You are on page 1of 19

BÀI TẬP 3

Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Mục Lục

Trang
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC...........................................................................2

Câu 1: Sách lược hòa hoãn, phân tán kẻ thù của Đảng (1945-1946)....3

I. Tình hình đất nước sau thắng lợi của Cách Mạng Tháng 8 ................................3
II. Tăng cường thực lực cách mạng trên cơ sở phát huy sức mạnh toàn dân để
giữ vững chính quyền ..................................................................................................4
III. Sách lược hòa hoãn, phân tán kẻ thù của Đảng..................................................5
1. Hòa với Tưởng ở miền Bắc để tập trung lực lượng chống thực dân Pháp ở
miền Nam (9-1945 đến 3-1946)....................................................................................5
2. Tạm thời hoà hoãn với thực dân Pháp đề đẩy nhanh quân Tưởng về nước
(3-1946 đến 12-1946)....................................................................................................9
3. Ý nghĩa của sách lược hòa hoãn của Đảng.....................................................12

Câu 2: Chủ trương phát động toàn quốc kháng chiến và nội dung
đường lối chống Pháp của Đảng......................................................................13

I. Nguyên nhân dẫn đến việc Đảng và Chính phủ phát động phong trào toàn
quốc kháng chiến chống thực dân Pháp..................................................................13
II. Quá trình hình thành đường lối kháng chiến (1946).........................................15
III. Nội dung đường lối..............................................................................................16
1. Nội dung đường lối............................................................................................16
2. Đánh giá đường lối chống Pháp của Đảng......................................................18

Nguồn tham khảo.......................................................................................................18

BẢNG TỰ ĐÁNH GIÁ NHÓM 1.............................................................................19

1
PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

STT Tên Nhiệm vụ

1 Dương Minh Hà Tăng cường thực lực Cách Mạng trên cơ sở


phát huy sức mạnh của toàn dân để giữ vững
chính quyền

2 Hà Thị Hồng Hạnh Hòa Tưởng đánh Pháp (9-1945 đến 3-1946)

3 Trương Mỹ Hoa Nội dung đường lối chống Pháp của Đảng

4 Nguyễn Thu Huyền Hòa Pháp đuổi Tưởng (3-1946 đến 12-1946)

5 Nguyễn Hoàng Hương Bối cảnh đất nước sau trước 1946

6 Lê Khánh Linh Quá trình hình thành đường lối chống Pháp

7 Phạm Nhật Linh Ý nghĩa của sách lược hòa hoãn

8 Đoàn Minh Phượng Tình hình đất nước sau Cách Mạng tháng 8

9 Võ Thị Thái Nội dung đường lối chống Pháp của Đảng

10 Cầm Thị Tuyền Nội dung đường lối chống Pháp của Đảng

2
Câu 1: Sách lược hòa hoãn, phân tán kẻ thù của Đảng (1945-1946)?

I. Tình hình đất nước sau thắng lợi của Cách Mạng Tháng 8
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời, công cuộc xây dựng vào bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối cảnh
vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.
- Thuận lợi cơ bản

• Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu được hình
thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển.

• Ở trong nước, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập. Hệ thống chính
quyền cách mạng được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ
hoạt động bí mật, Đảng ta đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền. Nhân dân
lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước.

• Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng cường.

• Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

- Khó khăn nghiêm trọng

• Hậu quả do chế độ cũ để lại: nạn đói, nạn dốt rất nặng nề, ngân quỹ quốc gia
trống rỗng

• Kinh nghiệm quản lý đất nước của cán bộ các cấp non yếu.

• Nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận và
đặt quan hệ ngoại giao.

• Với danh nghĩa Đồng Minh đến tước khí giới của phátxít Nhật, quân đội các
nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt
gian chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt
nước ta

 Dưới danh nghĩa quân đội Đồng minh vào tước vũ khí quân Nhật,
nhưng âm mưu của Quốc dân đảng Trung Hoa là: “Tiêu diệt Đảng ta,
phá tan Việt Minh, giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính
quyền nhân dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho
chúng”.

 Ở phía Nam vĩ tuyến 16 (từ Đà Nẵng trở vào), cũng với danh nghĩa
lực lượng Đồng minh, quân đội Anh vào tước vũ khí quân Nhật.
Nhưng trên thực tế, đế quốc Anh đã giúp cho thực dân Pháp trở lại
chiếm Việt Nam và cả Đông Dương. Ngày 6-9-1945, quân đội Anh
vào Sài Gòn, Gờ-ra-xây – tổng chỉ huy quân đội Anh ở Nam Đông
Dương – đòi giải giáp quân đội Việt Nam. Ngày 12-9-1945, quân
Anh chiếm trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ, che chở cho lực lượng

3
của Pháp biểu tình khiêu khích ở Sài Gòn. Chúng tự ý duy trì trật tự
trong thành phố, giao cho quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát, thả 1500
lính Pháp bị Nhật giam giữ trước đây và trang bị cho lực lượng này,
đồng thời trắng trợn đòi lực lượng vũ trang Việt Nam nộp vũ khí.
Ngày 23-9-1945, được quân Anh và quân Nhật giúp sức, quân Pháp
nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đâu cuộc xâm lược tân thứ hai của
thực dân Pháp hòng đặt lại ách thống trị ở Việt Nam và Đông Dương.

“Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới, vận
mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”, Tổ quốc lâm nguy. Tình hình trên đòi hỏi
Đảng và chính quyền cách mạng có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, phát
huy sức mạnh của toàn dân mới có thể bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng.

II. Tăng cường thực lực cách mạng trên cơ sở phát huy sức mạnh toàn dân để
giữ vững chính quyền
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và hiện trạng đất nước, ngày 25-11-
1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”. Bản chỉ thị xác định
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng lúc này “vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải
phóng”. Vì trên thực tế, cuộc cách mạng đó vẫn đang tiếp diễn, nước ta chưa hoàn
toàn độc lập. Chính quyền cách mạng cùng toàn dân phải “kiên quyết hoàn thành
nhiệm vụ thiêng liêng ấy”. Khẩu hiệu của cách mạng vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ
quốc trên hết”. Xem xét âm mưu của chủ nghĩa đế quốc đối với cách mạng Việt Nam
và Đông Dương cũng như những hành động xâm lược của thực dân Pháp ở Nam Bộ
cho thấy, việc Đảng ta xác định nhiệm vụ chiến lược trên đây là đúng đắn.

Những nhiệm vụ chiến lược được Đảng đặt ra thể hiện ở các mặt: tổ chức-
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa tư tưởng đồng thời phát huy cao độ sức mạnh của
toàn dân để giữ vững và bảo vệ chính quyền mới cũng như nền độc lập dân tộc.
→ Phải tăng cường thực lực cách mạng về mọi mặt thì mới có khả năng tự bảo
vệ hiệu quả.

+Về tổ chức- chính trị:


• Tổ chức sớm cuộc tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu, lập chính phủ chính
thức, chấn chỉnh các cơ quan chính phủ, soạn thảo Hiến pháp để khẳng định
trên thực tế và về mặt pháp lý, một chính quyền thật sự do nhân dân xây dựng
nên, một chính quyền của dân và vì dân. Kết quả cuộc bầu cử Quốc hội đầu
tiên của nước Việt Nam ngày 6-1-1964 biểu thị ý chí và sức mạnh của toàn
dân xây dựng và bản vệ chính quyền.
• Ở các địa phương nhân dân cũng bầu ra Hội đồng nhân dân các cấp và các hội
đồng đó cử ra các uỷ ban nhân dân chính thức thay cho các uỷ ban nhân dân
lâm thời thành lập trong những ngày tổng khởi nghĩa. Ngày 9-11-1946, Quốc
hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta, khẳng định tất cả
quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, nước Việt Nam là
một khối thống nhất không thể chia cắt.
• Để tǎng cường sức mạnh về chính trị, cùng với việc củng cố chính quyền,
Đảng chủ trương mở rộng khối đoàn kết toàn dân trên cơ sở phát triển các
đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, tổ chức thêm những đoàn thể
cứu quốc mới. Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt được
thành lập tháng 5-1946 nhằm đoàn kết tất cả các lực lượng và cá nhân chưa
có điều kiện tham gia Mặt trận Việt Minh trước đây cùng phấn đấu cho một

4
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và phú cường.

+Về quân sự:


• Ở miền Nam, Đảng phát động toàn dân triệt để tổng đình công, bãi công, bãi
chợ, không hợp tác với địch, làm đúng lời thề trong lễ tuyên bố độc lập, đông
thời tiến hành chiến tranh du kích rộng khắp, kìm chân và tiêu hao, tiêu diệt
sinh lực địch, làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của địch.
• Ờ miền Bắc và miền Trung, Đảng phát động phong trào “Nam tiến” chi viện
người và của cho cuộc chiến đấu ở miền Nam.
• Đảng và chính quyền cách mạng còn chǎm lo xây dựng, củng cố công an nhân
dân, coi đó là công cụ trọng yếu bảo vệ thành quả cách mạng. Sự ra đời của
công an nhân dân ngày 19-8-1945 và cuộc đấu tranh có hiệu quả chống các thế
lực phản cách mạng đã thể hiện tinh thần đó.
→ Lực lượng vũ trang cách mạng đến nǎm 1946 đã lên tới 8 vạn người, là một
trong những lực lượng nòng cốt bảo vệ chính quyền, bảo vệ thành quả cách
mạng.

+Về kinh tế:


• Khôi phục các nhà máy, hầm mỏ, cho tư nhân góp vốn kinh doanh, khuyến
khích giới công thương mở hợp tác xã, lập ngân hàng quốc gia, phát hành giấy
bạc, sửa chữa đê điều, định lại các ngạch thuế v.v..
• Đảng đặc biệt nhấn mạnh việc phát triển sản xuất nông nghiệp với khẩu hiệu
“không một tấc đất bỏ hoang”
• Phát động chiến dịch tǎng gia sản xuất và tiết kiệm để cứu đói, động viên sự
đóng góp to lớn của nhân dân.
• Chính phủ đã động viên toàn dân đóng góp tiền của và hưởng ứng “Tuần lễ
vàng” xây dựng “Quỹ độc lập”. Các tầng lớp nhân dân trên cả nước trong
“Tuần lễ vàng”, (từ ngày 17 đến 24-9-1945) đã đóng góp được 370 kg vàng,
và hơn 60 triệu đồng cho”Quỹ độc lập” và “Quỹ đảm phụ quốc phòng”. Nhiều
nhà công thương ở Hà Nội ủng hộ Chính phủ hàng trǎm lạng vàng và hàng
triệu đồng.

+Về văn hóa- xã hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu” Vì vậy, cùng với chống giặc đói và giặc ngoại xâm phải chống giặc dốt:
Chiến dịch diệt giặc dốt được thực hiện rộng rãi khắp cả nước, xoá bỏ phong tục cổ
hủ và tệ nạn xã hội của chế độ cũ và từng bước xây dựng đời sống vǎn hoá mới
→ mang lại hiệu quả tích cực, tạo nên sức mạnh chính trị, tinh thần của chế độ
xã hội mới.

III. Sách lược hòa hoãn, phân tán kẻ thù của Đảng
1. Hòa với Tưởng ở miền Bắc để tập trung lực lượng chống thực dân Pháp ở
miền Nam (9-1945 đến 3-1946)
Để giữ vững được chính quyền trong hoàn cảnh bị nhiều kẻ thù bao vây và
chống phá, đòi hỏi Đảng phải phân tích, đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn, thể và lực
của từng kẻ thù, để có đối sách thích hợp, khơi sâu và lợi dụng mâu thuẫn giữa chúng,
làm thất bại từng âm mưu, thủ đoạn của chúng.
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng đã chỉ rõ: thực dân
Pháp là kẻ thù nguy hiểm hơn, là kẻ thù chính, cần phải tập trung mũi nhọn vào

5
chúng. Xác đinh thực dân Pháp là kẻ thù chính, bởi vì chúng đã và đang trắng trợn vũ
trang xâm lược nước ta ở Nam Bộ. Thực dân Pháp rắp tâm đặt lại ách thống trị của
chúng ở Đông Dương. Âm mưu đó được thể hiện trong Tuyên ngôn của chính phủ Đờ
Gôn ngày 24-3-1945. Nhận rõ âm mưu của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế
giới thứ hai, Đảng ta cho rằng, các thế lực đế quốc sẽ đi đến dàn xếp với nhau để cho
thực dân Pháp trở lại Đông Dương. Trước sau chính quyền Tưởng Giới Thạch cũng
“sẽ bằng lòng cho Đông Dương trở về tay Pháp, miễn là Pháp nhượng cho Tưởng
nhiều quyền lợi quan trọng”. Như vậy, việc tập trung chống thực dân Pháp lúc này là
hoàn toàn đúng. Để tập trung đối phó với thực dân Pháp, cần phải hoà hoãn, nhân
nhượng với Tưởng. Bởi lẽ chúng chưa thể trắng trợn gây chiến tranh xâm lược nước
ta được. Như vậy, tranh được tình thế khó khǎn bất lợi là phải đối đầu với cả quân
Pháp và quân Tưởng cùng một lúc.

* Lý do:
• Ta không đủ khả năng đối chọi với tất cả các kẻ thù cùng một lúc,
chúng ta cần có thời gian hoà bình để củng cố xây dựng đất nước. Thực
hiện chủ trương hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều
kẻ thù cùng trong một lúc ta chủ trương thực hiện sách lược hoà hoãn,
tránh xung đột, giao thiệp thân thiện và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính
trị với quân Tưởng một cách khôn khéo.
• Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa hợp pháp giải giáp quân Nhật nếu
chúng ta dùng vũ lực thì chúng lấy cớ tấn công chính quyền cách mạng
của nước ta.
• Quân Tưởng vào Việt Nam thực hiện kế hoạch Hoa quân nhập Việt,
diệt cộng cầm Hồ lập nên chính quyền thân Tưởng.
• Hoà với Tưởng để tập trung lực lượng đánh Pháp ở miền Nam .

* Khả năng hoà hoãn:


• Nội bộ quân Tưởng có mâu thuẫn ta triệt để lợi dụng mâu thuẫn này, quân
Tưởng có lực lượng lớn quân số đông nhưng ô hợp, tổ chức kém, hậu
thuẫn khó khăn.

* Nguyên tắc hoà hoãn:


• Đảm bảo giữ vững chính quyền cách mạng và chính quyền cơ sở
• Kiên quyết trấn áp những hành động
• Không nhượng bộ về vấn đề nhượng bộ của Việt Nam

* Biện pháp:
Khi quyết đính sách lược hoà hoãn với Tưởng, Đảng ta cũng nhận rõ những
mâu thuẫn, khó khǎn trong nội bộ quân Tưởng. Chính quyền Tưởng tuy có Mỹ giúp
sức, song đang phải đối phó với sự phát triển của cách mạng Trung Quốc do Đảng
cộng sản lãnh đạo và nước Trung Hoa đang đứng trước một cuộc nội chiến mới.

6
Chính quyền Tưởng tuy tham vọng thì lớn, nhưng thực lực có hạn, đội quân Tưởng
kéo sang Việt Nam tuy đông nhưng ô hợp, tổ chức kém và hậu cần khó khǎn, nên
chúng không thể muốn gì là làm được, không thể không trông mong vào những khả
nǎng hậu cần tại chỗ. Do đó, chúng không thể không giao thiệp và dựa vào chính
quyền của ta đã được xác lập, để có thể giải quyết những nhu cầu cấp thiết.

+ Về chính trị:
• Ta tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình của quần chúng nhân dân mang
theo băng cờ, khẩu hiệu; “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “ủng hộ Chính phủ
lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”.
• Quân Tưởng không dám ra mặt công khai, mà dùng bọn tay sai Việt
Quốc, Việt Cách để phá ta từ bên trong. Dựa vào quân Tưởng, bọn tay sai Việt Quốc,
Việt Cách đòi ta phải cải tổ chính phủ, để cho chúng một số ghế trong Quốc hội và
Chính phủ không qua bầu cử.
• Đảng chủ trương mở rộng Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên
hiệp lâm thời, để cho một số nhân vật của Việt Quốc, Việt Cách (tay sai của Tưởng)
tham gia Chính phủ. Quốc hội khoá I, kỳ họp đầu tiên ngày 2-3-1946 thông qua đề
nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng thêm 70 ghế trong Quốc hội cho bọn Việt
Quốc, việt Cách và để họ nắm gần một nửa số Bộ trong Chính phủ liên hiệp chính
thức.
• Đối với các tổ chức tay sai của Tưởng (Việt Quốc, Việt Cách), ta dựa
vào quần chúng kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ phá hoại của
chúng. Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng, bị trừng trị theo pháp luật. Chúng ta biết
rõ các đảng phái phản động (Việt Quốc, Việt Cách..., hoàn toàn dựa vào quân Tưởng,
nên khi đội quân đó rút đi thì các tổ chức đó cũng không có chỗ đứng trong lòng quốc
gia, dân tộc và chiêu bài “yêu nước”, “cách mạng” cũng bị chính những hành động
phản nước, hại dân của họ lột bỏ.
• Đối với các tổ chức phản động thân Nhật, Chính phủ ban hành một số
sắc lệnh: Ngày 5/9/1945, sắc lệnh giải tán “Đại Việt quốc gia xã hội Đảng” và “Đại
Việt quốc dân Đảng”: Sắc lệnh lập toà án quân sự trừng trị bọn phản cách mạng...
• 11-11-1945 để làm mất mục tiêu đánh phá của kẻ thù Đảng tuyên bố tự
giải tán nhưng thực chất là hoạt động bí mật với tên là Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác
ở Đông Dương. Trong hoàn cảnh có nhiều đảng phái đối lập công khai dựa vào thế
lực bên ngoài để chống phá chính quyền cách mạng, Đảng ta tuy phải rút vào bí mật,
nhưng không thể buông lỏng vai trò lãnh đạo chính quyền. Chấp nhận cho các đảng
phái đối lập hoạt động, thậm chí tham gia chính quyền là sự nhân nhượng lớn có tính
chất bắt buộc, nhưng đó chỉ là sách lược của ta với chính quyền Tưởng lúc này, còn
giữ vững sự lãnh đạo của Đảng ta là một nguyên tắc chiến lược.
• Đối với các đảng phái thân Tưởng, Đảng ta chủ trương phân hoá nội

7
bộ của chúng, kéo lấy những phần tử trung thực còn có tinh thần yêu nước; đồng thời,
chỉ cho quần chúng thấy bọn lãnh tụ các tổ chức đó “chẳng qua là một bọn cơ hội đê
hèn, vì chúng chỉ biết vâng lệnh nước ngoài và đặt quyền lợi riêng lên trên quyên lợi
dân tộc”.
• Mở rộng thành phần chính phủ lâm thời thành chính phủ liên hiệp lâm
thời trong đó có sự tham gia của Việt Quốc, Việt Cách chấp nhận 70 ghế của Quốc
hội cho Việt Quốc, Việt Cách không qua bầu cử.

+ Về quân sự:
• Đảng chủ trương tránh xung đột với quân Tưởng, tỉnh táo để không rơi
vào âm mưu và hành động khiêu khích lật đổ của chúng, nắm vững phương châm
thêm bạn bớt thù, chính quyền cách mạng hợp tác tích cực giải giáp quân Nhật
+ Về kinh tế:
• Từ sự phân tích khách quan chỗ mạnh, chỗ yếu của từng kẻ thù, tin
vào sức mạnh của cách mạng, của chính nghĩa, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
sự nhân nhượng với quân Tưởng trên một số mặt. Nhằm chống lại âm mưu phá hoại
của Tưởng, Đảng đã nhận tiêu tiền mất giá là “Quan kim” và “Quốc tệ” mặc dù điều
đó làm cho tài chính và thương mại của ta càng thêm nguy ngập .
• Chấp nhận cung cấp lương thực thực phẩm chỗ ăn chỗ ở cho 20 vạn
quân Tưởng
+ Về ngoại giao:
• Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ quân Tưởng vào nước ta với ý
đô lật đổ Chính phủ ta, lập nên chính quyền tay sai của chúng nhưng lại dưới danh
nghĩa quân Đồng minh làm nhiệm vụ tước vũ khí quân Nhật, nên Đảng ta đề ra chính
sách “Hoa – Việt thân thiện”, có những nhân nhượng nhất định, chính là chủ động
ngǎn chặn và làm thất bại âm mưu lật đổ của chúng, tỏ rõ thiện chí của Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà là sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ quân Đồng minh trong việc giải
giáp quân Nhật, không để họ kiếm cớ lật đổ chính quyền của ta. Đây là sự nhìn nhận
và xử trí cực kỳ tinh tế sáng suốt, tránh được sự đối đầu có thể dẫn tới đổ vỡ.

* Kết quả:
• Trải qua nửa năm đấu tranh ta giành được nhiều thắng lợi quan trọng, mềm
dẻo sách lược, nắm giữa nguyên tắc, nắm chắc vai trò lãnh đạo của Đảng giữ
vững chính quyền cách mạng, giữ vững mục tiêu độc lập thống nhất đất nước.
• Tranh thủ thời gian thực hiện kháng chiến kiến quốc.
• Làm thất bại âm mưu của Tưởng giữ vững chính quyền cách mạng đảm bảo
cho nhân dân ta đánh Pháp ở miền Nam .
• Phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến: Những đoàn quân Nam
tiến, vũ khí, lương thực, thuốc men nhanh chóng chuyển vào miền Nam kịp

8
thời ngăn chặn quân Pháp mở rộng chiếm đóng.
• Vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của các tổ chức phản CM
tay sai của Tưởng và kí sắc lệnh giải tán các đảng phái phản động

Với sách lược khôn khéo trong quan hệ với Tưởng và các thế lực tay sai của
chúng, Đảng và nhân dân đã làm thất bại âm mưu và hành động khiêu khích, lật đổ
của quân Tưởng. Chủ động đưa ra chính sách Hoa – Việt thân thiện, chẳng những đã
gạt bỏ được những âm mưu hành động chống phá của một kẻ thù lớn và xảo quyết,
mà còn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng và nhãn quan chính trị sáng suốt của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính sách đó đã vô hiệu hoá sự chống phá của các
đảng phái phản động mà ý đồ của chúng không có gì khác là dựa vào quân Tưởng để
đoạt lấy chính quyền, thống trị nhân dân ta và làm tay sai cho các thế lực đế quốc và
phản động nước ngoài. Sách lược của Đảng ta đối với Tưởng đã góp phần quan trọng
ổn định miền Bắc và mọi mặt để tập trung sức chống lại thực dân Pháp xâm chiếm
Nam Bộ.

2. Tạm thời hoà hoãn với thực dân Pháp đề đẩy nhanh quân Tưởng về nước (3-
1946 đến 12-1946)

Từ tháng 11-1945, trong chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, Đảng đã phân tích và
cho rằng, trước sau chủ nghĩa đế quốc cũng dàn xếp với nhau và chính quyền Tưởng
cũng để Đông Dương trở về tay Pháp. Diễn biến lịch sử đã chứng minh nhận định trên
là hoàn toàn đúng.

Ngày 28-2-1946, Tưởng và Pháp đã ký Hiệp ước Hoa – Pháp, thoả thuận để
quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng “canh giữ tù binh Nhật” và “giữ trật tự
theo “hiệp ước quốc tế”. “Hiệp ước Hoa – Pháp không phải là chuyện riêng của Tàu
Tưởng và Pháp. Nó là chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai của chúng ở
thuộc địa. Dù nhân dân Đông Dương muốn hay không muốn, nhất định chúng cũng
thi hành Hiệp ước ấy” Thực chất đây là sự mua bán chính trị giữa các thế lực đế quốc,
phản động, một sự áp đặt như “việc đã rồi”, bất kể Chính phủ và nhân dân Việt Nam
có thừa nhận hay không.

Tình hình phức tạp đòi hỏi Đảng ta phải nhanh chóng quyết định tiếp tục đánh
hay tạm thời hoà với Pháp? Chỉ thị “Tình hình và chủ trương” của Trung ương Đảng
ngày 3-3-1946 đã chỉ dẫn: vấn đề lúc này không phải là muốn hay không muốn đánh,
“vấn đề là biết mình biết người, nhận định một cách khách quan những điều kiện lợi
hại trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”.

Chỉ thị phân tích rõ, “lúc chúng ta ngǎn quân Pháp vào Bắc Việt Nam thì
chính là lúc bọn phản động Việt Nam sẽ đứng ra lập chính phủ bù nhìn, đi đôi với
thực dân Pháp đánh ta, buộc cho ta là phiến loạn, là chống Liên Hiệp Quốc, là phản
hoà bình và chính lúc đó quân Tàu trắng sẽ kiếm cớ ở lại Đông Dương cùng thực dân
Pháp và bọn phản động Việt Nam đánh ta”. Tạm thời hoà với Pháp, cho quân Pháp
vào miền Bắc sẽ tránh được tình thế bất lợi cùng một lúc phải chiến đấu với nhiều kẻ
thù, bảo toàn được thực lực, có thời gian củng cố chính quyền và thành quả cách
mạng, tǎng thêm tiềm lực để đưa cách mạng tiến lên bước phát triển mới,tranh thủ

9
thời gian hoà hoãn với Pháp để sớm gật được quân Tưởng và loại trừ bọn tay sai. Như
vậy, sách lược mới của Đảng ta mang ý nghĩa “Hoà để tiến”.

Trong những ngày trước và sau khi công bố “Hiệp ước Hoa- Pháp”, nhiều
quan chức và tướng lĩnh Pháp ở Việt Nam, kể cả Xanh-tơ-ni và Xa-lǎng đều có các
cuộc giao tiếp với Chính phủ ta để dàn xếp cho quân Pháp vào miền Bắc. Trên thực tế
“chúng vẫn gờm cách mạng Đông Dương và dư luận quốc tế nên cả Tàu Tưởng lẫn
Pháp cũng muốn dàn xếp với ta về việc quân Pháp kéo vào Bắc nước ta”.

Chính các đại diện của nước Pháp ở Việt Nam lúc đó cũng phải thừa nhận một
thực tế là họ không thể dễ dàng đưa quân vào miền Bắc nếu không đàm phán với
Chính phủ ta, “nếu không được sự đồng ý của Cụ Hồ”. Đảng ta cũng chỉ rõ những lý
do chính thức đẩy thực dân Pháp phải thương lượng với Chính phủ ta:
- cuộc kháng chiến của ta làm cho chúng hao tổn
- phong trào phản chiến nảy nở trong nhân dân và quân đội Pháp, nhân dân
Pháp và Chính phủ Goanh (trong đó cộng sản và xã hội chiếm đa số)
không muốn kéo dài cuộc đổ máu ở Đông Dương
- chính Anh – Mỹ cũng sợ cuộc chiến đấu giành độc lập của Đông Dương
và Nam Dương kéo dài thì ảnh hưởng của nó sẽ đẩy mạnh thêm phong
trào đòi độc lập ở các thuộc địa khác”.
Xét về khả nǎng quân sự, lúc này thực dân Pháp:
- cũng chưa đủ sức để tiến hành ngay cuộc chiến tranh xâm lược cả nước ta,
chúng cũng cần thời gian hoà hoãn để có thêm viện binh
- thực dân Pháp muốn đàm phán với Chính phủ ta để quân Pháp vào miền
Bắc mà không phải đụng độ ngay, sau đó củng cố chỗ đứng, rồi lấn tới và
cuối cùng có thể thực hiện “màn đảo chính”, để nhanh chóng đặt lại sự
thống trị của chúng đối với nước ta.
Từ sự phân tích tình hình một cách khách quan, toàn diện, Trung ương Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định tạm thời hoà hoãn và có nhân nhượng cần
thiết để cho quân Pháp vào miền Bắc, nhưng không phải hoàn toàn theo Hiệp ước
Hoa – Pháp, mà phải theo những điều kiện đàm phán ký kết giữa ta và Pháp. Sự nhân
nhượng của ta là có nguyên tắc.

Trước hết là Pháp phải công nhận quyền tự chủ (chứ không phải tự trị) của
nhân dân Việt Nam được ghi trong Điều 1 của Hiệp định sơ bộ ký ngày 8-3-1946 tại
Hà Nội giữa đại diện Chính phủ Cộng hoà Pháp và đại diện Chính phủ Việt Nam. Hai
bên đã thoả thuận về các điều khoản sau đây:

”1. Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một quốc gia tự
do, có chính phủ của mình, nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của
mình, và là một phần tử trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp.

Về việc hợp nhất ba kỳ, chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận những quyết định của
nhân dân trực tiếp phán quyết.

2. Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng thân thiện tiếp đón quân đội Pháp khi quân
đội ấy chiếu theo các hiệp định quốc tế đến thay thế quân đội Trung Hoa. Một hiệp
định phụ khoản đính theo Hiệp định sơ bộ này sẽ định rõ cách thức thi hành công
việc thay thế ấy.

10
3. Các điều khoản kể trên sẽ được tức khắc thi hành sau – khi ký hiệp định. Hai chính
phủ lập tức quyết định mọi phương sách cần thiết để đình chỉ ngay cuộc xung đột, để
giữ nguyên quân đội hai bên tại vị trí hiện thời và để gây một bầu không khí êm dịu
cần thiết cho việc mở ngay cuộc điều đình thân thiện và thành thực”.

Ngày 9-3-1946, Trung ương Đảng ra bản chỉ thị Hoà để tiến. Chỉ thị phân tích
rõ thắng lợi và ý nghĩa quan trọng của bản Hiệp định sơ bộ, thống nhất nhận thức và
hành động trong Đảng và nhân dân ta. Bản chỉ thị nhắc nhở và đề phòng:
- xu hướng “tả” khuynh, không muốn hoà với Pháp, “không tin chủ trương
hoà với Pháp là đúng”. Xu hướng này có thể xuất phát từ lòng yêu nước
chính đáng, nhưng nông nổi, rất dễ dẫn đến hành động vô nguyên tắc, vô
chính phủ và dễ bị bọn phản động khiêu khích.
- xu hướng hữu khuynh, ngây thơ tưởng rằng Hiệp định Việt – Pháp làm
cho dân tộc ta tránh được mọi khó khǎn rồi. Xu hướng này dễ gây mất
cảnh giác, không chuẩn bị đối phó với mọi bất trắc, không sẵn sàng chiến
đấu, nếu thực dân Pháp tráo trở.
Trong khi hoà hoãn, nhân nhượng với thực dân Pháp, Đảng vẫn chủ trương
thực hiện sách lược khôn khéo, mềm dẻo với chính quyền Tưởng. Ngày 18-3-1946,
Chính phủ ta cử một phái đoàn sang Trùng Khánh để giữ quan hệ hoà hảo với Chính
phủ Quốc dân đảng Trung Hoa.

Lịch sử đã chứng minh rằng, chủ trương hoà với Pháp:


- là một đòn nặng đánh vào âm mưu thâm độc của Tưởng và tay sai “phá
cuộc đàm phán giữa ta và Pháp, đẩy ta chống lại Hiệp ước Hoa – Pháp, để
cho cả ba lực lượng: Tàu trắng, thực dân Pháp và bọn phản động Việt Nam
quay lại tiêu diệt ta”.
- lợi dụng được mâu thuẫn về quyền lợi giữa Pháp và Tưởng – cả hai thế lực
này đều muốn thôn tính và độc chiếm nước ta, ký hiệp định với Pháp để
gạt quân Tưởng và kéo theo sự tan rã của bọn phản động tay sai của
Tưởng.
- tạo điều kiện để củng cố và tǎng cường lực lượng cách mạng nước ta về
mọi mặt. “Gần một nǎm tạm hoà bình đã cho chúng ta thời giờ để xây
dựng lực lượng cǎn bản”.
Cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả và phát triển thực lực cách mạng của nhân
dân ta từ sau Hiệp định sơ bộ diễn ra hết sức phức tạp và gay gắt:
- kiên trì đấu tranh ngoại giao, duy trì khả nǎng hoà hoãn, tỏ rõ lập trường
hoà bình, hữu nghị với nước Pháp
- kiên quyết đấu tranh đẩy lùi những âm mưu, hành động khiêu khích, xung
đột, lấn tới của bọn thực dân Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thǎm nước Pháp với tư cách là thượng khách của
Chính phủ Pháp từ ngày 31-5-1946. Cuộc đàm phán chính thức ở Pan giữa đoàn đại
biểu Chính phủ ta và Chính phủ Pháp bắt đầu từ ngày 6-7-1946, nhưng không đạt
được kết quả. Trước khi rời nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp
bản Tạm ước Việt – Pháp ngày 14-9-1946, thể hiện thiện chí hoà bình trước sau như
một của Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Mặt khác, để Đảng và Chính phủ ta có
thời gian xúc tiến nhanh việc chuẩn bị lực lượng, cảnh giác và sẵn sàng đối phó với sự
bội ước của thực dân Pháp và sự phá hoại của bọn việt gian thân Pháp.

Trong chỉ thị Hoà để tiến, Đảng ta đã lưu ý “sau khi đổ bộ và đóng lại các nơi
cǎn cứ rồi, rất có thể bọn thực dân Pháp quay ra kiếm chuyện tiến công ta để lật đổ

11
chính quyền nhân dân, cho bọn bù nhìn Việt gian thân Pháp lên thay. Bởi vậy, vẫn
phải tiếp tục chuẩn bị những việc kháng chiến lâu dài, nhưng làm kín đáo để tránh
mọi sự hiểu nhầm giữa ta và Pháp”.

Việc thực dân Pháp đem quân chiếm đóng trái phép Phủ toàn quyền cũ ở Hà
Nội ngày 25-6-1946, âm mưu làm đảo chính lật đổ Chính phủ ta vào ngày 14-7-1946
và lập ra “Chính phủ Nam Kỳ tự trị” v.v. ngày càng lộ rõ dã tâm xâm lược của thực
dân Pháp. Do dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, nguy cơ bùng nổ chiến tranh trên
phạm vi cả nước ta là không tránh khỏi. Vừa nhân nhượng vừa cảnh giác và kiên
quyết đấu tranh khi không thể nhân nhượng được nữa thì nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng quyết tâm tiến hành kháng chiến để giành độc lập, thống nhất hoàn
toàn.

Như vậy, trong vòng 16 tháng (từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946), một trong
những thành công nổi bật của Đảng ta góp phần bảo vệ chính quyền và thành quả
cách mạng là đã triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Lúc thì hoà hoãn
nhân nhượng với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm thời hoà
hoãn với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng. Đó là những biện pháp cực kỳ sáng suốt và
là một mẫu mực tuyệt vời của sách lược lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng
ngũ kẻ thù và sự nhân nhượng có nguyên tắc.

3. Ý nghĩa của sách lược hòa hoãn của Đảng

Trong quan hệ quốc tế phải “ dĩ bất biến , ứng vạn biến” với mọi thành phần
và mọi mối quan hệ quốc tế theo phương châm có lợi cho dân cho nước và không hại
đến Đảng.Trong ứng phó với các thế lực thù địch phải khôn khéo , cương quyết.Với
các vấn đề nhạy cảm Đảng ta rất thận trọng , một mặt không làm hại tới uy tín của
Đảng và Nhà Nước Việt Nam , một mặt không làm mất mối quan hệ bang giao giữa
các nước.

Những chủ trương, chính sách nói trên của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, đã
bảo vệ được nền độc lập của đất nước, củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng,
xây dựng được lực lượng chuẩn bị cho cuộc trường kỳ kháng chiến với thực dân
Pháp (1945 – 1954).

Những biện pháp về chính trị, quân sự, kinh tế - giáo dục, đã góp phần tích
cực trong việc đầy lùi giặc đói, giặc dốt, đưa đất nước vượt qua những thách thức
hiểm nghèo. Phát huy thành quả của cách mạng tháng Tam, giúp nhân dân ổn định
đời sống nhờ đó mà nhân dân càng tin tưởng và đường lối lãnh đạo của Đảng và chủ
tịch Hồ Chí Minh.

Với đường lối chính trị vô cùng sáng suất của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh
với việc thực hiền đường lối ngoại giao cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách
lược lúc thì nhân nhượng với Tưởng để rảnh tay đối phó với Pháp, khi thì lại hòa hoãn
với Pháp để đuổi Tưởng về nước và quét sạch bọn tay sai của Tưởng, đã góp phần
quạn trọng trong việc cũng cố và giữ vững chính quyền cách mạng, góp phần quan
trọng vào thắng lợi của chính sách chống “thù trong giặc ngoài” trong những năm
(1945 – 1946), đồng thời tạo điều kiện để nhân dân ta có thời gian củng cố lực lượng,
chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp.

12
Câu 2: Chủ trương phát động toàn quốc kháng chiến và nội dung
đường lối chống Pháp của Đảng?

I. Nguyên nhân dẫn đến việc Đảng và Chính phủ phát động phong trào toàn
quốc kháng chiến chống thực dân Pháp

Sau hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, Pháp vẫn tăng cường các hoạt động khiêu
khích, chống phá ta, quan hệ Việt – Pháp căng thẳng, có nguy cơ xảy ra chiến tranh.
Trước tình hình đó Hồ Chủ tịch ký với Pháp Tạm ước 14/09/1946, nhân nhượng cho
Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa. Tuy vậy ngay sau khi kí kết, Pháp đã bội ước,
chuẩn bị tái xâm lược Việt Nam.

- Xung đột quân sự đầu tiên nổ ra tại Hải Phòng, Lạng Sơn và nhiều cuộc công kích
vào Trung và Nam bộ.

• Đầu tháng 11 năm 1946, quân Pháp chiếm trụ sở hải quan tại cảng Hải Phòng.
Quốc hội Việt Nam phản đối hành động này và khẳng định chủ quyền của
Việt Nam trong việc kiểm soát tất cả các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu.

• Ngày 20 tháng 11, hải quân Pháp bắt giữ một thuyền buồm Trung
Quốc chở xăng được cho là để giao cho Việt Minh. Trong khi tàu được kéo
vào bờ, du kích địa phương trên bờ đã bắn vào quân Pháp. Quân Pháp bắn trả
và chiến sự nhanh chóng lan ra toàn thành phố. Hai bên mau có đạt được
ngừng bắn, nhưng hai ngày sau, Tướng Jean-Étienne Valluy, tổng chỉ huy
quân đội Pháp ở Đông Dương, lệnh cho quân Pháp chiếm toàn quyền kiểm
soát thành phố.

• Ngày 23 tháng 11, Đại tá Dèbes gửi tối hậu thư yêu cầu người Việt ra khỏi
khu phố Tàu của Hải Phòng và hạ vũ khí. Khi không có phản hồi, Dèbes lệnh
cho tầu chiến Pháp bắn phá thành phố. Sau đó, khoảng 2.000 lính Pháp tràn
vào thành phố trong khi pháo tiếp tục bắn phá vùng ngoại ô. Quân Pháp gặp
phải hỏa lực mạnh của lực lượng Việt Minh bảo vệ thành phố.

• Chiến sự kéo dài cho đến khi người lính Việt Minh cuối cùng rút khỏi chiến
trường vào ngày 28 tháng 11.

Sau sự kiện Hải Phòng, kế hoạch phòng thủ Hà Nội bắt đầu được chuẩn bị để
chính phủ Việt Nam có thời gian sơ tán về các vùng núi lân cận. Một số ít lực lượng
chính phủ đóng tại Bắc Bộ phủ và một doanh trại gần đó. Còn phần lớn lực lượng
quân sự của Việt Nam trong vùng đóng tại ngoại ô của thủ đô. Bù lại, trong nội thành
có gần 10.000 du kích và tự vệ. Bao gồm những thanh niên đầy nhiệt tình ủng hộ cách
mạng, các lực lượng này được trang bị chủ yếu bằng vũ khí tự tạo. Đối địch với họ là
vài nghìn binh sĩ Lê dương Pháp, chủ yếu đóng trong Thành Hà Nội, phần còn lại
đóng xen kẽ tại 45 điểm trong thành phố như Phủ Toàn quyền, ga Hà Nội, nhà băng
Đông Dương, nhà thương Đồn Thủy,cầu Long Biên, và sân bay Gia Lâm.
Các cơ quan của chính phủ Việt Nam bí mật chuyển dần ra các địa điểm đã được
chuẩn bị trước ở bên ngoài thành phố. Trong thành phố, quân và dân Hà Nội bắt đầu
xây dựng các chiến lũy phòng thủ trên đường phố, quân Pháp cũng củng cố các vị trí

13
phòng thủ của mình.
Ngày 6 tháng 12, Hồ Chí Minh kêu gọi quân Pháp rút về các vị trí họ đã giữ từ
trước ngày 20 tháng 11, nhưng không nhận được phản hồi. Trả lời phỏng vấn của nhà
báo Pháp vào hôm sau, Hồ Chủ tịch khẳng định rằng Chính phủ Việt Nam hy vọng
tránh được chiến tranh – cái sẽ gây đau khổ lớn cho cả hai nước. “Nhưng nếu chúng
tôi phải đối mặt với chiến tranh”, ông nói, “chúng tôi sẽ chiến đấu chứ không từ
bỏ quyền tự do của mình”
Ngày 12 tháng 12, Léon Brum, thủ tướng mới của Pháp tuyên bố ý định giải
quyết xung đột ở Đông Dương theo cách sẽ trao lại độc lập cho Việt Nam. Ba ngày
sau, Hồ Chí Minh đưa Sainteny một bức thông điệp gửi Brum với các gợi ý cụ thể về
cách giải quyết xung đột. Sainteny đánh điện bức thông điệp vào Sài Gòn, yêu cầu
chuyển tiếp tới Paris.
Trong khi chính phủ Pháp đang do dự về yêu cầu của Cao ủy
Pháp d’Argenlieu về việc tăng quân và lập tức hành động quân sự chống lại người
Việt, Valluy, người có chung quyết tâm với d’Argenlieu về việc giữ sự hiện diện của
Pháp tại Đông Dương, đã quyết định rằng cần phải khiêu khích Hà Nội nhằm tạo
xung đột và đưa Paris vào sự đã rồi. Ngày 16 tháng 12, ông lệnh cho
tướng Morlière phá các chướng ngại vật mà Việt Minh dựng trong thành phố. Khi bức
điện của Hồ Chí Minh gửi Brum vào đến Sài Gòn, Vallue viết thêm bình luận của
mình, cảnh báo rằng sẽ nguy hiểm nếu trì hoãn các hành động quân sự cho đến năm
sau. Đến ngày 19, bức điện mới đến được Paris, khi đó đã quá muộn.
· Ngày 17 tháng 12, quân Pháp với xe tăng yểm trợ vào các đường phố
Hà Nội để phá các công sự mà Việt Minh dựng trong những ngày trước đó,
gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún (Hà Nội), rồi dàn quân ra chốt giữ từ
cổng thành Hà Nội đến tận cầu Long Biên và bao vây gây sức ép đồn Công
an quận 2 của Hà Nội. Người Việt không phản ứng.
· Ngày 18 tháng 12, Pháp ra một tối hậu thư đòi chấm dứt dựng
chướng ngại vật trên phố. Chiều hôm đó, Pháp ra tối hậu thư thứ hai tuyên
bố rằng từ ngày 20, quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội.
Đáp lại, tối hôm đó, các lực lượng Việt Minh bắt đầu chặn mọi ngả đường
từ ngoại ô vào thành phố.
· Sáng ngày 19 tháng 12, Pháp ra tối hậu thư thứ ba, đòi chính phủ
Việt Nam đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của Tự
vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành
phố.
Sáng ngày 18 tháng 12, Hồ Chủ tịch ra lệnh chuẩn bị cho các cuộc tấn công
quân Pháp vào hôm sau.
Sáng 19, để thể hiện thiện chí và cố gắng kéo dài hòa bình, Hồ Chủ tịch viết
một bức thư ngắn và cử cố vấn ngoại giao Hoàng Minh Giám tới gặp Sainteny để đàm
phán “tìm giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại” nhưng bị từ chối.
Ngay sau đó, Hồ Chủ tịch triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương Ðảng mở
rộng tại làng Vạn Phúc, Hà Nội, và tuyên bố rằng trong tình hình hiện tại, không thể
nhân nhượng thêm được nữa. Hội nghị duyệt lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến mà Hồ Chủ tịch đã viết, thông qua văn kiện “Toàn dân kháng chiến” do Tổng
Bí thư Trường Chinh dự thảo. Thời điểm bắt đầu nổ súng được quyết định là 8 giờ tối

14
cùng ngày. Chiến tranh Đông Dương bắt đầu.
→ Như vậy, nguyên nhân dẫn đến việc Đảng và Chính phủ phát động phong trào
toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp vào ngày 19/12/1946 là do sự bội
ước của thực dân Pháp.

II. Quá trình hình thành đường lối kháng chiến (1946)

Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước trong quá trình
chỉ đạo Nam bộ kháng chiến, qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn của địch
cũng như từ thực tiễn chuẩn bị lực lượng về mọi mặt của ta.
Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong chỉ thị kháng chiến
kiến quốc, Đảng ta nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc là thực dân
Pháp, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ đạo cuộc
kháng chiến Nam bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh
chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam bộ
ra khỏi Việt Nam.

- Ngày 12-12-1946 Ban Thường vụ Trung Ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng
chiến.

- Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị bất thường Trung ương Đảng tại Vạn Phúc – Hà
Đông quyết định phát động cả nước kháng chiến.

- 20 giờ ngày 19/12/1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ ( Hà Nội) phá máy, tắt
điện làm tín hiệu tiến công, cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp bùng nổ. Hồ Chủ
tịch ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến

- Năm 1947, Tổng Bí thư Trường-Chinh viết tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng
lợi khẳng định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình
là chính và nhất định thắng lợi.

Như vậy, đường lối kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập
trung trong ba văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ngày 22/12/1946, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”
của Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946 và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”
của Trương Chinh xuất bản đầu năm 1947.
Trong đó:
• Đảng ta chỉ rõ đối tượng, nhiệm vụ và mục đích của cuộc kháng chiến; “kẻ thù
chính là bọn thực dân phản động Pháp đang dùng vũ khí cướp lại nước ta”.

• Xác định chính xác đối tượng chủ yếu của cuộc kháng chiến là vấn đề chiến
lược cực kỳ quan trọng, nhằm tập trung mũi nhọn để tiêu diệt chúng, đoàn kết
mọi lực lượng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ ngoài nước để cô lập kẻ thù.
• Tính chất của cuộc kháng chiến là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
nhưng mang tính chất dân chủ mới. Vấn đề dân tộc vẫn là hàng đầu nhưng bên
cạnh đó có vấn đề dân chủ.

15
• Mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập, tự do, thống nhất thật sự,
hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân.

Quán triệt mục đích, tính chất của cuộc kháng chiến, Đảng ta đề ra đường lối
kháng chiến, chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược là đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; là đường lối tiến hành chiến
tranh nhân dân phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta.

III. Nội dung đường lối

Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập
trung trong 3 văn kiên lớn, Toàn dân kháng chiến của trung ương Đảng, Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh vá tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng
lợi của Trường Chinh, được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc kháng
chiến toàn quốc bùng nổ.
1. Nội dung đường lối
Các văn kiện trên đã xác định:
- Kẻ thù kháng chiến: bọn thực dân Pháp phản động được xem là kẻ thù nguy
hại nhất, kẻ
thù số một, kẻ thù không đội trời chung của nhân dân Việt Nam, “Chúng ta
không bài Pháp, không bài ngoại, chỉ bài thực dân phản động Pháp”
- Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng tháng Tám,
đánh đuổi bọn phản động thực dân Pháp, giành độc lập, tự do thống nhất thật
sự, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
- Tính chất kháng chiến: đây là cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính
nghĩa có tính chất dân tộc giải phóng, tính chất dân chủ mới; là cuộc chiến
tranh tiến bộ vì độc lập dân tộc, vì hòa bình nhân loại.
- Phương châm kháng chiến: Trên cơ sở kế thừa những bài học về nghệ thuật
quân sự trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, đặc biệt là bài học
tiến hành chiến tranh nhân dân, Đảng ta đã xác định phương châm tiến hành
kháng chiến đó là thực hiện chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn
diện.
• Kháng chiến toàn dân: Trong đường lối kháng chiến nhân dân của
Đảng, điều cốt lõi và cơ bản nhất là chiến lược toàn dân kháng chiến.
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia
tôn giáo đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp”.(trích Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến). Với
chiến lược đã được xác định, Đảng đã tổ chức cả nước thành một mặt
trận, tạo nên thế trận “cả nước đánh giặc”.
• Kháng chiến toàn diện:

16
 Về chính trị: nhiệm vụ kháng chiến về mặt chính trị là hết sức
khó khăn, nặng nề.
Bên trong phải thực hiện đoàn kết, thống nhất toàn dân trong
một mặt trận, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng “Nhân dân ví như
bó đũa, chụm lại thì địch khó bẻ”; tăng cường xây dựng Đảng,
chính quyền, các đoàn thể nhân dân.
Bên ngoài, phải cô lập kẻ thù, tranh thủ sự ửng hộ của nhân
dân Pháp, thuộc địa Pháp và lực lượng yêu chuộng hòa bình,
dân chủ trên thế giới.
 Về quân sự: Đây là mặt trận quan trọng nhất, ác liệt nhất, quyết
định đến sự thành bại của cuộc kháng chiến và các lĩnh vực
khác. Đảng đã chăm lo vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân bằng
chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, “triệt để dùng du
kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực kháng chiến lâu dài,
vừa đánh vừa võ trang thêm…”. Tiến công địch ở cả 3 vùng
chiến lược : nông thôn, đô thị và miền núi.
 Về kinh tế: Kinh tế mạnh là yếu tố thúc đẩy các lĩnh vực khác
vì vậy ta vừa phải phá kinh tế địch vừa xây dựng kinh tế của ta,
chú trọng phát triển nông nghiệp, “Lương thực ăn đủ, vật dụng
thừa kháng chiến nhất định thắng lợi”(Hồ Chí Minh). Đảng chủ
trương xây dựng nền kinh tế dựa trên 2 nguyên tắc: vừa kháng
chiến vừa kiến quốc và tự cung tự cấp về mọi mặt.
 Về văn hóa:+ Cuộc chiến tranh trên lĩnh vực văn hóa gồm có
hai nhiệm vụ: 1.Đánh đổ văn hóa ngu dân, văn hóa xâm lược
của thực dân Pháp; 2. Xây dựng một nền văn hóa dân chủ mới
cho nước Việt Nam.
+ Cuộc chiến đấu này diễn ra trên 3 lĩnh vực cơ bản: văn
hóa giáo dục, văn hóa văn nghệ, văn hóa đời sống với 3 tính
chất: dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa. Đảng ta cũng
chỉ ra vai trò, trách nhiệm của các chí sĩ văn hóa trong việc
chống lại âm mưu của thế lực thù địch, cổ vũ tinh thần đấu
tranh của đồng bào và chiễn sĩ ta.
 Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương lực
lượng
+ Liên hiệp với dân tộc Pháp chống phản động thực dân
Pháp.
+ Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự
do, hòa bình trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của họ.
 Đường lối kháng chiến toàn dân toàn diện đã tạo được sức

17
mạnh tổng hợp, xây dựng và củng cố chế độ dân chủ nhân
dân.
• Kháng chiến lâu dài: Lúc bấy giờ nếu so sánh lực lượng giữa ta
và địch thì địch mạnh, ta yếu. Do đó, để chống âm mưu đánh nhanh
tháng nhanh của địch và có thời gian phát huy yếu tố ‘thiên thời, địa
lợi, nhân hòa” việc ta quyết định dùng chiến lược đánh lâu dài để tiêu
diệt địch là hoàn toàn hợp lí.
• Dựa vào sức mình là chính: Việc đoàn kết quốc tế, giúp đỡ
nhau đánh đuổi kẻ thù là quan trọng, tuy nhiên, lúc này ta đang bị bao
vây bốn phía, do đó Đảng chủ trương tự lực cánh sinh, lấy thế chủ
động, tránh ỷ lại sự giúp đỡ từ ngoài.
- Triển vọng kháng chiến: “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng
kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”
2. Đánh giá đường lối chống Pháp của Đảng
- Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng là sự hội tụ tri thức nhân loại
kim – cổ, đặc biệt là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Leenin
và Tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta trong thời kỳ cách
mạng khó khăn lúc bấy giờ.
- Đường lối được công bố sớm có tác dụng đưa cuộc kháng chiến đi vào ổn
định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.

Nguồn tham khảo:


http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?
option=com_content&task=view&id=1066&Itemid=69
http://www.nhipcauykhoa.net/diendan/index.php?showtopic=978
http://www.hanhchinh.com.vn/forum/showthread.php?t=9757
http://tailieu.vn/tag/tai-lieu/Đường%20lối%20cách%20mạng.html

18
BẢNG TỰ ĐÁNH GIÁ NHÓM 1

STT Tên Đánh giá chung Điểm


1 Dương Minh Hà (nhóm trưởng) Tham gia tích cực có hiệu quả 4
2 Hà Thị Hồng Hạnh Tham gia tích cực có hiệu quả 4
3 Trương Mỹ Hoa Tham gia tích cực có hiệu quả 4
4 Nguyễn Thu Huyền Tham gia tích cực có hiệu quả 4
5 Nguyễn Hoàng Hương Tham gia tích cực có hiệu quả 4
6 Lê Khánh Linh Tham gia tích cực có hiệu quả 4
7 Phạm Nhật Linh Tham gia tích cực có hiệu quả 4
8 Đoàn Minh Phượng Tham gia tích cực có hiệu quả 4
9 Võ Thị Thái Tham gia tích cực có hiệu quả 4
10 Cầm Thị Tuyền Tham gia tích cực có hiệu quả 4

19

You might also like