You are on page 1of 38

Luận văn tốt nghiệp

MỐI QUAN HỆ THẦY VÀ TRÒ TRONG PHẬT


GIÁO
Thích Nữ Đồng Quảng

A - DẪN NHẬP

- Lý do chọn đề tài

Ngày xưa, do chịu ảnh hưởng nền giáo dục của Nho giáo nên người Việt Nam ta
rất coi trọng tư tưởng tôn Sư trọng đạo, cho dù vị Thầy ấy là thầy dạy nghề hay là thầy
dạy chữ thì vị trí của người Thầy cũng rất được tôn kính chỉ đứng thứ hai sau nhà Vua,
trên cả Cha Mẹ theo tinh thần Quân-Sư-Phụ. Vào các dịp lễ tết trong năm học trò luôn
đến nhà thăm viếng kính lễ thầy để bày tỏ một chút lòng biết ơn đối với người đã giúp
cho mình những hành trang cần thiết để bước vào đời một cách vững chải và tự tin.

Ngày nay, xã hội văn minh ngày càng đổi mới, con người được hưởng thụ vật
chất đầy đủ các tiện nghi hiện đại, nhưng về mặt đạo đức của một con người thì ngày
càng suy thoái, cho nên trong xã hội nảy sinh ra những cảnh tượng điên đảo rối ren, con
thì bất hiếu với cha, mẹ; trò thì lừa thầy phản bạn; bạn bè thì chen vai hất cẳng, cấu xé,
tàn hại lẫn nhau không chút nhân tình, không chút xót thương, tất cả cũng chỉ vì chút bả
lợi danh mà họ đánh mất đi lương tri vốn có của một con người. Gẫm nhân tình thế đạo
ấy, lòng người không khỏi chán ngán lo buồn khi nghĩ đến quốc hồn, quốc tuý của dân
tộc Việt Nam với đạo nghĩa Thầy trò, bằng hữu đương lâm vào tình trạng hấp hối chỉ còn
chút hơi tàn mà e rằng rồi đây cũng phải tắt lịm như bóng nắng hoàng hôn..

Đối với người con Phật, ngoài tình thầy trò ở ngoài đời, chúng ta còn có cảm nhận
sâu sắc ân nghĩa Thầy dạy đạo. Cha, mẹ và thầy giáo thế học có công nuôi dưỡng thân
xác, đào tạo và nâng cao trình độ kiến thức cho ta, nhưng đó chỉ là thân ngũ uẩn sanh diệt
và tri kiến thế gian. Còn thầy dạy đạo dìu dắt hướng dẫn ta phương pháp tu học để thoát
khổ, thoát ly sanh tử, trao cho ta Giới thân Tuệ mạng bất sanh bất diệt, trưởng dưỡng
hạnh lành nâng bước cho ta dự vào hàng Thánh. Công ơn ấy ngẫm ra còn nặng gấp bao
lần những ân tình ân nghĩa nói trên. Hơn thế nữa, đối với những vị xuất gia, rời khỏi gia
đình, từ bỏ những trói buộc của thế gian, phát nguyện sống đời phạm hạnh, chí tâm cầu
giải thoát thì ngôi chùa chính là gia đình, Thầy tổ chính là cha mẹ.

Người sơ tâm xuất gia, bước đầu gia nhập thiền môn, bắt đầu một cuộc sống mới,
hoàn cảnh môi trường hoàn toàn mới lạ so với cuộc sống thế tục thì cũng không ít khó
khăn, phải thức khuya dậy sớm, phải tuân thủ những thanh quy nghiêm ngặt của thiền
môn, nhưng những điều đó cũng không khó bằng phải sữa đổi tâm tánh. Bởi vì nói “tu
hành” “TU” tức là sửa đổi những điều sai quấy “HÀNH” tức là làm những việc đáng làm.
Quá trình tu tập không chỉ tính bằng một ngày, một tháng, một năm hay nhiều năm mà là
cả một chiều dài thời gian. Vượt qua những thử thách gian khổ của những ngày tập sự,
hành điệu từng bước, từng bước một bước lên từng cấp bậc để thọ lãnh giới pháp mà
hành trì, cho đến khi được thọ giới Tỳ kheo mới chính thức được đứng vào hàng Tăng
bảo.

Tục ngữ có câu: “dạy con từ thuở còn thơ” hoặc: “nên tre nhờ uốn thuở còn
măng”. Cho nên trong suốt quá trình tu tập đó vị thầy luôn luôn kề cận, quan sát người đệ
tử trong từng hơi thở, trong từng suy nghĩ, từng bước đi để dìu dắt, để hướng dẫn người
học trò không đi lệch hướng. Ngoài việc dạy dỗ, rèn luyện đức hạnh người Thầy có lúc
ân cần dịu dàng như người mẹ hiền ấp ủ cho chúng ta đỡ những lúc gió sương, vỗ về an
ủi khi vấp ngã, lỗi lầm, săn sóc từng giấc ngủ bữa ăn, quan tâm đến những vui buồn của
chúng ta trong cuộc sống. Có khi cũng cứng rắn, nghiêm khắc như người cha, che chở
cho ta những lúc bão giông, rầy la quở phạt khi chúng ta sai lầm, ương bướng, khi ta
bước thấp bước cao gập ghềnh nghiêng ngã. Nhưng dù ở hình thức nào thì cũng đều phát
xuất từ tấm lòng thương tưởng của vị Thầy dành trọn vẹn cho những người học trò.
Mong mỏi chúng ta trưởng thành để khỏi phụ cái chí hướng ban đầu mà chính chúng ta
tự chọn. Vì vậy, Thầy tổ đối với ta nghĩa cao như núi tình sâu như đại dương, ân nghĩa ấy
chúng ta lấy gì đền đáp? Người xưa nói: “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nghĩa là “một chữ là
thầy, nữa chữ cũng là thầy”, huống chi Thầy đã cho ta giới thân tuệ mạng, trọn vẹn một
ân tình.

Mới hay: “Ân giáo dưỡng một đời nên huệ mạng

Nghĩa ân sư muôn kiếp khó đáp đền”

Tóm lại, với cha mẹ thì có mối quan hệ huyết thống, giữa thầy trò luôn có mối
quan hệ khắng khít về tâm linh.Vị Thầy ân cần khuyên bảo quan tâm đến trò, thì người
trò sẽ như được gắn thêm đôi cánh, có thêm sức mạnh để bay cao hơn, xa hơn vào bầu
trời trí tuệ. Đồng thời người trò cũng có bổn phận chăm sóc sức khoẻ, đỡ đần những công
việc cần thiết trong khả năng của mình mà không bao giờ câu nệ sự khó nhọc, toan tính,
so đo, từ những công việc nặng nhọc cho đến những công việc nhẹ nhàng như dâng thầy
ly nước, đỡ nón, cất y khi Thầy đi đâu về, trông ngóng thầy khi thầy có việc phải đi xa…
chút ít như thế cũng khiến thầy mình cảm thấy vui vẻ và dũ sạch được những mệt mỏi
sau những chặng đường dài.

Cảm nhận được ân nghĩa sâu dày của thầy tổ đó chính là lý do để con chọn đề tài
này, dù nét bút còn thô sơ, suy nghĩ còn thiển cận, những lòng mong mỏi tha thiết với
lòng tri ân và muốn báo đáp ân dày. Con xin hướng về mười phương Tam Bảo, đê đầu
đảnh lễ các vị ân sư, thiện hữu tri thức cùng với các bậc quyến thuộc bồ đề. Những gì quý
ngài đã vun vén, sách tấn, động viên, khuyến khích hướng dẫn và cũng không loại trừ
những lời quở trách khi con phạm sai lầm những điều đó cũng không ngoài mục đích
muốn con nên người, đi đúng con đường mình chọn và tìm được pháp lạc trong cuộc
sống của người xuất gia.
- Phương pháp luận và phạm vi đề tài.

Trong luận văn này người viết sử dụng phương pháp qui nạp, diễn dịch, dẫn
chứng, giải thích và chứng minh… nhằm mục đích lột tả được cốt yếu của mối quan hệ
giưã Thầy và Trò trong Phật giáo.

Dẫu biết rằng Phật pháp thì vô biên, công hạnh của đức Thế tôn thì vô lượng. Vì
vậy trong phạm vi hạn hẹp này. Người viết xin giới hạn nghiên cứu qua bộ Nikàya, các
bộ luật thông dụng và góp nhặt những lời dạy của đức Thế tôn bàng bạc trong các kinh để
minh chứng cho vấn đề cần bàn đến. Ngoài ra còn trích dẫn một sốn những lời hay ý đẹp
của chư vị Tổ sư để cho tập luận văn này được phong phú hơn.

Hôm nay những gì con có được chính là công ơn lớn lao của Thầy tổ, con biết
làm sao để báo đáp thâm ân này!!! Bởi lẽ “Ân sư chí trọng, cổ đức nan thù” cho dù con
có cố gắng làm được chút gì thì cũng như đem muối bỏ xuống đại dương. Vì vậy thâm ân
kia con xin ghi lòng, nguyên trọn đời đi trên con đường chánh pháp, ngõ hầu đền đáp
công ơn thầy tổ trong muôn một.

Qua đây con xin thành kính gởi đến hết thảy bằng hữu, cộng sự tu hành những
hành giả đang trên đường tầm cầu sự giải thoát. Chư huynh đệ! hãy nên biết quý trọng
nâng niu những gì mình đang có, hãy biết tôn trọng những gì mình đã được, cho dù sông
có cạn núi có mòn thì tấm lòng tri ân đối với thầy tổ trong con không thay đổi.

B - NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ QUAN HỆ THẦY TRÒ.

Trong bất cứ xã hội nào, cương vị của người thầy luôn luôn giữ một vị trí quan
trọng. Ở gia đình cha mẹ nuôi dưỡng con cái thì ở trường người thầy có trách nhiệm giáo
dục học trò truyền trao những kiến thức, kinh nghiệm, phát huy những kỹ năng sẵn có,
người học trò nhờ đó mà có một hành trang vững chắc để tự tin mà bước vào đời.

Vì vậy, nói đến quan hệ thầy trò tức là đề cập đến hệ thống giáo dục. Giáo dục ở
đây cũng chính là một hiện tượng của xã hội, một hiện tượng xã hội đặc biệt của con
người. “con người được tiến bộ nhờ lao động. Do lao động mà ý niệm xã hội được hình
thành và xã hội được thành lập, phát triển càng lúc càng đa dạng. Kinh tế và văn hoá của
con người bao gồm những sinh hoạt vật chất và tâm linh. Những chuyển biến, những tiến
bộ trong đời sống liên tục qua nhiều thế hệ hiển nhiên là do sự truyền thọ, do kế thừa và
do giáo dục đào tạo”. [22-3]

Như thế, nhờ giáo dục mà văn minh và văn hoá của con người tiến bộ và phát
triển khác hẳn so với loài vật. Giáo dục đã xuất hiện trong xã hội loài người từ hàng ngàn
năm trước, ý nghĩa tập Áo Nghĩa Thư (Upanishad) của Bà-la-môn giáo trong Ấn Độ cổ
đại cho thấy hình ảnh “ngồi dưới chân thầy” để nghe thầy giảng về Tự ngã. Qua thời Hy
lạp cổ đại, các trường học đã mở cửa, các triết gia, các nhà khoa học thâu nhận học trò
thành một hệ thống có tổ chức rất quy mô. Ở Trung Hoa Khổng Tử có 3.000 học trò,
cùng thời với Socrates ở Hy Lạp.

Cho nên, nói đến giáo dục là nói đến việc dạy việc truyền thọ, kiến thức, kinh
nghiệm, kỹ năng của người dạy truyền cho người học. Ở đây “Giáo” nghĩa là ra lệnh,
khiến cho. “Dục” là nuôi lớn làm cho trưởng thành. Theo Từ điển Từ Hải “Giáo” tức là
người trên làm gì thì người dưới bắt chước làm theo; “Giáo” nghĩa là dạy dỗ lấy những gì
mình biết được mà truyền thọ cho người. Lại nữa, giáo dục là giúp loài người phát triển
và thích ứng với những tác động của thế giới, làm cho thế giới càng ngày càng tiến hoá,
khiến cho đi đúng con đường gọi là “Giáo” làm cho lớn thêm một cách tự nhiên gọi là
“Dục”.

Tựu trung, theo ý nghĩa khái quát: “giáo dục nghĩa là truyền thụ kiến thức, kinh
nghiệm, kỹ năng chuyên môn, hướng dẫn tư duy, tình cảm, nếp sống để được thọ nhận,
phát triển theo chiều hướng tốt đẹp, thích nghi với xã hội và thiên nhiên”. [22-10]

Như vậy, nói đến giáo dục là đề cập đến mối quan hệ giữa thầy và trò. Hình ảnh
người thầy luôn là biểu tượng cao quý, đáng được kính trọng. Những người làm thầy
cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giáo dục, trực tiếp truyền trao tất cả kiến thức,
kinh nghiệm của mình cho học trò, âm thầm lặng lẽ đi sớm về trưa, lặng lẽ bên ngọn đèn
khuya! Người học trò từ khi được truyền từ tay mẹ qua tay thầy, ngay bài học đầu tiên,
qua các âm điệu, lời thơ, tiếng nhạc, qua ca dao tục ngữ đã hình dung được bóng hình của
núi sông, cảm nhận được chân trời rộng mở để nối gót cha ông.

Người xưa có câu: “muốn sang thì bắt cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy
thầy”. Không những người học trò yêu kính thầy giáo của mình mà cả đối với các bậc
phụ huynh cũng xem thầy là bậc đại ân nhân của gia đình của dòng họ. Bởi thế, học trò
khi thi đậu, khi thành danh người đầu tiên mà họ nghĩ đến chính là công ơn người Thầy
vì nhờ thầy mà mình mới có được công danh, địa vị trong xã hội. Đây chính là nét đẹp
văn hoá “uống nước nhớ nguồn” trong nền giáo dục.

Mục tiêu giáo dục là luôn hướng đến đào tạo cho mỗi cá nhân thành tài có ích cho
xã hội. Sự đào tạo không phải trong khoảng khắc mà thành tựu, phải trải qua từng giai
đoạn, dưới sự huấn luyện của thầy, từ những nét chữ nguệch ngoạc cho đến khi có nét bút
rắn rỏi là lúc có thể hiểu được, nhận thức được lời hay ý đẹp, tiếp thu được vô vàn kiến
thức từ người thầy: Bác Hồ cũng từng nói: “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì ích nước
trăm năm trồng người” với khuynh hướng này, đòi hỏi sự nhiệt tình của người thầy và sự
nỗ lực của học trò. Cho nên trong thầy luôn có mặt của học trò và ngược lại, chính vì thế
mối quan hệ giữa thầy và trò luôn có sợi dây vô hình gắn chặt với nhau.

Từ mối quan hệ này người thầy chẳng những chỉ truyền trao kiến thức mà còn
kiêm cả việc trau dồi đạo đức và cách đối nhân xử thế cho phù hợp với môi trường và xã
hội. Trong hệ thống giáo dục có 3 nghĩa chính là đầy đủ về Trí dục, Đức dục và Mỹ dục.

Trí dục là sự phát huy về kiến thức không ngừng học hỏi nghiên cứu dựa vào kiến
thức chung biến nó thành trí hiểu biết của riêng mình. Người có trình độ kiến thức sẽ có
địa vị, vị trí tương xứng trong xã hội. Ngược lại ngưòi không có trình độ học vấn, sẽ
không có kiến thức cho bản thân và xã hội. Cổ đức nói: 玉不琢不成器,人不學不知
道。Nghĩa là “ngọc có mài dũa mới thành đồ quý, người có học mới có thể biết được đạo
lý”. Vì vậy muốn xã hội ngày một phát triển đòi hỏi mỗi cá nhân phải có trình độ, không
ngừng học hỏi ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Điều này đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhắc đến trong lá thư gởi cho thiếu nhi cả nước “…Non sông Việt Nam có trở
nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn nhờ công lao học tập
của các cháu…”. Và nhờ những kiến thức căn bản mới có thể phát huy sâu và rộng hơn.
Những căn bản này người học trò được huân tập từ nơi thầy. Cho nên nói: “không thầy
đố mày làm nên” chính là muốn nhấn mạnh sự có mặt của người Thầy rất quan trọng trên
con đường đi lên của học trò. Mặt khác, ngoài giá trị về sự truyền trao kiến thức mà mình
có, người thầy còn luôn kích động vào tâm trí học trò, khai mở tiềm năng của từng cá
nhân. Henri Frederic Amich nói: “chức năng cao nhất của người thầy không phải là
truyền đạt kiến thức mà là khuyến khích học sinh yêu kiến thức và mưu cầu kiến thức”.
Nhờ sự kích động vào tâm thức, khiến học trò luôn muốn học hỏi những điều mới lạ phía
trước, hướng đến một mục tiêu đúng đắn…

Đức dục đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội, đặc biệt là trong giáo dục.
Người học trò từ nơi người Thầy được trau dồi đạo đức. Điều căn bản nhất là sự khiêm
cung, lễ phép đối với mọi người, ta thấy hầu như ở các ngôi trường đều có câu khẩu hiệu
“tiên học lễ, hậu học văn” được bày trí ở nơi trang trọng nhất, mỗi ngày các em đến
trường điều đầu tiên dễ nhìn thấy nhất. Điều này chứng minh cho ta thấy ở môi trường
giáo dục thì đạo đức vẫn luôn được coi trọng và đề cao. Trong một xã hội thu nhỏ đó là
gia đình, với ông bà cha mẹ phải hiếu thảo, với anh chị em phải biết kính nhường.Ngoài
xã hội với bạn bè nên quan tâm giúp đỡ, thương kính tất cả mọi người. Mạnh Tử nói: 愛
人者人恆愛之,敬人者人恆敬之

“yêu người thì người yêu lại, kính người thì người kính lại” [14 – 49] Thế nên
người học trò khi thành tựu sự nghiệp phải được huân đúc đầy đủ 2 mặt kiến thức và đạo
đức hay nói cách khác tài và đức phải song song. Nếu người chỉ dụng kiến thức thì chưa
đủ để phục vụ xã hội và đem lại lợi ích thật sự cho xã hội.

Cho nên ngài Minh Giáo Tung đời nhà Tống dạy Đệ tử:尊莫尊乎道,美莫美乎德,

道德之所存, 雖匹夫非窮也, 道德之所不存雖王天下非通也。Nghĩa là: “cao


quý không gì cao quý bằng Đạo, đẹp không gì đẹp bằng Đức, đạo đức mà còn, tuy làm kẻ
thất phu cũng không khốn đốn, đạo đức không còn, tuy làm vua trong thiên hạ cũng
không thông”[24-301].Vì vậy, người có đạo đức là người có nhân cách, nhân cách được
xây dựng qua mỗi cá nhân dựa trên hành động, lời nói và ý nghĩ: 無為其所無為,無谷
其所不谷,如此而已矣。 “ Người có nhân cách chính là người không làm những việc
không đáng làm, không muốn những việc không nên muốn, đạo đức ở con người như thế
mà thôi” [14-15].

Nói chung, một xã hội dù nền văn minh có phát triển đến mức độ nào chăng đi
nữa thì nó cũng chỉ dừng lại ở giá trị vật chất, còn duy trì được nền giáo dục đạo đức thì
đó mới chính là giá trị tinh thần. Sự tồn vong của một quốc gia, ở mỗi dân tộc có thể
được xác định trên cơ sở đạo đức. Vì đạo đức chính là tính nhân bản trong mỗi con người
cá nhân cũng như con người xã hội Trong Cổ văn Quan chỉ có đoạn: “…Vua nước Sở hỏi
làm sao mà dời được 9 cái đỉnh đồng này?” trả lời “nhờ ở đức vậy!” có nghĩa là 9 cái
đỉnh đồng kia là biểu tượng của quốc gia nếu đỉnh bị mất tức nước vong, người nào có
đức cao thì có được vậy!. Cho nên biết, trong sự nghiệp giáo dục thì vấn đề đạo đức
không thể thiếu và cũng không thể xem nhẹ được. Học trò vốn được trau dồi nhân cách từ
khi ngồi ở ghế nhà trường đó chính là “tiên học lễ, hậu học văn” . Muốn có một nền tảng
vững chắc, bằng kiến thức, tư duy được tích luỹ từng ngày, từng tháng, từng năm cùng
với phong cách mô phạm mà ta được học ở chính bản thân người thầy thì người học trò
đó chắc chắn sẽ trở thành người hữu ích cho bản thân và xã hội.

Bên cạnh Trí dục và Đức dục là hai lãnh vực quan trọng thì cũng từ nơi nhà
trường người học trò còn phải nhận thức được những nét đẹp trong cuộc sống đó là Mỹ
dục. Mỹ dục là nói đến cái đẹp, có những cái đẹp có tính thực thể những cũng có những
cái đẹp mang tính chất trừu tượng, nét đẹp của tâm linh, của người có nhân cách, có nếp
sống cao thượng, hài hoà với tất cả mọi người, có cuộc sống thích hợp với thiên nhiên và
xã hội.xứng đáng với nhân cách của một con người.

Xã hội càng ngày càng văn minh và có nhiều chuyển biến mới thì mỗi cá nhân
cũng không ngừng học hỏi để bắt kịp với nhịp thở của thời đại, để có một ý chí mạnh mẽ,
một quan điểm sống lành mạnh để có thể vượt qua những chặng đường khó khăn mà đạt
đến mục đích của mình “có chí thì nên” người xưa đã có kinh nghiệm thế mà! Các bậc
Thánh Hiền cũng đã từng dạy học trò mình: “điều gì chưa học thì phải học, học mà chưa
biết thì phải học nữa. Điều gì chưa hỏi thì phải hỏi, hỏi mà chưa biết thì phải hỏi nữa.
Điều gì chưa xét thì phải xét, xét mà chưa tỏ thì phải xét nữa. Điều gì chưa làm thì phải
làm, làm mà chưa rõ thì phải làm nữa. Người ta chịu khó một mình phải chịu khó trăm;
người ta chịu khó mười thì mình chịu khó nghìn. Nếu được như vậy thì kẻ ngu cũng sáng,
kẻ yếu cũng mạnh”[14-57].

Tóm lại, theo các nhà Xã hội học nghiên cứu cho rằng mỗi cá nhân phải trải qua 3
giai đoạn: trẻ em – gia đình; học sinh – nhà trường; trưởng thành – xã hội. Trong đó môi
trường trường học là một thiết chế xã hội, ở đây cung cấp cho học sinh những tri thức,
những kỹ năng để giải quyết những mối quan hệ xã hội. Điều này có thể hiểu rằng ở gia
đình trẻ em có thể đọc thuộc lòng câu “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra” nhưng thật sự thì bản thân chúng chưa hiểu hết được ý nghĩa của
câu ca dao đó. Khi đến trường nhờ sự dạy dỗ, phân tích của thầy, cô chúng mới hiểu
được hết ý nghĩa của lời ca ngợi đó, nhờ đó các em sẽ sống tốt hơn với gia đình với xã
hội. Ta thấy rằng quan hệ giữa thầy và trò hết sức quan trọng, nó có khả năng hình thành
một nhân cách một con người đủ tài đức để phục vụ cho đất nước cho loài người ngày
một phát triển theo một chiều hướng tốt nhất.

Trải qua bao thế hệ, đất nước có nhiều thay đổi nhưng hình ảnh của người thầy
vẫn không hề thay đổi, tre già thì măng mọc từng thế hệ nối tiếp nhau làm đẹp cho đời.
Người làm giáo dục thường được ví von như người đưa đò – Người đưa đò suốt cả cuộc
đời cống hiến cho sự nghiệp giáo dục đào tạo những lớp người đi qua mà không quản khó
nhọc cho riêng mình.

Mới hay: “Người đưa đò suốt đời chở khách


Trên con sông đưa lớp lớp người qua
Chợt một hôm soi mình mặt nước
Thấy mái đầu đã tuyết pha sương”
[15-65]

Nói tóm lại, mục đích chính của giáo dục là sự truyền thụ và đào tạo một con
người có đạo đức có kiến thức để tạo nên một cuộc sống một xã hội thăng hoa và tươi
đẹp.

Thế nhưng trong Phật giáo mối quan hệ này có ý nghĩa sâu hơn, rộng hơn vì
không dừng lại ở mục đích là hình thành nhân cách mà còn có mục đích là làm sao cho
người học trò nhận chân được thế gian này là tạm bợ và tìm phương giải thoát, thoát khỏi
sự ràng buộc của tiền tài danh vọng, của thất tình lục dục, có một cách nhận nhìn nhận
vũ trụ và nhân sinh một cách sâu sắc và xác thực mà không hề có tư tưởng bi quan yếm
thế và luôn hướng đến đỉnh cao là cứu cánh là Niết Bàn bất tử.

Trong tam tạng Kinh điển cho chúng ta thấy toàn bộ giáo lý của Phật giáo cũng
không ra ngoài đạo đức học, là khoa học về hành động, đánh giá hành động và hướng
mọi hành động đến mục đích giải thoát. Cũng trong ý nghĩa này, toàn bộ hoạt động Phật
giáo là nhằm giáo dục con người tự nhận biết chính mình và cuộc đời để tiến đến mục
tiêu duy nhất là hạnh phúc tuỵệt đối, cứu cánh Niết Bàn.

Nội dung giáo lý của Phật giáo cũng như trong giáo dục thế học, những lời đức
Phật dạy không hề tách rời khoa học và cuộc sống của xã hội. Giáo lý của Ngài có tính
triết lý cao và cũng rất thiết thực với đời sống hiện tại, mục đích duy nhất là cứu khổ
chúng sanh, đưa chúng sanh đến một cảnh giới thật sự an lạc và hạnh phúc.

Do đó, mối quan hệ Thầy trò trong Phật giáo là điều mà người viết chú trọng và
quan tâm nhiều hơn, Vì rằng vị Thầy là người soi đường dẫn bước, là bậc hướng thiện, là
bậc đầy đủ Minh và Trí hình ảnh đó là chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đức Phật lịch
sử một con người có thật bằng xương bằng thịt đó chính là người sáng lập ra Phật giáo.

CHƯƠNG 2: QUAN HỆ THẦY TRÒ TRONG PHẬT GIÁO

2.1 Đức Phật – Bậc Đạo sư

2.1.1 Đức Phật - Nhân vật lịch sử


Vào năm 1896, tại vườn Lumbini các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 1 trụ đá cao
6m5 do Hoàng đế A Dục (Asoka) dựng năm 245 trước Công nguyên với lời ghi: “Hai
mươi năm sau khi lên ngôi, quốc vương Thiên Ái Thiện Kiến (Devànampiya-Piyadasi)
tức A Dục (Asoka) ngự đến đây chiêm bái, vì đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc hiền nhân
của bộ tộc Thích Ca đã đản sanh tại đây. Nhà vua ban sắc lệnh khắc một tượng bằng đá
(?) và dựng một thạch trụ. Ngài miễn thuế đất ở làng Lumbini và giảm thuế hoa lợi từ 1/4
theo lệ thường 1/8”. [16-40].

Dựa vào trụ đá của Vua A Dục (Asoka) các nhà nghiên cứu Phật học đã xác minh
đức Phật đã đản sanh vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Phụ vương của Ngài là vua
Tịnh Phạn (Suddhodam) và Hoàng hậu Ma Gia (Mayà) tên của Ngài là Sĩ Đạt Ta
(Siddhattha) và Họ là Gotama (Gautama). Sau khi sanh Ngài được 7 ngày thì Hoàng Hậu
Ma Gia mệnh chung, nên Ngài được Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Mahapayàpati) nuôi
dưỡng cho đến trưởng thành.

Nhà Sử gia nổi tiếng người Pháp, Will Durant nghiên cứu về nền lịch sử văn minh
của Ấn Độ cổ đại cũng đã viết: “Ở khoảng giữa đường 2 châu thành (Kapilavattu –
Devadaha) có một khu rừng nhỏ mọc cây “Sal” gọi là rừng Lumbini thuộc chung về 2
châu thành, dân chúng thường đến đó dạo cảnh. Lúc đó, từ gốc cây tới cành, cây nào
cũng đầy bông, trông xa chỉ thấy một đám bông…Hoàng hậu Ma Gia trên đường về quê
Mẹ ngang qua khu vườn này Bà muốn dừng lại dạo cảnh một lát. Tới gốc cây “Sal” cổ
thụ to lớn, Hoàng Hậu muốn vít một cành thì cành cây tự rủ xuống mềm mại như một cây
sậy, vừa đưa tay lên nắm cành thì thì bỗng thấy chuyển bụng, đám hộ giá vội vàng giăng
màn ở chung quanh rồi rút lui, lúc đó Hoàng hậu còn đương đứng, tay vẫn còn vin cành
“Sal” mà hạ sanh Thái tử” [17-84]

Về sau H.W.SCHUMAN học giả người Đức viết rằng: “Có một phiến đá có lẽ
xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ hai sau Công nguyên được tìm ra ở Lumbini và được lưu
giữ trong một ngôi chùa nhỏ ở địa phương, phiến đá cho thấy Hoàng hậu Ma Gia
(Màụyà) sanh hoàng tử trong lúc đang vin cành cây Sàla. Hình như sinh con trong lúc
đứng là phong tục thời ấy”. [16-40]

Nói chung, trước đây có rất nhiều sử sách viết về cuộc đời của đức Phật do vì quá
phô trương và cố thổi phồng câu chuyện vô tình đã biến đức Phật thành nhân vật huyền
thoại, phi thực tế. Do đó đã tạo nên một cách nhìn sai lệch về con người của đức Phật một
nhân vật lịch sử, đã làm nên lịch sử.

Gần đây dựa vào các công trình nghiên cứu của các nhà khảo cổ học, sử học và
Phật học cùng với các bản kinh ghi chép lại khẳng định đức Phật đã đản sanh tại vườn
Lumbini một khu vườn nằm giữa Devadaha và Kapilavattu. Kapilavattu Thủ đô của bộ
tộc Thích Ca (Sakiyas) là quê hương của đức Phật, ngày nay nó trở thành biên giới của
Ấn Độ và Nepal.

Mặt khác các nhà học giả còn xác chứng đức Phật ở Ấn Độ cùng với đức Khổng
tử ở Trung Hoa sanh cùng thời. Theo Chúng Thánh Điển Ký mà suy tính, đức Phật đã
đản sanh vào 2476 năm trước Dân quốc Kỷ nguyên, còn năm giáng sanh của đức Khổng
tử 2463 năm trước Dân quốc Kỷ nguyên. Điều này được ngài Thái Hư Đại sư viết: 孔子
在杏壇教之日,正釋尊在鹿菀舍

衛 大轉 法輪 之時 迨後 騰籣 來中 國時 係民 元前 一八 四四 年 . “… Ngày đức
Khổng tử tại Hạnh đàn giáo hoá cũng chính khi đức Thế tôn tại vườn Lộc Uyển trong
thành Xá Vệ chuyển pháp luân. Về sau Ngài Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung
quốc, năm ấy trước Dân quốc Kỷ nguyên 1844 năm.”[25-219]

Tóm lại trong toàn bộ những truyền thuyết, những câu chuyện hoang đường, bao
xung quanh đức Phật giờ đây đã được chuyển hướng cách nhìn và có chứng cứ. Ấn Độ
Cổ đại thời đức Phật vào thế kỷ thứ 6 đã được soi rọi trong làn ánh sáng mới mẽ, chính
là nhờ vào các cuộc nghiên cứu công phu của các nhà tư tưởng gia trên khắp các nước.

Và giờ đây “Đức Phật không còn được nhìn nhận như một thánh nhân đang du
hành trên hư không, ta có thể nói như vậy là một nhà sáng lập có trí tuệ về mọi vấn đề thế
gian, đã hiểu biết hết cách tận dụng các hoàn cảnh chính trị với tài năng lãnh đạo có kế
hoạch tinh xảo, quả thật giống như một nhân vật có thể sánh với đệ nhất vĩ nhân trong
thời hiện đại là Mahàtma Gandhi một người đã hoàn thành sứ mạng của mình không chỉ
vì đó là một người Ấn Độ, có đức độ thánh tín mà còn là một luật sư xuất chúng và là
một tư tưởng gia có một đầu óc thực tiễn” [16-12].

Chiết trung lại, đức Phật là nhân vật lịch sử trong nhân loại, có ảnh hưởng rộng
lớn và lâu dài trên toàn cầu và ngày nay giáo lý của Ngài đã lan rộng đến các châu lục
khác và được mọi người đón nhận một cách nồng nhiệt. Những thành quả Ngài đạt được
một mặt do ảnh hưởng thời đại Ngài sanh trưởng, mặt khác hoàn cảnh chính trị xã hội đã
tạo điều kiện cho Ngài thực hiện sứ mạng cao cả đưa đến thành công. những thái độ tâm
lý thuộc về nội tâm ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách đã giúp Ngài mau chóng tìm
ra chân lý giác ngộ giải thoát cho chính mình và chúng sanh.

2.1.2 Sự phát triển nhân cách của đức Phật

Khi đức Phật còn là một Thái tử, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) luôn luôn hy vọng
Thái tử của Ngài sẽ trở thành môt người cường tráng đầy năng động, quan tâm đến thế sự
và tham vọng cai trị đất nước. Điều này đã làm ngài thất vọng vì Thái tử chẳng hề quan
tâm vào các trò tiêu khiển của các hoàng nam trong cung hay các buổi huấn luyện quân
sự.v.v.. ngược lại , Thái tử thích cô độc với khuynh hướng trầm tư. Thay vì hưởng thụ
mọi lạc thú đúng với vị trí của một hoàng tử, chàng lại phát triển sở trường của riêng
mình và nhàm chán thế gian vì phải chịu đựng những sự không hoàn hảo ở đời. Đồng
thời chàng luôn thao thức về cách làm thế nào có thể vượt lên cảnh đời ấy.

Xu hướng nội tâm của Thái tử đã thể hiện ngay từ khi còn thơ ấu. Trong buổi lễ
hạ điền do vua Tịnh Phạn tổ chức nhằm mục đích khuyến khích các nhà nông. Đây là cơ
hội cho tất cả mọi người giàu cũng như nghèo đều có thể ăn mặc tốt đẹp, vui chơi hỉ hả
trước khi bắt tay vào chuyện đồng áng. Lúc ấy Thái tử cũng có mặt trong lễ hội, trái hẳn
với cảnh nhộn nhịp tưng bừng giữa buổi lễ hội, dưới bóng cây Thái tử với tư thế ngồi kiết
già trầm ngâm lặng lẽ, chăm chú, định tâm vào hơi thở và đạt Sơ thiền. Sự kiện này đã
làm cho mọi người kinh ngạc, nhưng với Thái tử đây là kinh nghiệm tinh thần, cũng là
chìa khoá mở đường cho Ngài tiến đến đạo quả.

Là dòng dõi vương gia, hiển nhiên Thái tử được thừa hưởng đời sống vương giả
như: “… Phụ hoàng cũng kiến tạo cho ta ba toà cung điện. Một để cho ta ở mùa lạnh, một
mùa nóng và một mùa mưa. Trong bốn tháng mưa ta lưu tại một biệt điện có đầy đủ tiện
nghi, giữa những cung tần mỹ nữ cho đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng được ăn sung
mặc sướng, không phải như các nhà khác, gia đinh chỉ được ăn cơm xấu và thức ăn cũ”
[2-145]. Nhưng dù sống trong Hoàng cung với đầy đủ tiện nghi và có thể hưởng tất cả
các lạc thú trên của thế gian, Thái tử với thiên tính trầm tư mặc tưởng cùng với lòng từ bi
vô lượng vô biên Thái tử không yên lòng một mình thụ hưởng những thú vui tạm bợ của
cuộc đời. Ngài thường suy tưởng đến thực chất của đời sống và biết rằng nhơn loại đang
quằn quại khổ đau mà không có lối thoát. Vì thế, được sống trong nhung lụa mà Ngài
nhận định được rằng đời sống là phiền não, là vô thường.

Được chứng kiến sự thật sanh, già, bệnh, chết của kiếp sống con người, và đằng
sau niềm hạnh phúc đã có sự khổ đau và vô thường. Những cảm nhận này Thái tử suy
niệm luôn trong tâm trí muốn tìm một con đường thoát khổ và suy nghĩ rằng: “chính ta
phải chịu sanh già bệnh chết và nhiễm ô, tại sao cứ mãi mê chạy theo những điều mà bản
chất vốn không thật, vì chịu sanh lão bệnh tử phiền não và nhiễm ô ta đã nhận thức được
sự bất lợi của những điều ấy. Nay ta thử đi tìm cái chưa thành đạt, cái tối thượng và tuyệt
đối châu toàn đó là Niết Bàn.”[4-163].

Cũng vậy bản tính trầm lặng và khuynh hướng nội tâm, Thái tử đã chuyển đổi con
người của mình. Sự phát triển nhân cách của Thái tử so với các Hoàng nam hoàn toàn
khác biệt. Từ nhân cách này đã đặt nền móng cho sự nghiệp của riêng Ngài và cho cả
nhân loại. Sự giác ngộ này đã chuyển một Thái tử Siddhatha Gotama trở thành đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, bậc giác ngộ hoàn toàn.

Suốt 49 năm hoằng pháp độ sanh đức Phật đã chuyển dịch giữa khuynh hướng
thiên về nội tâm và khuynh hướng ngoại giới. Các thời kỳ thuyết pháp thành công rực rỡ
khiến Ngài du hành từ vùng dân cư đông đúc này đến vùng khác, cũng có lúc Ngài du
hành một mình. Nghĩa là: “Giáo pháp của Ngài hợp với người thích độc cư chứ không
phải với những người ham quần chúng. Ngài tuyên bố như vậy”. [5-649].

Tóm lại, mặc dù sống trong môi trường được bao phủ bởi lợi danh và vật chất một
cách sung mãn, Thái tử hoàn toàn không giống như những người xung quanh, đặc biệt là
nhân cách của ngài được bồi dưỡng và phát triển theo tự tính không phụ thuộc vào hoàng
tộc. Nhìn từ góc độ khác có thể nhận xét rằng Thái tử sống trong hoàng cung tinh thần
không được thoải mái, sự bao bọc của nhung lụa và cả sự quyến rũ của cung tần mỹ nữ
cũng không trói buộc được lý tưởng của bậc giác ngộ.

Nhờ vào sự phát triển nhân cách như thế đã nuôi dưỡng, tiềm ẩn một ý chí đi tìm
chân lý. Một chân lý giải thoát cho mình và cho mọi loài. Và cho đến khi Ngài đã hoàn
toàn chứng ngộ trở thành bậc chánh đẳng chánh giác đem chân lý tối thượng ấy hoằng
hoá chúng sanh. Ngài đã là chỗ dựa tinh thần cho hàng đệ tử và điều phục được ngoại
đạo. Mặc dù thế Ngài vẫn không tự mãn với chính mình mà luôn luôn nhắc nhở hàng đệ
tử rằng: “Nầy các Tỳ kheo ta không tranh chấp với đời, chính đời tranh chấp với ta.
Người thuyết pháp không tranh chấp với bất cứ ai giữa đời”. [6-94]

Do đó, các nhà Sử học đã tán dương Ngài là “nhà huyền bí” không tranh chấp với
cuộc đời. Như trong kinh văn cũng đã tán thán Ngài như sau:
Bậc trí tịnh tâm thấy khắp nơi
Không còn thành kiến với người đời
Tử sanh Ngài đoạn trừ si mạn
Không chấp thủ gì, để ý ai
Lắm kẻ bận tâm chuyện thế gian
Người không vướng bận biết sao bàn
Người không chấp nhận không bài bác
Rũ sạch mọi thiên kiến không màng [16-458]

Vì không màng đến thiên kiến của thế gian nên Ngài phủ nhận sự hiện hữu của
bản ngã, một cái mà xưa nay tất cả mọi người đều cho là tuyệt đối, kinh nghiệm giác ngộ
của Ngài mang hình thức một sự đột phá tri kiến, chứ không phải là sự hoà nhập vào cái
huyền bí. Đó chính là bậc tuệ giác nhận rõ thế giới này với tất cả khổ đau (dukkha) có thể
nhiếp phục và nhờ nỗ lực mỗi người chúng ta có thể chặt đứt vòng luân hồi sanh hồi sanh
tử (samsàra). Kinh nghiệm của Ngài về các siêu nhiên, do đó Ngài đạt được địa vị tối tôn
ở trên đời, là sự chứng đắc giải thoát bằng cách dập tắt, tịch diệt, Niết bàn. Trong suốt
những năm hoằng pháp độ sanh, những người có duyên đáng độ Ngài đã độ không phân
biệt giai cấp, không khinh trọng kẻ sang người hèn, kẻ trí người ngu tất cả những người
có duyên đều được thấm nhuần giáo pháp của Ngài. Giáo lý của ngài tuy thâm sâu và vi
diệu vô cùng nhưng cũng tuỳ căn cơ của từng đối tượng được Ngài hướng dẫn một cách
khế lý, khế cơ. Cái vi diệu của ngài chính là sự đồng hoá con người về một thể, cái cao
siêu của Ngài chính ở chỗ cuối cùng con người đều nhận ra được bản chất của sự thật,
nguồn gốc của khổ đau, con đường đưa đến sự đoạn diệt của khổ đau và cuối cùng là cứu
cánh tịch diệt.

Nói chung, giáo pháp dù cao siêu thậm thâm đến đâu thì cũng được ngài chuyển
tải đến với mọi loài một cách hài hoà và hợp lý, nó đã đi vào tiềm thức của mỗi chúng
sanh để từ đó bổn tánh được hiển lộ họ nhận thức được rằng cuộc đời vốn là khổ, vô
thường, vô ngã. Điều này chứng tỏ phương pháp giáo dục của đức Phật đem lại lợi ích
cho mọi loài, nhấn mạnh được tính nghệ thuật trong giáo dục của đức Phật.

2.1.3 Nghệ thuật giáo dục của đức Phật.

Trong thời đức Phật, hệ thống giáo dục Phật giáo đã bắt đầu hình thành và tuần tự
phát triển. Phong cách giáo hoá của đức Phật không qua văn tự chữ viết mà trực tiếp từ
thân giáo, khẩu giáo, ý giáo. Quá trình giáo dục của đức Phật tạo thành những nền tảng
căn bản cho nền giáo dục Phật giáo mang tính nghệ thuật và khoa học rất cao. Hình ảnh
đức Phật thật sự là bậc đạo sư mẫu mực và lão luyện. Ngài có thể thuyết phục con người
thay đổi cách sống, chấp nhận những giá trị mới và tìm kiếm những mục đích mới bằng
những lời thuyết pháp hùng hồn và sinh động. Trong khi những bậc đạo sư đối thủ đương
thời thường dùng những hành vi ma thuật hoặc phép mầu để lôi kéo đệ tử về phái mình,
ngựơc lại đức Phật chỉ dạy duy nhất một loại phép lạ, đó là “phép lạ của sự giáo huấn”
(canusàsani-pàtihàriyà).

Những bài pháp thường được Ngài trình bày chi tiết tỉ mỉ, rõ ràng và có logic đã
làm nổi bật các bài pháp dài, những bài pháp được thuyết giảng theo chủ đích riêng. Dù
thuyết giảng cho vài người hay cho một hội chúng, Ngài cũng đều tìm cách hướng dẫn
người nghe tiến dần từng bước đến lý tưởng mà ngài muốn thành lập. Kinh chuyển pháp
luân (Dhammacakkapavanttana) và kinh Tứ Niệm xứ (satipatthàma) là những bài kinh
tiêu biểu có một vài đặc điểm để nhận biết, vì ngài thường bắt đầu bài kinh bằng lời giáo
huấn gọi sự chú tâm, chẳng hạn như: “có hai cực đoan người cần nên tránh” hoặc “có một
đường thẳng, tắt bảo đảm đến đích.v.v.” Mặc khác đức Phật thường sử dụng phương
pháp so sánh một cách nhuần nhuyễn, được rút ra từ nếp sống hàng ngày của quần chúng
chẳng hạn như công việc của người nông dân, được đức Phật liên hệ rất chính xác mối
tương quan giữa công việc đồng áng với phương pháp tu tập. Câu chuyện đức Phật và
Bàlamôn hào phú Bharadvàja đã diễn tả được sự liên hệ này. Khi Bàlamôn Bharadvàja
chia phần cơm cho nông dân, Bàlamôn nhìn thấy đức Phật cũng có mặt trong chỗ những
người nông dân đang đợi chia phần. Ở đây ghi lại cuộc đối thoại giữa Bàlamôn và đức
Phật như sau:

“- Tôi cày và gieo rồi sau khi xong việc tôi mới ăn. Này Sa môn Ngài cũng phải
cày và gieo rồi sau đó mới được nhận phần cơm.

- Này Bàlamôn ta cũng cày và gieo, rồi khi ta làm xong ta mới ăn.

- Chúng tôi không thấy Đạo sư Gotama dùng cái ách hay cái cày, sao Ngài lại bảo
như thế?

- Ta gieo hạt giống chánh kiến, cây cày là trí tuệ, tinh tấn là đôi bò kéo cày, thành
quả lao động của ta là trạng thái bất tử. Bất cứ ai làm xong việc ấy sẽ được giải thoát khổ
đau”[6-94]

Đức Phật đã gieo hạt giống chánh pháp vào trong tâm của Bàlamôn Ngài đã dùng
ẩn dụ cách người gieo hạt nó rất thích hợp vào hoàn cảnh của Bàlamôn Bhàravadvàja.
Cách giáo dục ấy thật có hiệu quả tức thì. Những hạt giống bằng lời mà đức Phật đã gieo
vào tâm vị ấy, nhờ sự cảm hoá của đức Phật và niềm tin được xây dựng sau khi tỉnh ngộ.
Bàlamôn đã theo Phật xin xuất gia và trở thành vị Tỳ kheo.

Ngoài ra, trong các cuộc đàm thoại với cá nhân, đức Phật thường sử dụng một vài
phương pháp học thuật làm cho các cuộc đàm thoại trở nên sinh động thường làm cho
người tranh luận trình bày rõ quan điểm của mình và chấp nhận một lập trường tư tưởng
nào đó, nhưng đến với những vấn đề siêu hình, phi thực tế không liên quan đến việc tu
tập và thực hành đưa đến sự giải thoát đối với những vấn đề này thì người hỏi sẽ nhận
được sự im lặng từ nơi Ngài. Như trường hợp của du sĩ ngoại đạo Vacchagotta đã đặt 10
câu hỏi siêu hình với đức Thế tôn rằng: “thế giới là thường trú? là không thường trú? là
hữu biên? là vô biên? Sinh mạng và thân thể là một hay là khác? Như Lai có tồn tại sau
khi chết? Như Lai không tồn tại sau khi chết? Như Lai không tồn tại và không tồn tại sau
khi chết? [6-314].

Trong khi Vacchagotta tỏ ra rất băn khoăn hầu như bị vấn đề kia ám ảnh, thì đấng
Đạo sư đầy từ bi và trí tuệ lưu tâm chú ý đến con người này luôn tìm kiếm hoang
mang .Nếu lúc ấy Đức Phật thuyết giảng dông dài về chân lý siêu hình như thế vô tình
làm cho anh chàng tội nghiệp kia đã hoang mang lại càng hoang mang thêm. Vì thế Ngài
dẹp các câu hỏi sang một bên bằng cách im lặng, không giải đáp.

Không dừng ở đó, vấn đề đã được tái diễn một lần nữa khi Vacchagotta hoài nghi
và đặt vấn nạn về trú xứ đi về của một Alahán sau khi nhập diệt như sau: “Thưa Tôn giả
Gotama một vị Tỳ kheo được tâm giải thoát như vậy sau khi chết sanh về đâu?[6-319] và
cũng chính vì muốn đánh tan sự hoạt náo và hí luận hình thức và mang định kiến về cái
ngã linh hồn hay vĩnh cửu của Vaccha. Thế tôn đã sử dụng ẩn dụ ngọn lửa để giải thoát
và khai phóng tâm thức cho Vaccha. Đức Phật dạy : “Này Vaccha ngọn lửa này được tắt
trước mặt ông, ngọn lửa ấy về hướng nào, phương Đông, phương Tây, phương Bắc hay
phương Nam. Được hỏi như vậy Ông trả lời như thế nào?”[6-322].

Thông qua lối ẩn dụ đầy minh hoạ mang tính nghệ thuật và khoa học qua cách
giáo dục của đức Phật, cuối cùng Vacchagotta đã nhận ra rằng nếu ngọn lửa cháy lên do
những nguyên liệu cấp khi nguồn nguyên liệu ấy không còn thì phương hướng của ngọn
lửa đã tắt cũng không truy ra được phương nào. Lúc bấy giờ du sĩ Vacchagotta đã hiểu rõ
vì sao Phật thường im lặng từ những câu hỏi phi lý của cuộc đời, phải chăng sự im lặng
vĩ đại ấy đã mang lại hiệu quả đối với Vacchagotta hơn bất kỳ sự trả lời hay thoả thuận
nào, và cũng chính trong giây phút thiêng liêng đáng nhớ ấy Vacchagotta đã vô cùng kính
nể đê đầu đảnh lễ tán thán Thế tôn: “Thật vi diệu thay! Tôn giả Gotama! Như người dựng
đứng những gì đã bị quẳng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho
người lạc hướng, đem đèn sáng vào trong tối để những ai có mắt có thể thấy sắc, cũng
vậy, chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích.
Con xin quy y Tôn giả Gotama, Quy y Pháp, Quy y Tăng. Mong Tôn giả nhận con làm đệ
tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung con nguyện trọn đời quy ngưỡng.”[6-325]

Tóm lại, dù là thuyết giảng, phân tích hay đàm thoại, tranh luận. Đức Phật đều sử
dụng một loạt các phương pháp giáo dục thực hành tiêu chuẩn. Ngài nhằm vào trình độ
tri thức của người học và tuyên giảng cùng một ý tưởng bằng nhiều phương thức khác
nhau tuỳ theo bản tánh và thể chất của người nghe. Ngài bắt đầu bằng những điều đã hiểu
biết và nhấn mạnh vào việc ấy như một nguyên tắc căn bản trong tất cả các lời Ngài dạy.
Ngài không đề cập đến những điều suy đoán làm lãng phí thời gian và khuyên nhủ ta nên
cố gắng “Biết về sự vật như nó thực đương là”.

Nói chung, trong suốt những năm còn tại thế đức Phật đã thành công trên con
đường hoá độ quần sanh truyền đạo của Ngài thực linh động và thực tế. Sự linh động
trong Ngài làm cho con người có niềm tin với chánh pháp, từ bỏ các lỗi lầm từ trước do
sự thực tế của Ngài đã làm cho vô số người tỉnh ngộ xa rời tà kiến, chấp thủ mà bấy lâu
nay họ mê mờ như trong nhà tối. Và tất cả những thành công của Ngài đều nhờ vào nghệ
thuật tinh ba của Ngài trong cách thuyết pháp tuỳ vào từng đối tượng mà Ngài dùng cách
hoá độ như trong kinh nói“Này Kosi, ta điều phục những người đáng điều phục, khi thì
ôn hoà, khi thì cứng rắn, khi thì vừa ôn hoà vừa cứng rắn”.[5-122] và “Có những trường
hợp Ngài trả lời trực tiếp, có những trường hợp Ngài phân tích, cũng có những trường
hợp Ngài giải quyết bằng cách hỏi lại và cũng có những vấn đề Ngài dẹp qua một
bên”[10-94]

Và trong suốt 45 năm du phương hành hoá, hầu hết mỗi người theo Ngài đều tôn
xưng Ngài là bậc Thầy của loài trời và loài người (Sathà Devamanussànam) là bực điều
phục con người (Prurisa Dhammsàrathi) đây là hai trong mười danh hiệu được sử dụng
trong hình thức tôn kính Phật. Qua các kinh điển đều tôn xưng Ngài là bậc đạo sư vì
“Đức Thế tôn là bậc dẫn đạo đoàn lữ hành, vì Ngài đưa những người lữ hành về đến nhà.
Như một người dẫn đạo lữ hành đưa chúng qua sa mạc, đầy những kẻ cướp, không thức
ăn, không nước uống, khiến cho chúng vượt qua, vượt qua một cách thích nghi, đưa
chúng đến mãnh đất an ổn. Cũng thế, Thế tôn làm bậc dẫn đạo lữ hành, người đưa kẻ lữ
hành về đến nhà, đưa chúng qua sa mạc sanh tử [11-351] và những năm còn tại thế đức
Phật đã hoá độ vô số chúng sanh, những người đi theo Ngài xin xuất gia ngày một đông
đúc, tạo thành một giáo đoàn Tăng lữ rất lớn mạnh, phân bố đi hoằng hoá khắp nơi.
Trong đó chưa kể đến hàng Cư sĩ tại gia luôn luôn ủng hộ giáo hội của Ngài từ các
phương tiện vật chất, tạo điều kiện cho Tăng chúng tu học. Vì vậy, vào thời đức Phật,
giáo đoàn dưới sự lãnh đạo của đức Thế tôn đã tạo nên một uy tín rất mạnh mẽ, nó ảnh
hưởng đến đời sống xã hội thời ấy. Đức Thế tôn còn hết sức quan tâm và chú ý đến đời
sống hiện tại và tương lai của đồ chúng. Mục tiêu của Ngài là đưa tất cả đệ tử mình vượt
qua bể sanh tử, tìm được sự an lạc ngay trong cuộc sống hiện tại và vĩnh cửu trong tương
lai. Và cũng như vậy Tăng lữ thời đức Phật luôn luôn tôn trọng Ngài là bậc dẫn đường,
Người đã đem lại chân lý giác ngộ cho quần sanh. Đây chính là mối quan hệ tốt đẹp giữa
bậc Đạo sư và đệ tử của mình trong thời đức Phật.

2.2 Quan hệ giữa Đức Phật và chúng đệ tử

Sau bài pháp chuyển pháp luân của đức Phật tại vườn Lộc Uyển (Mrganika) giáo
đoàn được thành lập với 5 vị Tỳ kheo, lúc này người Ấn Độ chưa biết gì về đức Phật.
Đến lúc giáo đoàn đông dần và các lớn đã đầy đủ khả năng và đạo hạnh để tự mình đi
hành hoá các nơi, thì mọi người mới biết đến đức Phật. Cho đến gần một năm sau khi đức
Phật thu phục được ba anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, tiếp đến là Xá Lợi Phất
(Sariputta), Mục Kiền Liên (Moggallana) và không lâu sau nữa là đại Ca Diếp
(Mahakassapa), thì tiếng tăm của đức Phật mới thực sự vang khắp bốn phương.

Trong suốt cuộc đời hoá độ, số người quy hướng về Thế tôn rất nhiều, riêng
chúng đệ tử xuất gia cả Tăng lẫn Ni cũng lên đến hàng vạn, dĩ nhiên là không làm sao
tránh khỏi có những phần tử kém phẩm hạnh, nhưng chỉ là những phần tử nhỏ, còn đại đa
số đều là những Phật tử chơn chánh, thuần thành, siêng năng tu học, nhiệt tình phụng sự
chúng sanh. Chư vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni chứng quả Alahán, được liệt vào hàng thánh
chúng rất nhiều mà các Cư sĩ tại gia chứng quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm cũng không
phải ít.

Nói đến chúng đệ tử của đức Phật không thể không nhắc đến mười vị đệ tử lớn
nhất của Ngài (thập đại đệ tử) mỗi vị có một bản lĩnh, vị này giỏi về phương diện này, vị
khác xuất sắc về phương diện kia. Như Xá Lợi Phất (Sariputta) trí tuệ bậc nhất; Mục
Kiền Liên (Moggallana) Thần thông quảng đại bậc nhất; Phú Lâu Na (Purna-Punna)
giảng sư tài giỏi nhất; Tu Bồ Đề (Subhuti) thể nhập diệu lý “không” hơn ai hết; Ca Chiên
Diên (Kaccayana) vị luận sư lỗi lạc nhất; Đại Ca Diếp (Mahakassapa) vị trưởng lão tu
khổ hạnh mẫu mực nhất; A Na Luật (Anuruddha) mặt trời thấy suốt, không gì chướng
ngại; A Nan (Ananda) vị thượng thủ nghe nhiều nhớ kỹ nhất và la Hầu la (Rahuda) oai
nghi tế hạnh bậc nhất. Có thể nói đó là mười vị đệ tử tiêu biểu nhất của tăng đoàn. Chính
các Ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc
hoằng pháp độ sanh làm cho Phật pháp ngày càng hưng thịnh trên khắp lãnh thổ Ấn Độ
thời đó và còn lưu truyền mãi cho đến ngày nay.

Nhìn vào số đệ tử của Phật, xuất gia cũng như tại gia chúng ta có thể thấy rõ đức
bao dung, tâm bình đẳng và tình thương yêu bao la của Ngài đối với mọi người. Tấm
lòng của Phật như biển cả, nước của trăm sông đều chảy vào đó, chỉ trong số 10 vị đó
thôi chúng ta cũng thấy họ đại diện cho đủ mọi thành phần trong xã hội Analuật, Anan,
Lahầula vốn thuộc dòng dõi vương tôn công tử, đầy đủ quyền uy thống trị; Đại Ca Diếp,
Ca Chiên Diên xuất thân từ những gia đình giai cấp Bàlamôn danh phận cao quý tột bậc
giàu có nhất nước; Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đã từng là những nhà học giả lỗi lạc, là
lãnh tụ của một hệ phái ngoại đạo, dưới trướng có hàng trăm đồ chúng. Phú Lâu Na, Tu
Bồ Đề sanh trưởng trong những gia đình giàu có thuộc giai cấp phú thương, nghiệp chủ
và sau cùng là Ưu Ba Li xuất thân từ giai cấp nộ lệ, nghèo khổ, thất học tất cả những vị
này, từ gia thế, trình độ danh phận địa vị trong xã hội thật khác nhau, nhưng khi đã hoà
nhập vào nếp sống Tăng đoàn thì tất cả đều bình đẳng, yêu thương nhau như nước hoà
với sữa, đều nỗ lực tu tập và đạt đến những quả vị Alahán được mọi người kính ngưỡng.

Rải rác trong các kinh điển ghi chép lại những mẫu chuyện về đức Phật đối với đệ
tử thật cảm động, lúc thì gần gũi, dịu dàng chăm sóc ân cần như một người mẹ, khi thì
nghiêm nghị quở phạt cứng rắn như một người cha, lúc thì thể hiện sự đoan nghiêm đỉnh
đạc của bậc thánh nhân. Với chúng Tỳ kheo ni Ngài quan tâm đến cả những chuyện rất tế
nhị như cái bệnh y, đi đại tiện thì tẩy tịnh ra sao, vì vào thời Ấn Độ cổ đại thì cuộc sống
không văn minh như bây giờ, vả lại cuộc sống của Ni chúng thì khổ hạnh, sống tập thể thì
cần phải có vệ sinh sống trong chúng với nhau cần giúp đỡ nhau như thế nào, vào làng
xóm thì khuyên không được đi một mình, không được đi đêm một mình vì sợ gặp đạo
tặc, khi có người dâng cúng thức ăn quá nhiệt tình thì phải xét xem họ có tâm nhiễm ô
hay không mới được thọ nhận.v.v nhiều và rất nhiều nữa những tình cảm ấm áp mà đức
Phật đã dành cho chúng đệ tử, ân cần, che chở không gì sánh hơn được nữa. Ở thế gian,
trong nhà chỉ có nhiều lắm là mười đến mười lăm người con thôi mà bậc làm cha làm mẹ
có khi còn hời hợt không dạy dỗ quan tâm đến con cái được chu đáo, vậy mà trong Tăng
đoàn của Phật có hàng vạn người, xuất thân từ đủ mọi thành phần, mọi tầng lớp, mọi
trình độ cho đến tánh tình đều khác biệt nhau, vậy mà một đấng chí tôn chí kính như Ngài
vẫn điều phục được cả, đưa họ vào dòng Thánh bằng cách này, phương tiện nọ mà không
nản lòng mặc dù chúng sanh cõi ta bà vốn rất cang cường khó điều phục. Và cũng như
cảm nhận được cái tình thương vô già của Phật nên chúng đệ tử khi có gặp khúc mắc gì
dù chuyện lớn hay nhỏ, thậm chí cho đến những vấn đề rất riêng tư mà không giải quyết
được cũng đều đem đến bạch Phật để nghe Phật dạy bảo, hoặc để sám hối khi phạm lỗi
lầm mà không hề dấu giếm. Trong chúng ta ai ai cũng biết câu chuyện của Ngài Anan
mắc nạn Ma Đăng Già, Phật đã cho người đến cứu Anan và mở hội Lăng Nghiêm để độ
cho Ma nữ. Cái đạo tình thầy trò của đức Phật cũng êm ái dịu dàng không khác gì tình
thương yêu của một gia đình của những người bình thường nó làm rung động lòng người.
Trước khi dạy họ trở thành một bậc Thánh thì Ngài đã dạy cho họ cách hoàn thiện một
con người, biết sống hoà hợp thương yêu những người sống quanh mình.

Ngài thật sự chia xẻ với những khó khăn của mọi người, tận tuỵ quan tâm tháo
gỡ những khúc mắc, những chướng ngại trong quá trình tu tập của từng vị đệ tử, luôn
luôn sách tấn động viên chúng Tăng nỗ lực tu tập, phải có Chánh kiến, Chánh Tư duy,
các Lý Duyên sinh có mặt trong cuộc sống. Trong một bài pháp thoại với các tỳ kheo ở
Savathi, đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo! Vô thuỷ là vòng sanh tử luân hồi này. Khởi
điểm không thể nêu rõ từ đâu chúng sanh bị vô minh bao phủ, bị tham ái trói buộc đã lưu
chuyển trong sanh tử lộ này. Chư vị nghĩ thế nào, này các Tỳ kheo! Cái gì nhiều hơn
nước trong bốn đại dương hay những dòng lệ tuôn chảy khi các vị lưu chuyển lang thang
trong sanh tử lộ này, kêu gào khóc than vì gặp gỡ những gì mình ghét bỏ, chia lìa những
gì yêu thương và không đạt được những gì mình mong muốn” [6-312]

Đây chính là lời dạy trong những năm còn ở đời đức Thế tôn đã luôn luôn nhắc
nhở chư vị đệ tử, song đối với đức Phật Ngài không bắt buộc, hay cưỡng chế đệ tử mình
phải hành theo một pháp mà họ không thể thích hợp mà trái lại Ngài luôn luôn tuỳ thuận,
khuyến khích họ phát triển những phương pháp phù hợp với căn cơ của mình. Mặc khác
Ngài giải thích, phân tích những gì đại chúng chưa sáng tỏ. Cụ thể như trường hợp Ngài
Đại Ca Diếp (Mahakassapa). Như trên đã nói Ngài được mệnh danh là người tu hành khổ
hạnh và mẫu mực bậc nhất, nhưng trong chúng Tăng có những vị Tỳ kheo mới xuất gia
đâu biết Tôn giả là ai, vì thế trong lúc Tôn giả về hầu Phật, thấy dung nhan tiều tuỵ, râu
tóc dài ngoằn, y áo chắp vá, chân bước khập khễnh, các tân Tỳ kheo tỏ ý khinh rẻ. Đức
Phật biết rõ tâm của các tân Tỳ kheo bằng cử chỉ cao đẹp ngài nhìn Ca Diếp và nói: - Hãy
lại đây, thầy Ca Diếp! Như Lai đã chừa sẵn một chỗ ngồi ở đây, thầy hãy đến ngồi cùng
với Như Lai.

Sau đó, Ngài hướng về đại chúng, tán thán oái đức rộng lớn vô lượng của Ngài
đại Ca Diếp, cũng như lịch trình tu hành của tôn giả thật giống như đức Phật. Vì vậy, đối
với Ca Diếp, Phật đặc biệt coi trọng Tôn giả và khẳng định cho Tôn giả một địa vị trọng
yếu trong Tăng đoàn. Nhưng cũng có có điều làm cho đức Phật lo lắng khi thấy Tôn giả
đã lớn tuổi lại phải lao khổ thái quá, cảm nhận được thâm tình sâu sắc và sự ân cần của
đức Phật dành cho mình nên Tôn giả đã trấn an Ngài rằng: “Bạch Thế tôn! Nếp sống khổ
hạnh đối với con không có gì khổ sở thái quá cả, trái lại còn là một nếp sống vô cùng an
vui. Con không phải lo lắng gì về cơm ăn áo mặc, không liên quan gì đến sự được mất
của đời người, thật là một nếp sống hoàn toàn thanh tịnh, tự do và giải thoát. Bạch Thế
tôn! Lẽ dĩ nhiên người ta sẽ cho rằng con sống như vậy là chỉ để sống cho riêng mình,
không như các vị Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên.v.v. từng
gánh vác trách nhiệm hoằng dương chánh pháp, không sợ khó khăn, không tiếc thân
mạng, chỉ cốt làm sao cho bánh xe pháp được quay mãi, cho mọi chúng sanh đều được
thấm nhuần pháp vị, đều được ân hưởng pháp lạc. Nhưng dù không đủ nhiệt tình đối với
công việc hoằng pháp, con vẫn không bao giờ quên được ân đức của Thế tôn đối với con,
và vì để báo đền ân đức của Thế tôn đối với con nên con cố giữ nếp tu khổ hạnh. Con
trộm nghĩ chúng sanh được cứu độ là toàn nhờ vào sự giáo hoá của Tăng đoàn. Những vị
làm công tác hoằng pháp sẽ trở thành những vị pháp sư gần gũi nhất của dân chúng, cho
nên trước hết tự bản thân họ cũng tức là tự bản thân của Tăng đoàn cần phải được kiện
toàn như thế nào? Con nghĩ chỉ có một cách duy nhất là tăng đoàn phải có một nếp sống
sinh hoạt thật nghiêm túc để từ đó mà bồi dưỡng đức hạnh cho cá nhân mình. Trong giáo
pháp của Thế tôn thì hạnh Đầu Đà là một phương thức sinh hoạt nghiêm túc nhất. Phải tu
tập nếp sống này thì mới chịu được khó nhọc, mới có thể nhẫn nại, mới có thể sống đạm
bạc, mới có thể nhất tâm nhất đức và vì pháp vì người. Bạch Thế tôn! Con cũng vì muốn
góp phần trực tiếp củng cố tăng đoàn và đồng thời gián tiếp làm lợi lạc cho chúng sanh
nên vẫn hoan hỷ tiếp tục nếp sống khổ hạnh. Xin Thế tôn tha thứ tội cố chấp của con” [9-
237]

Tình cảm của đức Thế tôn và chúng đệ tử thật cao quý, vừa lặng lẽ vừa chân tình
đầy đạo vị vừa tôn trọng lẫn nhau. Qua cử chỉ của các Ngài thật là sâu lắng và cảm động.
Đối với tôn giả Ca Diếp đức Thế tôn vừa quan tâm vừa khích lệ, còn đối với Analuật
Ngài vừa thân tình vừa thực tế. Cụ thể như sau khi bị mù mắt cuộc sống của Tôn giả
trong Tăng đoàn thật khó khăn bất tiện, nhất là đối với việc may vá và khất thực. Các Tỳ
kheo khoẻ mạnh có lệ mỗi khi đi khất thực về đều chia phần cho Tôn giả, nhưng còn việc
may vá thì là một trở ngại lớn. Vì thế khi ba y của Ngài đã rách Tôn giả Anan phải tìm
người may phụ với mình. Đức Thế tôn biết việc bèn hỏi Anan:

“- Anan! Thầy muốn tìm người giúp thầy Analuật vá áo phải không? Sao thầy
không nhờ Như Lai giúp cho?

Tôn giả Anan giật mình vội thưa:

- Bạch Thế tôn! Ngài là bậc chí tôn chí quý, còn đây chỉ là việc nhỏ nhặt của
chúng con, chúng con đâu dám làm phiền đức Thế tôn!

- Thôi thầy đừng nói thêm gì nữa, Như Lai muốn tự mình giúp Analuật, Như Lai
sẽ cùng với thầy đi đến đó.

Khi đến nơi Phật bảo:

- Này Analuật! Thầy hãy lấy kim chỉ ra, Như Lai sẽ giúp thầy vá áo. Nghe thấy
tiếng của Phật, Analuật vô cùng sững sốt. Trong đôi mắt mù ấy người ta nhìn thấy có
những giọt nước mắt chảy ra vì quá xúc động. Tôn giả chỉ biết im lặng mà không nói
được nên lời và chỉ trong ngày ấy, Ngài đã giúp Analuật may xong ba y”[9-260]

Tình thương của đức Phật đối với đệ tử thật ấm áp và sâu sắc, ấp ủ chở che , gần
gũi tận tuỵ như một người mẹ, nghiêm nghị như một người cha, mẫu mực như một người
thầy bao dung độ lượng. Còn chư vị Tỳ kheo đối với đức Phật thì như thế nào? Chúng đệ
tử được sống dưới sự dìu dắt của Ngài thật là an lạc, tinh tấn, luôn phát huy được các sở
trường của mình và hàng phục tâm bằng phương pháp Thiền định. Tình cảm của chư đệ
tử dành cho Ngài vừa ngưỡng mộ vừa kính trọng và tình cảm ấy vượt lên trên sự thương
yêu bình thường. Bởi vì đối với Ngài một bậc đạo sư thuyết giảng không biết mệt mỏi.
Ngài luôn nhấn mạnh các sầu khổ phát sanh từ mọi luyến ái và đánh giá thấp mọi dây
ràng buộc thương yêu thắm thiết. Ngài yêu cầu sự tôn trọng thích hợp đối với một bậc
giác ngộ, nhưng lại từ chối những cách bày tỏ tình cảm quá nồng nhiệt như thế đi ngược
lại với giáo pháp, đây là điều duy nhất ngài xem là quan trọng, còn Ngài chỉ là một cá
nhân đứng lùi lại đằng sau giáo pháp.

Khi nói đến chúng đệ tử của Ngài, ngoài những vị tu tập tinh tấn, có đức hạnh,
xây dựng ngôi nhà Tam Bảo, xiển dương chánh pháp, phụ tá với Ngài trên con đường
vận chuyển bánh xe chánh pháp, thì cũng cần nói đến một chút những phần tử quá khích,
phóng tung buông lung, kiêu căng ngã mạn, ganh tỵ chia rẽ Tăng chúng, làm mất lòng tin
của quần chúng ảnh hưởng đến Tăng đoàn và đức hạnh của chúng Tăng. Những thành
phần này tuy không nhiều nhưng không phải là không có cụ thể như ông Đề Bà Đạt Đa
(Devadatta) vị đệ tử luôn luôn tìm mọi cách để chống đối Ngài, hoặc như Xa Nặc
(Channa) ỷ mình gần Phật từ lâu nên sanh kiêu căng, coi thường chúng Tăng, đòi hỏi đủ
điều.v.v. Các vị ấy hoặc là vô tình hoặc là cố ý đã hạ uy tín của Ngài. Nhưng với tình
thương của bậc đạo sư, cùng với đức hạnh oai nghiêm thánh thiện của Ngài đã điều phục
được họ và cuối cùng đưa họ về bến giác.

Trong Tăng đoàn ngoài các Tỳ kheo Tăng còn có chúng Tỳ kheo ni chúng ta hãy
nhìn lại những sự lân mẫn mà Ngài dành cho chúng Tỳ kheo ni. Ban đầu thì Phật không
chấp nhận cho nữ giới xuất gia vì người nữ nghiệp nặng làm cho Phật pháp sớm diệt
vong. Sau đó, nhờ Ngài Anan tha thiết cầu khẩn Phật mới đồng ý cho người nữ xuất gia
với điều kiện là suốt đời vâng giữ Bát Kỉnh pháp. Phật nói với Anan rằng: “Này Anan!
Nếu nữ giới không được phép xuất gia sống không gia đình trong pháp và luật này, đời
sống phạm hạnh có thể tồn tại lâu dài, chánh pháp có thể tồn tại một ngàn năm, những
nay nữ giới đã được xuất gia, đời phạm hạnh sẽ không tồn tại lâu dài và chánh pháp chỉ
tồn tại năm trăm năm” [5-649]

Mặt khác sự có mặt của Tỳ kheo ni trong giáo hội và sự thân cận nữ nhân cũng là
mối đe doạ thường xuyên đối với phạm hạnh của Tỳ kheo tăng. Thậm chí việc gặp giây
lát với người nữ cũng có thể gợi lên niệm dục trong tâm vị Tỳ kheo chưa chứng đắc và có
thể làm cho vị ấy thối thất trên con đường giải thoát, đức Phật đã nhắc nhở rằng: “Này
các Tỳ kheo! Ta không thấy một hình sắc nào làm say đắm tâm trí của đàn ông như hình
sắc của đàn bà. Ta không thấy một âm thanh, một mùi hương, một xúc nào làm say đắm
tâm trí đàn ông như âm thanh, mùi hương, vị, xúc của đàn bà” [5-9]. Ngoài ra người nữ
thường hay xảo trá, lừa dối, che dấu, mưu mẹo.v.v “Này các Tỳ kheo! có ba pháp này
hành động được che dấu chứ không biểu lộ đó là sở hành của nữ nhơn; chú thuật của
Bàlamôn và tà kiến” [5-129].

Tuy nhiên không phải vì những điều trên mà chúng ta cho rằng đức Phật có thành
kiến với nữ giới, mặc dù Ngài đã suy xét nữ giới tuyệt đối yếu kém về phương diện đạo
đức nhưng Ngài công khai xác nhận khả năng của nữ giới cũng có thể chứng đắc. Vì vậy
ở Tỳ kheo có Trưởng lão Tăng kệ, thì ở Tỳ kheo ni có Trưởng lão Ni kệ trong đó có
những bài kệ tán thán thành quả tu tập của của chư vị Tỳ kheo ni và còn lưu truyền cho
đến ngày hôm nay. Trong giáo đoàn của Phật cũng có 10 Tỳ kheo ni làm đại đệ tử thì kết
quả tu tập của các vị cũng rất tương xứng cụ thể như bà Mahapajapati thay Thế tôn lãnh
đạo Ni chúng; như nữ Tôn giả Khema tu tập về trí tuệ và thiền quán đệ nhất; nữ Tôn giả
Uppàlavana (Liên Hoa Lâm) thần thông đệ nhất; nữ Tôn giả Kisagotami hạnh mang y thô
đệ nhất; Tỳ kheo ni Sonà tinh cần đệ nhất.v.v.

Mối quan hệ giữa đức Phật và chúng đệ tử rất tôn trọng và thương yêu nhau. Ngài
luôn là tấm gương chói sáng để hàng đệ tử noi theo, và làm chỗ nương tựa vững chắc
cho chúng sanh quy ngưỡng, Ngài được tôn xưng là bậc Minh hạnh túc có nghĩa là minh
trí và giới hạnh của Ngài hoàn toàn viên mãn “Minh trí của Thế tôn là sự viên mãn biến
tri, còn giới hạnh của Ngài là sự viên mãn Đại Bi. Nhờ biến tri mà Ngài biết rõ cái gì tốt
cái gì có hại cho hữu tình. Nhờ Đại bi mà Ngài báo cho chúng biết để tránh điều hại và
khích lệ chúng làm điều lành, làm cho họ theo chánh đạo mà không lạc vào tà đạo, những
đệ tử hành thân hoại thể của những ông thầy không có minh trí và giới hạnh đã làm”[11-
340]

Ngoài ra Ngài luôn luôn coi trọng mối quan hệ Thầy trò trong giáo đoàn Ngài
cho phép các thầy Tỳ kheo có đủ trình độ và đủ đức hạnh ra hoằng pháp độ sanh và thâu
nhận đệ tử. Ngài thường nhắc nhở môn đồ phải giữ gìn đạo hạnh và bổn phận tương xứng
vị trí của mình. Ngài dạy: “Đạo nghĩa Thầy trò phải lấy đạo cảm hoá tự nhiên phải cùng
nhau có lòng tin cậy, thân hậu, xem trò như mình, việc chi mình chẳng muốn làm, đừng
trách sao trò không làm. Phải lấy đạo đức rộng dạy: kính trọng lễ phép cho trò, phải thuận
hoà trung tiết, không nên đem lòng oán trách kiện cáo cùng nhau. Kẻ đệ tử cùng thầy hai
bên đều chân thành: bực thầy cho ra bực thầy, kẻ làm trò cho đáng kẻ làm trò thì mới
được” [18-130]

Và trong suốt những năm còn tại thế tình thương đức Phật đã đem đến niềm hạnh
phúc tuyệt đối cho đệ tử, khích lệ chúng Tăng nắm vững Giới, Định, Tuệ làm căn bản
cho phương pháp tu tập, hàng phục chướng ngại do ngoại cảnh cũng như nội tâm, trau
dồi một tư cách tốt đẹp đầy đủ phẩm hạnh của của một vị Tỳ kheo, Tỳ kheo đi vào đời
mà không bị đời làm ô nhiễm, giống như hoa sen ở trong bùn mà không tanh mùi bùn,
như ong hút mật mà không làm tổn hại đến hoa. Tình thương rộng lớn vĩ đại của đức Phật
cho đến lúc sắp nhập Niết bàn, Ngài cũng còn lo lắng quan tâm và gạn hỏi đại chúng
nhiều lần, lúc mà đại chúng cảm nhận sự mất mát lớn lao nhất nên không ai hỏi gì. Thế
nhưng Phật vẫn nói với Tôn giả Anan: “này Ananda! nếu như trong các ngươi có người
nghĩ rằng: “Lời nói của bậc đạo sư không còn nữa, chúng ta không có đạo sư! Này
Ananda! Chớ có những tư tưởng như vậy. Này Ananda! Pháp và luật ta đã giảng dạy và
trình bày sau khi ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là đạo sư của các ngươi” [7-664]

Và lời cuối cùng đức Phật nói với chư Tỳ kheo trước khi xả bỏ báo thân. Đức
Phật dạy: “Này các tỳ kheo! Nay ta khuyên dạy các ngươi, các pháp hữu vi là vô thường,
hãy tinh tấn, chớ có phóng dật” [7-665]
2. 3 Liên hệ Thầy trò trong Phật giáo

Sau khi đức Thế tôn nhập diệt Ngài Mahakassapa cùng các đại đệ tử lớn đã triệu
tập Tăng chúng để kết tập kinh điển, thống kê lại toàn bộ những bài pháp và giới điều mà
đức Thế tôn còn tại thế đã dạy rải rác khắp những nơi. Nhờ đó, khi đức Thế tôn nhập diệt
Tăng chúng không có sự hỗn loạn và Phật pháp được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác, từ nước này đến nước khác như: Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Srilanka, Miến
Điện, Tích Lan.v.v. mạng mạch của Phật pháp nhờ đó được xiển dương rộng lớn.

Tuy nhiên, trong quá trình chuyển biến theo chiều dài lịch sử thăng trầm của mỗi
dân tộc, có ảnh hưởng đến sự thịnh suy của Phật pháp lúc đó tưởng rằng Phật pháp đã bị
diệt vong qua sự tàn pháp của người bất tín ngôi Tam Bảo, nhưng thật ra nó không bị tiêu
diệt mà tiềm ẩn để đến thời lại khởi sắc, tất cả đều nhờ vào sự truyền thừa của các vị Tổ
sư, một lòng không mỏi mệt quyết tâm đem Phật pháp vào thế gian, giống như người
đem ánh sáng đến phá tan bóng tối. Những hình thức truyền thừa này chính là sự truyền
đăng tục diệm, nối gót con đường của Như Lai việc làm đó gọi là “hành Như lai xứ, tác
Như Lai sự”. Các Ngài đã độ rất nhiều người, xuất gia cũng như tại gia.

Về sau, chúng ta thấy có chia ra nhiều hệ phái khác nhau như Thiền tông, Tịnh độ
tông, Mật tông… trong các tông phái đó lại có nhiều chi phái nhỏ. Tông phái nào cũng
phải có sự ấn chứng từ Thầy truyền cho học trò, chính nhờ đó mà hệ thống giáo dục được
tồn tại qua nhiều thế hệ và làm nền tảng đạo đức trong đời sống cá nhân và xã hội, vì thế
giáo lý và cách vâng giữ giới luật cũng có phần biến dạng để cho phù hợp với phong thổ
của từng quốc độ và tông chỉ của hệ phái đó.

Trong hình thức truyền thụ giữa Thầy và trò có sự sai biệt theo từng hệ phái,
nhưng mục đích thì đều giống nhau. Vị thầy luôn mong muốn đệ tử mình lãnh ngộ được
chân lý tối thượng.Ở phong cách truyền đạo của thiền tông có thể nói là rất mạnh bạo, la
hét, đánh mắng, xua đuổi.v.v. khiến cho người hỏi đạo buông xả tất cả không bị câu thúc
bởi cái ác hoặc cái thiện, nhận cho ra cái thực thể không bị vướng mắc vào bất kỳ đâu, xa
lìa được tất cả các phạm trù đối đãi, hoàn toàn thong dong tự tại. Ở Tông phái tịnh độ thì
dễ hiểu, có phần nhẹ nhàng hơn và phổ cập các căn cơ, nương vào câu niệm Phật lấy đó
làm đề mục để chú tâm, thanh lọc tạp niệm đưa đến sự tỉnh tâm, vắng bặt trần duyên cho
đến nhất tâm bất loạn thì “hoa khai kiến phật ngộ vô sanh” tức là cũng đưa đến chỗ chấm
dứt luân hồi. Ở Mật tông thì có sự mật hộ của thần chú, thế nhưng người tu pháp môn này
thì đòi hỏi sự định tâm cao độ thì mới có kết quả phát huy được năng lực huyền bí của
những câu thần chú. Tựu trung lại ta thấy dù ở khía cạnh nào thì mục đích cuối cùng là
nhận ra được bản lai diện mục của chính mình và như thế chúng ta thấy rõ được người
thầy phải có trách nhiệm với học trò không đơn giản chút nào, có câu: “giáo bất nghiêm
sư chi đọa”ỉ là vậy!

Cha mẹ sanh cho ta tấm thân tứ đại có sanh có diệt, công ơn ấy đã được từ bậc
Thánh cho đến phàm phu đều rất coi trọng và tôn thờ. Còn Thầy trao cho ta giới thân tuệ
mạng, dìu dắt ta từng bước một, vui mừng khi thấy đệ tử mình siêng năng tinh tấn, lo
lắng mỗi khi học trò mình mỏi gối chồn chân, nuôi làm sao, dạy thế nào để chúng đi đúng
đường mà không bị hoa thơm cỏ lạ làm vướng chân. Có rất nhiều câu chuyện viết về sự
việc thầy dạy trò cũng giống như đức Phật vậy, bằng cách này hoặc cách khác tuỳ theo
căn cơ của từng người mà dạy, dụng nhơn như dụng mộc, không khuôn sáo, không gò ép
miễn làm sao đạt được mục đích thì thôi. Như vậy mối quan hệ thầy trò trong thiền môn
là một mối quan hệ đặc biệt, trong đó thầy chịu trách nhiệm hoàn toàn về sự nghiệp tu
đạo của học trò, còn học trò hoàn toàn tin tưởng vào thầy. Nhờ mối quan hệ như thế
người thầy theo dõi rất sát, nắm vững trình độ của học trò mình, những gì còn vướng mắc
trong quá trình tu tập của họ, những câu chuyện trao đổi giữa thầy và trò, những câu
chuyện thiền được ghi lại trong các sách ngữ lục của các thiền sư và thường được gọi là
công án hay thoại đầu đã phản ảnh mối quan hệ đó.

2.3.1 Hình ảnh thầy trò qua các câu chuyện Thiền

Lối công án hay thoại đầu của các vị Tổ không những đặt ra những câu hỏi lạ khó
hiểu, mà những câu trả lời cũng rất khó nghe, mục đích của các vị này là muốn học trò
không nên biểu hiện suy tư mà hãy nhìn thẳng vào thực tại và tự mình nhìn lấy, chứ
không ai có thể làm thay cho mình được cả, kể cả thầy mình. Điển hình như ngài Huệ
Khả xin tổ Đạt Ma an tâm cho mình, Tổ nói: “Hãy đem tâm nhà ngươi đến đây ta an cho”
nhưng Huệ khả không tìm thấy tâm đâu, thưa lại với Tổ sư - Tổ nói: “như vậy là ta đã an
tâm cho nhà ngươi rồi đó”. Chính ngay lúc đó ngài Huệ Khả đại ngộ. Về sau tiếp nối
mạng mạch Phật pháp làm vị tổ thứ hai của Thiền tông Trung Hoa.

Cũng như thế với phong cách của nhà thiền, các thiền sư luôn luôn đánh mạnh
vào tâm thức của người cầu pháp, mới đầu nghe qua tưởng chừng như điều không thể có
trong thiền môn nhưng thực ra cách giáo dục của quý Ngài rất mạnh mẽ và cũng thực tế,
làm cho học trò hồi tỉnh chuyển đổi từ mê đến ngộ. Câu chuyện giữa ngài Lâm Tế Nghĩa
Huyền đến hỏi đạo ngài Hoàng Bá như sau:

- Bạch Hoà thượng thế nào lại đại ý Phật pháp?

Ngài Hoàng Bá liền đập cho một gậy mà không trả lời. Ba lần hỏi đạo ngài Lâm
tế cả ba lần bị ăn đòn đau đớn. Buồn tủi ngài ra đi, tổ Hoàng Bá bảo ngài Lâm Tế nên đến
chỗ thiền sư Đại Ngu mà hỏi đạo. Khi đến nơi Thiền sư Đại Ngu hỏi:

- Ông ở đâu đến?

Lâm Tế thưa

- Dạ, con ở Hoàng Bá đến

- Hoàng Bá dạy ông cái gì?

- Con ba lần hỏi đại ý Phật pháp ba lần đều bị ăn đòn, không biết con có lỗi hay
không lỗi?

Vừa nghe như vậy ngài Đại Ngu nói:


- Hoàng Bá thật là tâm lão bà (tâm như mẹ thương con) dạy người rất thống thiết,
ngươi lại đến trong ấy hỏi có lỗi không lỗi

Ngài Lâm Tế ngay câu đó đại ngộ thưa:

- Vậy thì phương pháp của Hoàng Bá rất ít

Ngài Đại Ngu liền bảo

- Con quỷ đái dưới sàng, vừa rồi nói có lỗi không lỗi, bây giờ lại nói phương pháp
của Hoàng Bá ít, ngươi thấy đạo lý gì, nói mau! nói mau!

Ngài Lâm Tế liền thoi vào hông ngài Đại Ngu ba cái. Ngài Đại Ngu xô ra và nói:

- Thầy của ngươi là Hoàng Bá chẳng can hệ gì đến ta! [26-431]

Qua mẫu đối thoại này, có lẽ đã làm người khác ngạc nhiên và không hiểu ngài
Lâm Tế ngộ chỗ nào và vì sao khi ngài Lâm Tế cầu pháp lại bị thầy của mình đánh? Vì vị
thầy của Ngài, Hoà thượng Hoàng Bá biết rõ căn cơ của học trò mình có đủ khả năng dồn
ép đến chỗ tột cùng không, sau đó nhờ người bạn khai thông để dẫn đến ngộ đạo. Điều
này có thể nhờ vào sự tinh tế của vị Thầy hướng dẫn nên ngài Lâm Tế đại ngộ về sau làm
Tổ khai sơn dòng Lâm Tế.

Tương tự như vậy khi một học trò tham vấn Phật pháp với những câu hỏi không
thực tế, dính mắc vào chữ nghĩa chấp vào cái có, không ngay lúc ấy các vị thầy tìm cách
để đưa người đó về với nghĩa trung đạo.

Có một học trò hỏi thầy mình rằng:

- Bạch thầy sống theo đạo một cách siêng năng là như thế nào?

Thầy đáp,

- Khi đói thì ăn mệt thì ngủ

Học trò thưa:-

Đó là những điều mọi người thường làm mà?

Đáp,

- Không, Không! Hầu hết mọi người đều không làm như vậy. Hầu hết mọi người
khi ăn đều đầy những suy tư, ao ước và khi ngủ lại đầy những lo toan. [12-108]

Như vậy, trên bước đường tu học điều đầu tiên cần phải có thầy hướng dẫn, nhờ
đó mà sẽ không đi lệch hướng, đưa đến sự giải thoát. Vì thế người học trò phải một lòng
tôn kính quý trọng thầy, người đã thức tỉnh và khai sáng tâm hồn, đã mở đường dìu dắt
cho ta từng bước. Thâm ân ấy thật khó đáp đền. Giống như vua Trần Nhân Tông, một bậc
chí tôn trong thiên hạ nhưng khi được ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ khai đạo nhờ vậy ngộ
được đạo lý uyên thâm bèn xốc áo lạy ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ và tôn làm thầy. Ngài
kể: “Một hôm ta hỏi về tôn chỉ công việc mình, Thượng Sĩ ứng khẩu đáp: hãy quay nhìn
lại công việc của chính bản thân mình chứ không tìm đâu khác được. Ta bỗng bừng tỉnh
con đường phải đi, bèn xốc áo thờ thầy” [20-464]

Về sau, khi xuất gia trở thành vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên tử. Thượng
hoàng Trần Nhân Tông lúc đăng đàn thuyết pháp thường nghĩ ân nặng khó đền đáp của
Thầy mình nên sai người vẽ chân dung của ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ để thờ cúng và tự
làm bài tụng tán thán công đức, kệ rằng:

“Đây bậc cổ chuỳ

Ngươi đâu dễ vẽ

Thước góc Lương Hoàn

Mõ chuông Thái Đế

Hay tròn hay vuông

Mỏng dày đầy đủ

Biển pháp một người

Rừng thiền ba phía”

Tấm lòng tri ân báo ân của Thượng hoàng Trần Nhân Tông, không chỉ là vị vua
anh minh có nhiều đóng góp cho dân tộc , mà còn là một vị Tổ sư khai mở dòng thiền
Trúc lâm được lưu truyền cho đến tận ngày nay, là một tấm gương sáng cho cho người
đời sau noi theo. Tấm lòng tôn sư trọng đạo của bậc chí tôn đã nói lên được mối quan hệ
thắm thiết giữa thầy và trò cao đẹp biết dường nào!

Mặt khác, ngoài sự khai đạo, người thầy còn có trách nhiệm tìm một vị đệ tử xuất
sắc nhất, có căn cơ lanh lợi để kế thừa. Để tìm cho được một người học trò có khả năng
nối tiếp và gìn giữ được giềng mối Phật pháp là điều không dễ chút nào nó rất quan trọng
vì người đó phải bảo tồn và phát triển Phật pháp trong mai sau. Khi xưa, đức Phật thuyết
pháp ở Linh Sơn Pháp hội, Ngài đưa cành hoa sen lên, cả đại chúng đều ngơ ngác duy chỉ
có Ngài Ca Diếp mĩm cười (niêm hoa vi tiếu) đức Phật biết ngài Ca Diếp đã liễu ngộ và
sau khi Phật nhập Niết Bàn ngài Ca Diếp là vị Tổ được chân truyền, gìn giữ chánh pháp
nhãn tạng của đức Phật để lưu truyền hậu thế. Cũng như Ngũ tổ Hoằng Nhẫn khảo thí đại
chúng để tìm người đắc pháp, lúc ấy ngài Huệ Năng nhân thấy bài kệ của ngài Thần Tú,
cũng làm một bài kệ và nhờ người viết lên vách, nhân đó mà Ngũ tổ đã gọi Huệ Năng
đến để ấn chứng chỗ sở đắc và truyền trao y bát làm vị Tổ thứ 6 của Thiền tông Trung
Hoa.

Qua hình ảnh thầy trò của các câu chuyện thiền đã khẳng định được mối quan hệ
này rất đặc biệt, người thầy có trách nhiệm đánh thức học trò khi mê lầm và kiến giải
những mê lầm hoá thành điều tự chứng, cũng cần biết rõ căn cơ trình độ của họ mà kịp
thời kịp lúc làm cho họ tự mình trở về tự tánh, tìm lại chính mình, người học trò nhờ
nương nơi thầy mà khai mở tâm trí, hoằng dương chánh pháp để báo ơn Thầy, và cũng
không phụ chí nguyện xuất gia cầu đạo buổi ban đầu.

2.3.2 Trách nhiệm liên quan giữa thầy và trò qua Kinh Luật.

Trong Phật giáo nói đến người xuất gia đến người có tâm bồ đề dõng mãnh, có ý
niệm về sự giải thoát, đạt được tuệ giác vô thượng và đem tuệ giác ấy dẫn dắt chúng sanh
ra khỏi bể khổ nguồn mê. Trong Sa di luật giải nói; “Xuất gia có nghĩa:1) từ nghĩa song
thân, dứt tình ân ái, bỏ tục vào đạo, cạo tóc nhuộm áo gọi là ra nhà thế tục; 2) dứt trừ tâm
vọng hoặc, chứng quả vô sanh gọi là ra khỏi nhà tam giới, ấy mới thiệt là xuất gia”. Vì
vậy sơ tâm của người xuất gia là hảo tâm cùng với lý tưởng cao đẹp, ý chí mạnh mẽ,
bước vào thiền môn, thay đổi hình thức sống cho phù hợp với môi trường mới. Khi cạo
bỏ mái tóc xanh, khoác lên mình màu áo hoại sắc là cảm nhận được một sự thiêng liêng,
một hoài bão lớn, vì vậy, hình ảnh người xuất gia là hình ảnh cao đẹp nhất.

Huỷ hình thủ chí tiết

Cắt ái từ sở thân

Xuất gia hoằng thánh đạo

Thệ độ nhất thiết nhân

“Hoằng thánh đạo” và “thệ độ nhất thiết nhân” chính là hoài bão lớn của tâm bồ
đề. Tâm bồ đề là nguồn năng lực rất mạnh chính nó đã thôi thúc chúng ta đi xuất gia, và
năng lực ấy tiếp tục phát triển trong suốt thời gian chúng ta sống trong thiền môn, giúp
chúng ta có thêm sự tinh tấn, dũng mãnh, đủ nghị lực để vượt qua mọi khó khăn trở ngại
và giúp chúng ta có hạnh phúc.

Mãnh đất nuôi dưỡng tâm bồ đề này xanh tốt nhất là khi bước lên nấc thang Tỳ
kheo, nấc thang đứng đầu trong hàng tứ chúng xuất gia tức là đã thật sự được dự vào
hàng Tăng bảo cũng là môi trường thích hơp nhất để tâm bồ đề phát huy hết năng lực đã
phôi thai và được nuôi dưỡng từ lúc còn hành điệu.

Trong Qui Sơn Cảnh sách, Tổ Qui Sơn có dạy: “Nhược xuất gia giả, phát túc siêu
phương, tâm hình dị tục, thiệu long phật Pháp, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt
tế tam hữu, nhược bất như thử, lam xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí,
tích niên hành xứ, thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị. Huống nãi
đường tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thị thiện căn, cảm tư dị báo” [24-25]
Nghĩa là: đã là người xuất gia, là phải cất bước đến phương trời cao rộng, tâm
hình khác tục, nối thạnh dòng thánh, hàng phục ma quân, để đền trả bốn ân cứu giúp ba
cõi. Nếu không như thế, xen lẫn trong chúng Tăng, lời nói hạnh kiểm vẫn còn hoang sơ,
luống hao của tín thí. Chỗ đi năm trước tất bước không rời, lếu láo một đời, lấy chi nương
tựa, huống nữa, đường đường tăng tướng, dung mạo dễ xem. Sở dĩ được như thế là do
đời trước đã gieo trồng căn lành nên đời này mới cảm quả báo như thế ấy…

Thế nên người xuất gia không phải vì cơm áo cũng chẳng phải vì hoàn cảnh mà
một lòng tha thiết muốn nhập vào hàng Tăng chúng, được tu tập cùng đại chúng, tìm thấy
sự an lạc trong Tăng già, giải thoát cho mình và tha nhân, thì đối với việc được dự vào
hàng Tăng bảo quả là niềm khát khao vô cùng to lớn, với một niệm như thế, cùng với tâm
bồ đề mãnh liệt chắc chắn sẽ hội nhập vào hàng trưởng tử của Như Lai.

Trưởng tử của Như Lai được gọi ngay sau khi đăng đàn thọ giới cụ túc. Một
trưởng tử của Như Lai nhất định phải thành tựu được bản thể Tỳ kheo tức là phải đắc
được Vô tác giới thể, có vô tác giới thể thì mới chứng minh được giới tử đó thành tâm
tha thiết cầu giới, khát khao muốn bước lên địa vị hàng đầu trong bảy chúng, gánh vác
trọng trách lèo lái con thuyền Phật pháp cho được trường tồn, mới xứng đáng hoài niệm
của một Tỳ kheo.

Chúng Tỳ kheo thời đức Phật trong những năm đầu từ khi giáo đoàn được thành
lập, giới luật chưa được đức Phật ban hành, việc gia nhập tăng đoàn tương đối đơn giản,
Chính do những vị Tỳ kheo ấy căn tánh lanh lẹ, nên khi nghe đức Phật khai thị vài lần là
đại ngộ hoặc có vị chứng thánh quả ngay trong kiếp hiện tại, như nhóm năm anh em Ông
Kiều Trần Như; nhóm Da-xá; nhóm anh em Ông Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp; xá Lợi Phất;
Mục Kiền Liên.v.v. đúng là những vị “Thiện lai Tỳ kheo!”. Ngoài ra còn có rất nhiều vị
có duyên cũng được gia nhập Tăng đoàn cũng với hình thức này, trong kinh thường nói
có một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo đệ tử thường đi theo đức Phật.

Về sau đức Phật cho phép các Tỳ kheo thâu nhận đệ tử, số lượng Tăng già trở nên
đông hơn, do đó việc thâu nạp đệ tử mới của các Tỳ kheo có phần dễ dãi hơn, không có
sự chọn lọc, dẫn đến có những trường hợp bất hoà xảy ra trong Tăng chúng, thiếu sự hoà
hợp, buông lung, làm cho hàng cư sĩ chê cười, do nguyên nhân đó nên mỗi khi các Tỳ
kheo xảy ra chuyện đem bạch Phật, Phật kết giới, từ đó dùng giới để câu thúc ba nghiệp,
làm cho Tăng chúng được thanh tịnh hoà hợp. Thế nên, về sau này khi thâu nhận đệ tử,
lúc đăng đàn cho thọ Tỳ kheo giới, trên thì phải có đủ thập Sư, dưới đệ tử thì phải trải qua
các giá nạn của thập Sư truyền giới thì mới đắc giới trở thành một vị Tỳ kheo, viên mãn
vô tác giới thể, chính thức gia nhập Tăng đoàn.

Trong thập Sư truyền giới thì hai thầy Hoà thượng và A Xà lê là người hướng dẫn
và giảng đạo. Sa Di luật giải nói: “Hoà thượng tiếng phạn là Upàdhyàya, Trung Hoa dịch
là “Lực sanh” hay còn gọi là “Thân giáo sư”. Nhờ sức thầy dạy dỗ sanh giới thân tuệ
mạng cho ta nên gọi là “Lực sanh”, đệ tử gần gũi bên thầy lãnh lấy lời giáo huấn gọi là
“Thân giáo sư”. Trong Tứ Phần luật quyển ba có nói: “Hoà thượng là vị Thầy mà từ nơi
Ngài chúng ta nhận được giới” hay trong luật Thiện Kiến nói: danh từ Hoà thượng đời
nhà Hán dịch là: “Biết có tội, biết không có tội thì gọi là Hoà thượng”.
Thứ đến là thầy A-xà-lê: tiếng phạn dịch là Acàrya; tiếng Trung Hoa dịch là “Quỹ
phạm sư” là thầy dạy pháp tắc cho các đệ tử. Có năm bậc A-xà-lê: “1) xuất gia A-xà-lê là
vị thầy mà chúng ta nương vào để được xuất gia; 2) thọ giới A-xà-lê, là vị thầy tác pháp
yết ma khi thọ giới; 3) Giáo thọ A-xà-lê là vị thầy dạy dỗ oai nghi giới hạnh); 4) Thọ
Kinh A-xà-lê là vị thầy từ ngài ta học kinh thuyết pháp; 5) Y chỉ A-xà-lê, là vị thầy từ nơi
ngài chúng ta nương vào để sống đời đạo hạnh, cho đến một đêm” [13-117] Trong Bộ
Hành Hộ nói: “Năm hạ sắp lên, tức vị A-xà-lê, mười hạ sắp lên tức vị Hoà thượng”

Một vị Hoà thượng muốn thâu nhận đệ tử phải là người có đủ mười tuổi hạ trở
lên, thông suốt kinh luật, có trí tuệ, có thể cung cấp vật chất cho đệ tử, được Tăng già
công nhận cho phép mỗi năm chỉ được nhận một người đệ tử mà thôi. Đây chính là ý
muốn nói đến trách nhiệm dạy dỗ học trò của môt vị thầy. Câu chuyện của Tôn giả Hoà
Tiên vừa hai tuổi hạ, dẫn một người đệ tử một tuổi hạ đến chỗ đức thế tôn. Đức Thế tôn
tuy biết mà vẫn chỉ người đệ tử hỏi:

- “Đây là Tỳ kheo nào?

Tôn giả Hoà Tiên thưa:

- Đệ tử của con

Đức Phật hỏi Tôn giả Hoà Tiên

- Hiện ông bao nhiêu tuổi? (tuổi hạ)

Tôn giả Hoà Tiên thưa: dạ con hai tuổi

Đức Phật lại hỏi

- Đệ tử ông bao nhiêu tuổi?

Tôn giả Hoà Tiên thưa: dạ, một tuổi

Lúc bấy giờ đức Thế tôn bằng mọi cách quở trách

- Việc làm của ông là quấy không đúng oai nghi, không phải pháp của Sa Môn,
không phải tịnh hạnh, không phải hạnh tuỳ thuận, ông làm việc không nên làm. Này ông
Hoà Tiên! ông chưa hết bú sữa, ông đã nhận sự dạy dỗ của người khác, làm sao ông dạy
được”.

Từ nay cho phép Tỳ kheo nào đủ mười tuổi hạ, có trí tuệ mới trao truyền giới cụ
túc cho người, cho người y chỉ [13-107]

Trong Ma Ha Tăng Kỳ nói: “Khi đức Phật ở thành Xá Vệ. Bấy giờ có một Tỳ
kheo một tuổi hạ dẫn một đệ tử chưa có tuổi hạ đến chỗ đức Thế tôn. Đức Thế tôn liền
quở trách: “ông mới một tuổi hạ mà nuôi đệ tử chưa có tuổi hạ thì giống như người yếu
đuối mà lại cứu người yếu đuối”. Sau đó ngài nói với đại chúng rằng: “Này các Tỳ kheo!
Tự hàng phục được mình rồi mới hàng phục người khác, điều đó có thể. Tự chế ngự được
mình rồi mới có thể chế ngự người khác, điều đó có thể. Tự độ được mình rồi mới độ
người khác, điều đó có thể. Này các Tỳ kheo! Từ nay về sau ta không cho phép Tỳ kheo
dưới mười tuổi hạ độ người xuất gia thọ giới cụ túc” [19-1655]

Một Tỳ kheo thâu nhận một đệ tử là tự đặt trên vai mình một trách nhiệm rất lớn
đối với Phật pháp, với cuộc đời. Luật Tăng Kỳ nói: “một vị thầy phải thành tựu mười
pháp sau đây mới cho độ người xuất gia thọ giới Cụ túc: 1) giữ giới; 2) học nhiều luận; 3)
học nhiều luật; 4) Học giới điều; 5) học thiền định; 6) học trí tuệ; 7) có thể xuất tội; 8) có
khả năng chăm sóc bệnh, có khả năng dạy người chăm sóc bệnh; 9) đệ tử gặp khó khăn
có khả năng giải quyết vấn đề khó khăn đó mau chóng; 10) đủ mười hạ. Vừa đủ mười hạ
mà biết hai bộ luật cũng được độ [19-1657]

Khi có đủ tư cách để độ người, thâu nhận đệ tử cho xuất gia, sống hoà cùng Tăng
chúng. Vị thầy phải quan tâm đến cuộc sống của người đệ tử, họ sống ra sao? Có thiếu
thốn gì không? Trong sinh hoạt hằng ngày có gì trở ngại, trong pháp chỗ nào không hiểu.
Như vậy trách nhiệm của một vị thầy đối với đệ tử thật là lớn lao. Bởi vì người đệ tử khi
rời xa gia đình, tự nguyện sống đời phạm hạnh không còn chịu sự chăm sóc dạy dỗ của
cha mẹ nữa thì Thầy chính là người chịu trách nhiệm thay cha mẹ nuôi dạy cho đệ tử nên
người không phải chỉ thành một người bình thường mà dạy để trở thành một Thiên nhơn
chi đạo sư, một bậc xuất trần thượng sĩ, thay Phật tiếp Tổ kế vãng khai lai. Nên trách
nhiệm của người Thầy không thể tính bằng một thời gian nào mà là sự thành tựu trong
suốt quá trình tu tập của đệ tử. Thế nên, vị thầy cần lấy năm điều mà đối xử với đệ tử: “1)
tuỳ thuận theo phép điều ngự; 2) dạy những điều mà trò chưa biết; 3) tuỳ theo sự nghe
biết của học trò mà khiến cho hiểu thấu căn lành; 4) chỉ kẻ hiền lành cho đệ tử kết bạn; 5)
đem hết chỗ hiểu biết của mình mà dạy trao cho trò không lẫn tiếc” [3-570] Ngoài cách
đối xử ra vị thầy phải có các phương pháp để dạy đệ tử. Trong Ma ha tăng Kỳ quyển 28
có viết: “Hoà thượng và A-xà-lê nên dạy bảo đệ tử đồng hành và đệ tử y chỉ bằng các
phương pháp dạy dỗ là: 1) họ không thanh tịnh nên ngăn cản; 2) khuyên đừng đến những
nơi không nên đến; 3) họ bị yết ma phải giúp đỡ; 4) họ sanh tà kiến mình phải giải toả; 5)
tự mình xuất tội hay nhờ người xuất tội; 6) khi họ bệnh tự mình chăm sóc hoặc nhờ người
chăm sóc; 7) khi họ gặp nạn, tự mình hoặc nhờ người giải cứu; 8) khi họ gặp nạn vua,
giặc, mình phải hoá giải” [19-1662] những phương pháp này nhằm mục đích hàng phục
chế ngự tâm tánh của các đệ tử, cụ thể như đệ tử kiến chấp như huỷ báng kinh điển, hoặc
ác tà kiến, hoặc biên kiến thì Hoà thượng, A-xà-lê nên dạy: “ông đừng sanh khởi kiến
giải như thế, đó là việc ác, đoạ xuống địa ngục chịu khổ lâu dài. Nếu dạy bảo y các điều
như vậy mà y bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì nên nhờ người quen biết với y, nói như sau:
“Xin trưởng lão hạy khuyên người ấy từ bỏ ác kiến” [19-1664]

Ngược lại, nếu vị thầy thâu nhận đệ tử độ cho xuất gia, cho hội nhập vào Tăng
chúng tu tập, cho thọ giới tỳ kheo trong suốt thời gian sống với nhau mà vị thầy không
dạy dỗ đệ tử, không hướng dẫn các phương pháp tu tập, không bắt sám hối khi phạm tội,
không chỉ dẫn con đường đi khi đệ tử bị sai đường.v.v. nói chung là vị thầy không quan
tâm, không có trách nhiệm với đệ tử mình thì chính người thầy là người thiếu trách nhiệm
có lỗi với Phật, với pháp, với chúng tăng và là một trong những nguyên nhân để thế gian
chê cười. Trong kinh Bồ tát Thiện giới nói: “Từ những kẻ Chiên đà la cho đến hạng đồ tể,
tuy làm nghiệp ác nhưng không phá hoại chánh pháp Như Lai, thì không hẳn sẽ đoạ vào
trong đường ác. Nhưng làm thầy mà không thể dạy bảo la rầy đệ tử, thì đó là phá pháp
của Phật, chắc chắn đoạ vào địa ngục” Hoặc như trong kinh Ưu Bà Tắc giới nói rằng:
“Thà thọ ác giới, trong một ngày mà đọan vô lượng mạng căn, chứ nhất quyết không nuôi
dưỡng đệ tử tệ ác, không thể điều phục. Vì sao vậy? Bởi ác luật nghi chỉ đem lại tai hại
cho thân mình thôi, còn nuôi đệ tử tệ ác, không thể dạy dỗ thì làm cho vô lượng chúng
sanh tạo ác, chúng có khả năng huỷ báng vô lượng pháp tốt đẹp huyền diệu và hoà hợp
Tăng, khiến cho nhiều chúng sanh tạo ngũ vô gián tội. Cho nên nói tai hại hơn ác luật
nghi là vậy” [13-116]

Từ những điều đã đề cập ở trên đã cho thấy trách nhiệm của một vị thầy đối với
đệ tử mình vô cùng quan trọng. Người đệ tử có được sự thành tựu trong quá trình tu tập,
đạt được lý tưởng ban đầu xuất gia hay không phần lớn đều nhờ nơi vị thầy của mình.
Ngược lại người đệ tử cũng phải biết bổn phận của mình đối với thầy dạy đạo, người đã
trao cho mình giới thân tuệ mạng làm tăng trưởng tâm bồ đề, từng bước từng bước đưa
mình ra khỏi con đường sanh tử hiểm nạn, cho nên đệ tử phải trọn đời kính thờ thầy, phải
giúp đỡ thầy những việc cần thiết. Vì vậy trong kinh Thiện Sanh dạy đệ tử kính phụng Sư
trưởng có năm điều: 1) phải hầu hạ; 2) lễ kính cúng dường; 3) tôn trọng trên đầu cổ; 4)
những lời thầy dạy bảo phải cung kính tuỳ thuận, chớ không được chống trái; 5) khi đi
theo thầy nghe được điều gì hay, khéo nhớ giữ gìn chớ để lãng quên” [3-570]

Ngoài viêc kính thờ thầy, đệ tử cần phải biết hầu thầy, chăm sóc sức khoẻ cho
thầy, làm thay những công việc để thầy có thời gian làm việc khác. Trong Ma Ha Tăng
Kỳ quyển 34 có dạy cách: “đệ tử phụng sự vị thầy Hoà thượng như sau: Buổi sáng phải
dậy sớm, trước hết bước chân phải vào phòng Hoà thượng, khi vào xong cúi đầu đảnh lễ
dưới chân hỏi xem Hoà thượng ngủ có ngon giấc không? Rồi nhận kinh, hỏi han công
việc, đem đổ bô tiểu tiện, ống nhổ, xong rồi để lại chỗ cũ. Tiếp đến lấy nước đổ lên nền
nhà, rồi quét lau nền nhà. Đoạn rửa tay sạch, rồi trao nước, bàn chãi đánh răng, cầm bát
đi lấy cháo cho thầy. Khi thầy ăn xong rửa bát cất lại chỗ cũ. Nếu có nhà nào mời thầy
thọ trai, thì đến đó lấy thức ăn. Khi thầy muốn vào thôn xóm, thì trao y thường mặc vào
thôn xóm, rồi xếp y thầy mặc trong viện lại, treo chỗ cũ. Lúc vào thôn xóm nên đi theo
sau thầy. Nếu muốn khất thực nên bạch với Hoà thượng. Nếu mình về trước nên trải
giường ngồi cho Hoà thượng, rồi lấy nước sạch, rải cỏ lá đợi Hoà thượng về. Khi Hoà
thượng về nên đưa y mặc trong Thiền viện cho Hoà thượng, rồi lấy chiếc y mặc vào thôn
xóm đập giũ, xếp lại, treo vào chỗ cũ. Nếu trời nóng thì nên đưa nước tắm cho thầy. Nếu
trời lạnh thì nên đốt lò lửa. Nếu được thức ăn ngon thì nên dâng cho Hoà thượng. Khi
Hoà thượng ăn nên đưa nước rửa tay rồi đưa thức ăn. Nếu thời tiết nóng nên đưa nước
lạnh, rồi cầm quạt, quạt cho thầy. Khi Hoà thượng ăn xong, dọn bát, nhặt cỏ lá, rửa bát
rồi cất lại chỗ cũ. Nếu Hoà thượng muốn vào rừng ngồi thiền thì nên lấy toạ cụ vắt lên
vai, mang bình nước đi theo Hoà thượng. Đến nơi rồi hoặc học kinh hoặc hỏi nghĩa, khi
được chỉ dạy nên tìm một chỗ ngồi tu tập…” [ 19-2028] đối với Hoà thượng, đệ tử phải
thực hiện những việc kể trên, nếu không làm thì vượt pháp oai nghi. Nếu Hoà thượng có
nhiều đệ tử, thì mỗi người tối thiểu cũng phải lau giường Hoà thượng một lần. Đó là phận
sự của đệ tử.
Ngoài việc thờ kính, hầu hạ bậc thầy, đệ tử còn phải đem lòng nhớ nghĩ đến ơn
đức của sư trưởng đã vun vén, dạy dỗ hướng dẫn cho mình đi trên con đường chánh
pháp, cũng nhờ nơi thầy mà mình có chánh kiến, nhờ chánh kiến nên không đi vào con
đường ác, đươc an lạc hạnh phúc trong đời sống hiện tại. Vì thế một người đệ tử muốn
vuông tròn đạo hạnh của mình thì phải biết nghĩ nhớ đến các ân đức mà thầy đã vun vén,
nguyện trọn đời không quên như thế thì mới xứng đáng là một đệ tử có đạo hạnh.

Trong bộ Căn Bản Tạp sự nói: “có người nương tựa nơi thầy, xuất gia trong giáo
pháp của Phật, cạo bỏ râu tóc, mặc áo pháp của Phật, tâm hồn trong trắng đầy đủ lòng tin,
gọi là xuất gia như pháp. Người ấy đối với thầy cho đến trọn đời tứ sự cúng dường cũng
chưa có thể trả ơn hết được” Ngoài ra trong kinh đức Phật dạy: “nếu có chúng sanh nào
biết trả ơn, người ấy đáng kính, ơn nhỏ còn chẳng quên huống chi ơn lớn. Lúc ấy dầu
cách đây trăm ngàn do tuần cũng chẳng khác gì gần bên ta. Ta thường khen ngợi. Trái lại
có chúng sanh chẳng biết trả ơn, ơn lớn còn chẳng nhớ huống chi ơn nhỏ, dầu có gần ta,
ta cũng chẳng gần, dầu cho mặc áo Tăng ở hai bên tả hữu gần ta đi nữa, người ấy vẫn như
xa ta.” [18-104]

Lại nữa, là đệ tử phải biết hiếu kính thầy, phải nghĩ rằng hình ảnh của vị thầy là
sự kết hợp song song giữa cha và mẹ, thế nên có khi thầy nghiêm khắc như người cha,
cũng có khi nhẹ nhàng như người mẹ, vậy nên bổn phận người học trò phải làm những
việc để thầy hài lòng. Khi bị thầy quở trách thì phải tuỳ thời mà xin sám hối. Khi thầy
khuyên nhủ động viên phải biết cầu tiến được như vậy mới là đệ tử hiếu thuận. Ngược lại
gặp khi thầy la rầy mà sanh ác tâm, khinh rẻ, oán giận chắc chắn người ấy sẽ nhận lấy
hậu quả không tốt. Điều nầy được kinh Lương Hoàng Sám mô tả rất rõ ràng như sau:
“Người ngu si tự thị không tin tội phước, huỷ báng Sư trưởng, ghen ghét tật đố. Những
người như vậy là Ma vương trong Phật pháp, là dòng giống địa ngục, tự kết oán thù, chịu
quả đau khổ vô cùng”. Như ngài Hoa Quang Tỳ kheo khéo thuyết pháp bí yếu, có một đệ
tử thường ôm lòng kiêu mạn, Hoà thượng dạy bảo không tin, không nghe lại còn nói:-
Đại Hoà thượng của tôi không có trí tuệ, thường hay tán thán những việc trống rỗng như
hư không. Tôi nguyện đời sau không thấy thầy nữa.

Người đệ tử đó, từ ngày ấy pháp nói phi pháp, phi pháp nói pháp. Tuy trì giới cấm
không huỷ phạm nhưng vì khinh chê thầy mình, nên sau khi chết, trong một nháy mắt
liền đoạ địa ngục A Tỳ, tám mươi ức kiếp thường chịu mọi thắng khổ. [23-239]

Chúng ta nên nhớ rằng, thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Một lần mất
thân người thì muôn kiếp khó tìm lại được. Vì thế nên biết đối với Sư trưởng phải có
niềm tin, lòng không nên nghi ngờ, sanh ác tâm mà chịu quả khổ.

Tam tạng kinh điển của Phật giáo vô lượng vô biên nhưng trong đó mối quan hệ
giữa thầy và trò cũng được ghi lại khá đầy đủ qua các kinh luật. Điều này minh chứng
rằng tình thầy trò trong Phật giáo vô cùng quan trọng. Bởi vì mối quan hệ thầy trò chính
là sự truyền thừa mạng mạch của Phật pháp. Vì vậy, hình ảnh của vị thầy qua các kinh
luật có thể nói là một khuôn mẫu, sáng suốt, nhiệt tình có trí tuệ đạo lực để che chở cho
đệ tử nên được đức Phật đề cao, trọn một đời xuất gia hành đạo người học trò gởi trọn
cho thầy. Chính vì thế mà sự tiến bộ hay sa đoạ của bất cứ người xuất gia nào không phải
chỉ mang lại hậu quả cho người đó, mà có liên hệ đến sự hưng thịnh hay suy vong của
Phật pháp. Đức Phật đã từng nói: “Thà làm một tên đồ tể gây nghiệp sát hại chứ không
thâu nhận đệ tử xuất gia mà không biết giáo dục, khiến cho Phật pháp vì thế mà sớm bị
diệt vong”. Đồng thời người đệ tử cũng phải biết bổn phận gần gũi hầu thầy đúng như
phép tắc và luôn luôn hoài niệm thâm ân về thầy. Trong kinh Lương Hoàng sám đức Phật
dạy: “Các ngươi phải nên tưởng nhớ ơn Sư trưởng, cha mẹ từng sanh thân này dạy bảo
nhưng không thể làm cho ta ra khỏi ba đường ác. Lòng từ của Sư trưởng rất lớn khuyến
dụ dắt dẫn lúc sơ cơ, cho được xuất gia rồi truyền trao cho giới cụ túc. Đó tức là kẻ hoài
thai La hán, sẽ sanh quả La hán, xa lìa sanh tử và được yên vui Niết Bàn. Sư trưởng có ơn
đức xuất thế ấy ai hay báo đáp? Nếu người nào chung thân hành đạo, đó chỉ mới là tự lợi,
chứ chưa phải báo đáp ơn thầy” [23-237]

CHƯƠNG 3: TÌNH THẦY TRÒ TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY

3.1 Vai trò của vị thầy và nền giáo dục xã hội hiện nay

Tình thầy trò là một tình cảm thiêng liêng và tự nhiên, vì thế dù ở bất cứ quốc độ
nào, bối cảnh xã hội nào, thì tình cảm thiêng liêng ấy chính là nền tảng đạo đức cơ bản
của con người. Để có được tình cảm tốt đẹp này thì người làm thầy phải xứng đáng một
bậc thầy, đệ tử cũng phải tròn bổn phận của đệ tử thì mới hình thành được sự thanh tịnh
và hoà hợp trong Tăng già. Trong bối cảnh xã hội hiện nay đòi hỏi sự quan tâm cao độ
đến vấn đề này để đạo pháp cũng như dân tộc ngày càng phát triển rực rỡ hơn.

Thầy giáo đạo ảnh hưởng không nhỏ đến nền giáo dục trong xã hội hiện đại. Thầy
giáo đạo còn gọi là bậc thầy tâm linh, được hiểu là một người tỉnh thức mà không phải là
một thầy giáo sư phạm hay một nhà triết học đơn thuần, bởi vì một người tỉnh thức thì
không những có thể trao truyền kiến thức mà còn chuyển hoá được cuộc đời cho đệ tử
bằng con đường tu tập đưa đến sự thăng hoa trong cuộc sống. Thái độ của vị thầy dạy đạo
là phải sống trong thực tại để nhận ra sự thật của cuộc đời, mục đích chủ yếu của vị ấy là
truyền đạt kinh nghiệm sống cho đệ tử bằng những yếu tố thực nghiệm của bản thân và
cách thực hành chứ không phải bằng lý thuyết suông. Các vị ý thức được rằng công việc
hoằng hoá chúng sanh là vì lợi ích an lạc lâu dài. Vì thế một mặt đem tâm nguyện ấy
phụng sự chúng sanh, một mặt là để cúng dường và báo ân Phật.

Để báo ân Phật thì khi muốn độ người xuất gia phải có trách nhiệm đưa họ vào
cuộc sống với đạo, dạy họ cách hoàn thành bổn phận của người học trò, chỉ cho họ con
đường phải đi, phải luôn luôn nghĩ rằng mình độ họ để họ nhờ đó mà tu tập các thiện
pháp đắc thành đạo quả chứ không phải là để phục vụ cho riêng mình. Đến lúc thấy họ
đầy đủ đạo hạnh thì trao cho giới cụ túc để có thể gánh vác sứ mạng của Như Lai. Sự
hiện hữu của Tăng đoàn chính là hình ảnh của của đức Phật, mang trọng trách rất lớn, là
những con người nắm giữ vận mệnh của Phật pháp. Vì vậy khi tuyển chọn người để cho
thọ giới cụ túc phải chú trọng đến sự đoan nghiêm và phẩm chất ưu việt, điều này tránh
được chê cười của thế gian và khiến cho người đời sanh tâm tin tưởng và tôn kính. Nếu vị
thầy bất cẩn cho những người thiếu phẩm chất đạo đức và thân thể khiếm khuyết thọ đại
giới thì trước hết là vi phạm vào giới điều sau đó làm cho thanh danh của giáo hội bị
hoen ố, uy tín của Tăng đoàn bị tổn thương và khó tránh sự huỷ báng của người đời.

Ngoài việc tuyển chọn người xuất gia, vị thầy cần phải biết nhìn người. Trong số
đệ tử người có ưu điểm này kẻ có khuyết điểm kia cũng khó có người hoàn hảo nhưng ít
ra thì người đó cũng có được bản chất thiện, biết phục thiện và có chí cầu tiến, cũng
không nên thiên vị, nếu có sư thiên vị chắc chắn sẽ có xung đột, có đổ vỡ, có oán giận
những điều này sẽ dẫn đến mất hoà hợp và thanh tịnh trong chúng, hoặc có thể có người
mang lòng phiền giận rời bỏ thầy mà ra đi, hoặc có người vì đi muốn tìm công bằng cho
mình, chứng minh cho thầy biết mình không phải là kẻ vô dụng. Cái vô tình của các vị
thầy đã là nguyên nhân cho sự ra đi ấy. Từ đó sẽ phát sanh nhiều yếu tố phức tạp. Điều tệ
hại có thể xảy ra như họ bỏ đạo không tu, vì trong họ lý tưởng xuất gia đã bị đánh mất,
thế nên làm thầy phải có tâm lý và có phương pháp giáo dục để đem lại niềm tin cho đệ
tử của mình.

Lại nữa, trong điều kiện xã hội mà nền văn minh khoa học phát triển như hiện
nay, mọi người cũng bắt nhịp với cuộc sống xã hội. Giáo hội cũng từ đó mà phát triển
ngành giáo dục để nhằm đào tạo Tăng Ni trẻ có tài năng, nhiều triển vọng. Vì vậy việc
học rất là cần thiết cho lớp người xuất gia. Bổn phận làm thầy phải động viên đệ tử cầu
học Phật pháp, không nên nghĩ rằng “tu mà cần gì phải học, ở chùa tụng kinh và làm việc
là giỏi rồi, khi xưa thầy đâu có được đi học mà vẫn làm đạo được”. Từ những bất đồng ý
kiến đó là những nguyên nhân khiến người học trò có khi phải trốn đi tìm nơi để được đi
học, vì không được Bổn sư gởi gắm khó có thể tìm được trú xứ để sinh hoạt, do vậy dẫn
đến tình trạng Tăng Ni đi thuê nhà ở, hoặc ở nhờ nhà Phật tử. Vấn đề này cũng từng là đề
tài nóng bỏng của Giáo hội nhưng vẫn chưa khắc phục được.

Nói chung, còn có rất nhiều vấn đề nan giải xảy ra giữa thầy và trò. Cũng có thể
hiểu rằng các bậc làm thầy tổ vẫn thường hay lo lắng sợ đệ tử mình đạo hạnh còn non
kém dễ bị đồng hoá với trào lưu xã hội theo khuynh hướng xấu làm suy thoái đạo đức,
phẩm hạnh nên ngăn cấm không cho đi ra ngoài học thêm những kiến thức ngoại điển.
Người học trò với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ muốn chứng minh mình, muốn vùng vẫy
cho thoả chí, muốn có một cuộc sống hiện đại mà đôi lúc quên mất mình là ai! Giữa thầy
và trò là thế hệ tuổi tác khác nhau cho nên có sự chông chênh về cách nhìn nhận cuộc
sống. Phải nhìn nhận rằng cuộc sống hiện nay thì vấn đề học vấn không chỉ trong phạm
vi gia giáo mà là sự mở rộng tầm nhìn thoáng hơn, dù là tiếp thu kiến thức nội điển hay
ngoại điển, ở nhà học hay đến trường học thì ở đâu cũng có khuôn khổ và giới hạn nhất
định của nó. Ngày xưa, các bậc thầy được trưởng thành trong môi trường mang nặng tư
tưởng Nho giáo, Ngày nay, thì bị tây phương hoá rất nhiều, thì Đông và Tây khó có thể
gặp nhau là điều cũng dễ hiểu, các vị trưởng bối nhìn thấy Tăng Ni trẻ sống hơi phá cách
một chút thì nhìn không quen mắt nên cảm thấy khó chịu và lo lắng, lo rằng phẩm hạnh
của một tu sĩ sẽ mai một đi mất. Vậy nên người học trò phải tự biết bổn phận của mình
nên làm gì, làm thế nào để thầy được yên tâm không lo lắng về mình.

3.2 Bổn phận của người đệ tử đối với thầy và xã hội.


Là người xuất gia phát nguyện sống đời phạm hạnh, từ bỏ thế gian để được sống
bên thầy, bên bạn. Khi đã hoà nhập vào trong đại chúng, thì thầy tổ chính là cha mẹ, bạn
bè như anh chị em của mình, hết lòng kính trọng, thương yêu và quan tâm giúp đỡ lẫn
nhau. Hãy vì mục đích và lý tưởng cao cả mà quên đi những cái nhỏ nhen thường tình.
Cho dù mỗi người từ nỗi phương xa đến nhưng khi đã gặp nhau sống chung dưới một
mái chùa thì đều là huynh đệ. Nên hiểu rằng giới thân này là thầy trao cho, pháp phục này
do thầy mang đến, lý tưởng cao đẹp nhờ thầy vun vén, đạo hạnh trọn vẹn nhờ thầy trau
dồi, vì vậy, phải tự biết bổn phận của người học trò, kính thờ và hầu hạ thầy như trong
luật đã dạy. Hầu thầy không phải như nô lệ hầu chủ mà hiểu rằng một là, để tỏ lòng tôn
kính biết ơn, hai là, để được thân gần bên thầy để học hỏi những điều chưa biết, cũng
không nên rời thầy quá sớm. Như trong luật dạy: “Phật chế xuất gia giả, ngũ hạ dĩ tiền,
tinh chuyên giới luật, ngũ hạ dĩ hậu, phương nãi thỉnh giáo tham thiền” nghĩa là: “Phật
dạy người xuất gia, 5 hạ về trước ròng chuyên giới luật, 5 hạ về sau mới cho nghe kinh
giáo và học phép tham thiền” [24-25].Tinh chuyên giới luật là trau dồi cho mình đạo đức
tư cách, oai nghi tế hạnh của một vị xuất gia. Nhờ có giới luật mà một vị tu sĩ nhiếp phục
được tham, sân, si. Nhờ có giới mà người tu sĩ trang điểm thêm cho mình tư cách tác
phong. Nhờụ trì giới luật mà người ấy vượt ra khỏi nhà lửa tam giới. Tiếp đến mới học
tập kinh điển là để mở mang kiến thức hiểu biết, nhờ đó trí tuệ được khai thông. Kết hợp
giữa trí tuệ và giới hạnh đầy đủ người ấy mới có thể rời xa thầy.

Ngày xưa, mỗi vị thầy có một cách dạy đệ tử khác nhau, nhất là những vị Thiền
sư xuất cách. Nhưng dù thầy có nghiêm khắc quở phạt các đệ tử cũng phải một lòng thờ
kính thầy không dám khởi niệm oán thán, nhờ đó mà các vị ngộ đạo nhanh chóng. Ngày
nay, do khế thời, khế cơ không thể giáo dục đệ tử bằng những phương pháp như thế,
nhưng nhiều khi muốn đệ tử tiến bộ cũng nên la rầy, quở phạt. Nếu đệ tử biết khiêm cung
quy thuận sẽ mau tăng tiến trên đường đạo và dẹp bỏ ngã chấp. Ngược lại, nếu đệ tử còn
thấy tự ái bị tổn thương, còn khởi niệm trách hờn, bội bạc, ấy là gieo nhân xấu. Chưa nói
đến những người vì giận thầy, bỏ chúng đi nơi khác, lại còn đặt chuyện bôi nhọ thanh
danh và chống đối thầy. Người đệ tử này, dù có tài giỏi đến đâu cũng vì nghiệp bất thiện
mà đóng bít cánh cửa giải thoát. “Trọng thầy mới được làm thầy”, đã muốn làm thầy
nhưng đối với Bổn sư không trọn tình trọn nghĩa, làm sao có thể nhận được kết quả tốt về
sau!?

Ngày nay, khoa học tiến bộ vượt bậc, con người cần có kiến thức và tri thức để
hoà nhập với xã hội, với cộng đồng, người xuất gia cũng cần có số vốn thế học và đạo
học mới khả dĩ có thể hướng dẫn phật tử. Vì nhu cầu cần thiết mà người xuất gia được đi
ra ngoài để học tập, tiếp xúc với thời đại vốn muôn màu muôn vẻ, từ đó phát sanh ra
những vấn đề phức tạp và những nhu cầu đáp ứng cho vật chất đời sống làm ảnh hưởng
đến thanh danh thầy tổ và uy tín của giáo hội. Quay trở lại, so với thời đức Phật, các Tỳ
kheo sống rất đơn giản, hạnh nguyện của các vị ấy là:

“Nhất bát thiên gia phạn

Cô thân vạn lý du

Chỉ vị sanh tử sự
Nhất thiết độ thiên thu”

Cuộc sống vừa đơn giản lại vừa thánh thiện, nhưng các vị ấy lại độ vô số quần
sanh. Còn ngày nay đời sống tu sĩ khá ổn định, không phải đi ngàn nhà mà ngàn nhà đem
đến cùng dường, không còn cô thân nữa mà có phương tiện đi lại đầy đủ. Ấy vậy, mà đạo
hạnh lại bị tổn giảm, tư cách bị khiếm khuyết, thật là đáng tiếc!

Lại nữa, vì được ra ngoài học, tiếp xúc với nhiều điều tiến bộ, cập nhật kịp với
nền khoa học văn minh, được như vậy không biết đem sự hiểu biết ấy tu tập để có thể
quảng độ chúng sanh, mà ngược lại, quay trở lại chê thầy mình là cổ hủ, lạc hậu. Từ
những yếu tố đó tạo nên khoảng cách thế hệ (Generation gap), vô tình chà đạp lên bóng
của thầy. Trong cách hầu thầy, “… khi đi theo sau thầy thì không được đạp lên bóng
thầy” đó là nghĩa đen. Nhưng xét về mặt đạo lý thì đạp lên bóng thầy có nghĩa là phá huỷ
những gì mà thầy đã gầy dựng, từ những oai nghi tế hạnh cho đến tư cách của một vị tỳ
kheo mà trước đây thầy đã dày công vun vén. Người đệ tử ấy đã quên rằng hình dáng này
có được nhờ ai!? Giới thể thành tựu được do đâu!?. Họ thật sự tài giỏi quá, tân tiến quá,
nên cho thầy mình là cổ hủ, là nông dân. Họ đâu biết rằng con diều bay được lên không
gian bao la rộng lớn là nhờ có sức gió và sợi dây. Sợi dây tuy nhỏ và có vẻ mong manh
nhưng công dụng của nó thì rất lớn. Nhờ nó nắm giữ mà cánh diều kia không bị lạc
hướng.

Nói tóm lại, là một người đệ tử phải làm tròn bổn phận của mình. Phải biết hiếu
thuận, kính trên nhường dưới, đối với bậc thầy tổ phải hết lòng tin tưởng, thờ kính, hầu
hạ sớm trưa, giúp đỡ thầy những việc cần thiết. Phải biết hy sinh và thay thầy dạy dỗ, chỉ
vẻ cho những huynh đệ còn sơ cơ, cho dù sự hiểu biết của mình có rộng lớn cũng phải
biết khiêm cung, nhỏ nhẹ để tránh sự tự cao tự đại, ngã mạn có lỗi với kẻ trên người dưới.
Được như vậy mới có thể là một vị Tỳ kheo có đạo đức, có nhân cách.

3.3 Mối liên hệ giữa thầy xuất gia và đệ tử tại gia.

Người xuất gia và Cư sĩ tại gia đều là một trong bảy chúng của đức Phật, đệ tử tại
gia vì chưa đủ nhân duyên nên không gia nhập vào tăng đoàn. Nhưng đối với Tam bảo,
họ là những người hộ pháp mạnh nhất và góp phần cùng với chúng Tăng hoằng dương
chánh pháp.

Dưới thời đức Phật, thành phần đệ tử tại gia quy y Tam bảo, hết lòng phụng sự
Phật pháp rất nhiều. Nổi bật nhất như Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindaha); Vua
Tần-bà-sa-la (Binbisara); Vua A-xà-thế (Ajatasattu), Kỳ-bạt (Jivaka); Ma-ha-nam
(Mahanama); Tỳ-xá-khư Lộc mẫu (Visàkhà Migàramàta); Cô gái vườn xoài (Ambapàli)
và v.v. Họ đến với đức Phật bằng lòng tin và sự ngưỡng mộ, ngược lại đức Phật cũng dạy
cho họ gieo hạt giống Bồ đề, trồng ruộng phước bày sự bố thí cúng dường. Ngài đã dạy
cho họ quy y Tam bảo, vâng giữ 10 giới nương tựa vào Phật Pháp Tăng để có đời sống
tốt đẹp trọn vẹn cả hai mặt, gia đình và xã hội.

Phật dạy: “nếu một đệ tử Cư sĩ cao thượng, loại trừ được một ác hại trong hành
động, nếu người ấy không phạm vào động cơ bốn hành động xấu, nếu người ấy không
dùng sáu cách làm tiêu hao tài sản. Nếu người ấy không mắc vào mười điều tệ hại ấy, thì
khi lễ bái sáu phương, người ấy đã sẵn sàng chinh phục cả hai cuộc đời, sẽ thắng trong
đời này và đời sau; và sau khi thân xác tan rã người ấy sẽ tái sanh vào cõi trời hạnh
phúc”.[21-312]

Như vậy, giữa người xuất gia và Cư sĩ tại gia có một mối liên hệ tương quan với
nhau khá đặc biệt. Họ đến với Tam Bảo vì sự kính ngưỡng Phật pháp, muốn tìm một lối
sống thánh thiện hơn, vượt qua sự đau khổ của thế gian những vẫn sống ở thế gian để tu
tập. Ngược lại các tăng sĩ vì lòng từ bi dạy cho họ biết những điều căn bản của Phật pháp
mà một cư sĩ tại gia có thể tu tập và vẫn được giải thoát. Vì muốn cho người tại gia tăng
trưởng tâm bồ đề và phước điền mà chúng Tăng thọ nhận sự cúng dường. Cho nên trong
kinh Thiện Sanh đức Phật dạy rõ về mối liên hệ này như sau:

“Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các vị Sa-môn, Bà-la-
môn như phương trên: có lòng từ trong hành động về thân; có lòng từ trong hành động về
khẩu; có lòng từ trong hành động về ý; mở rộng cửa để đón các vị ấy; cúng dường các vị
ấy các vật dụng cần thiết. Này Gia chủ tử, các vị Sa-môn, Bà-la-môn được vị thiện nam
tử đối xử như phương trên theo năm cách như vậy, có lòng thương vị thiện nam tử ấy
theo năm cách sau đây: Ngăn họ không làm điều ác; khuyến khích họ làm điều thiện;
thương xót họ với tâm từ bi; dạy họ những điều chưa nghe; làm cho thanh tịnh điều đã
được nghe; chỉ bày cho con đường đưa đến cõi trời. Này Gia chủ tử các vị Sa-môn, Bà-
la-môn được vị thiện nam tử đối xử như phương trên có năm cách, có lòng thương thiện
nam tử theo năm cách. Như vậy phương trên được che chở, được trở thành an ổn và thoát
khỏi các sự sợ hãi.” [7-529]

Đối với xã hội ngày nay, nhiều vị cư sĩ tại gia có trình độ kiến thức thế gian, có
địa vị cao trong xã hội, lại nghiên cứu về Phật pháp và phát tâm hộ trì Tam Bảo. Đây
cũng là điều rất đáùng quý, nhưng trong phạm vi giao tiếp thì đòi hỏi đệ tử tại gia phải có
lòng kính trọng và đặt niền tin nơi thầy hướng đạo. “Im lặng như chánh pháp, nói năng
như chánh pháp” Không nên phê phán hàng ngũ xuất gia, vô tình tạo cho mình khẩu
nghiệp, dẫn đến giảm phước đức mà mình đã gieo trồng từ trước.

Một vị Tỳ kheo là Thầy của Trời và Người, nên vì hạnh nguyện cao cả đi vào đời
sống của quần chúng để đem lại sự lợi lạc cho quần sanh. Trách nhiệm của các vị ấy
chính là gây dựng niềm tin và tâm từ ái đối với mọi người bình đẳng như nhau, không
phân biệt giàu nghèo, không phân biệt kẻ trí người ngu mà phải bình đẳng, dạy cho họ
biết làm từ thiện xã hội để giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn hơn, cũng không vì thế mà
xao lãng bổn phận làm cha làm mẹ, vợ, chồng của gia đình. Có những trường hợp các vị
Phật tử vì tôn sùng quý kính thầy quá đặc biệt, dần đến quên trách nhiệm với gia đình tạo
nên nguyên nhân đổ vỡ hạnh phúc tạo nên sự chê cười trong thế gian, tổn giảm uy tín của
các vị tu sĩ. Lại có những trường hợp gây tai hại hơn xảy ra, vì sự ngưỡng mộ của họ quá
lớn nên họ đã đem vật chất đến cung phụng thầy mình, rồi muốn quản lý sự sinh hoạt của
thầy và tình thầy trò bị trói buộc nhau bằng sợi dây vật chất, vô tình làm cho mình bị vật
chất sai sử, mất đi lý tưởng và sự ngưỡng mộ ban đầu, giống người tự cỡi rồi lại buộc
điều này được ví như:
“Người lìa dục xuất gia

Sống vui trong rừng thẳm

Nay chạy ngược về nhà

Nên xem người như vậy

Được thoát rồi lại ràng” [8-344]

Mặt khác, là bậc thầy của Trời Người đều tôn kính, khi ra làm Phật sự chung với
những vị cư sĩ, họ là những thành phần trí thức trong xã hội, những học giả uyên thâm về
Phật Pháp, có lòng tin Tam Bảo, kính trọng thầy dạy đạo của mình mà họ đem nhiêt
huyết của mình phụng sự đạo pháp. Khi cộng sự với họ thì các thầy phải phải hết lòng
ủng hộ và khuyến khích, chứ đừng vì chút danh lơi hảo huyền mà cố tình loại trừ hoặc
không đồng tình với nhau dẫn đến mất tình đạo vị, phải nghĩ rằng dù họ mang hình thức
cư sĩ nhưng đạo tâm thuần khiết thì còn hơn những vị tu sĩ bị vật chất cám dỗ, mang trách
nhiệm phụng sự chúng sanh nhưng tâm lại rất nhỏ hẹp, vị kỷ.

Nói chung quan hệ giữa thầy xuất gia và hàng đệ tử tại gia phải có tinh thần đoàn
kết, lợi tha, cùng nhau xây dựng nếp sống đạo và đời ngày càng phát triển lành mạnh
hơn. Đó chính là mẫu người Phật tử chân chánh.

THAY LỜI KẾT

Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng đều có những nét truyền thống đặc
trưng rất riêng biệt. Theo quan điểm sống của người phương Tây thì chú trọng đến cuộc
sống hiện thực, mọi cái đều phải chứng minh được, sờ nắm được, họ ít khi đồng tình với
những vấn đề mang tính trừu tượng. Với người phương Đông thì lại khác. Họ rất chú
trọng đến đời sống tâm linh, đó là một cõi thiêng liêng làm chỗ dựa tinh thần và mang lại
hạnh phúc vĩnh hằng. Bởi vậy, với người phương Đông thì niềm tin bao giờ cũng là tài
sản vô giá, không phải là họ tin vào những đấng thần thánh xa xôi nào mà chính ngay
trong đời sống thực tại này. Họ coi trọng những mối quan hệ chung quanh mình, những
ân tình mà nhân loại mãi mãi tôn thờ đó là thâm tình của cha mẹ dành cho con cái, Thầy
dành cho trò, tình bằng hữu đối với nhau…giữa cha mẹ và con cái có mối quan hệ huyết
thống cho nên những tình cảm xuất phát một cách tự nhiên, còn giữa thầy và trò thì sự
hàm ơn lại bày tỏ một cách sâu lắng hơn và khó lột tả hơn nhưng nó lại làm rung động
lòng người.

Trong mỗi chúng ta ai cũng đều ý thức được rằng, cha mẹ sanh thân ta, nuôi
dưỡng ta trưởng thành nhưng người mà truyền trao cho ta những kiến thức thì chính là
công lao của những bậc Thầy. Thầy dạy đạo, thầy dạy chữ, thầy dạy nghề.v.v. Cho dù
ngày nay ta có trở thành bậc vĩ nhân trong thiên hạ đi nữa thì cũng nhờ công ơn vun vén
của thầy từ lúc ban đầu. Người thầy có trách nhiệm hoàn thành nhân cách, mở mang trí
tuệ cho ta đưa ta đến một tương lai rạng rỡ. Đó là nói đến thầy thế học, còn tấm lòng vị
tha của những bậc thầy dạy đạo cũng cao quý biết chừng nào. Không cứ gì phải người
xuất gia mới có thầy dạy đạo mà ngay cả những người ở thế gian cũng có những người
thầy là tấm gương sáng để họ noi theo, để học cách đối nhân xử thế. Ở trong đạo thì tình
cảm mà người thầy dành cho học trò của mình là một tình cảm vô điều kiện không vụ lợi.
Bởi vì khi người xuất gia, cát ái từ thân thì chùa là nhà, thầy tổ chính là cha mẹ, nhưng
người thầy nuôi đệ tử không chỉ là cơm ăn áo mặc mà là hoàn thiện nhân cách của một
con người, dần dần đưa chúng ta bước lên nấc thang hiền thánh thoát khỏi sự trói trăn
trong vòng sanh tử, khó nhọc biết bao! Thâm tình biết mấy! Dạy dỗ một người học trò từ
phàm phu tục tử, gạn đục khơi trong để trở thành bậc thánh. Không chỉ riêng chúng con
thôi mà còn làm lợi ích cho thế gian rất nhiều. Giáo lý của nhà Phật có tam tạng giáo điển
Kinh, Luật, Luận. Tam tạng giáo điển ấy mà tồn tại lâu dài đều nhờ sự truyền thừa từ đời
này sang đời khác của các bậc Tổ sư. Trong tam tạng ấy luật tạng là nền móng của đạo
đức không chỉ riêng cho Tăng đoàn mà cho cả xã hội. Chúng ta thử làm một bài toán, nếu
người tại gia theo thầy học đạo chỉ thọ giữ năm giới: không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Chúng ta hình dung xem, nếu một nước
mà tất cả mọi người đều chỉ giữ năm giới ấy thôi thì thiên hạ đã thái bình. Như vậy, cho
thấy công lao của vị thầy quá to lớn, chúng ta phải làm thế nào, không dám nói là đền ơn
chỉ mong là biểu lộ được chút lòng chí thành, chí kính đối với thầy, chúng con thật sự
không dám lấy gì để so sánh với công ơn thầy tổ vì rõ ràng trên thế gian này không có gì
xứng đáng để ví von cho được.

Chúng con là hàng xuất gia, được sống trong môi trường xã hội hiện nay, khá đầy
đủ tiện nghi về vật chất, có điều kiện để học hành, trong những năm qua may mắn được
trau dồi dưới mái trường Học viện nơi mà chúng con được mở mang về trí tuệ, vừa được
trau dồi về phong cách đạo đức. Chúng con cảm nhận được ân sâu mà Giáo hội Phật giáo
cũng như các bậc tôn túc đã tận tuỵ lo cho đàn hậu học chúng con.

Từ lúc mới bước chân vào đạo chúng con đã cảm nhận được công ơn của các bậc
làm thầy dành cho học trò rất bao la rộng lớn, tình cảm không bị hạn cuộc bởi thời gian,
không gian cũng không hạn chế ở phạm vi thầy và đệ tử trong chùa mà hầu như tất cả các
bậc tôn túc đều xem tất cả các Tăng Ni trẻ như con cái của mình, luôn quan tâm chăm
sóc, che chở, sách tấn chúng con trên bước đường tu học. Vài dòng ngắn ngủi trong luận
văn này là dịp để chúng con bày tỏ tấm lòng tri ân, muốn báo ân của chúng con đối với
thầy tổ mà chúng con hằng thao thức và cũng tự biết bổn phận của người học trò cần
phải làm gì để không cô phụ chí nguyện của người xuất gia, hơn thế nữa phải làm thế nào
để ngọn đèn Phật pháp được lưu truyền mãi mãi, để ghi ơn các vị đàn na tín thí đã phát
tâm hộ trì Tam Bảo mà không quản nhọc nhằn, sau nữa làm chỗ nương về cho những tâm
hồn đang mỏi mòn vì cuộc mưu sinh tìm về chốn yên bình sau thời gian lao nhọc. Và một
lạy này để một lần nữa thay lời tri ân chúng con dâng lên những bậc Thầy cao quý mà
chúng con mãi tôn thờ.

Kính lạy Tăng người thừa chí cả


Thay Thế tôn truyền bá đạo mầu
Từ bi hoá độ vô cầu
Làm thầy mô phạm dẫn đầu chúng sanh./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Tạ Thanh Bạch - Trung Dung – nhà sách Khai trí – 1960.

[2] HT. Minh Châu – Tăng Nhất A Hàm phần 1 – VNCPHVN ấn hành – 1997.

[3] HT. Minh Châu - Trường A Hàm I - VNCPHVN ấn hành – 1991.

[4] HT. Minh Châu - Trung Bộ kinh I - VNCPHVN ấn hành – 1992.

[5] HT. Minh Châu - Tăng Chi bộ kinh I – II- III - VNCPHVN ấn hành 1996

[6] HT. Minh Châu - Tương Ưng bộ kinh I-II-III - VNCPHVN ấn hành – 1993.

[7] HT. Minh Châu - Trường Bộ kinh I-II-III - VNCPHVN ấn hành – 1991.

[8] HT. Minh Châu - Kinh Pháp Cú - Trường Cao cấp Phật học Việt Nam-1990.

[9] Hạnh Cơ – Tịnh Kiên – Pháp tạng Phật giáo Việt Nam – Lưu hành nội bộ-
2004.

[10] Thích nữ Trí Hải - Con đường thoát khổ – Sài Gòn – 1966.

[11] Thích nữ Trí Hải - Thanh Tịnh Đạo luận - Lưu hành nội bộ – 1993.

[12] Phạm Cao Hoàn - Góp nhặt cát đá – NXB Thanh niên – 1999.

[13] Sa môn Trí Húc – Trùng Trị Tỳ Ni sự nghĩa tập yếu – Lưu hành nội bộ
1997.

[14] Chu Hy tập Chú – Mạnh Tử II – Bộ Văn hoá Giáo dục – Trung tâm học liệu
xuất bản – 1968.

[15] Nguyễn Khuê – Người lái đò (trích Báo Giác Ngộ số 104 – 2004.

[16] Trần Phương Lan – Đức Phật Lịch sử – VNCPHVN – 1997.


[17] Nguyễn Hiến lê – Lịch Sử Văn minh Ấn Độ – NXB Văn hoá.

[18] HT Thích Trí Nghiêm – Kinh Lời Vàng – NXB Tôn giáo – 2002.

[19] Thích Phước Sơn – Luật Ma Ha Tăng Kỳ III, IV - Lưu hành nội bộ – 2000.

[20] Lê Mạnh Thát – Trần Nhân Tông toàn tập – NXB Tp. HCM – 2000.

[21] Thích Chơn Thiện – Tăng Già thời Đức Phật – NXB Tôn giáo – 2000.

[22] Thích Giác Toàn – Giaó dục Phật giáo – Lưu hành nội bộ – 2005.

[23] Thích Trí Tịnh – Lương Hoàng Sám - NXB Tôn giáo – 1997.

[24] Thích Hành Trụ - Sa Di Luật giải – Thành hội Phật giáo Tp. HCM – 1992.

[25] Thích Hành Trụ – Giáo Khoa Thơ - Thành hội Phật giáo Tp. HCM – 1997.

[26] Thích Thanh Từ - Thiền tông Việt Nam - Thành hội Phật giáo Tp. HCM
-1992.

[27] Nhiều tác giả – Giáo dục Phật giáo trong thời hiện đại – NXB Tp. HCM-
2001

You might also like