụng dịch vụ hội nghị từ xa bằng máy tính mà không cần phải tham dự hội nghị. Thiết
lập và khôi phục dữ liệu đa phương tiện, thư tín điện tử đa phương tiện, liên lạc theo

Trang 59/72
nhóm, và công nghệ hiển thị trên màn ảnh kích thước lớn là những yếu tố được yêu cầu
để hỗ trợ cho dịch vụ nêu trên.
6) Dịch vụ phác thảo dự án công cộng từ xa
Dịch vụ này có tác dụng hỗ trợ cho công nhân được phân bố ở những nơi xa sôi
cho họ có thể thực hiện được những công việc nằm trong dự án công cộng, ví dụ như
dịch vụ CAD phức tạp, và nhu cầu của dịch vụ này sẽ tăng mạnh khi các văn phòng tại
nhà, sự nghiên cứu phân tán, sự hợp tác giữa các công ty, và vân vân ... được đưa vào
hoạt động.
7) Dịch vụ mạng thông tin y tế
Dịch vụ này sẽ cho phép các bác sĩ kiểm tra bệnh nhân từ xa và khôi phục thông
tin về quá trình điều trị bằng y học hoặc những thông tin y tế khác từ DB. Trong trường
hợp các trung tâm y tế chất lượng cao được tập trung quanh các đô thị thì dịch vụ trên sẽ
chỉ được sử dụng rộng rãi nếu như nó có khả năng đáp ứng được các nhu cầu về thông tin
trong lĩnh vực y học.
8) Dịch vụ báo chí điện tử
Dịch vụ này sẽ đem lại cho người sử dụng những thông tin thời sự được tổ hợp từ
âm thanh, truyền hình, văn bản và đồ hoạ với khả năng trễ thấp nhất. Khi báo và tạp chí
đang được đưa dần vào các CD-ROM, và hơn nữa, khi mà công nghệ nén/tháo nén và
công nghệ trình diễn thông tin hyper - media được nâng cao, thì nhu cầu về dịch vụ này
sẽ tăng lên một cách nhanh chóng.
9) Dịch vụ giảng bài từ xa
Dịch vụ này có nhiệm vụ cung cấp các bài giảng có thời gian thực chất lượng cao
cho người sử dụng phân bố ở những nơi xa, và nó có thể được sử dụng đối với những bài
giảng dành cho khối cơ bản và khối chuyên ngành của một trường đại học, tái giáo dục
xã hội và đào tạo kỹ thuật cho công việc chuyên môn trong phạm vi của một công ty.
10) Dịch vụ hội nghị đa phương tiện trong phạm vi văn phòng.
Dịch vụ này cho phép điều khiển một cuộc hội nghị dưới hình thức đã cho thông
qua PC hoặc trạm làm việc, và nếu như giá thành của dịch vụ này giảm xuống do sự phát
triển về mặt kỹ thuật thì nhu cầu sử dụng đối với dịch vụ này sẽ tăng lên mạnh mẽ.
5.2 Những dịch vụ ATM mới
5.2.1 Dịch vụ mô phỏng LAN
Thành công của công nghệ ATM tuỳ thuộc vào việc nó phù hợp như thế nào với
các dịch vụ truyền thông hiện có một cách có hiệu quả trước khi khai những dịch vụ và
ứng dụng mới.
Do đó các tiêu chuẩn của dịch vụ ATM mô phỏng LAN dành cho việc kết nối giữa
các LAN, là ví dụ tiêu biểu cho dịch vụ dữ liệu hiện có, đang được thiết lập qua các tài
liệu ATM F94-0035 xung quanh vấn đề LANE (mô phỏng LAN) của ATMF.
Trang 60/72
Giống như LAN hiện có và khác với ATM, dịch vụ mô phỏng LAN, có sử dụng
giao thức không kết nối tức là việc thiết lập kết nối là không cần thiết trước khi truyền dữ
liệu và chỉ sử dụng các phương tiện thông thường, có thể hỗ trợ cho chức năng nhân bản
hoặc chức năng quảng bá một cách dễ dàng và có sử dụng tính độc lập trong việc đánh
địa chỉ MAC của cấu hình mạng.
Thay cho việc đưa ra phương pháp cung cấp các kết nối trên lớp MAC thấp hơn
lớp mạng, hoặc lớp vận chuyển để mô phỏng các LAN, ta sẽ coi lớp ATM như lớp MAC
nằm dưới LLC đối với ATMF và kết bao các khung MAC của LAN , do đó chúng ta có
thể sử dụng nhiều chương trình ứng dụng, hiện đang được phát triển cho những lớp cao
hơn lớp LLC hiện có.
ATMF đã công bố chuẩn mô phỏng LAN 1.0 cho IEEE 802.3 và 802.5 LAN UNI
(LUNI) vào tháng giêng 1995, và hiện đang thu hút những hoạt động nhằm bổ sung cho
chuẩn 1.0 này và thiết lập giai đoạn ban đầu cho LAN NNI (LNNI) và FDI LUNI. Bên
cạnh đó, ATMF cũng dự kiến tổ chức nhóm MPOA (đa giao thức trên ATM) nhằm mục
đích thiết lập những tiêu chuẩn hỗ trợ cho đa giao thức trong mạng ATM vào khoảng
tháng 2-1995, và đang tiến hành những công việc để giải quyết vấn đề MPOA một cách
sớm sủa vào cuối năm. Nếu như sự mô phỏng LAN được cung cấp giống như dịch vụ vận
chuyển trong mạng ATM thì phần mềm ứng dụng LAN, đang được đầu tư mạnh mẽ, có
thể được sử dụng mà không cần bất kỳ sự sửa chữa nào.
Dò dịch vụ mô phỏng LAN hỗ trợ kết nối giữa LAN hiện có và mạng ATM theo
hệ thống bắc cầu, nên sự đan xen lẫn nhau giữa hệ thống giới hạn ATM và hệ thống giới
hạn LAN hiện có là có thể xảy ra ngoài những kết nối giữa các hệ thống giới hạn LAN
qua mạng ATM. Một khi mục đích chính của việc mô phỏng LAN là kết nối mạng ATM
thông qua những giao thức của LAN như APPN, NetBios, IPX, và APPletalk không cần
sửa đổi giao thức của lớp cao hơn hiện có, thì người ta xác định rằng mạng ATM cũng sẽ
đem lại những yếu tố cơ bản của dịch vụ, được cung cấp bởi driver interface của thiết bị
LAN MAC (NDIS, ODI, DLPI, vv...) trong dịch vụ mô phỏng LAN. Ngoài ra, dịch vụ
mô phỏng LAN còn cung cấp chức năng VPN (mạng tư nhân bán chính thức) mà với nó,
các hệ thống giới hạn có thể thiết lập một LAN logic thông qua mạng ATM bất chấp vị
trí vật lý, Một LAN được mô phỏng (ELAN) sẽ được cấu thành từ một LESV (LAN
Emulation Service) và một vài LEC (LAN Emulation Client). Cũng như vậy, LESV được
chia nhỏ thành LECS (LE Configuaration Server), LES (LE Server) và BUS (Broadcast
and Unknown Server).
Mỗi LEC, hệ thống giới hạn ATM có một hệ thống giới hạn LAN nằm dưới nó,
được đặt trên một điểm kết nối giữa LAN và ATM, LESV có thể là một hệ thống ATM
hoặc hệ thống chuyển mạch ATM,. Sự liên lạc giữa một hoặc nhiều LEC với LESV,
được thực hiện thông qua một số kết nối ảo ATM (VCC) nhằm cô lập quá trình điều
khiển với các kênh dữ liệu, với cả PVC và SVC, là có thể thực hiện được.
1) Cấu trúc phân cấp của sự mô phỏng LAN

Trang 61/72
Cấu trúc phân cấp của sự mô phỏng LAN được cấu thành từ năm giao diện trình
bày trên hình 5-1.

<Hình 5-1> Cấu trúc phân cấp của sự mô phỏng LAN


Giao diện (1) cung cấp chức năng mà nhờ nó dịch vụ có thể trao đổi các khung dữ
liệu giữa khối LE và lớp cao hơn (LLC hoặc khối bắc cầu), và giao diện (2) cung cấp
chức năng mà nhờ nó dịch vụ có thể khôi phục và gửi các khung ALL5 giữa khối LE và
lớp AAL nằm dưới nó, bằng việc phân bố một SAP trên mỗi VCC.
Giao diện (3) cung cấp chức năng mà nhờ nó dịch vụ có thể đòi hỏi việc thiết lập
và tháo gỡ kết nối ảo, và giao diện (4) cung cấp chức năng mà nhờ nó khối quản lý lớp có
thể điều khiển trạng thái của khối LE một cách thích hợp.
LUNI, giao diện (5) giữa các khối LE, là tiêu chuẩn kết nối giữa LEC và LESV,
xác định các trình tự như khởi tạo, chuyển đổi địa chỉ của thủ tục đăng ký, và truyền dẫn
dữ liệu (xem hình 5-2).

Trang 62/72
<Hình 5-2> Vị trí mô phỏng LAN UNI (LUNI)
Trình tự khởi tạo là chức năng mà nhờ nó một trong số các LEC nhận được địa chỉ
trong mạng ATM của khối LESV có khả năng truy nhập một cách ngẫu nhiên từ các
LESV được phân phối hoặc tập trung quanh mạng ATM, kết hợp hoặc tách một ELAN
nào đó, mà được quy định và được thực hiện theo địa chỉ nêu trên. Trình tự đăng ký là
chức năng mà nhờ nó dịch vụ có thể thông báo cho LESV thuộc về LEC có trong danh
sách địa chỉ MAC của những hệ thống giới hạn LAN hiện có rằng LEC hoạt động như
một sự uỷ quyền (chức năng uỷ quyền) và thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu.
Bên cạnh đó, khi việc liên lạc giữa các hệ thống giới hạn LAN được thực hiện chỉ
với địa chỉ MAC thì thủ tục chuyển đổi địa chỉ MAC đã cho sang địa chỉ ATM tướng ứng
với các LEC được phân bố quanh mạng ATM, sẽ được yêu cầu. Thủ tục chuyển đổi địa
chỉ là chức năng mà nhờ nó, bạn có thể tìm được địa chỉ ATM tương ứng với LEC, mà có
hệ thống giới hạn LAN bao gồm địa chỉ MAC cụ thể sau khi đã kiểm tra LESV được chỉ
định.
Thủ tục truyền dẫn dữ liệu có nhiệm vụ kết bao các khung MAC thành các khung
AAL5 tuỳ theo LEC và ngược lại, nó tiếp nhận các khung AAL5 bởi LEC và tháo gỡ
chúng thành các khung MAC.
LES, thành phần định hình của LESV, thực hiện quá trình điều khiển thông
thường đối với ELAN và theo yêu cầu, nó truyền đi địa chỉ MAC (trong trường hợp của
mạng Ethernet hoặc LAN 802.3) hoặc sự mô tả đường truyền gốc (trong trường hợp của
802.5 Token Ring LAN) và biến đổi nó thành địa chỉ ATM. LESV đáp ứng yêu cầu
chuyển đổi địa chỉ một cách trực tiếp hoặc truyền yêu cầu này tới LEC khác đang thực
hiện quá trình xử lý.

Trang 63/72
BUS xử lý lưu lượng quảng bá thông qua kênh ảo nhân bản ATM trong trường
hợp LEC đòi hỏi các hệ thống giới hạn LAN, mà qua đó LEC quản lý việc nhân bản và di
chuyển dữ liệu được tạo thành dưới hình thức quảng bá thông qua mạng ATM.
LECS truyền đi thông tin cấu hình được cung cấp bởi LEC trong quá trình khởi
tạo, và thực hiện quá trình gán và phân phối chức năng của LEC cho các ELAN xác định.
Sau khi được phân loại thành những lưu lượng điều khiển như giao thức cho sự
giải quyết địa chỉ LE (LE-ARP) theo yêu cầu/phản ứng và lưu lượng dữ liệu thuần nhất.
dữ liệu sẽ được truyền đi giữa LEC và LESV.
Các VCC lại được phân loại thành VCC điều khiển và VCC dữ liệu.
Hình 5-3 trình bày một loạt các VCC được hình thành giữa các giao diện LUNI và
đưa ra một cấu hình đơn giản tạo thành từ hai LEC và LESC.
VCC điều khiển được hình thành khi tạo khởi LEC và VCC có cấu hình trực tiếp
được sử dụng giữa LEC và LESC, trong khi đó VCC điều khiển trực tiếp và VCC điều
khiển phân phối được hình thành giữa LEC và LES.
VCC có cấu hình trực tiếp, VCC hai chiều, được thiết lập trong giai đoạn kết nối
của LECS bởi LEC, mà thông qua nó thông tin cấu hình như địa chỉ ATM sẽ được truyền
đi.
VCC điều khiển trực tiếp, VCC điểm - điểm hai chiều, được thiết lập theo yêu cầu
của LEC và được sử dụng để truyền lưu lượng điều khiển giữa LEC và LES.
VCC điều khiển phân phối, VCC điểm - điểm một chiều hoặc VCC một chiều kiểu
điểm - đa điểm, mà được thiết lập theo yêu cầu của LES, được sử dụng cho LES nhằm
phân phối lưu lượng điều khiển tới một vài LEC.
VCC dự liệu, có nhiệm vụ kết nối các LEC hoặc LEC và BUS, được sử dụng để
truyền đi những khung dữ liệu AAL5 kết bao bên ngoài các khung LAN MAC.
Người ta tiếp tục phân loại các VCC dữ liệu thành VCC dữ liệu trực tiếp, VCC có
nhân bản gửi đi và VCC có nhân bản đi đến.
VCC dữ liệu trực tiếp là VCC điểm - điểm hai chiều, có nhiệm vụ truyền đi những
lưu lượng dữ liệu đơn bản giữa các LEC.
Trong trường hợp mà LEC không biết được địa chỉ ATM tương ứng với hệ thống
giới hạn LAN mà nó đang cố gắng kết nối tới thì LEC sẽ yêu cầu LE-ARP cho LES và
thiết lập VCC dữ liệu trực tiếp cho LEC sau khi đã nhận được sự phản hồi.

Trang 64/72
<Hình 5-3> Các VCC được thiết lập thông qua những giao diện LUNI
VCC có nhân bản gửi đi, VCC điểm - đa điểm hai chiều được thiết lập giữa BUS
và mỗi LEC, sẽ được tạo thành bởi LEC sau khi tiếp nhận LE-ARP theo cùng một
phương pháp như VCC dữ liệu trực tiếp, và được sử dụng để truyền dữ liệu nhân bản
hoặc dữ liệu đơn bản tới BUS. VCC có nhân bản đi đến, VCC điểm - điểm một chiều
được thiết lập cho mỗi LEC bởi BUS sau khi đã thiết lập VCC có nhân bản gửi đi, được
sử dụng để truyền dữ liệu quảng bá do BUS phân phối.
Thủ tục khởi tạo của dịch vụ mô phỏng LAN được trình bày trên hình 5-4.
LEC xây dựng một VCC có cấu hình trực tiếp (giai đoạn kết nối LECS) liên hệ
các thông số ban đầu (giai đoạn của trạng thái ban đầu), và tiếp nhận thông tin LESV cần
thiết để tham gia từ LECS (giai đoạn hình thành). LEC thiết lập VCC điều khiển trực tiếp
cho LES, mà được phân phối cho LEC-ID từ LEC và thông báo cho LES kích thước cực
đại của các khung và dạng của LAN được kết nối tới LEC, do đó thủ tục liên kết sẽ được
xác định (giai đoạn liên kết). Sau khi liên kết, LEC sẽ đăng ký địa chỉ MAC và các mô tả
đường truyền của hệ thống giới hạn LAN do LEC quản lý lúc bắt đầu (giai đoạn đăng ký
ban đầu). Sau đó, LEC sẽ thiết lập VCC có nhân bản gửi đi cho BUS và BUS sẽ thiết lập
VCC có nhân bản đi đến cho LEC tương ứng (giai đoạn kết nối BUS) và chuyển sang
trạng thái khai thác thông thường (giai đoạn khai thác) sau khi đã xác định thủ tục khởi
tạo.

Trang 65/72
<Hình 5-4> Thủ tục khởi tạo của dịch vụ mô phỏng LAN
Trong môi trường SVC, các khối LE tạo ra VCC và ngược lại VCC tạo ra khối LE
bằng cách sử dụng thủ tục báo hiệu UNI. Những thông báo như tổ chức, kết nối, kết nối
ACK, như được minh hoạ trên hình 5-5, là những thông báo loại Q.2931 và đối với dịch
vụ mô phỏng LAN, chúng ta sẽ định nghĩa và sử dụng các thông báo READY-IND và
READY-QUERY.
Nguồn thông tin thông báo cho nơi nhận biết rằng VCC mới được thiết lập ở trong
trạng thái bình thường bằng cách sử dụng thông báo READY-IND và nơi nhận thực hiện
việc tính giờ và xác nhận trạng thái của nguồn thông tin bằng cách gửi thông báo
READY-QUERY trong trường hợp thông báo READY-IND bị mất.

Trang 66/72
<Hình 5-5> Thủ tục thiết lập VCC cho dịch vụ mô phỏng LAN

5.2.2 Dịch vụ ATM tự nhiên


Dịch vụ ATM tự nhiên là khái niệm về dịch vụ mới được chuẩn hoá bởi SAA (các
khía cạnh/ứng dụng của dịch vụ) của ATMF. Họ đã tạo ra một lớp mới trên lớp dich vụ
UNI, mà tạo nên các giao diện ATM UNI giữa những lớp trên, và cung cấp chức năng
phân phối dữ liệu và chức năng thiết lập đấu nối nhằm mục đích hỗ trợ phát triển các
chương trình phần mềm ứng dụng nằm trên các đầu cuối của người sử dụng và người ta
gọi tên lớp mới là dịch vụ ATM tự nhiên. Nhóm SAA của ATMF đã định nghĩa giao diện
của điểm truy nhập dịch vụ (SAP) ATM tự nhiên cho việc sử dụng dịch vụ ATM tự nhiên
thông qua những tài liệu ATMF 95-0008, đã chuẩn hoá các dạng và các thông số nguyên
thuỷ của dịch vụ qua SAP, và nhiều hơn nữa, họ còn định nghĩa thư viện và giao diện
chương trình ứng dụng (API) ATM tự nhiên.
Các chương trình ứng dụng có thể phát triển một cách dễ dàng những chương trình
ứng dụng đa phương tiện như giáo dục từ xa, và sự tác động qua lại và sự ghép có thể
được đảm bảo thông qua ATM API.
Như đã nói ở trên, do ATM API là một tập hợp của các thư viện, nên dịch vụ
ATM tự nhiên có thể được sử dụng trong các chương trình ứng dụng bằng cách gọi các
yếu tố cơ bản như thiết lập kết nối, truyền dẫn dữ liệu, quản lý lưu lượng và điều kiện
quản lý mạng nội hạt, và những yếu tố này đều được định nghĩa trong API.
Như được trình bày trên hình 5-6, mô hình chuẩn của dịch vụ ATM tự nhiên bao
gồm tất cả những trường hợp mà trong đó bạn có thể phát triển các chương trình ứng
dụng sử dụng ATM API mới và các dịch vụ ứng dụng sử dụng API vận chuyển hiện có
(Socket, XTI, Winsock, NetBios ...)

Trang 67/72
<Hình 5-6> Mô hình chuẩn của dịch vụ ATM tự nhiên
Để định nghĩa dịch vụ ATM tự nhiên, bằng cách định nghĩa cá nhân mỗi chương
trình ứng dụng như một điểm giới hạn API, ATMF đã đặt tên cho kết nối giữa các điểm
giới hạn API là kết nối API, và để mô tả trạng thái kết nối, ATMF sử dụng thiết bị có
trạng thái one-shot.
Trong trường hợp này, one-shot có nghĩa là sau khi tự chuyển trạng thái được xác
định tới trạng thái cuối cùng A11 thì thiết bị trạng thái sẽ duy trì trạng thái đó. Hình 5-7
là biểu đồ chuyển trạng thái của kết nối API. Kết nối API có thể có cả thảy 12 trạng thái
từ A0 tới A11 và sự chuyển trạng thái sẽ được kích hoạt bởi quá trình thực hiện của các
yếu tố cơ bản API.

Trang 68/72
Những yếu tố cơ bản bao gồm 20 yếu tố cho việc điều khiển, 2 cho truyền dẫn dữ
liệu và 6 cho việc quản lý.

<Hình 5-7> Biểu đồ trạng thái của kết nối API

5.2.3 Dịch vụ ABR/UBR


Trong UNI 4.0, đang được nhóm ATMF TM (quản lý lưu lượng) nghiên cứu và
chuẩn hoá, người ta đã bổ sung các dịch vụ ABR (tốc độ bit có sẵn) và UBR (tốc độ bit
chưa xác định) vào các dịch vụ CBR và VBR được định nghĩa dưới đây trong UNI 3.1
hiện có, do đó dịch vụ vận chuyển ATM sẽ chia nhỏ thành các dịch vụ CBR, VBR, ABR
và UBR.
Bảng 5.3 sẽ trình bày các dịch vụ vận chuyển ATM theo ATMF và sử dụng những
tham số thuộc tính khác nhau như tỷ lệ tổn thất tế bào cho mối dịch vụ.

Các tham số thuộc tính Sự phân loại dịch vụ của lớp ATM

Trang 69/72
VBR thời
VBR thời
CBR gian không ABR UBR
gian thực
thực

Tỷ lệ tổn thất tế bào chưa được


được ấn định được ấn định
(CLR) ấn định

Sự trễ trong quá trình chưa được chưa được


được ấn định
truyền tế bào (CTD) ấn định ấn định

Biến đổi của sự trễ tế được ấn chưa được chưa được chưa được
được ấn định
bào định ấn định ấn định ấn định

Tốc độ tế bào ở đỉnh


được ấn định được ấn định được ấn định
(PCR)

Đúng sai của biến đổi


được ấn định được ấn định được ấn định
của sự trễ tế bào (CDVT)

không có không có không có


Tỷ lệ tế bào có ích được ấn được ấn
khả năng áp khả năng áp khả năng áp
(SCR) định định
dụng dụng dụng

không có
Tốc độ tế bào cực tiểu không có khả năng áp dụng được ấn định khả năng áp
dụng

Thông tin điều khiển không có có một số không có

<Bảng 5-3> Sự phân loại các dịch vụ vận chuyển theo diễn đàn ATM
Các dịch vụ CBR và VBR có thời gian không thực được sử dụng một cách rộng
rãi cho truyền dẫn thời gian thực như truyền hình và âm thanh, và các dịch vụ VBR có
thời gian không thực, ABR, UBR được sử dụng cho quá trình truyền dẫn không đòi hỏi
thời gian thực.
Về cơ bản, trong khi CBR sử dụng độ rộng dải tần thông thường của kênh thông
qua sự mô phỏng mạch một cách không đổi, thì mặc dù VBR có lợi thế là nó có thể sử
dụng sự liên kết có hiệu quả thông qua việc ghép kênh mang tính chất thống kê, phương
pháp phân bố độ rộng dải tần cho mỗi kênh ảo nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ một
cách có hiệu quả vẫn còn là vấn đề cần được xem xét. Nhưng trong khi sự liên kết là có
giới hạn do việc sử dụng các dịch vụ CBR và VBR, thì các dịch vụ ABR và UBR vẫn
được phát triển mà nhờ nó bạn có thể sử dụng độ rộng dải tần còn lại cho dịch vụ ATM

Trang 70/72
một cách kinh tế. Những mô tả chung về dịch vụ ABR và UBR sẽ được trình bày dưới
đây.
1) Dịch vụ ABR
Người ta dự đoán rằng dịch vụ ABR, mà nhờ nó bạn có thể truyền đi dữ liệu tốc
độ cao đem lại khả năng sử dụng hầu hết độ rộng dải tần có sẵn mà các lưu lượng CBR
và VBR không sử dụng được đồng thời đảm bảo tỷ lệ tổn thất tế bào là cực tiểu, sẽ được
sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như phân phối việc tính toán, phục hồi thông tin
truyền hình, truyền dẫn file tốc độ cao và kết nối với các LAN.
Mặc dù dịch vụ ABR không đảm bảo những quá trình trễ tế bào, nhưng nó lại đảm
bảo tỷ lệ tổn thất tế bào và sử dụng tốc độ tế bào cực tiểu (MCR), một thông số mới để
nhận biết tốc độ truyền dẫn tế bào cực tiểu theo nhu cầu.
Dịch vụ dữ liệu tốc độ cao, mà lưu lượng của nó được tập trung theo thời gian và
kích thước bùng nổ của nó là có thể thay đổi rất nhiều và rất khó dự đoán, sẽ được thừa
nhận bởi dịch vụ ABR.
Đồng thời, dịch vụ này là không nhạy đối với sự trễ tế bào nhưng khi chỉ có một tế
bào bị mất có thể đem lại một số lượng lớn các quá trình tái truyền dẫn tế bào, thì người
sử dụng nhất thiết phải kiểm soát tốc độ tế bào thâm nhập vào mạng sao cho các lưu
lượng không bị tắc nghẽn.
Trong thực tế, chất lượng dịch vụ là phụ thuộc mạnh vào kiểu của dịch vụ ATM,
do đó những chức năng điều khiển lưu lượng như điều khiển cho phép kết nối, điều khiển
thông số được sử dụng, điều khiển hồi tiếp, là có khả năng áp dụng được và không theo
dịch vụ.
Vì sự điều khiển tắc nghẽn không thể áp dụng đối với dịch vụ CBR thời gian thực
hoặc VBR thời gian thực nên người sử dụng nhất thiết phải đảm bảo chất lượng dịch vụ
theo sự điều khiển việc ngăn ngừa tắc nghẽn, trong khi đó do dịch vụ ABR chỉ đảm bảo
tốc độ truyền dẫn tế bào cực tiểu và sử dụng độ rộng dải tần có sẵn một cách cơ động cho
tốc độ truyền dẫn tế bào cực đại phụ thuộc vào trạng thái kênh, nên người sử dụng nhất
thiết phải đề phòng sự tổn thất tế bào một cách có hiệu quả thông qua quá trình điều
khiển tốc độ truyền dẫn bằng sự hồi tiếp.
Kể từ năm 1994, ATMF đã tiến hành việc giới thiệu và thảo luận một số phương
pháp kiểm soát sự tắc nghẽn của dịch vụ ABR, và những phương pháp này được phân
loại một cách rộng rãi thành phương pháp dựa trên sự đảm bảo và phương pháp dựa trên
tốc độ truyền dẫn.
Phương pháp kiểm soát tắc nghẽn dựa trên sự đảm bảo là phương pháp kiểm soát
luồng lưu lượng bằng cách thông báo cho phần chuyển giao số các vùng đệm tế bào có
sẵn.

Trang 71/72
Trong phương pháp này, việc kiểm soát tắc nghẽn được thực hiện bởi đơn vị kênh
và nếu thời gian tắc nghẽn dài hơn thì luồng lưu lượng của nguồn thông tin sẽ được điều
khiển bởi hiệu ứng backpressure.
Phương pháp kiểm soát tắc nghẽn dựa trên tốc độ truyền dẫn là quá trình kiểm soát
tốc độ truyền dẫn của phần chuyển giao theo trạng thái tắc nghẽn trong mạng, được thực
hiện giữa các kênh và các đầu giới hạn.
ATMF đã khẳng định phương pháp kiểm soát tắc nghẽn dựa trên tốc độ truyền dẫn
trên cơ sở của EPRCA (thuật toán kiểm soát tỷ lệ cân xứng nâng cao) như chương trình
cuối cùng vào tháng 9-1994 và bổ sung vào quá trình thử nghiệm cuối cùng cho UNI 4.0
nhằm mục đích thiết lập những tiêu chuẩn cho RM (quản lý tài nguyên) dạng tế bào đối
với dịch vụ ATM, qúa trình khai thác của hệ thống chuyển mạch ATM nhằm hỗ trợ cho
dịch vụ ABR, quá trình khai thác của nguồn/đích thông tin có đầu cuối, và quá trình khai
thác của nguồn/đích thông tin ảo đối với sự kiểm soát tốc độ truyền dẫn.
2) Dịch vụ UBR
Dịch vụ UBR được giới thiệu cho quá trình truyền dữ liệu mà độ dài bùng nổ của
nó ngắn tới mức việc ghép kênh của nó có thể thực hiện được với các vùng đệm tối thiểu
sử dụng phần băng rộng được bỏ lại đằng sau các lưu lượng CBR, VBR và ABR.
Theo quá trình điều khiển cho phép kết nối, độ rộng dải tần truyền dẫn là không
được phân bố cho dịch vụ UBR, và thủ tục điều khiển luồng như điều khiển thông số
được sử dụng và điều khiển hồi tiếp cũng không được áp dụng cho dịch vụ này.
Như vậy, sự đảm bảo chất lượng dịch vụ đối với sự trễ tế bào hoặc sự tổn thất tế
bào là không được đảm bảo và dịch vụ "Best efforts" hiện có thất bại do điều này.
Những ví dụ ứng dụng tiêu biểu là thư tín điện tử hoặc dịch vụ truyền dẫn file mà
không cần phải chiếu theo những yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng dịch vụ đối với sự
trễ hoặc sự biến đổi trễ.

Trang 72/72

You might also like