You are on page 1of 16

Các rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ

Thành viên: nhóm 1 – NHB

Phạm Thị Thùy Dung

Cầm Việt Anh

Võ Khắc Báu

Đào Mạnh Duy

Trần Văn Đức

Phạm Thị Thu Giang

Lê Thị Thu Hà

1. Vài nét về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
1.1. Khái niệm:
Phương thức Tín dụng chứng từ (TDCT) là phương thức thanh toán, trong đó
theo yêu cầu của khách hàng, một ngân hàng sẽ phát hành một bức thư (gọi là thư
tín dụng- letter of credit) cam kết trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu cho một bên thứ
ba khi người này xuất trình cho ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với
những điều kiện và điều khoản quy định trong thư tín dụng.
1.2. Các bên tham gia
a. Người xin mở L/C (Applicant for L/C): là người yêu cầu ngân hàng
phục vụ mình phát hành một L/C, và có trách nhiệm pháp lý về việc trả tiền của
ngân hàng cho người bán theo L/C này. Người xin mở L/C có thể là người mua
(buyer), nhà NK (importer), người mở L/C (opener), người trả tiền (accountee).
b. Người thụ hưởng L/C (Beneficiary): là người được hưởng tiền thanh
toán hay sở hữu hối phiếu chấp nhận thanh toán.Người thụ hưởng L/C có thể có
những tên gọi khác nhau như: người bán (seller), nhà XK (exporter), người ký phát
hối phiếu (drawer).
c. Ngân hàng phát hành L/C (Issuing Bank) hay ngân hàng mở L/C
(Opening Bank): là ngân hàng mà theo yêu cầu của người mua, phát hành một L/C
cho người bán hưởng. Ngân hàng phát hành thường được hai bên mua bán thoả
thuận và quy định trong hợp đồng mua bán.
d. Ngân hàng thông báo (Advising Bank): là ngân hàng được ngân hàng
phát hành yêu cầu thông báo L/C cho người thụ hưởng. Ngân hàng thông báo
thường là một ngân hàng đại lý hay một chi nhánh của ngân hàng phát hành ở
nước nhà XK.
e. Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): trong trường hợp nhà XK
muốn có sự đảm bảo chắc chắn của thư tín dụng, thì một ngân hàng có thể đứng ra
xác nhận L/C theo yêu cầu của ngân hàng phát hành. Thông thường ngân hàng xác
nhận là một ngân hàng lớn có uy tín và trong nhiều trường hợp ngân hàng
thông báo được đề nghị là ngân hàng xác nhận L/C.
f. Ngân được chỉ định (Nominated Bank): là ngân hàng được ngân hàng
phát hành uỷ nhiệm để khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với những qui định
trong L/C thì:
- Thanh toán (pay)cho người thụ hưởng
- Chấp nhận (accept) hối phiếu kỳ hạn
- Chiết khấu (negotiate) bộ chứng từ
- Chịu trách nhiệm trả chậm (deferrer payment) giá trị của L/C. Trách nhiệm
của ngân hàng được chỉ định là giống như ngân hàng phát hành khi nhận được bộ
chứng từ của nhà XK gửi đến.
1.3. Quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ

Bên xuất * Bên nhập


khẩu khẩu
3

9 4 2
1 6 7

2
NH bên NH bên
xuất khẩu 5
nhập khẩu
8
* Hai bên ký hợp đồng ngoại thương
Bước 1: Sau khi kí hợp đồng ngoại thương, nhà NK chủ động viết đơn và
gửi các giấy tờ cần thiết liên quan xin mở L/C gửi ngân hàng phục vụ mình (NH
NK), yêu cầu ngân hàng mở một L/C với một số tiền nhất định và theo đúng
những điều kiện nêu trong đơn,để trả tiền cho nhà XK.
Bước 2: Căn cứ vào các giấy tờ xin mở L/C của nhà NK, NH NK sau khi đã
đồng ý, và nhà NK đã thực hiện ký quỹ,thì sẽ mở một L/C với một số tiền nhất
định để trả tiền cho nhà XK rồi gửi bản chính (bản gốc) cho NH phục vụ nhà
XK (NHXK)
Bước 3: Nhận được bản chính L/C từ NHNK, NHXK phải xác nhận bằng
văn bản L/C đã nhận được rồi gửi bản chính L/C cho nhà XK.
Bước 4 : Căn cứ vào các nội dung của L/C và những thỏa thuận đã ký trong
hợp đồng, nhà XK sẽ tiến hành giao hàng cho nhà NK.
Bước 5: Sau khi đã tiến hành giao hàng, nhà XK phải hoàn chỉnh ngay
bộ chứng từ hàng hoá theo đúng những chỉ thị trong L/C và phát hành hối phiếu
rồi gửi toàn bộ các chứng từ này cho NHXK để xin thanh toán.
Bước 6: NHXK nhận được bộ chứng từ từ nhà XK phải kiểm tra thật kỹ,
nếu thấy các chứng từ này mà bề ngoài của chúng không có gì mâu thuẫn với nhau
thì NH sẽ tiến hành trả tiền cho các chứng từ đó.
Bước 7: NHXK chuyển bộ chứng từ cho NHNK và yêu cầu NH này trả tiền
cho bộ chứng từ đó.
Bước 8: Nhận được bộ chứng từ, NHNK phải kiểm tra kỹ, nếu các chứng
từ khớp đúng, không có sự nghi ngờ thì NHNK trích tiền từ tài khoản ký quỹ mở
L/C đứng tên nhà NK để chuyển trả cho NHXK.
Bước 9: NHNK thông báo việc trả tiền đối với L/C cho nhà NK, đồng thời
NH chuyển giao bộ chứng từ hàng hoá cho nhà NK để người đó có căn cứ đi
nhận hàng.
1.4. Ý nghĩa của phương thức tín dụng chứng từ:
Nếu như phương thức chuyển tiền, nhờ thu gây bất lợi cho một bên người mua
hoặc người bán, cũng có khi là cả hai bên thì phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ tỏ ra ưu việt hơn, nó không những mang lại một số quyền lợi nhất định
cho ngân hàng mà nó còn đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên tham gia xuất nhập
khẩu. Người bán đảm bảo được thanh toán nếu xuất trình được bộ chứng từ hoàn
chỉnh, hợp lệ, còn người mua cũng đảm bảo nhận được hàng đúng thời hạn, đúng
như quy định của hợp đồng
Tuy nhiên, bất cứ một phương thức thanh toán nào cũng tiềm ẩn rủi ro của nó và
phương thức tín dụng chứng từ cũng có những rủi ro của riêng mình.
2. Những rủi ro và nguyên nhân gây ra rủi ro trong phương thức tín dụng
chứng từ:
Trong thanh toán L/C, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của một hoặc các bên tham gia
bị vi phạm. Rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ không
được thanh toán mà còn phải được hiểu theo nghĩa rộng của nó là bất kỳ một sự
khúc mắc, chậm trễ nào trong các khâu của quá trình thanh toán. Rủi ro trong thanh
toán bằng L/C có thể xyar ra đối với tất cả các bên: người bán, người mua, các
ngân hàng.
Trong thanh toán tín dụng chứng từ, có rất nhiều loại rủi ro khác nhau. Một số
loại rủi ro điển hình mà chúng ta hay gặp trong phương thức này đó là: Rủi ro kỹ
thuật, rủi ro chính trị, rủi ro hối đoái, rủi ro đạo đức.
2.1. Rủi ro kỹ thuật:
Rủi ro kỹ thuật là những rủi ro do những sai sót mang tính kỹ thuật trong quy
trình thanh toán TDCT.
2.1.1Rủi ro
a. Rủi ro đối với nhà Xuất khẩu
Khi tham gia phương thức thanh toán TDCT, nhà XK hay gặp những rủi ro sau:
1. Khi nhận được L/C từ NH thông báo, nếu nhà XK kiểm tra các điều kiện
chứng từ không kĩ, chấp nhận cả những yêu cầu bất lợi mà nhà XK không thể
đáp ứng được trong khâu lập chứng từ sau này. Khi các yêu cầu đó không được
thoả mãn, NH phát hành từ chối bộ chứng từ và không thanh toán. Lúc đó, nhà
NK sẽ có lợi thế để thương lượng lại về giá cả nằm ngoài các điều khoản của L/C
và nhà XK sẽ gặp bất lợi.
2. Trong thanh toán TDCT, ngân hàng mở L/C đứng ra cam kết thanh toán
cho người XK khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C, NH
chỉ làm việc với các chứng từ quy định trong L/C. Phương thức thanh toán
TDCT đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối giữa bộ chứng từ thanh toán với nội dung
quy định trong L/C. Chỉ cần một sơ suất nhỏ trong việc lập chứng từ thì nhà
XK cũng có thể bị NH mở L/C và người mua bắt lỗi, từ chối thanh toán. Do đó,
việc lập bộ chứng từ thanh toán là một khâu quan trọng và rất dễ gặp rủi ro đối với
nhà XK.
Một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với L/C phải đáp ứng được các yêu cầu
sau :
– Các chứng từ phải phù hợp với luật lệ và tập quán thương mại mà hai nước
người mua và người bán đang áp dụng và được dẫn chiếu trong L/C.
– Nội dung và hình thức của các chứng từ thanh toán phải được lập theo
đúng yêu cầu đề ra trong L/C.
– Những nội dung và các số liệu có liên quan giữa các chứng từ không được
mâu thuẫn với nhau, nếu có sự mâu thuẫn giữa các chứng từ mà từ đó người ta
không thể xác định một cách rõ ràng, thống nhất nội dung thuộc về tên hàng, số
lượng, trọng lượng, giá cả, tổng trị giá, tên của người hưởng lợi…thì các chứng từ
đó sẽ bị ngân hàng từ chối thanh toán vì bộ chứng từ đó mâu thuẫn với nhau
– Bộ chứng từ phải được xuất trình tại địa điểm qui định trong L/C và trong
thời hạn hiệu lực của L/C.
Trên thực tế có rất nhiều sai sót xảy ra trong quá trình lập chứng từ, thường
gặp vẫn là:
+ Lập chứng từ sai lỗi chính tả, sai tên, địa chỉ của các bên tham gia, của
hãng vận tải
+ Chứng từ không hoàn chỉnh về mặt số lượng.
+ Các sai sót trên bề mặt chứng từ : số tiền trên chứng từ vượt quá giá trị của
L/C; các chứng từ không ghi số L/C, không đánh dấu bản gốc; các chứng từ không
khớp nhau hoặc không khớp với nội dung của L/C về số lượng, trọng lượng, mô tả
hàng hoá…; các chứng từ không tuân theo quy định của L/C về cảng bốc dỡ hàng,
về hãng vận tải, về phương thức vận chuyển hàng hóa…
Tất cả những sai sót trên đều là những nguyên nhân gây nên rủi ro cho nhà XK
khi lập bộ chứng từ thanh toán.
Ngoài ra, do sự khác biệt về tập quán, luật lệ ở mỗi nước cho nên dễ dẫn đến
những sai sót khi nhà XK hoàn tất bộ chứng từ hàng hoá để gửi NH xin thanh toán.
3. Nếu nhà XK xuất trình bộ chứng từ không phù hợp với L/C thì mọi khoản
thanh toán hay chấp nhận có thể đều bị từ chối, và nhà XK phải tự xử lý hàng hoá
như dỡ hàng, lưu kho cho đến khi vấn đề được giải quyết hoặc phải tìm người mua
mới, bán đấu giá hay chở hàng về quay về nước. Đồng thời, nhà XK phải chịu
những chi phí như lưu tàu quá hạn, phí lưu kho… trong khi đó không biết rõ lập
trường của nhà NK là sẽ đồng ý hay từ chối nhận hàng vì lý do bộ chứng từ có sai
sót.
4. Nếu NH phát hành mất khả năng thanh toán, thì cho dù bộ chứng từ xuất
trình là hoàn hảo thì cũng không được thanh toán.
5. Thư tín dụng có thể huỷ ngang có thể được NH phát hành sửa đổi, bổ sung
hay huỷ bỏ bất cứ lúc nào trước khi nhà XK xuất trình bộ chứng từ mà không cần
sự đồng ý của nhà XK.
b. Rủi ro đối với nhà Nhập khẩu
1. Trong thanh toán TDCT, việc thanh toán của NH cho người thụ hưởng
chỉ căn cứ vào bộ chứng từ xuất trình mà không căn cứ vào việc kiểm tra hàng
hoá. NH chỉ kiểm tra tính chân thật bề ngoài của chứng từ, mà không chịu trách
nhiệm về tính chất bên trong của chứng từ, cũng như chất lượng và số lượng hàng
hoá. Như vậy sẽ không có sự đảm bảo nào cho nhà NK rằng hàng hoá sẽ đúng như
đơn đặt hàng hay không. Nhà NK có thể nhận được hàng kém chất lượng hoặc bị
hư hại trong quá trình vận chuyển mà vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền thanh toán cho
NH phát hành.
2. Khi nhà NK chấp nhận bộ chứng từ hàng hoá sẽ có nguy cơ gặp rủi ro. Bộ
chứng từ là cơ sở pháp lý đầu tiên về tính đúng đắn của hàng hoá. Nếu nhà NK
không chú ý kiểm tra kỹ bộ chứng từ (từ lỗi, câu chữ, số lượng các loại chứng từ,
cơ quan có thẩm quyền cấp các loại giấy chứng nhận…) mà chấp nhận bộ chứng
từ có lỗi sẽ bị thiệt hại và gặp khó khăn trong việc khiếu nại sau này.
3. Một rủi ro mà nhà NK hay gặp là hàng đến trước bộ chứng từ, nhà NK
chưa nhận được bộ chứng từ mà hàng đã cập cảng. Bộ chứng từ bao gồm vận đơn,
mà vận đơn lại là chứng từ sở hữu hàng hoá nên thiếu vận đơn thì hàng hoá không
được giải toả. Nếu nhà NK cần gấp ngay hàng hoá thì phải thu xếp để NH phát
hành phát hành một thư bảo lãnh gửi hãng tàu để nhận hàng. Để được bảo lãnh
nhận hàng, nhà NK phải trả thêm một khoản phí cho NH. Hơn nữa, nếu nhà NK
không nhận hàng theo qui định thì tiền bồi thường giữ tàu quá hạn sẽ phát sinh.
c. Rủi ro đối với ngân hàng phát hành
1. Trong nghiệp vụ mở L/C, nếu NH phát hành kiểm tra không kĩ đơn xin
mở L/C sẽ dẫn đến việc chấp nhận cả những điều khoản hàm chứa rủi ro cho NH
sau này.
2. Khi nhận được bộ chứng từ xuất trình, nếu NH phát hành trả tiền hay chấp
nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn mà không có sự kiểm tra một cách thích đáng
bộ chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi, nhà NK không chấp nhận, thì NH không thể
đòi tiền nhà NK.
3. Trong trường hợp hàng đến trước bộ chứng từ thì NH phát hành hay được
yêu cầu chấp nhận thanh toán cho người thụ hưởng mà chưa nhìn thấy bộ chứng
từ. Nếu không có sự chấp nhận trước của người NK về việc hoàn trả, thì NH
phát hành sẽ gặp rủi ro khi bộ chứng từ có sai sót, khi đó nhà NK không chấp nhận
và NH sẽ không truy hoàn được tiền từ nhà NK.
4. Ngân hàng phát hành phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo
qui định của L/C ngay cả trong trường hợp nhà NK mất khả năng thanh toán hoặc
bị phá sản do kinh doanh thua lỗ.
5. Nếu trong L/C ngân hàng phát hành không qui định bộ vận đơn đầy đủ(full
set off bills of lading) thì một người NK có thể lấy được hàng hoá khi chỉ cần xuất
trình một phần của bộ vận đơn, trong khi đó người trả tiền hàng hoá lại là ngân
hàng phát hành theo cam kết của L/C.
6. NH phát hành có thể gặp rủi ro do không hành động đúng theo UCP600, đó
là đưa ra quyết định từ chối bộ chứng từ vượt quá 5 ngày làm việc của ngân hàng,
theo qui định của UCP 600 là không quá 5 ngày.
d. Rủi ro đối với ngân hàng thông báo
NH thông báo có trách nhiệm phải đảm bảo rằng thư tín dụng là chân thật, đồng
thời phải xác minh chữ ký, mã khoá (test key), mẫu điện của NH phát hành trước
khi gửi thông báo cho nhà XK. Rủi ro xảy ra với NH thông báo là khi NH này
thông báo một L/C giả hoặc sửa đổi một L/C không có hiệu lực trong khi chính
NH chưa xác nhận được tình trạng mã khoá hay chữ ký uỷ quyền của NH mở L/C.
e. Rủi ro đối với ngân hàng xác nhận
1. Nếu bộ chứng từ được xuất trình là hoàn hảo thì NH xác nhận phải trả tiền
cho nhà XK bất luận là có truy hoàn được tiền từ NH phát hành hay không. Như
vậy, NH xác nhận chịu rủi ro tín dụng đối với NH phát hành.
2. Nếu NH xác nhận trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn mà
không có sự kiểm tra bộ chứng từ một cách thích đáng, để bộ chứng từ có lỗi, NH
phát hành không chấp nhận thanh toán thì NH xác nhận không thể đòi tiền NH phát
hành.
f. Rủi ro đối với ngân hàng được chỉ định
Các NH được chỉ định không có trách nhiệm thanh toán cho nhà XK trước
khi nhận được tiền hàng từ NH phát hành. Tuy nhiên trong thực tế, trên cơ sở bộ
chứng từ được xuất trình, các NH được chỉ định thường ứng trước cho nhà XK với
điều kiện truy đòi để trợ giúp nhà XK, do đó NH này phải chịu rủi ro tín dụng
đối với NH phát hành hoặc nhà XK.
2.1.2. Nguyên nhân:
- Do trình độ nghiệp vụ ngoại thương thanh toán xuất nhập khẩu của các bên
tham gia còn yếu nên chưa nắm bắt được các yêu cầu của L/C. Điều này dẫn đến
những sai sót trong quá trình lập chứng từ và thanh toán.
- Có thể do ngân hàng mở L/C quy định quá nhiều điều kiện, khoản mục gây
khó khăn cho người bán.
2.2. Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức là những rủi ro khi một bên tham gia phương thức thanh toán
TDCT cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo qui định của L/C,
làm ảnh hưởng tới quyền lợi của bên kia.
2.2.1. Rủi ro đạo đức:
a. Rủi ro đạo đức đối với nhà XK
Mặc dù trong thanh toán TDCT đã có sự cam kết của NH mở L/C nhưng sự tin
tưởng và thiện chí giữa người mua và người bán vẫn được coi là yếu tố quan trọng
đảm bảo cho sự an toàn của TTQT. Khi người NK không thiện chí, cố ý không
muốn thực hiện hợp đồng thì họ có thể dựa vào sai sót cho dù là rất nhỏ của bộ
chứng từ để đòi giảm giá, kéo dài thời gian để chiếm dụng vốn của người bán,
thậm chí từ chối thanh toán.
b. Rủi ro đạo đức đối với nhà NK
Với người mua sự trung thực của người bán là rất quan trọng bởi vì NH chỉ làm
việc với các chứng từ mà không cần biết việc giao hàng có đúng hợp đồng hay
không. Do đó nhà NK có thể gặp rủi ro nếu nhà XK có hành vi gian dối, lừa đảo…
trong việc giao hàng: cố tình giao hàng kém phẩm chất, không đúng số lượng…
Một nhà XK chủ tâm gian lận có thể xuất trình bộ chứng từ giả mạo, có bề
ngoài phù hợp với L/C cho NH mà thực tế không có hàng giao, người NK vẫn phải
thanh toán cho NH ngay cả trong trường hợp không nhận được hàng hoặc nhận
được hàng không đúng theo hợp đồng.
c.Rủi ro đạo đức đối với ngân hàng
NH là người gánh chịu rủi ro đạo đức : NH phát hành phải thực hiện thanh toán
cho người hưởng lợi theo qui định của L/C ngay cả trong trường hợp người NK
chủ tâm không hoàn trả.
NH là người gây ra rủi ro đạo đức: NH mở L/C có thể vi phạm cam kết của
mình như từ chối thanh toán hoặc trì hoãn thanh toán hoặc đứng về phía khách
hàng gây khó khăn trong quá trình thanh toán.
2.2.2. Nguyên nhân:
- Do vấn đề thông tin không đầy đủ và thiếu chính xác. Đó là việc các bên tham
gia không có đầy đủ những thông tin cần thiết về khả năng tài chính, tình hình hoạt
động kinh doanh cũng như về uy tín và tính trung thực của đối tác, hoặc được cung
cấp các thông tin không chính xác,... vì vậy mà đưa ra những phán đoán và quyết
định sai lầm gây nên rủi ro trong thanh toán. Cùng với đó là việc thanh toán L/C
chỉ dựa trên bề mặt chứng từ, không căn cứ và thực trạng của hàng hóa, nên tạo khe
hở cho một số cá nhân lừa đảo
2.3. Rủi ro chính trị
2.3.1. Rủi ro chính trị
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một trong các phương thức được
sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế. Các chủ thể tham gia trong phương
thức TDCT ở nhiều quốc gia khác nhau và tham gia vào nhiều lĩnh vực ngành
nghề khác nhau. Do đó, phương thức TDCT chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi
trường chính trị, xã hội của các quốc gia. Một sự biến động dù là nhỏ về chính trị,
xã hội của một quốc gia cũng sẽ ảnh hưởng tới sự vận động của tự do thương mại,
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghịêp…từ đó ảnh hưởng tới quá
trình thanh toán.
Rủi ro chính trị trong thanh toán quốc tế theo phương thức TDCT là những rủi
ro bắt nguồn từ sự không ổn định về chính trị của các nước có liên quan trong quá
trình thanh toán.Thông thường đó là rủi ro do thay đổi môi trường pháp lý như:
thay đổi đột ngột về thuế XNK, hạn ngạch, cơ chế ngoại hối (hạn chế ngoại hối),
luật XNK. Những thay đổi này làm cho các điều kiện trên thị trường tài chính thay
đổi đột biến không dự tính trước làm các bên tham gia XNK và ngân hàng không
thực hiện được nghĩa vụ của mình, làm cho L/C có thể bị huỷ bỏ, gây thiệt hại cho
các bên tham gia.
Bên cạnh đó, các cuộc nổi loạn, biểu tình, bạo động hay chiến tranh, đảo chính,
đình công…hoặc những rủi ro bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn ở các nước
tham gia, chứng từ bị thất lạc cũng có thể gây rủi ro trong quá trình thanh toán.
2.3.2. Nguyên nhân:
- Do môi trường pháp lý và luật pháp của các nước khác nhau. Nếu có sự khác
biệt, thậm chí đối nghịch giữa UCP600 và luật quốc gia thì luật quốc gia sẽ vượt
lên và được tuân thủ. Do đó trong nhiều trường hợp, quyết định của tòa án địa
phương mới là quyết định cuối cùng. Điều đáng nói ở đây là luật pháp ở một số
nước cho phép tòa án của họ áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo sự
an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu. Chính vì vậy mà rủi ro là rất khó lường.
- Do tình hình kinh tế của một quốc gia như nợ nước ngoài, dự trữ ngoại hối,
cấm vận kinh tế, chính sách thương mại,... Ví dụ như nợ nước ngoài của quốc gia
quá lớn thì một số biện pháp như tăng thuế, phá giá đồng nội tệ được áp dụng và
ảnh hưởng đến khả năng chi trả của người mua.
2.4. Rủi ro ngoại hối:
2.4.1. Rủi ro ngoại hối
Trong thanh toán quốc tế, hầu hết các hợp động thương mại đều sử dụng một
ngoại tế để thanh toán. Do vậy, không thể tránh khỏi những rủi ro về ngoại hối.
Yếu tố nhạy cảm và sự biến động của nó làm cho cả nhà xuất khẩu và nhập khẩu
đều không lường trước được sự biến động của nó. Sự biến động này có thể gây
thiệt hại cho nhà nhập khẩu hoặc nhà xuất khẩu trong từng trường hợp:
Thứ nhất là vấn đề tỷ giá hối đoái: ví dụ với nhà nhập khẩu: khi hàng nhập về,
tỷ giá trượt mạnh, đối với những mặt hàng giá bán cạnh tranh không thể tăng giá
được, nhà nhập khẩu có thể từ chối nhận hàng vì sợ bị lỗ và vì không đủ khả năng
thanh toán.
Trong một số trường hợp, biến động tỷ giá cũng gây thiệt hại cho ngân hàng. Ví
dụ, trong thực tế nước ta một số doanh nghiệp nhập khẩu thường không có sẵn
ngoại tệ, họ sẽ chuyển nội tệ vào ngân hàng và yêu cầu ngân hàng bán ngoại tệ cho
mình. Khi có yêu cầu mở L/C thanh toán ngân hàng sẽ thu tiền ký quỹ đối với nhà
nhập khẩu. Do trong TTQT ngoại tệ mạnh thường được sự dụng nên ngân hàng sẽ
phải dùng số tiền đó để mua ngoại tế. Số tiền ký quỹ mà DN nộp vào ngân hàng đã
được tính ra ngoại tệ tại thời điểm ký. Nễu vì một lý do nào đó ngân hàng không
thực hiện ngay việc trao đổi lấy ngoại tệ thời điểm đó mà lùi lại một thời gian, và
khi đó động nội tệ giảm giá, ngân hàng sẽ phải mật thêm một khoản tiền bù vào
mức giảm. Kết quả là ngân hàng bị mất thêm một khoản tiền do biến động tỷ giá.
Ngoài ra, nếu trạng thái ngoại hối của ngân hàng không tốt, một mặt ngân hàng
sẽ không đáp ứng được nhu cầu mua ngoại tệ cảu khách hàng, mặt khác bản thân
ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn trong quá trình thanh toán. Thiệt hại về mặt tài
chính xảy ra do ngân hàng phải đi vay ngân hàng khác và uy tín của ngân hàng bị
giảm sút
2.4.2. Nguyên nhân:
- Sự biến động của tỷ giá
- Trạng thái ngoại tệ của ngân hàng không tốt
2.5. Các rủi ro khác:
Ngoài những rủi ro kể trên, hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ cũng như các hoạt động khác của NH còn có thể gặp một số loại rủi
ro khác như rủi ro bất khả kháng (thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh,...) và các rủi ro
do một trong các bên phá sản mất khả năng thanh toán làm cho các bên tham gia
gặp phải thiệt hại.
- Rủi ro xảy ra đối với người nhập khẩu có thể do nguyên nhân khi ngân hàng
phát hành đứng trước tình trạng mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp này,
mức độ thiệt hại của người mua phụ thuộc vào số tiền ký quỹ
- Rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản: đây là
loại rủi ro gây thiệt hại nặng nề cho NH mở thư tín dungj bởi ngân hàng phải thanh
toán cho người bán trong khi không thể thu hồi được vốn lại từ phía người mua.
- Rủi ro với NH chiết khấu hoặc NH xác nhận hoặc bên nhập khẩu khi ngân
hàng phát hành phá sản (ví dụ như sự sụp đổ của ngân hàng Bearing của Anh tháng
2/1995)
- Theo điều 36 UCP 600 thì “ “. Rõ ràng khi có bất khả kháng xẩy ra, nếu
người nhập khẩu hoặc ngân hàng chiết khẩu chưa kịp được chấp nhận thanh toán
thì chính họ sẽ là người bị thiệt hại
- Rủi ro khách quan từ nền kinh tế: Một rủi ro mà các bên tham gia phương
thức thanh toán TDCT hay gặp là sự khủng hoảng, suy thoái kinh tế và tình trạng
công nợ nặng nề của các quốc gia. Khi nền kinh tế của một quốc gia bị suy thoái,
khủng hoảng sẽ kéo theo các ngân hàng bị phong toả hoặc tạm ngưng hoạt động,
từ đó làm ảnh hưởng rtới quá trình thanh toán quốc tế. Nếu nợ nước ngoài của một
quỗc gia làquá lớn thì các biện pháp như tăng thuế, phá giá nội tệ sẽ được áp
dụng, từ đó làm giảm khả năng chi trả của người mua và ngân hàng có nguy cơ
không đòi được tiền. Ngoài ra, sự phong toả kinh tế của các quốc gia như trường
hợp của Cuba, Iraq… cũng mang klại những rủi ro cho bất kì quốc gia, đơn vị
kinh tế nào có hoạt động xuất nhập khẩu với các nước đó.
3. Một số giải pháp kiến nghị để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh
toán theo phương thức tín dụng chứng từ:
3.1. Đối với nhà nước:
- Cần tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ
của toàn hệ thống NHTM.
- Cần có chính sách khuyến khích và kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu.
- Tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tính dụng ngân hàng
nhà nước (CIC)
3.2. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu:
- Nên có cán bộ chuyên trách về xuất nhập khẩu đã được đào tạo nghiệp vụ
ngoại thương, am hiểu về luật pháp trong thương mại quốc tế thanh toán quốc tế, có
năng lực và có phẩm chất trung thực trong kinh doanh
- Giữ chữ tín, thực hiện đúng vam kết với đối tác và với ngân hàng, thực hiện
đúng chỉ dẫn của ngân hàng về L/C, phối hợp khi có tranh chấp
- Chú ý đến các điều kiện để được thanh toán, đặc điểm của từng loại chứng từ,
kiểm tra hàng hóa, mở L/C đúng quy định
- Cần lường trước những bất lợi khi có tranh chập và bị khởi kiện ở nước ngoại.
3.3. Đối với NHTM:
- Chú trọng công tác thẩm định đánh giá khách hàng
- Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp
- Thành lập bộ phận quản lý và phòng ngừa rủi ro
- Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng
- Tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng

Khái niệm:

Kỳ phiếu là một loại chứng khoán, trong đó người ký phát cam kết sẽ trả một số
tiền nhất định vào một ngày nhất định cho người hưởng lợi được chỉ định trên lệnh
phiếu hoặc theo lệnh của người hưởng lợi trả cho một người khác.

Nội dung kỳ phiếu:

- Cam kết trả một số tiền nhất định một cách vô điều kiện
- Thời hạn trả tiền
- Ðịa điểm trả tiền
- Tên họ người thụ hưởng
- Ðịa điểm, ngày ký phát hối phiếu
- Chữ ký của người ký phát lệnh phiếu

Séc

Khái niệm:

Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản, ra lệnh cho ngân
hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả theo
lệnh của người ấy hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt
hay bằng chuyển khoản.

Một lệnh trả tiền muốn được coi là séc thì trước tiên phải có tiêu đề SEC ghi trên tờ
lệnh đó. Vì séc là lệnh nên khi ngân hàng nhận được séc phải chấp hành lệnh này
vô điều kiện, trừ trường hợp tài khoản phát hành séc không có tiền hoặc tờ séc
không đủ tính chất pháp lý. Số tiền ghi trên séc phải rõ ràng, phải vừa ghi bằng số
và vừa ghi bằng chứ khớp đúng nhau, có ký hiệu tiền tệ. Trên séc phải ghi địa điểm
và ngày tháng lập séc, tên địa chỉ của người yêu cầu trích tài khoản, tài khoản được
trích trả, ngân hàng trả tiền, tên địa chỉ của người hưởng số tiền trên séc, chữ ký
của người phát hành séc. Nếu là tổ chức thì phải có chữ ký của chủ tài khoản, kế
toán trưởng và dấu của tổ chức đó.

Đặc điểm của séc là có tính chất thời hạn, tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hoặc
thanh toán nếu thời hạn hiệu lực của nó chưa hết đối với séc thương mại. Thời hạn
hiệu lực của tờ séc được ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn dó tuỳ thuộc vào phạm vi
không gian mà séc lưu hành và luật pháp các nước quy định.

Nội dung:
Tờ séc muốn có hiệu lực phải có những nội dung sau đây:

1. Tiêu đề SEC. Nếu không có tiêu đề, ngân hàng sẽ từ chối thực hiện lệnh của
người phát hành séc.
2. Ngày, tháng, năm và địa điểm phát hành séc.
3. Ngân hàng trả tiền.
4. Tài khoản của người trả tiền.
5. Số tiền. Ghi rõ ràng, đơn giản số tiền của séc bằng số và bằng chữ (phải thống
nhất với nhau). Nếu có sự không thống nhất giữa hai cách ghi đó thì căn cứ vào số
tiền ghi bằng chữ.
6. Tên và địa chỉ người trả tiền.
7. Tên và chữ ký của người hưởng lợi và tài khoản (nếu có).
8. Chữ ký của người phát hành séc.
Theo Kỹ thuật kinh doanh XNK (PGS.TS Võ Thanh Thu)
Hối phiếu

Khái niệm (Theo Luật điều chỉnh về hối phiếu - ULB 1930 thì ) Hối phiếu là tờ
mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho người khác, yêu cầu
người này ngay khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một ngày nhất định trong tương
lai, phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó (có thể là người phát hành
hối phiếu hoặc người thứ ba), hoặc trả cho người sở hữu hối phiếu tại thời điểm đó.

Nội dung:
Theo Luật thống nhất về hối phiếu (ULB), hối phiếu có giá trị pháp lý khi có các
nội dung sau:

1. Tiêu đề hối phiếu: phải ghi chữ Hối phiếu (Bill of Exchange).
2. Ðịa điểm kí phát hối phiếu. Trong trường hợp hối phiếu không ghi địa điểm kí
phát thì địa chỉ ghi bên cạnh tên người kí phát là địa điểm thành lập hối phiếu.
3. Ðịa điểm trả tiền. Nếu trên hối phiếu không ghi địa điểm trả tiền thì địa chỉ ghi
bên cạnh người trả tiền là địa điểm trả tiền của hối phiếu.
4. Trên hối phiếu phải ghi rõ: Trả theo lệnh của ... (Pay to the order of...)
5. Số tiền và loại tiền. Số tiền phải ghi rõ ràng, đơn giản, đúng tập quán quốc tế,
được ghi cả bằng số và bằng chữ.
Chú ý: nếu số tiền ghi bằng số và bằng chữ khác nhau thì căn cứ vào số tiền ghi
bằng chữ.
6. Kỳ hạn trả tiền của hối phiếu:
+ Trả tiền ngay: hối phiếu ghi: Trả ngay khi nhìn thấy bản thứ nhất (hai) của hối
phiếu này ( At ... sight of first (second) Bill of Exchange).
+ Trả tiền sau:
- Trả sau một số ngày kể từ ngày nhận hối phiếu: Trả 30 ngày sau khi nhìn thấy (At
.30.. days after sight)
- Trả sau một số ngày kể từ ngày giao hàng: Trả .30.. ngày sau khi ký vận đơn
(At..30.. days after Bill of Lading date)
- Trả sau một số ngày kể từ ngày kí phát hối phiếu: Trả sau 30 ngày kể từ ngày kí
phát hối phiếu (At.30.days after Bill of Exchange date).
7. Người hưởng lợi hối phiếu. Ghi đầy đủ họ tên và địa chỉ của người hưởng lợi.
Ðối với hối phiếu thương mại, người hưởng lợi là người xuất khẩu và cũng có thể
là một người khác do người hưởng lợi chỉ định.
8. Người trả tiền hối phiếu: Ghi đầy đủ họ tên và địa chỉ của người trả tiền của hối
phiếu vào góc dưới bên trái của hối phiếu.
9. Người ký phát hối phiếu. Người ký phát hối phiếu phải ký tên ở góc dưới bên
phải của tờ hối phiếu bằng chữ ký thông dụng trong giao dịch. Các chữ ký dưới
dạng in, photocopy và đóng dấu... mà không phải viết tay đều không có giá trị pháp
lý.
Việc ký phát hối phiếu không loại trừ sự uỷ quyền. Người được uỷ quyền ký phát
hối phiếu phải thể hiện sự uỷ quyền ngay bên cạnh chữ ký của mình. Ngôn ngữ của
hối phiếu là ngôn ngữ nào thì ngôn ngữ thể hiện sự uỷ quyền phải là ngôn ngữ ấy,
điều quy định này tạo điều kiện dễ dàng cho người có liên quan đến hối phiếu thấy
có sự uỷ quyền về việc thành lập hối phiếu đó.

You might also like