You are on page 1of 120

CHƯƠNG 3

MÔ HÌNH OSI
Được thành lập vào năm 1947, tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO là một tổ
chức đa quốc gia hỗ trợ việc đưa ra các tiêu chuẩn quốc tế thuộc mọi lĩnh vực.
Một tiêu chuẩn ISO bao gồm tất cả các khía cạnh về truyền thông mạng là mô
hình hệ thống liên mạng mở OSI – Open Systems Interconnection. Một hệ thống
mở là một hệ thống cho phép bất kỳ hai hệ thống khác nhau nào cũng có thể liên
lạc với nhau mà không phụ thuộc vào kiến trúc hạ tầng của chúng. Các giao thức
của một nhà sản xuất cụ thể nào đó mang tính đóng giữa các hệ thống không
liên quan. Mục đích của mô hình OSI là mở kết nối giữa các hệ thống khác nhau
mà không yêu cầu thay đổi logic về hạ tầng phần mềm và phần cứng. Mô hình
OSI không phải là một giao thức cụ thể; Nó là một mô hình nhằm xây dựng và
thiết kế một kiến trúc mạng linh động, chắc chắn và vận hành tốt.
ISO là tổ chức, OSI là mô hình.

3.1 MÔ HÌNH OSI

Mô hình OSI là khung công việc được phân tầng cho việc thiết kế các hệ
thống mạng cho phép truyền thông qua tất cả các loại hệ thống máy tính. Nó bao
gồm 7 tầng riêng biệt nhưng lại liên quan lẫn nhau, mỗi tầng định nghĩa một
phân đoạn của quá trình truyền thông tin qua một mạng (xem hình 3.1). Việc
hiểu các kiến thức cơ bản về mô hình OSI cung cấp cho chúng ta kiến thức nền
tảng cho việc khám phá kỹ thuật truyền số liệu.

Kiến trúc phân tầng


Mô hình OSI được xây dựng gồm 7 tầng theo thứ tự: Tầng vật lý (tầng 1),
tầng liên kết dữ liệu (tầng 2), tầng mạng (tầng 3), tầng giao vận (tầng 4), tầng

1
phiên (tầng 5), tầng trình diễn (tầng 6) và tầng ứng dụng (tầng 7). Hình 3.2 thể
hiện mối quan hệ giữa các tầng với nhau khi một thông điệp được gửi từ thiết bị
A sang thiết bị B. Khi thông điệp di chuyển từ thiết bị A sang thiết bị B, nó có
thể qua nhiều các nút tức thời. Những node tức thời này thường chỉ tham gia ở
tầng 3 của mô hình OSI. Trong phát triển mô hình, người thiết kế từng bước
chuyển dần quá trình truyền dữ liệu xuống các phần tử cơ bản nhất của nó.
Chúng xác định những chức năng mạng nào liên quan cần sử dụng và tập hợp
những chức năng này thành các nhóm rời nhau để cuối cùng tạo thành các tầng.
Mỗi tầng định nghĩa một họ các chức năng phân biệt với các chức năng của các
tầng khác. Bằng cách định nghĩa và cục bộ hóa chức năng, nhà thiết kế đã tạo ra
một kiến trúc dễ hiểu đồng thời cũng rất linh động. Quan trong hơn, mô hình
OSI cho phép sự trong suốt hoàn chỉnh giữa các hệ thống không tương thích.

Hình 3.2. Các tầng của mô hình OSI

Các quá trình đồng đẳng (Peer to Peer process)


Bên trong một máy tính đơn, mỗi tầng gọi các dịch vụ của tầng ngay bên
dưới. Ví dụ, tầng 3 sử dụng các dịch vụ được cung cấp bởi tầng 2 và cung cấp
dịch vụ cho tầng 4. Giữa các máy tính, tầng x trên một máy kết nối với tầng x
trên một máy khác. Kiểu kết nối này được chi phối bởi một chuỗi các luật và
quy ước được gọi là các giao thức. Các quá trình trên từng máy có kết nối tại
tầng được cho gọi là các quá trình đồng đẳng. Kết nối giữa các máy tính theo đó
là một quá trình đồng đẳng sử dụng các giao thức thích hợp cho một tầng cụ thể.
Ở tầng vật lý, kết nối là trực tiếp: Máy tính A gửi một dòng các bit tới
máy B. Tuy nhiên, kết nối tại các tầng cao hơn phải được chuyển xuống thông
qua các tầng trên máy A đến máy B và sau đó được chuyển ngược lên qua các
tầng. Mỗi khớp trong máy gửi bổ xung thông tin của chính nó và thông điệp mà
nó nhận từ tầng ngay trên nó và truyền toán bộ thông điệp đó xuống tầng ngay
dưới nó. Thông tin này được thêm vào dưới dạng là các phần đầu – header của
2
thông điệp hoặc phần đuôi – trailer của thông điệp (dữ liệu điều khiển được bổ
sung vào header hoặc trailer của một thông điệp). Các header được bổ xung vào
thông điệp tại các tầng 6,5,4, 3 và 2. Phần trailer được bổ xung ở tầng 2.
Ở tầng 1, toàn bộ thông điệp được chuyển sang một dạng mà có thể được
truyền đi đến máy nhận. Tại máy nhận, gói tin được mở ra theo từng tầng, cùng
với quá trình nhận và xóa bỏ dữ liệu được dành cho tầng đó. Ví dụ, tầng 2 bỏ dữ
liệu dành cho nó, sau đó truyền tiếp phần còn lại của dữ liệu lên tầng 3. Tầng 3
loại bỏ dữ liệu dành cho nó và truyền tiếp phần còn lại của dữ liệu lên tầng 4…
vân vân.

Giao diện giữa các tầng


Việc truyền dữ liều và thông tin về mạng xuống dưới qua các tầng của
máy gửi và chuyển ngược lên qua các tầng của máy nhận có thể được thực hiện
nhờ vào một giao diện giữa mỗi cặp tầng kề nhau. Mỗi giao diện xác định thông
tin và dịch vụ nào mà một tầng phải cung cấp cho tầng trên nó. Các giao diện và
các chức năng của tầng được xác định rõ ràng sẽ cung cấp tính mô đun cho một
mạng. Chừng nào một tầng còn cung cấp các dịch vụ cần thiết tới tầng trên nó,
thì những thực thi cụ thể của chính các chức năng của tầng đó có thể được sửa
đổi và thay thế mà không yêu cầu sự thay đổi nào đối với các tầng xung quanh.

Cách tổ chức của các tầng trong mô hình OSI


7 tầng trong mô hình OSI có thể xem xét dưới dạng thuộc 3 nhóm con.
Tầng 1,2 và 3 (Tầng vật lý, liên kết dữ liệu và tầng mạng) là các tầng hỗ trợ
mạng; chúng liên quan đến khía cạnh về truyền dữ liệu từ một thiết bị sang thiết
bị khác (Ví dụ như là các đặc tả về điện, kết nối vật lý, địa chỉ vật lý, tính tin cậy
và thời gian giao vận. Các tầng 5,6,7 bao gồm tầng phiên, tầng trình diễn và tầng
ứng dụng có thể xem là các tầng hỗ trợ người dùng; Chúng cho phép vận hành
đan xen giữa các hệ thống phần mềm không liên quan tới nhau. Tầng 4, tầng
giao vận đảm bảo độ tin cậy của việc truyền dẫn dữ liệu đầu cuối- tới đầu cuối
trong khi tầng 2 đảm bảo độ tin cậy của việc truyền dữ liệu trên một liên kết
đơn. Các tầng phía trên của mô hình OSI hầu như luôn được thực hiện trong
phần mềm; các tầng phía dưới thường là tổ hợp phần mềm và phần cứng, ngoại
trừ tầng vật lý luôn là phần cứng.
Hình 3.3 cho chúng ta một cái nhìn tổng thể của mô hình OSI, L7 data có
nghĩa là đơn vị dữ liệu tại tầng 7, L6 data có nghĩa là đơn vị dữ liệu ở tầng 6…
Quá trình bắt đầu diễn ra tại tầng 7 (tầng ứng dụng), sau đó chuyển tiếp từ tầng
này xuống tầng kia theo trình tự dần xuống. Tại mỗi tầng (Ngoại trừ tầng 7 và
1), một header được bổ sung vào đơn vị dữ liệu. Tại tầng 2, một trailer cũng
được bổ sung. Khi đơn vị dữ liệu được định dạng truyền qua tầng vật lý, nó
được chuyển đổi thành các tín hiệu điện từ và được truyền đi trên đường truyền
vật lý.

3
Hình 3.3. Truyền dữ liệu giữa 2 thiết bị sử dụng mô hình OSI

Ngay khi tín hiệu điện từ được truyền đến đích của nó, nó được truyền
vào tầng một và được chuyển đổi trở lại thành các bit. Các đơn vị dữ liệu sau đó
chuyển ngược lên các tầng trên của mô hình OSI. Khi mỗi khối dữ liệu chuyển
tới tầng cao hơn tiếp theo, các header và trailer mà được đính kèm với đơn vị dữ
liệu ở tầng gửi tương ứng được loại bỏ. Tại thời điểm mà dữ liệu lên đến tầng 7,
thông điệp một lần nữa được định dạng hợp lý cho ứng dụng và sau đó hiện hữu
tới bên nhận.

4
3.2 CHỨC NĂNG CỦA CÁC TẦNG
Trong phần này, chúng tôi mô tả một cách ngắn gọn các chức năng của
từng tầng trong mô hình OSI.

Tầng vật lý
Tầng vật lý bao gồm các chức năng cần thiết để truyền dẫn một dòng bit
qua một phương tiện vật lý. Nó liên quan đến các đặc tả về cơ và điện của giao
diện và phương tiện truyền dẫn. Nó cũng xác định các thủ tục và hàm mà các
thiết bị và giao diện vật lý phải thực hiện khi quá trình truyền dẫn xảy ra. Hình
3.4 thể hiện vị trí của tầng vật lý liên đới tới phương tiện truyền dẫn và tầng liên
kết dữ liệu.

Hình 4.3 Tầng vật lý

• Các đặc điểm vật lý của các giao diện và phương tiện truyền dẫn.
Tầng vật lý xác định các đặc điểm của giao diện giữa các thiết bị và
phương tiện truyền dẫn. Nó cũng xác định kiểu của phương tiện
truyền dẫn.
• Mô tả của các bít. Dữ liệu của tầng vật lý bao gồm một dòng các bít
(một dãy các số 0 và 1). Để có thể được truyền dẫn, các bít phải
được mã hóa thành các tín hiệu điện hoặc quang. Tầng vật lý xác
định kiểu mã hóa ( cách các số 0 và 1 được chuyển đổi thành tín
hiệu).
• Tốc độ truyền dữ liệu. Tốc độ truyền dẫn – số các bit được gửi đi
mỗi giây- cũng được xác định bởi tầng vật lý. Hay nói cách khác,
tầng vật lý xác định khoảng thời gian của một bit xem chuyển bít
đó diễn ra bao lâu.
• Sự đồng bộ của các bit. Bên gửi và bên nhận phải được đồng bộ
hóa ở mức bit. Hay nói cách khác, đồng hồ của bên nhận vào bên
gửi phải được đồng bộ.
• Cấu hình đường dẫn. Tầng vật lý có liên quan đến kết nối của các
thiết bị tới phương tiện truyền dẫn. Một cấu hình điểm-tới-điểm, 2
thiết bị được nói với nhau thông qua một đường liên kết chuyên

5
dụng. Trong một cấu hình đa điểm, một đường liên kết được chia sẻ
giữa nhiều thiết bị
• Hình trạng vật lý. Hình trạng vật lý định cách các thiết bị được kết
nối với nhau để hình thành lên một mạng. Các thiết bị có thể được
kết nối bằng việc sử dụng một hình trạng dạng lưới – mesh
topology (Mọi thiết bị được kết nối với mọi thiết bị khác). Một hình
trạng dạng vòng (mọi thiết bị kết nối với thiết bị tiếp theo, hình
thành một vòng tròn), hoặc hình trạng dạng sao –star topology (Tất
cả các thiết bị được kết nối thông qua một thiết bị trung tâm), hoặc
hình trạng dạng bus – bus topology (tất cả mọi thiết bị kết nối trên
một đường liên kết chung).
• Chế độ truyền dẫn (transmission mode). Tầng vật lý cũng xác định
hướng truyền dẫn giữa 2 thiết bị: đơn công – simplex, bán song
công half-duplex và song công toàn phần – full duplex. Trong chế
độ truyền đơn công, chỉ một thiết bị có thể gửi; thiết bị khác chỉ có
thể nhận. Chế độ truyền đơn công là một phương thức truyền thông
một chiều. Trong chế độ truyền bán song công, 2 thiết bị có thể gửi
và nhận nhưng không đồng thời. Trong chế độ truyền song công
toàn phần, hai thiết bị có thể gửi và nhận một cách đồng thời.

Tầng liên kết dữ liệu (Data Link Layer)


Tầng liên kết dữ liệu biến đổi dữ liệu từ tầng vật lý ở dạng truyền dẫn còn
thô sang một liên kết tin cậy và chịu trách nhiệm truyền tin nút-tới-nut. Nó làm
cho tầng vật lý xuất hiện dưới dạng đầu vào cho tầng phía trên (tầng mạng).
Hình 3.5 thể hiện mối quan hệ của tầng liên kết dữ liệu với tầng mạng và tầng
vật lý.
Hình 3.5 Tầng liên kết dữ liệu

Các chức năng đảm nhiệm chính của tầng liên kết dữ liệu bao gồm:
• Framing. Tầng liên kết dữ liệu chia dòng các bit nhận được từ tầng
mạng thành các đơn vị dữ liệu để có thể quản lý được và các đơn vị
dữ liệu này được gọi là các khung dữ liệu –frame.
• Địa chỉ vật lý. Nếu các frame được phân phối tới các hệ thống khác
nhau trên mạng, tầng liên kết dữ liệu bổ sung một header vào frame

6
nhằm mục đích xác định địa chỉ vật lý của bên gửi (địa chỉ nguồn)
và/hoặc bên nhận (địa chỉ đích) của frame. Nếu frame cần được gửi
cho một hệ thống bên ngoài mạng của bên gửi thì địa chỉ bên nhận
là địa chỉ của thiết bị mà kết nối một mạng tới mạng tiếp theo.
• Kiểm soát luồng – Flow control. Nếu tốc độ truyền dẫn tại đó dữ
liệu được nhận được bởi bên nhận là kém hơn tốc độ được tạo ra ở
bên gửi thì tầng liên kết dữ liệu áp đặt một cơ chế kiểm soát luồng
để tránh ùn nghẽn bên nhận.
• Kiểm soát lỗi – error control. Tầng liên kết dữ liệu bổ sung thêm độ
tin cậy cho tầng vật lý bằng cách bổ sung các cơ chế dò nhận và
truyền dẫn lại các frame bị hư hại hoặc bị mất. Nó cũng sử dụng
một cơ chế để tránh sự trùng lặp các frame. Kiểm soát lỗi thường
đạt được thông qua phần trailer được bổ sung ở cuối mỗi frame.
• Kiểm soát truy nhập. Khi 2 hay nhiều thiết bị được kết nối tới cùng
một đường liên kết, các giao thức của tầng liên kết dữ liệu là cần
thiết để xác định thiết bị nào có quyền kiểm soát đường liên kết tại
một thời điểm cho trước.

Ví dụ 3.1
Trong hình 3.6, một nút với địa chỉ vật lý là 10 gửi một frame tới một nút
có địa chỉ vật lý là 87. Hai nút được kết nối bởi một đường liên kết. Tại mức liên
kết dữ liệu, frame này chứa các địa chỉ vật lý (liên kết) trong phần header.
Những frame này là những địa chỉ duy nhất. Phần còn lại của header chứa các
thông tin khác cần thiết tại mức này. Trailer thường chứa các bít bổ sung cần
thiết cho việc dò tìm lỗi.

Hình 3.6 Tầng liên kết dữ liệu (ví dụ 3.1)

Tầng mạng – Network Layer


Tầng mạng chịu trách nhiệm vận chuyển nguồn-sang-đích của một gói tin
có thể thông qua nhiều mạng khác nhau (các đường liên kết). Trong khi đó tầng
liên kết dữ liệu giám sát vận chuyển các gói tin giữa hai hệ thống trên cùng
mạng (các liên kết), tầng mạng đảm bảo rằng mỗi gói tin có thể được truyền đi
từ điểm gốc tới điểm đích cuối cùng của nó.

7
Hình 3.7 Tầng mạng

Nếu 2 hệ thống được kết nối trên cùng một đường liên kết, thường không
cần tầng mạng. Tuy nhiên, nếu 2 hệ thống được kết nối vào các mạng khác nhau
(các đường liên kết khác nhau) bằng các thiết bị kết nối giữa hai mạng (các
đường liên kết), lúc đó tầng mạng sẽ là cần thiết để có thể hoàn thành vận
chuyển nguồn-sang-đích. Hình 3.7 thể hiện mối quan hệ giữa tầng mạng và tầng
liên kết dữ liệu và tầng giao vận.
Các chức năng cụ thể của tầng mạng bao gồm:
• Địa chỉ logic- Logical addressing. Địa chỉ vật lý được thực hiện
tầng liên kết dữ liệu nhằm xử lý vấn đề địa chỉ một cách cục bộ.
Nếu một gói tin truyền qua biên giới hạn của mạng, chúng ta cần hệ
thống định địa chỉ khác để giúp phân biệt hệ thống nguồn và hệ
thống đích. Tầng mạng bổ sung một header vào một gói tin đến từ
tầng cao hơn nó, và các tầng khác lân cận, bao gồm các địa chỉ
logic của bên gửi và bên nhận.
• Định tuyến – Routing. Khi các mạng hoặc các đường liên kết độc
lập được kết nối với nhau sẽ tạo thành một liên mạng
(internetwork) hay mạng của các mạng hoặc một mạng lớn, các
thiết bị kết nối (được gọi là các router và gatway) xác định đường
đi của các gói tin tới đích cuối cùng của chúng. Một trong những
chức năng của tầng mạng cung cấp cơ chế này.

Ví dụ 3.2
Bây giờ các bạn hình dung ở hình 3.8 chúgn ta gửi dữ liệu từ một node
bằng địa chỉ mạng A và địa chỉ vật lý 10, được đặt trong một mạng cục bộ -
LAN, tới một nút với địa chỉ mạng P và địa chỉ vật lý 95, được đặt ở một mạng
LAN khác. Bởi vì hai thiết bị này được đặt ở hai mạng khác nhau, chúng ta
không thể chỉ sử dụng địa chỉ vật lý vì địa chỉ vật lý chỉ hiện hữu trong nội bộ
mạng LAN đó. Những gì chúng ta cần ở đây là các địa chỉ phổ quát có thể cho
phép truyền các gói tin qua các biên giới hạn của các mạng LAN. Các địa chỉ
mạng (địa chỉ logic) có những đặc điểm này. Gói tin ở tầng mạng chứa các địa
chỉ logic, mà các địa chỉ này còn lưu lại y nguyên từ nguồn nguyên bản đến đích
cuối cùng. Các địa chỉ này sẽ không thay đổi khi gói tin đi từ mạng này sang
mạng kia. Tuy nhiên các địa chỉ vật lý sẽ thay đối khi gói tin được chuyển từ

8
một mạng tới mạng khác. Khối trong hình vẽ với ký hiệu R là một thiết bị định
tuyến – router (thiết bị liên mạng), thiết bị này sẽ được trình bày kỹ hơn ở
chương 21.

Hình 3.8. Tầng mạng (ví dụ 3.2)

Tầng giao vận – Transport layer


Tầng giao vận chịu trách nhiệm công việc vận chuyển nguồn-tới-đích
(đầu cuối –tới –đầu cuối) của toàn bộ thông điệp). Trong khi đó tầng mạng thực
hiện giáp sát công việc vận chuyển đầu cuối-tới-đầu cuối của từng gói tin riêng
biệt, nó không nhận diện bất kỳ mối quan hệ nào giữa các gói tin đó. Nó xem
mỗi gói tin là độc lập nhau, khi đó mỗi gói tin thuộc hoặc không thuộc vào một
thông điệp riêng biệt. Mặt khác, tầng giao vận đảm bảo rằng toàn bộ thông điệp
đến còn nguyên vẹn và theo đúng thứ tự, giám sát cả phần kiểm soát lỗi và kiểm
soát luồng ở mức nguốn-tới-đích. Hình 3.9 thể hiện mối quan hệ giữa tầng giao
vận với tầng mạng và tầng phiên.
Để bổ sung tích bảo mật, tầng giao vận có thể tạo ra một kết nối giữa hai
cổng cuối. Một kết nối là một đường dẫn logic đơn giữa nguồn và đích mà liên
quan đến tất cả các gói tin trong một thông điệp. Việc tạo ra một kết nối tiến
hành theo 3 bước như sau:
Thiết lập kết nối, truyền dữ liệu, và giải phóng kết nối. Bằng cách áp công
việc truyền dẫn của tất cả các gói tin vào một đơn đường dẫn, tầng giao vận có
9
thêm quyền kiểm soát theo trình tự từ kiểm soát luồng, dò tìm lỗi cũng như sửa
lỗi.
Các chức năng cụ thể của tầng giao vận bao gồm:
• Địa chỉ dịch vụ-điểm (Service-point addressing). Các máy tính
thường chạy nhiều chương trình đồng thời. Vì lý do đó, công việc
vận chuyển nguồn-tới-đích không có nghĩa là chỉ chuyển từ một
máy tính sang máy tính tiếp theo mà còn từ một tiến trình cụ thể
(chương trình đang chạy) trên một máy tính tới một tiến trình cụ thể
(chương trình đang chạy) trên máy tính khác. Do đó, phần header
của tầng giao vận phải bao gồm một kiểu của địa chỉ được gọi là
địa chỉ dịch vụ-điểm (hay địa chỉ cổng). Tầng mạng đẩy từng gói
tin tới đúng máy tính cần đẩy; Tầng giao vận đẩy toàn bộ thông
điệp tới đúng tiến trình trên máy tính đó.

Hình 3.9 Tầng giao vận

• Phân đoạn và lắp ghép (Segmentation and Ressembly). Một thông


điệp được chia thành nhiều phần đoạn khả truyền, mồi phân đoạn
chứa chuỗi số. Các số này cho phép tầng giao vận có thể ghép lại
để hình thành thông điệp một cách đúng đắn ngay khi thông điệp
đến đích và để xác định và thay thế các gói tin bị mất trong quá
trình truyền dẫn.
• Kiểm soát kết nối (Connection control). Tầng giao vận có thể là
không kết nối (connectionless) hoặc hướng kết nối (connection-
oriented). Một tầng giao vận không kết nối xem mỗi đoạn như là
một gói tin độc lập và chuyển gói tin này tới tầng giao vận tại máy
đích. Một tầng giao vận hướng kết nối tạo ra một kết nối với tầng
giao vận của máy đích đầu tiên trước khi chuyển gói tin. Tất cả dữ
liệu được truyền đi, sau đó kết nối được ngắt.
• Kiểm soát luồng – Flow control. Giống như tầng liên kết dữ liệu,
tầng giao vận chịu trách nhiệm kiểm soát lỗi. Tuy nhiên, kiểm soát
lỗi ở tầng này được thực hiện theo kiểu đầu cuối – tới –đầu cuối
hơn là qua một liên kết đơn. Tầng giao vận bên gửi đảm bảo rằng
toàn bộ thông điệp đến tầng giao vận bên nhận không có lỗi gì (hư
hại, mất mát, hoặc trùng lặp). Việc sửa lỗi thường đạt được thông
qua việc truyền lại.
10
Ví dụ 3.3
Hình 3.10 trình bày ví dụ của tầng giao vận. Dữ liệu đến từ các tầng phía
trên có các địa chi dịch vụ-điểm (cổng) j và k (j là địa chỉ của ứng dụng bên gửi
và k là địa chi của ứng dụng bên nhận). Khi kích cỡ dữ liệu lớn hơn kích cỡ mà
tầng mạng có thể xử lý, dữ liệu sẽ được chia thành 2 gói tin, mỗi gói tin chứa
các địa chỉ dịch vụ-điểm (j và k). Sau đó, trong tầng mạng, cá địa chỉ mạng (A
và P) được bổ sung vào từng gói tin. Gói tin có thể được di chuyển theo nhiều
đường khác nhau và đến đích với bất kỳ thứ tự nào. Hai gói tin được chuyển tới
tầng mạng đích, tầng mạng đích này chịu trách nhiệm loại bỏ phần header của
tầng mạng. Hai gói tin giờ tiếp tục được truyền lên tầng giao vận, ở đây chúng
được tổ hợp lại để có thể chuyển tiếp lên các tầng phía trên.

Hình 3.10 Tầng giao vận (ví dụ 3.3)

Tầng phiên – Session layer


Các dịch vụ được cung cấp bởi 3 tầng đầu tiên (tầng vật lý, liên kết dữ
liệu và mạng) là không đủ cho một số quá trình. Nó thiết lập, duy trì và đồng bộ
hóa các tương tác giữa các hệ thống đang kết nối.
Những chức năng cụ thể của tầng phiên bao gồm:
• Kiểm soát đàm thoại – dialog control. Tầng phiên cho phép
hai hệ thống đi vào cùng một dialog. Nó cho phép kết nối
giữa hai quá trình được hoạt động ở chế độ bán song công
hoặc song công toàn phần. Ví dụ, dialog giữa một đầu cuối
được kết nối tới một máy mainframe có thể là bán song công.
• Đồng bộ hóa – Synchronization. Tầng phiên cho phép một
quá trình có thể bổ sung các điểm kiểm tra (điểm đồng bộ
hóa) vào trong một dòng dữ liệu. Ví dụ, nếu một hệ thống

11
đang gửi file có kích cỡ là 2000 trang, người ta bổ sung các
điểm kiểm tra 100 trang một lần để đảm bảo rằng mỗi đơn vị
100 trang được nhận và thông báo nhận một cách độc
lập.Trong trường hợp này, nếu xảy ra sự cố mất mát dữ liệu
trong quá trình truyền trang 523, quá trình truyền lại bắt đầu
ở trang 501: các trang 1 tới trang 500 không cần phải truyền
lại.

Tầng trình diễn – Presentation Layer


Tầng trình diễn có liên quan đến cú pháp và ngữ nghĩa của thông tin
được trao đổi giữa hai hệ thống. Hình 3.12 thể hiện mối quan hệ giữa tầng trình
diễn với tầng ứng dụng và tần phiên.

Hình 3.12 Tầng trình diễn

Những chức năng cụ thể của tầng trình diễn bao gồm:
• Dịch thuật- Translation. Các quá trình (các chương trình đang chạy)
trong hai hệ thống thường trao đổi thông tin dưới dạng các chuỗi ký tự,
số …Thông tin sẽ được thay đổi thành các dòng bit trước khi được
truyền đi. Bởi vì các máy tính là khác nhau sử dụng các hệ thống mã
hóa khác nhau, tầng trình diễn chịu trách nhiệm về tính liên kết hoạt
đọng giữa các pháp mã hóa khác nhau. Tầng trình diễn bên gửi thay
đổi thông tin từ chính định dạng riêng bên gửi thành một định dạng
chung. Tầng trình diễn bên nhận thay đổi thông tin được định dạng
chung thành định dạng riêng bên nhận.
• Mật hóa-Encryption. Để có thể kiểm soát được thông tin nhạy cảm,
một hệ thống phải có thể đảm bảo tính riêng tư.Mật hóa có nghĩa là
bên gửi biến đổi thông tin nguyên bản thành dạng khác và gửi thông
điệp kết quả ra ngoài mạng. Giải mã – decryption làm ngược lại với

12
quá trình trước thực hiện biến đổi thông điệp trở lại dạng nguyên bản
của nó.
• Nén – Compression. Nén dữ liệu làm giảm số các bít cần phải truyền
đi. Nén dữ liệu trong thực thế trở nên quan trọng trong quá trình truyền
dẫn đa phương tiện như văn bản, âm thành và hỉnh ảnh.

Tầng ứng dụng


Tầng ứng dụng cho phép người dùng, là người hoặc phần mềm có thể truy
nhập mạng. Nó cung cấp các giao diện người dùng và hỗ trợ các dịch vụ như là
thư điện tử, truy cập và truyền file từ xa, quản lý cơ sở dữ liệu được chia sẻ và
các kiểu dịch vụ thông tin phân tán khác.
Hình 3.13 thể hiện mối quan hệ giữa tầng ứng dụng đối với người dùng và
tầng trình diễn. Thực tế có nhiều dịch vụ ứng dụng, ở hình dưới đây chỉ thể hiện
3 ứng dụng cụ thể đó là X.400 (Các dịch vụ xử lý thông điệp); X500 (Các dịch
vụ thư mục); và dịch vụ quản lý, truy cập và truyền file (FTAM). Người dùng
trong ví dụ này sử dụng X.400 để gửi một bức thư điện tử. Chú ý rằng không có
header hay trailer được bổ sung ở tầng này.

Hình 3.13 Tầng ứng dụng

Các chức năng chính của tầng ứng dụng bao gồm:
• Mạng ảo đầu cuối –Network Virtual Termination. Một mạng ảo đầu cuối
là một phiên bản phần mềm của một đầu cuối vật lý và cho phép một
người dùng có thể đăng nhập vào một máy từ xa. Để làm được điều này,
tầng ứng dụng tạo ra một phần mềm mô phỏng đầu cuối tại máy từ xa.
Máy tính của người dùng nói chuyện với phần mềm đầu cuối, đến lượt nó
nói chuyện với máy, và ngược lại. Máy từ xa tin rằng nó đang kết với một
trong những đầu cuối của nó và cho phép bạn đăng nhập.
• Quản lý, truy cập và truyền file (FTAM). Đây là ứng dụng cho phép một
người dùng có thể truy cập các file trong một máy tính từ xa (để tạo ra

13
những thay đổi hoặc đọc dữ liệu), nhận các file từ máy tính từ xa và để
quản lý hoặc kiểm soát các file trong một máy tính từ xa.
• Các dịch vụ thư. Ứng dụng này cung cấp các điều kiện cơ bản cho việc
chuyển tiếp thư điện tử và lưu trữ.
• Các dịch vụ thư mục. Ứng dụng này cung cấp các nguồn cơ sở dữ liệu
phân tán và truy cập thông tin toàn cầu về nhiều đối tượng và dịch vụ.

Tóm tắt chức năng của các tầng


Các chức năng của các tầng được tổng quát hóa trong hình 3.14
Hình 3.14 Tổng quan chức năng của các tầng

3.3 HỌ GIAO THỨC TCP/IP


Họ giao thức TCP/IP được sử dụng trên mạng Internet, được phát triển
trước khi có mô hình OSI. Do đó các tầng trong bộ giao thức TCP/IP không phải
hoàn toàn giống với các tầng trong mô hình OSI. Họ giao thức TCP/IP được cấu
thành bởi 5 tầng bao gồm tầng vật lý, liên kết dữ liệu, mạng, giao vận và ứng
dụng. 4 tầng đầu tiên cung cấp các tiêu chuẩn vật lý, giao diện mạng, liên mạng
và các chức năng giao vận tương ứng với 4 tầng đầu tiên của mô hình OSI. Tuy
nhiên, 3 tầng trên cùng của mô hình OSI được biểu diễn trong TCP/IP bằng một
tầng đơn gọi là tầng ứng dụng (xem hình 3.15).
TCP/IP là một giao thức có phân cấp được cấu thành bởi các module
tương tác, mỗi module này cung cấp một chức năng cụ thể, nhưng chúng không
cần thiết phải độc lập nhau. Trong khi đó mô hình OSI xác định các chức năng
của mỗi tầng thuộc chính tầng đó, còn trong các tầng của giao thức TCP/IP có
thể chứa các giao thức tương đối độc lập và do đó co thể được sử dụng hỗn hợp
phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng của hẹ thống. Thuật ngữ phân cấp ở đây có
nghĩa là mỗi giao thức ở mức trên được hỗ trợ bởi một hay nhiều giao thức ở
mức dưới.
Ở tầng giao vận, TCP/IP định nghĩa hai giao thức đó là TCP
(Transmission Control Protocol) và UDP(User Datagram Protocol). Tại lớp
mạng, giao thức chính được định nghĩa bởi TCP/IP là giao thức liên mạng IP
(Internetworking Protocol), ngoài ra còn có một vài giao thức hỗ trợ vận chuyển
dữ liệu trong tầng này. Xem chương 24 và 25 để biết thêm chi tiết các giao thức
của họ giao thức TCP/IP.

14
3.4 CÁC THUẬT NGỮ CHÍNH

Application layer Tầng ứng dụng


Bit Bit
Data link Layer Tầng liên kết dữ liệu
Destination address Địa chỉ đích
Error Lỗi
Frame Khung dữ liệu
Header Phần đầu/tiêu đề
Interface Giao diện
Logical address Địa chỉ logic
Network layer Tầng mạng
Node-to-node delivery Vận chuyển nút-tới-nút
Open system Hệ thống mở
Open system Interconnection Các hệ thống liên kết nối mở
Peer-to-peer process Tiến trình đồng đẳng/ngang hàng
Physical address Địa chỉ vật lý
Port address Địa chỉ cổng
Prensentation layer Tầng trình diễn
Session layer Tầng phiên
Source address Địa chỉ nguồn
Source-to-destination delivery Vận chuyển nguồn-tới-đích
Trailer Phần đuôi
Transmission Control Giao thức kiểm soát truyền/giao thức
Protocol/Internetworking Protocol liên mạng
Transmission rate Tốc độ truyền dẫn
Transport layer Tầng giao vận

3.5 TÓM TẮT


• Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO tạo ra một mô hình gọi là OSI theo đó
cho phép các hệ thống khác nhau có thể liên lạc với nhau.
• Mô hình OSI 7 tầng cung cấp hướng dẫn cho việc phát triển các kiến trúc
tổng thể phù hợp với kiến trúc, phần mềm và phần cứng/
• Các tầng vật lý, liên kết dữ liệu, mạng và các tầng hỗ trợ mạng.
• Tầng phiên, tầng trình diễn và tầng ứng dụng là các tầng hỗ trợ người
dùng
• Tầng giao vận liên kết các tầng hỗ trợ mạng với các tầng hỗ trợ người
dùng.
• Tầng vật lý đảm nhiệm các chức năng liên quản đến truyền dòng các bit
trên phương tiện truyền dẫn.
• Một tầng liên kết dữ liệu chịu trách nhiệm vận chuyển các đơn vị dữ liệu
từ một máy sang máy tiếp theo mà không gây ra lỗi.
• Tầng mạng là tầng chịu trách nhiệm vận chuyển nguồn-tới-đích của một
gói tin qua nhiều đường mạng khác nhau.
15
• Tầng giao vận chịu trách nhiệm vận chuyển nguồn-tới-đích của toàn bộ
thông điệp
• Tầng phiên thiết lập, duy trì và đồng bộ hóa ác tương tác giữa các thiết bị
truyền thông.
• Tầng trình diễn đảm bảo tính tương quan liên kết hoạt động giữa các thiết
bị truyền thông qua việc biến đổi dữ liệu thành một định dạng chung.
• Tầng ứng dụng cho phép người dùng truy nhập vào mạng
• TCP/IP là một họ giao thức 5 tầng phân cấp được phát triển trước mô hình
OSI, là một họ giao thức được sử dụng trên Internet

3.6 BÀI TẬP


Câu hỏi ôn tập
1. Những tầng nào trong mô hình OSI là tầng hỗ trợ mạng?
2. Những tầng nào trong mô hình OSI hỗ trợ người dùng?
3. Sự khác nhau giữa vận chuyển dữ liệu của tầng mạng và vận
chuyển dữ liệu của tầng giao vận?
4. ISO và OSI có liên quan tới nhau nhưu thế nào?
5. Hãy liệt kê các tầng của mô hình OSI
6. Quá trình đồng đằng/ngang hàng là gì?
7. Làm cách nào thông tin được truyền qua một tầng sang tầng tiêp
theo của mô hình OSI?
8. Các header và trailer là gì; Cách chúng được bổ sung và loại bỏ?
9. Nhóm các tầng của mô hình OSI theo chức năng
10.Hãy trình bày những vấn đề liên quan đến tầng vật lý
11.Những chức năng được đảm nhiệm bởi tầng liên kết dữ liệu là gì?
12.Những chức năng được đảm nhiệm bởi tầng mạng là gì?
13.Những chứuc năng được đảm nhiệm bởi tầng giao vận là gì?
14.Tầng giao vận tạo ra một kết nối giữa nguồn và đích. Hay cho biết
3 sự kiện có trong kết nối đó.
15.Sự khác nhau giữa một địa chỉ dịch vụ-điểm, địa chỉ logic, địa chỉ
vật lý.
16.Những chức năng được đảm nhiệm bởi tầng phiên
17.Mục đích của dialog controller là gì?
18.Những chức năng được đảm nhiệm bởi tầng trình diễn
19.Mục đích dịch thuật translation của tầng phiên là để làm gì?
20.Hãy kể tên một số dịch vụ được cung cấp bởi tầng ứng dụng
21.Các tầng của họ giao thức TCP/IP có quan hệ như thế nào với các
tầng trong mô hình OSI.

Câu hỏi lựa chọn


22. Mô hình…….thể hiện các chức năng mạng của một máy tính có
thể được tổ chức
a. ITU-T b. OSI c. ISO d. ANSI

16
23.Mô hình OSI bao gồm…… tầng
a. 3 tầng b. 5 tầng c. 7 tầng d. 8 tầng
24.Tầng…..quyết định vị trí của các điểm động bộ hóa
a. Tàng giao vận b. Tầng phiên c. tầng trình diễn
d. Tầng ứng dụng
25.Kiểu vận chuyển đầu cuối-tới-đầu cuối của toàn bộ thông điệp do
tầng….chịu trách nhiệm
a. Tầng mạng b. Tầng giao vận c. tầng phiên
d. Tầng trình diễn
26.Tầng…..là tầng gần nhất phương tiện truyền dẫn
a.Tầng vật lý b. Tầng liên kết dữ liệu c. Tầng mạng
d. Tầng giao vận
27.Trong tầng….., đơn vị dữ liệu được gọi là frame
a. Tầng vật lý b. Tầng liên kết dữ liệu c. tầng mạng
d. Tầng giao vận
28.Việc tạo mật mã và giải mật mã dữ liệu do tầng…. chịu trách nhiệm
a.Tầng vật lý b. Tầng liên kết dữ liệu c. Tầng trình diễn
d. Tầng phiên
29.Dialog control là một chức năng của tầng….
a. Tầng giao vận b. Tầng phiên c. Tầng trình diễn
d. Tầng ứng dụng
30.Các dịch vụ thư tín và thư mục có sẵn đối với người dùng mạng
thông qua tầng….
a.Tầng liên kết dữ liệu b.Tầng phiên c. Tầng giao vận
d. Tầng ứng dụng
31.Kiểu vận chuyển nút-tới-nút của đơn vị dữ liệu được đảm nhiệm
bởi tầng…..
a. Tầng vật lý b. Tầng liên kết dữ liệu c. Tầng giao vận
d. Tầng mạng
32.Khi gói dữ liệu chuyển từ tầng thấp lên tầng cao hơn, các header
được ……
a. Bô sung b. Trích xuất c.Sắp xếp lại d. Sửa đổi
33. Khi gói dữ liệu di chuyển từ tầng cao xuống tầng thấp, các trailer
được……
a. Bô sung b. Trích xuất c.Sắp xếp lại d. Sửa đổi
34.Tầng ….. nằm giữa tầng mạng và tầng phiên
a. Tầng vật lý b. Tầng liên kết dữ liệu c. Tầng giao vận
d. Tầng trình diễn
35.Tầng 2 nằm giữa tầng vật lý và tầng…..
a.Tầng mạng b. Tầng liên kết dữ liệu c. Tầng giao vận
d. Tầng trình diễn
36.Khi dữ liệu được truyền dẫn từ thiết bị A tới thiết bị B, header từ
của tầng 5 của A được đọc bởi tầng….của B.
a. Tầng vật lý b. Tầng giao vận c. Tầng phiên
d. Tầng trình diễn
17
37.Trong tầng…., quá trình dịch (translation) từ một mã ký tự sang
một mã khác.
a.Tầng vật lý b. Tầng phiên c. Tầng trình diễn
d. Tầng ứng dụng
38.Tầng….thay đổi các bít thành các tín hiệu điện từ
a. Tầng vật lý b. Tầng liên kết dữ liệu c. Tầng giao vận
d. Tầng trình diễn
39.Tầng….có thể sử dụng trailer của frame do việc dò tìm lỗi
a. Tầng vật lý b. Tầng liên kết dữ liệu c. Tầng giao vận
d. Tầng trình diễn
40.Tại sao mô hình OSI lại được phát triển?
a. Các nhà sản xuất không thích họ giao thức TCP/IP
b. Tốc độ truyền dữ liệu được gia tăng theo số mũ
c. Các tiêu chuẩn cần thiết để cho phép bất kỳ 2 hệ thống nào cũng
có thể liên lạc với nhau
d. Không có ở 3 phát biểu trên
41.Tầng vật lý liên quan đến truyền dẫn….qua phương tiện truyền dẫn
vật lý
a. Các chương trình b. Các dialog c. Các giao thức
d. Các bit
42.Tầng nào có các chức năng đóng vai trò trung chuyển các tầng hỗ
trợ người dùng và các tầng hỗ trợ mạng.
a. Tầng mạng b. Tầng vật lý c. Tầng giao vận
d. Tầng phiên
43.Chức năng chính của tầng giao vận là gì?
a. Vận chuyển nút-tới-nút
b. Vận chuyển đầu cuối- tới- đầu cuối của thông điệp
c. Đồng bộ hóa
d. Cập nhật và duy trì các bảng định tuyến
44.Các điểm kiểm tra của tầng phiên…..
a. Cho phép chỉ một phần của một file được gửi
b. Dò tiềm và khắc phục lỗi
c. Kiểm soát các header bổ sung
d. Điều liên quan đến dialog control
45.Đâu là ứng dụng của tầng ứng dụng được liệt kê dưới đây?
a. Đầu cuối mạng ảo
b. Quản lý, truy nhập và truyền file
c. Dịch vụ mail
d. Tất cả các điều kể trên

18
CHƯƠNG 4
CÁC TÍN HIỆU –SIGNALS
Chức năng chính của tầng mạng là chuyển thông tin dạng điện từ qua các
phương tiện truyền dẫn. Khi bạn thu thập số liệu thống kê từ một máy tính khác,
gửi các bức ảnh động từ một máy trạm thiết kế đồ họa hay làm chuông rung ở
một trung tâm điều khiển từ xa, chính là bạn đang làm việc với truyền dẫn thông
tin qua các kết nối mạng. Thông tin có thể là âm thanh, hình ảnh, dữ liệu số, các
ký tự, hoặc mã – bất kỳ thông điệp nào khả đọc và có nghĩa với người dùng
đích, là máy hay con người.
Thông tin có thể ở dạng dữ liệu, âm thanh, hình ảnh,vvv
Nhìn chung, thông tin hữu dụng đối với một người hay một ứng dụng
không phải ở dạng mà có thể truyền dẫn ngay qua một mạng được. Ví dụ, bạn
không thể cuộn tròn một bức ảnh, đút nó vào đường điện, và truyền nó qua thị
trấn. Tuy nhin, bạn có thể truyền nó bằng một bức ảnh đã được mã hóa. Thay vì
gửi bức ảnh thật, bạn có thể sử dụng bộ mã hóa để tạo ra dòng các bit 0 và 1 để
cho thiết bị đang nhận biết được cách cấu trúc lại hình ảnh của bức ảnh đó. (Mã
hóa được bàn chi tiết ở chương 5).
Nhưng thậm chí với 0 và 1 cũng không thể gửi được qua những liên kết
mạng như thế. Chúng một lần nữa phải được chuyển đổi sâu hơn thành một
dạng mà phương tiện truyền dẫn có thể chấp. Phương tiện truyền dẫn làm việc
theo cách truyền các tín hiệu điện theo đường dẫn vật lý. Những dòng dữ liệu
dạng 0 và 1 như vậy phải được chuyển thành tín hiệu điện dưới dạng các tín hiệu
điện từ.
Để được truyền dẫn, thông tin phải được biến đổi thành các tín hiệu điện
từ.

4.1 KHÁI NIỆM VỀ TƯƠNG TỰ & SỐ (Analog and Digital)

Cả dữ liệu và tín hiệu đều có thể biểu diễn ở dưới dạng tương tự hoặc số.
Khi nói đến tương tự thường tham chiếu đến cái gì đó mang tính liên tục hay
tiếp diễn- Một tập các điểm cụ thể của dữ liệu và tất cả các điểm có thể có ở
giữa. Khi nói đến số người ta thường tham chiếu tới những gì mang tính rời tạc
– một tập các điểm cụ thể mà không có các điểm khác ở giữa.

Dữ liệu tương tự và số
Dữ liệu có thể là tương tự hoặc số. Một ví dụ của dữ liệu tương tự là
giọng nói của con người. Khi một người nào đó nói, một song ấm thanh liên tục
được tạo ra trong không khí. Điều này có thể được sao chép bởi một thiết bị
microphone và được chuyển thành một tín hiệu tương tự.
Một ví dụ về dữ liệu dạng số là dữ liệu được lưu trữ trong bộ nhớ của máy
tính dưới dạng 0 và 1. Thông thường các tín hiệu được truyền thành dạng tín

19
hiệu số khi muốn truyền đi từ một vị trí này đến một vị trí khác trong và ngoài
máy tính.

Tín hiệu tương tự và tín hiệu số


Như thông tin mà chúng biểu diễn, các tín hiệu có thể là tương tự hoặc số.
Một tín hiệu tương tự là một tín hiệu dạng sóng liên tục theo thời gian. Khi sóng
được chuyển từ giá trị A sang giá trị B, nó truyền qua và bao gồm một số vô hạn
các giá trị cùng với đường dẫn của nó. Mặt khác, tín hiệu số là rời rạc. Nó có thể
chỉ có hữu hạn số các giá trị được các định, thường đơn giản là 0 và 1. Việc
truyền một tín hiệu số từ giá trị này sang giá trị khác là tức thời, giống như một
bóng đèn được bật và tắt.
Chúng ta thường minh họa các tín hiệu bằng cách giải chúng trong một
cặp hệ trục tọa độ. Trục tung thường biểu diễn giá trị hay cường độ của tính
hiệu. Trục hoành biểu diễn tín hiệu theo thời gian. Hình 4.1 minh họa một tín
hiệu tương tự và một tín hiệu số. Các hình uốn biểu diễn tín hiệu tương tự là
trơn và liên tục qua một số vô hạn các điểm. Các đường kẻ dọc của tín hiệu số
min họa nhảy bước tức thời từ giá trị này sang giá trịnh kia; độ cao thấp của
đường kẻ dọc này thể hiện các giá trị này là cố định. Một cách khác để biểu diễn
sự khác nhau giữa tín hiệu tương tự và tín hiệu số là đối với tín hiệu tương tự,
tín hiệu thay đổi liên tục theo thời gian còn tín hiệu số thay đổi một cách tức
thời.

Hình 4.1 So sánh tín hiệu tương tự và tín hiệu số

4.2 CÁC TÍN HIỆU TUẦN HOÀN & KHÔNG TUẦN HOÀN
Các tín hiệu tương tự và số đều có thể ở dưới 2 dạng: Tuần hoàn và không
tuần hoàn

Các tín hiệu tuần hoàn


Một tín hiệu được gọi là tuần hoàn nếu nó thực hiện lấy một mẫu trong
khoảng thời gian đo được gọi là chu kỳ lấy mẫu, và lặp lại mẫu đó với các chu
kỳ giống nhau. Sự hoàn thành một mẫu đầy đủ được gọi là một chu trình. Một
chu kỳ được xác định bằng số lượng thời gian (được biểu diễn bằng giây) cần để
hoàn thành một chu trình lấy mẫu đầy đủ. Khoảng thời gian của một chu kỳ
được biểu diễn bằng T, có thể khác nhau đối với từng mẫu, nhưng nó là hằng số
đối với bất kỳ tín hiệu tuần hoàn nào được cho. Hình 4.2 minh họa các tín hiệu
tuần hoàn theo giả thiết
20
Một tín hiệu tuần hoàn bao gồm một mẫu liên tục được lặp lại. Chu kỳ
của một tín hiệu (T) được biểu diễn bằng giấy.
Hình 4.2 Ví dụ về các tín hiệu tuần hoàn

Tín hiệu không tuần hoàn


Một tín hiệu không tuần hoàn, tín hiệu thay đổi liên tục không biểu diễ
một mẫu hay một chu kỳ lặp lại theo thời gian/
Một tín hiệu không tuần hoàn không có các mẫu tín hiệu lặp lại
Hình 4.3 Ví dụ về các tín hiệu không tuần hoàn.

Có một kỹ thuật gọi là biến đổi Fourier (xem phụ lục D) cho phép bất kỳ tín hiệu
không tuần hoàn nào cũng có thể được phân tích thành một số vô hạn các tín
hiệu tuần hoàn. Hiểu được đặc điểm của các tín hiệu tuần hoàn cũng cho phép
chúng ta có cái nhìn thấu đáo về tín hiệu không tuàn hoàn.

4.3 CÁC TÍN HIỆU TƯƠNG TỰ


Các tín hiệu tương tự có thể được phân loại thành tín hiệu đơn hoặc tổng
hợp. Một tín hiệu đơn hay tín hiệu hình sin không thể phân tích thành các tín
hiệu nào đơn gian hơn nữa. Một tín hiệu tương tự tổng hợp là tín hiệu được cấu
thành từ nhiều tín hiệu hình sin.

Các tín hiệu tương tự đơn


Tín hiệu hình sin là dạng tín hiệu cơ bản nhất của một tín hiệu tương tự
tuần hoàn. Được biểu diễn bằng các đường cong dao động, sự thay đổi của nó
theo tiến trình của một chu trình là phẳng và nhất quán, một luồng cuộn liên tục.
21
Hinh 4.4 thể hiện một sóng tín hiệu hình sin. Tín hiệu hình sin có thể được mô tả
một cách đầy đủ qua ba đặc tính của nó là: Biên độ A, chu kỳ hay tần số và pha.
Biên độ A

Hình 4.4 Một sóng tín hiệu hình sin

Trên đồ thị. Biên độ của một tín hiệu là một giá trị của tín hiện tại bất kỳ
điểm nào trên đường tín hiệu. Nó bằng khoảng tung độ được xác định bởi giao
điểm trên đường tín hiệu giữa trục tung và trục hoành. Biên độ cực đại tín hiệu
hình bằng giá trị lớn nhất mà nó đạt được trên trục tung (hình 4.5)
Biên độ được định lượng theo các đơn vị vôn, ampe hoặc watt phụ thuộc
vào kiểu tín hiệu.
Biên độ của tín hiệu là độ cao của một tín hiệu. Đơn vị tính của biên độ
phục thuộc vào kiểu của tín hiệu. Đối với các tín hiệu điện tử, đơn vị tính
thường là V, A và W .
Hình 4.5 Biên độ

Chu kỳ và tần số

Chu kỳ liên quan đến lượng thời gian tính bằng giây mà một tín hiệu cần
để hoàn thành một chu trình. Tần số liên quan đến số các chu kỳ trong một giây.
Tần số của một tín hiệu là số các chu trình trong một giây. Hình 4.6 thể hiện
khái niệm về chu kỳ và tần số

22
Hình 5.6 Chu kỳ và tần số

Đơn vị tính của chu kỳ: Chu kỳ được biểu diễn bằng giây. Trong lĩnh vực
truyền thông sử dụng 5 đơn vị tính chu kỳ: giây, mili giây (ms=10^-3s), micro
giây 10^-6s) nano giây (ns=10^-9s) và pico giây (ps=10^-12).
Bảng 4.1 Đơn vị tính của chu kỳ

Đơn vị Giá trị


Giây 1s
Mili giây (ms) 10-3s
Micro giây (µs) 10-6 s
Nano giây (ns) 10-9 s
Pico giấy (ps) 10-12 s

Ví dụ 4.1. Thể hiện 100 mili giây ở dạng giây, micro giây, nano giây và pico
giây.
Giải: Chúng ta tính toán lũy thừa của 10 để tìm ra đơn vị thích hợp. Chúng ta
thay 10^(-3) giây bằng mili giây. 10^(-6) giây bằng nano giây và 10^(-12) giây
bằng pico giây.
100 ms=100 x 10-3 s = 0.1 s
100 ms=100 x 10-3 s = 100 x 103 x 10-6 s=105 µs
100 ms=100 x10-3 s = 100 x 106 x 10-9 s = 105 ns
100 ms = 100 x 10-3 s = 100 x 109 x 10-12 s=1011 ps

Đơn vị tính của tần số: Tần số được biểu diễn bằng đơn vị Hertz (Hz),
(Hertz là tên của một nhà vật lý người Đức). Trong lĩnh vực truyền thông, người
ta sử dụng 5 đơn vị tính tần số đó là Hz, Khz, Mhz, Ghz và THz. Dưới đây là
bảng các đơn vị tính tần số.

23
Bảng 4.2 Đơn vị tính tần số

Đơn vị Giá trị


Hertz (Hz) 1 Hz
Kilohertz (KHz) 103 Hz
MegaHertz (MHz) 106 Hz
GigaHertz (GHz) 109 Hz
TetaHertz (THz) 1012 Hz

Ví dụ 4.2
Biểu diễn 14 Mhz dưới dạng Hz, KHz, GHz và THz
Giải pháp
Chúng ta tính toán lũy thừa của 10 để tìm ra đơn vị hợp lý. Chúng ta thay
10 Hz = 1 KHz, 106 Hz =1 Mhz, 109 Hz =1GHz, 1012 Hz=1 THz
3

14 MHz=14 x 106 Hz
14 MHz=14 x 106 Hz= 14 x 103 x 103 Hz=14x 103 KHz
14 MHz = 14 x 106 Hz = 14 x 10-3 x 109 Hz=14 x 10-3 Ghz
14 Mhz = 14 x 106 Hz=14 x 10-6 x 1012 Hz=14 x 10-6 Thz

Chuyển đổi tần số sang chu kỳ và ngược lại


f = 1/T => T=1/f
Chu kỳ là một lượng thời gian cần thiết để mộ tín hiệu hoàn thành một chu trình;
tần số là số các chu trình trong một giây. Tần số và chu kỳ nghịch đảo với nhau:
f=1/T và T=1/f.

Ví dụ 4.3
Một tín hiệu hình sin có tần số là 6 Hz. Hãy tính chu kỳ của nó
Bài giải:
T=1/f=1/6 = 0.17 s
Ví dụ 4.4
Một hình sin có tần số 8 KHz. Hãy tính chu kỳ của nó
Giải: Đặt T là chu kỳ và f là tần số khi đó
T=1/f=1/8000=0.000125 giây=125 x 10^(-6) giây=125 µs
Ví dụ 4.5
Một tín hiệu hình sin hoàn thành một chu trình trong 4 giây. Hãy tính tần
số của nó
Giải: đặt T là chu kỳ và f là tần số. Khi đó
f=1/T=1/4=0.25 Hz
Ví dụ 4.6
Một tín hiệu hình hoàn thành một chu trình trong 25µs. Hãy tính tần số
của nó
Giải: Đặt T là chu kỳ và f là tần số. Khi đó ta có

24
f=1/T=1/(25 x 10-6)=40.000 Hz = 40 x 103 Hz = 40 Khz

Thông tin thêm về tần số


Chúng ta đã biết rằng tần số là quan hệ của một tín hiệu theo thời gian và
dạng sóng của tín hiệu là số các chu trình nó hoàn thành trong một giâ. Nhưng
tần số còn có thể hiểu theo nghĩa là nó là một đơn vị tính tốc độ thay đổi tín
hiệu. Các tín hiệu điện tử thể hiện ở dưới dạng sóng; tức là chúng dao động liên
tục và có thể đoán trước mức độ năng lượng trung bình. Tốc độ tại đó sóng điện
từ hình sin chuyển động từ tần số thấp nhất đến tần số cao nhất. Một tín hiệu có
tần số là 40 Hz bằng ½ tín hiệu có tần số 80Hz; nó hoàn thành một chu trình gấp
2 lần thời gian so với tín hiệu có tần số 80 Hz, vì thế mỗi chu trình cũng kéo dài
2 lần để nó thay đổi từ điện áp thấp nhất lên điệp áp cao nhất của nó. Do đó, tần
số được mô tả bằng số chu trình trong một giây (Hz), là một đơn vị định lượng
chung cho xác định tốc độ thay đổi của một tín hiệu theo thời gian.

Tần số là tốc độ thay đổi tương ứng với thời gian. Sự thay đổi diễn ra
trong khoảng thời gian gắn có nghĩa là tần số cao hay cao tần. sự thay đổi diên
ra trong khoảng thời gian dài có nghĩa là tần số thấp.

Nếu giá trị của một tín hiệu thay đổi trong một khoảng thời gian cực ngắn,
tần số của nó là cao. Nếu nó thay đổi trong một khoảng thời gian dài, tần số của
nó thấp.

Hai điểm cực


Sẽ thế nào nếu một tín hiệu không thay đổi? sẽ thế nào nếu nó duy trì mức
độ điện áp hằng số trong toàn bộ thời gian nó hoạt động? Trong trường hợp như
vậy, tần số của nó là bằng 0. Có thể khái quát rằng nếu một tín hiệu không thay
đổi theo thời gian, nó sẽ không hoàn thành một chu trình vì thế tần số của nó
bằng 0.
Nhưng sẽ thế nào khi một tín hiệu thay đổi tức thời? Sẽ thế nào khi nó
nhảy từ một mức này sang mức khác không theo thời gian? Khi đó tần số của
nó là không xác định. Hay nói cách khác, khi một tín hiệu thay đổi tức thời, chu
kỳ của nó bằng 0 do đó tần số của nó là nghịch đảo của chu kỳ suy ra tần số là
1/0 hay vô định.

Pha của tín hiệu - Phase


Thuật ngữ pha mô tả vị trí của dạng tín hiệu theo thời gian bằng 0. Nếu
chúng ta nghĩ sóng tín hiệu đó là một cái gì đó có thể dịch chuyển tới hay lui
theo trục thời gian, thì pha mô ta số lượng các bước dịch chuyển đó, nó xác định
trạng thái của chu kỳ đầu tiên.
Pha mô tả vị trí của dạng sóng tín hiệu theo thời gian bằng 0.
Pha được định lượng bằng đơn vị là độ hoặc radian (360 độ = 2pi radian).
Một pha dịch chuyển 360 độ tương ứng với một dịch chuyển hoàn thành một
chu chu kỳ; một pha dịch chuyển 180 độ tương ứng với một dịch chuyển một

25
nửa chu kỳ; một pha dịch chuyển 90 độ tương ứng với một dịch chuyển là ¼ chu
kỳ (xem hình 4.7).
Hình 4.7 Mối quan hệ giữa các pha khác nhau.

Ví dụ 4.7
Một sóng tín hiệu hình sin tại đoạn bằng 1/6 chu trình theo thời gian. Hay
tính pha của nó
Giải: Chúng ta đã biết rằng một chu trình hoàn chỉnh là 360 độ. Do đó,
1/6 chu trình sẽ là:
1/6 x 360=60 độ

Dưới đây là một ví dụ trực quan cho phép chúng ta hiểu hơn về các chức
năng của biên độ, tần số và pha. Sự thay đổi ở cả 3 thuộc tính có thể được ghép
vào trong một tín hiệu và được điều khiển bằng điện tử. Kiểu kiểm soát như vậy
cung cấp nền tảng cho mọi loại thiết bị viễn thông và sẽ được bàn luận trong
chương 5 ( HÌnh 4.8 , 4.9 và 4.10).
Hình 4.8. Sự thay đổi của biên độ

Hình 4.9 Sự thay đổi của tần số

26
Hình 4.10 Sự thay đổi pha

4.4 CÁC MIỀN THỜI GIAN VÀ TẦN SỐ


Một tín hiệu hình sin được đặc trưng bởi biên độ, tần số và pha của nó.
Như trình bày ở các hình phía trên, các tín hiệu hình sin được biểu diễn sử dụng
một trục tọa độ theo thời gian. Trục tọa độ thời gian thể hiện những thay đổi
trong tín hiệu biểu diễn qua biên độ của tín hiệu biến thiên theo thời gian. Pha và
tần số không phải được đo một cách chính xác trên trục tọa độ miền thời gian.
Đề thể hiện mối quan hệ giữa biên độ và tần số, chúng ta có thể sử dụng
trục tọa độ cực gọi là miền cực tần số. Hình 4.11 so sánh miền thời gian (biên độ
liên tục theo thời gian) và miền tần số (biên độ cực đại theo tần số).

Hình 4.11 Các miền thời gian và tần số

Hình 4.12 là ví dụ về cả miền cực thời gian và tần tố của 3 tính hiệu có
biên độ và tần số khác nhau. So sánh các mô hình bên trong mỗi cặp chúng ta
thấy loại thông tin của từng mô hình nào là thích hợp nhất cho truyền tín hiệu.
Một tín hiệu có tần số thập trong miền tần số tương ứng với một tín hiệu
có chu kỳ dài trong miền thời gian và ngược lại. Một tín hiệu mà thay đổi nhanh
trong miền thời gian tương ứng với các tần số cao trong miền tần số.

27
Hình 4.12 Các miền thời gian và tần số cho các kiểu tín hiệu khác nhau

4.5 CÁC TÍN HIỆU TỔNG HỢP


Từ trước tới nay chúng ta bàn luận chủ yếu về các tín hiệu tuần hoàn đơn
giản (các tín hiệu hình sin). Nhưng còn các tín hiệu tuần hoàn mà không phải có
dạng hình sin thì sao? Có nhiều dạng tín hiệu hữu dụng không thay đổi theo
đường cong trơn đơn giản từ biên độ cực tiểu và biên độ cực đại; chúng nhảy
bước, trượt, lắc lư hay đứt quãng. Nhưng cho dù bất kỳ tín hiệu không theo quay
tắc nào, nếu nó có chu kỳ tiếp sau chu kỳ thì tín hiệu đó vần là tuần hoàn và về
mặt logic phải được mô tả giống như những thuật ngữ được sử dụng đối với các
dạng sóng tín hiệu hình sin. Thực tế, nó có thể thấy rõ ràng rằng bất kỳ tín hiệu
tuần hoàn nào không kể đến độ phức tạp của nó cũng có thể phân tích thành một
tập các sóng tín hiệu hình, mỗi sóng tín hiệu được đo bằng một biên độ, tần số
và pha riêng.

28
Để phân tích một tín hiệu tổng hợp thành các thành phần của nó. Phân
tích của Fourier (được bàn luận trong phụ lục D) là cần thiết. Tuy nhiên, khái
niệm về phân tích tín hiệu có thể được xem xét dưới dạng một ví dụ giản đơn.
Hình 4.13 thể hiện một tín hiệu tuần toàn được phân tích thành 2 hình tín hiệu
hình sin. Tín hiệu hình sin thứ nhất (sơ đồ giữa) có tần số là 6 trong khi tín hiệu
hình sin thứ 2 có tần số bằng 0. Thêm 2 điểm này bằng điểm kết quả trong đồ thị
trên cùng. Chú ý rằng tín hiệu gốc giống như là một tín hiệu hình sin có trục thời
gian theo hướng trên xuống. Biên độ trung bình của tín hiệu này là bằng 0. Yếu
tố này xác định sự có vặt của mộ thành phần tần số bằng 0. Một thành phần
dòng điện một chiều. Thành phần dòng một chiều này chịu trách nhiệm dịch lên
trên 10 đơn vị của tín hiệu dạng hình sin.

Hình 4.13 Một tín hiệu với một thành phần dòng điện một chiều

Tương phản với đồ hình biểu diễn tín hiệu theo miền thời gian minh họa
tín hiệu tổ hợp dưới dạng một thực thế đơn giản. một đồ thị biểu diễn tín hiệu
theo miền tần số biểu diễn tín hiệu tổng hợp dưới dạng một chuỗi các tần số
thành phần. Thay vì biểu diễn sự tác động của từng thành phần lên các thành
phần khác, nó biểu diễn tín hiệu như là một tập các tần số độc lập.
Mặc dù đồ thị biểu diễn miền thời gian là hữu ích hơn để hiểu sự tác động
của hai tín hiệu lên nhau, các đường thanh dọc trong đồ thị thể hiện miền tần số
cho chúng ta một cái nhìn tổng quát hơn về sự liên hệ của các biên độ và tần số
trong các tín hiệu hình sin tổng hợp.
Hình 4.14 thể hiện một tín hiệu tổng hợp được phan tích thành 4 thành
phần. Tín hiệu gần với một tín hiệu số. Để có một tín hiệu số chính xác, chúng ta
29
cần một số lẻ vô hạn các tín hiệu điều hòa (f, 3f, 5f, 7f, 9f…), mỗi tín hiệu có
biên độ khac snhau. Các đồ thị biểu diễn miền tần số cũng được biểu diễn.

Hình 4.14. Dạng sóng tổng hợp

Băng tầng và phổ tần số


Có hai thuật ngữ được nhắc tới ở đây đó là: Phổ tần và băng tần. Phổ tần
số của một tín hiệu là một tập hợp mọi tần số thành phần nó chứa và được biểu
diễn qua đồ thị miền tần số. Băng tần của một tín hiệu là độ rộng của phổ tần số
(Xem hình 4.15). Hay nói cách khác, băng tần liên đới tới phạm vi của các thành
phần tần số, và phổ tần số liên đới tới các thành phần trong phạm vi đó. Để tính
toàn băng tần, người ta lấy hiệu của tần số cao và tần số thấp nhất trong phạm
vi.
Phổ tần số của một tín hiệu là tổ hợp của mọi tín hiệu hình sin tạo ra tín hiệu đó

Hình 4.15 Băng tần

Ví dụ 4.8

30
Nếu một tín hiệu tuần hoàn được phân tích thành 5 tín hiệu dạng hình sin
với các tần số 100, 300, 500, 700 và 900. Hãy cho biết băng tần là gì? Vẽ phổ
tần số giả sử rằng mọi thành phàn đều có một biên độ cực đại bằng 10 vôn.
Giải: Đặt fh là tần số cao nhất, fl là tần số thấp nhất, và B là băng tầng, khi
đó ta có
B=fh-fl=900-100=800 Hz
Phổ tần số chỉ có 5 thanh dọc, tại các điểm 100, 300, 500 và 700 ( hình 4.16)

Hình 4.16 Ví dụ 4.8

Ví dụ 4.9
Một tín hiệu có bằng tần bằng 20 Hz. Tần số cao nhất là 60 Hz. Hỏi tần số
thấp nhất là bao nhiêu? Vẽ phổ tần số của tín hiệu chứa tất cả các tần số cần thiết
có cùng một biên độ.
Giải: Đặt fh là tần số cao nhất, fl là tần số thấp nhất, và B là băng tần của
tín hiệu. khi đó ta có
B=fh-fl=> 20=60-fl => fl=60-20 = 40 Hz
Phổ tần số chứa mọi tần số cần thiết. Chúng ta thể hiện bằng một chuỗi các
thanh dọc (hình 4.17)

Hình 4.17 Ví dụ 4.9

4.6 CÁC TÍN HIỆU SỐ - DIGITAL SIGNALS


Cũng giống như được biểu diễn bởi một tín hiệu tương tự, dữ liệu cũng có
thể được biểu diễn bằng tín hiệu số. Ví dụ, 1 có thể được mã hóa thành điện áp
dương và 0 là điện áp bằng 0 (Hình 4.18).

31
Hình 4.18 Một tín hiệu số

Bit interval và bit Rate (khoảng thời gian của bit và tốc độ bit)
Phần lớn các tín hiệu số là không tuần hoàn, do đó chu kỳ hay tàn số
không còn hợp lý, có 2 thuật ngữ mới, đó là bit interal (khoảng bit) và bit rate
(tốc độ bit) thay cho tần số được sử dụng để mô tả các tín hiệu số. Khoảng bit là
lượng thời gian cần để gửi một bit đơn. Tốc độ bit là số các khoảng bit mỗi giây.
Điều này có nghĩa là tốc độ bít là số bít được chuyển đi trong mỗi giây, thường
được biểu diễn bằng bit trên giây bps (hình 5.19)

Hình 4.19 Tốc độ bit và khoảng thời gian của bit)

Ví dụ 4.10
Một tín hiệu số có tốc độ bít là 2000 bps. Hãy tính khoảng thời gian của
mỗi bít (bit interval).
Giải: Khoảng bit nghịch đảo với tốc độ bit.
Bit interval= 1/(bit rate)=1/2000=0.000500 giây = 500 x 10^(-6) giây=500
Micro giây

32
Ví dụ 4.11
Một tín hiệu có một khoảng bit bằng 40 micro giây. Hãy tính tốc độ bit
Giải: Tốc độ bit là nghịch đảo của khoảng bit do đó
Tốc độ bit=1/(40x 10^(-6)= 25.000 bps=25 x 10^3 bps=25 Kpbs

Phân tích tín hiệu số


Một tín hiệu số có thể được phân tích thành một số vô hạn các tín hiệu
hình sin đơn giản được gọi là tín hiệu điều hòa, mỗi tín hiệu đều có biên độ, tần
số và pha riêng (xem hình 4.20)/ Điều này có nghĩa là khi chúng ta guiử một tín
hiệu số trên một phương tiện truyền dẫn, tức là chúng ta gửi một số vô hạn các
tín hiệu đơn/ Để nhận chính xác bản sao của tín hiệu số đó, tất cả các thành phần
tần só phải được truyền đi một cách đầy đủ thông qua phương tiện truyền dẫn.
Nếu có một vài thành phần không qua được phương tiện truyền dẫn, sự sai lệch
của tín hiệu tại bên nhận sẽ được trả về. Trong thực tế không tồn tại mọi phương
tiện truyền dẫn (ví dụ cáp truyền dẫn) có khả năng truyền tải toàn bộ phạm vi
các tần số, luôn luôn có sự sai lệnh xảy ra do nhiều nguyên nhân.

Hình 5.20 Các khoảng điều hòa của một tín hiệu số

Mặc dù phổ tần số của một tín hiệu số chứa một số vô hạn các tần số với
các biên độ khác nhau, nếu chúng ta chỉ gửi những thành phần mà biên độ của
nó là có nghĩa (trên mức độ có thể chấp nhận được), chúng ta vẫn có thể tạo lại
tín hiệu số với đọ chính xác đáng tin cậy tại bên nhận ( giảm thiểu méo tín hiệu).
Chúng ta gọi phần này của phổ tần vô hạn là phổ tần có nghĩa, và băng tần của
nó là băng tần có ý nghĩa. (xem hình 4.21).

33
Hình 4.21 Các phổ tần có ý nghĩa

34
CHƯƠNG 5
MÃ HÓA VÀ ĐIỀU CHẾ
Như chúng ta đã bàn luận ở chương 4, thông tin cần phải được biến đổi
thành các tín hiệu trước khi có thể được truyền qua phương tiện truyền dẫn
Chúng ta phải biến đổi dữ liệu thành tín hiệu để gửi từ nơi này sang nơi
khác
Cách thông tin được biến đổi phụ thuộc vào định dạng nguyên gốc của nó
và định dạng được sử dụng bởi phần cứng truyền thông.
Một tín hiệu đơn giản bản thân nó không mang theo thông tin gì ngoại trừ
là vận chuyển các từ theo một đường thẳng tắp. Tín hiệu phải được xử lý theo đó
nó có thể chứ những thay đổi có thể được diện bởi cả bên nhận lẫn bên gửi. Đầu
tiên thông tin phải được dịch thành các mẫu dạng 0 và 1, ví dụ sử dụng bảng mã
chuẩn của Mỹ về trao đổi thông tin ASCII được trình bày ở bảng trong phụ lục
A.
Dữ liệu được lưu trữ trong máy tính ở dưới dạng 0 và 1. Để được chuyển
đi từ nơi này đến nơi khác (bên trong hoặc bên ngoài máy tính), dữ liệu thường
được chuyển đổi thành các tín hiệu số. Việc chuyển đổi này được gọi là chuyển
đối số-sang-số hay mã hóa dữ liệu số thành một tín hiệu số.
Đôi khi, chúng ta cần chuyển đổi một tín hiệu tương tự (ví dụ âm thanh
trong một cuộc nói chuyện điện thoại) thành một tín hiệu số do nhiều lý do khác
nhau, ví dụ để giảm ảnh hướng của nhiễu tín hiệu. Việc chuyển đổi này được gọi
là chuyển đổi tương tự - sang số hay điều chế một tín hiệu số.
Thường một tín hiệu tương tự được gửi qua các khoảng cách xa sử dụng
các phương tiện xử lý tín hiệu tương tự. Ví dụ âm thanh hoặc nhạc từ một trạm
phát thanh, thường là xử lý tín hiệu tương tự được truyền qua không khí. Tuy
nhiên, tần số của âm thanh không thích hợp cho kiểu truyền phát này: Tín hiệu
cần được truyền đi bằng tín hiệu tần số cao. Việc sử dụng tín hiệu cao tần trong
truyền phát như vậy được gọi là chuyển đổi tín hiệu tương tự -sang- tương tự
hay điều chế tín hiệu tương tự.
Hình 5.1 thể hiện 4 phương pháp chuyển đổi khác nhau

5.1 CHUYỂN ĐỔI SỐ SANG SỐ


35
Mã hóa số sang số hay chuyển đổi là cách biểu diễn thông tin số hóa bằng
một tínhiệu số. Ví dụ, khi chúng ta truyền dữ liệu từ một máy tính sang một máy
in, dữ liệu gốc cũng như dữ liệu gốc và dữ liệu được truyền phát đều là số.
Trong kiểu mã hóa này, các số nhị phân 1 và 0 được tạo ra bởi một máy tính
được dịch thành một chuỗi các xung điện áp được truyền qua đường dẫn điện.
Hình 5.2 thể hiện mối quan hệ giữa thông tin số và phần cứng mã hóa số-sang-
số và tín hiệu kết quả.

Hình 5.2 Mã hóa tín hiệu số - sang – số

Thông qua nhiều cơ chế mã hóa tín hiệu số sang số, chúng ta chỉ bàn luận thêm
về những cơ chế hữu dụng cho truyền số liệu. Do đó chúng ta bàn luận ba kỹ
thuật mã hóa chính là đơn cực, cực và lưỡng cực. (hình 5.3)

Mã hóa đơn cực là đơn giản, chỉ cần sử dụng một kỹ thuật. Mã hóa cực
gồm 3 mục nhỏ. NRZ, RZ và hai pha, 2 trong số 3 kỹ thuật này có nhiều biến
thể khác nhau. Trong kỹ thuật mã hóa thứ 3 - mã hóa lưỡng cực có ba biến thể:
AML, B&ZS và HDB3.

Hình 5.3 Các kiểu mã hóa số sang số

Mã hóa đơn cực (Unipolar encoding)


Mã hóa đơn cực là cách đơn giản và cơ bản nhất. Mặc dù phương pháp
này đã lỗi thời, nhưng tính đơn giản của nó cung cấp một cách hiểu dễ dàng để
các khái niệm được phát triển bằng nhiều hệ thống mã hóa phức tạp hơn và cho
phép chúng ta có thể kiểm tra các loại vấn đề mà bất kỳ hệ thống truyền phát số
nào cũng cần phải xử lý được.
Các hệ thống truyền phát số hoạt động bằng cách gửi các xung điện áp
theo phương tiện truyền dẫn, thường là một dây điện hoặc giây cáp. Trong phần
lớn các kiểu mã hóa, một mức điện áp đóng vai trò là 0 và một mức điện áp khác

36
đóng vai trò là 1. Tính phân cực của một xung liên quan đến việc xem nó là cực
âm hay cực dương. Kiểu mã hóa có tên gọi là mã hóa đơn cực là vì nó chỉ sử
dụng một cực tính. Cực tính này được gán cho một trong hai trạng tháy nhị phân
thông thường là 1. Trạng thái khác thường là 0 được biểu diễn bằng điện áp 0.

Mã hóa đơn cực chỉ sử dụng một mức giá trị

Hình 5.4 thể hiện ý tưởng của mã hóa đơn cực. Trong ví dụ này, 1 được
mã hóa bằng giá trị điện áp dương và các số 0 được mã hóa thành giá trị điện áp
0. Hiển nhiên ta thấy mã hóa đơn cực là không mất nhiều chi phí thực hiện

Hình 5.4 Mã hóa đơn cực

Tuy nhiên, mã hóa đơn cực có ít nhất 2 vấn đề khiến nó khó áp dụng được
đó là: Thành phần cường độ dòng điện một chiều và đồng bộ hóa.

Thành phần dòng một chiều:


Biên độ trung bình của một tín hiệu được mã hóa theo phương pháp đơn
cực là khác 0. Điều này tạo ra cái được gọi là thành phần dòng điện một chiều
( một thành phần có tần số bằng 0). Khi tín hiệu chứa một thành phần dòng một
chiều, nó không thể đi qua phương tiện truyền dẫn mà không xử lý được các
thành phần nguồn một chiều.

Đồng bộ hóa
Khi một tín hiệu là bất biến, bên nhận không thể xác định điểm bắt đầu và
kết thúc của mỗi bit. Do đó gây ra vấn đề về đồng bộ hóa trong mã hóa đơn cực
có thể xảy ra bất cứ khi nào dòng dữ liệu bao gồm một chuỗi dài không ngắt các
bít 0 và 1. Lược đồ mã hóa số sử dụng những thay đổi của mức điện áp để xác
định những thay đổi trong kiểu bit. Sự thay đổi của một tín hiệu cũng xác định
một bit vừa kết thúc và một bit mới bắt đầu. Tuy nhiên trong mã hóa tín hiệu
đơn cực, một chuỗi của một loại bit bao gồm 7 bit 1 xảy ra bằng với mức điện
áp không đổi khi đó một điện áp dương liên tục kéo dài 7 lần cho một bít 1. Do
đó, tại bất kỳ thời điểm nào không có sự thay đổi điện áp nào để xác định điểm
bắt đầu của bit tiếp theo trong chuỗi bit, khi đó bên nhận phải phụ thuộc vào một
thiết bị đếm giờ. Giả sử chúng ta cần có tốc độ bit là 1000 bps, nều bên nhận

37
phát hiện thấy một điện áp dương kéo dài quá 0.005 giây, nó đọc một bit 1 mỗi
trong từng 0.001 giây hay 5 bit/
Không may thay, thiếu đồng bộ giữa các đồng hồ giữa bên nhận và bên
gửi làm sai lệch thời gian của tín hiệu, ví dụ, năm bit 1 có thể được lấy trong
0.0006 giây điều đó dẫn đến một bit bổ sung được đọc bởi bên nhận. Bit bổ sung
đó trong dòng dữ liệu là nguyên nhân gây lỗi sau khi nó được giải mã. Một giải
pháp được phát triển để kiểm soát đồng bộ hóa truyền phát theo phương pháp
đơn cực là sử dụng một đường độc lập, song song chứa một xung đồng hồ và
cho phép bên nhận đồng bộ lại bộ đếm giờ của nó đối với tín hiệu đó. Nhưng
gấp đôi số đường sử dụng cho truyền dẫn cũng dẫn đến tăng chi phí và do đó
không mang lại hiệu quả kinh tế.

Mã hóa cực (Polar encoding)


Mã hóa cực sử dụng hai mức điện áp, một điện áp dương và một điện áp
ấm. Bằng cách sử dụng các 2 mức điện áp này, trong phần lớn các phương pháp
mã hóa cực mức điện áp trung bình trên đường truyền dẫn bị suy giảm và do đó
vấn đề về thành phần dòng điện một chiều của phương pháp đơn cực lại là vấn
đề. Trong kỹ thuật mã hóa Manchester và mã hóa phi phân manchester mỗi bit
chứa cả hai điện áp âm và dương, vì vậy thành phần một chiều sẽ được loại trừ.
Mã hóa cực sử dụng hai mức điện áp (âm và dương) của kỹ thuật mã hóa
đơn cực.
Do tồn tại nhiều biến thể của mã hóa cực, chúng ta chỉ nghiên cứu 3 kỹ
thuật mã hóa phố biến nhất là NRZ (Non Return toZero), RZ (Return to Zero) và
lưỡng cực. Kỹ thuật mã hóa NRZ bao gồm hai phương pháp NRZ-L
(NoneReturrn to Zero, Level), và NRZ-I (NoneReturn to Zero, Invert). Kỹ thuật
mã hóa hai pha cũng bao gồm 2 phương pháp. Đầu tiên, phương pháp
Manchester là phương pháp được sử dụng bởi các mạng LAN Ethernet. Phương
pháp thứ hai là phương pháp Manchester phân lập là phương pháp được sử dụng
trong các mạng LAN Token Ring (hình 5.5).

Kỹ thuật mã hóa NRZ


Trong kỹ thuật mã hóa NRZ, mức điện áp tín hiệu luôn ở trạng thái
dương hoặc âm. Có 2 phương pháp phổ biến nhất của phương pháp truyền phát
NRZ được bàn dưới đây.

Hình 5.5 Các kiểu mã hóa cực

38
NRZ-L. Trong kỹ thuật NRZ-L, mức điện áp tín hiệu phụ thuộc vào kiểu
bit no biểu diễn. Một điện áp dương thường có nghĩa bit đó là 0 và điện áp âm
có nghĩa bit đó là 1 hoặc ngược lại; do đó mức độ điện áp của tín hiệu phụ thuộc
vào trạng thái bit.
Trong phương pháp NRZ, mức độ điện áp của tín hiệu phụ thuộc vào
trạng thái bit.
Một vấn đề nữa có thể xảy ra là khi có một dòng dài các bit 0 hoặc 1 trong
dữ liệu. Bên nhận nhận một điện áp liên tục và cần xác định xem có bao nhiêu
bit được gửi phụ thuộc vào đồng hồ của nó, và đồng hồ này có thể được đồng bộ
hoặc không được đồng bộ với đồng hồ bên gửi.
Kỹ thuật mã hóa NRZ-I. Trong kỹ thuật này, một mức điện áp ngược biểu
diễn một bit 1. Nó chính là truyền dẫn giữa một điện áp dương và điện áp dương
chứ không phải bản thân điện áp để biểu diễn một bit 1.Một bit 0 được biểu diễn
là không có mức điện áp nào thay đổi. NRZ-I tốt hơn so với NRZ-L do đồng bộ
hóa được cung cấp bởi sự thay đổi tín hiệu mỗi lần khi một bit 1 xuất hiện. Sự
tồn tại của các bit 1 trong dòng dữ liệu cho phép bên nhận đồng bộ lại bộ đếm
thời gian của nó để có thể nhận được chính xác những gì bên gửi truyền đến.
Các bit 0 vẫn có thể gây ra vấn đề, nhưng bởi vì các bit 0 ít có khả năng xảy ra
nên chúng ít ra vấn đề.
Trong phương pháp NRZ-I tín hiệu được đảo ngược nếu 1 bít một xuất
hiện
Hình 5.6 thể hiện các biểu diễn của phương pháp NRZ-L và NRRZ-I có
cùng dãy bit. Trong dãy bit NRZ-L, các điện áp dương và âm có ý nghĩa cụ thể
là điện áp dương cho bit 0 và điện áp âm cho bit 1. Trong dãy bit NRZ-I, các
mức điện áp không có ý nghĩa, thay vì đó bên nhận xem những thay đổi từ một
mức điện áp sang mức điện áp khác như là nền tảng của nó đối với việc đoán
nhận các bit 1.

Hình 5.6 Kỹ thuật mã hóa NRZ-L và NRZ-I

39
Kỹ thuật RZ (Return Zero)
Như chúng ta đã bit, tại bất kỳ thời điểm nào, dữ liệu nguyên bản chứa
các chuỗi liên tiếp các bit 1 hoặc 0, bên nhận có thể để mất vị trí của bít này.
Như chúng ta đã đề cấp tới kỹ thuật mã hóa đơn cực, có một cách để đảm bảo
việc đồng bộ là gửi một tín hiệu thời gian độc lập trên một kênh riêng biệt, tuy
nhiên giải pháp này vừa đắt tiền và có thiên hướng gấy lỗi. Một giải pháp tốt
hơn là làm cách nào đó để có thể bao gồm sự đồng bộ hóa trong tín hiệu được
mã hóa, giải pháp giống như với phương pháp NRZ-I nhưng có một khả năng về
xử lý các chuỗi bít 0 cũng như các chuỗi bit 1.
Để đảm bảo sự đồng bộ hóa, cần phải là một sự thay đổi của tín hiệu đối
với mỗi bit. Bên nhận có thể sử dụng những thay đổi này để xây dựng, cập nhật
và đồng bộ đồng hồ của nó. Như chúng ta đã xem ở trên, NRZ-I hoàn thành việc
này đối với các dãy các bit 1. Nhưng do thay đối với mọi bit, chúng ta cần hơn 2
giá trị. Một giải pháp là sử dụng kỹ thuật mã hóa RZ, kỹ thuật này sử dụng 3 giá
trị điện áp là dương, âm và 0. Trong kỹ thuật mã hóa RZ, tín hiệu thay đổi không
chỉ giữa các bit mà còn suốt quá trình của từng bit. Giống như phương pháp
NRZ-L một điện áp dương có nghĩa là 1 và một điện áp âm có nghĩa là 0. Nhưng
không giống như NRZ-L, khoảng giữa chừng khoảng thời gian của mỗi bit tín
hiệu trả về giá trị 0. Một bit 1 thực tế được biểu diễn bởi sự thay đổi điện áp từ
điện áp dương về điện áp 0 và bit 0 được bit 0 được biểu diễn bởi sự thay đổi
điện áp từ điện áp âm về điện áp 0 thay vì chỉ sử dụng mức điện áp dương và âm
đơn lẻ. Hình 5.7 minh họa khái niệm này.
Nhược điểm chính của kỹ thuật mã hóa RZ Là nó đòi hỏi càn phải có hai
sự thay đổi tín hiệu để mã hóa 1 bit và do đó sẽ chiếm dụng nhiều băng tần hơn.
Tuy nhiên, có ba lựa chọn khác nhau mà chúng ta có thể kiểm tra.
Một tín hiệu số được mã hóa tốt phải bao gồm cả phần dự phòng cho
đồng bộ hóa tín hiệu.

Hình 5.7 Mã hóa RZ

40
Kỹ thuật mã hóa hai pha (Biphase encoding)
Có thể giải pháp tốt nhất hiện có để giải quyết vấn đề về đồng bộ hóa là
kỹ thuật mã hóa hai pha. Theo kỹ thuật này, tín hiệu thay đổi ở khoảng giữa thời
điểm của các bit nhưng không trở về mức điện áp 0. Thay vì đó, nó tiếp tục giữ
ở cực đối diện. Như trong kỹ thuật RZ, các khoảng chuyển dịch giữa cho phép
sự đồng bộ hóa.
Như đã nói ở trên, có hai kiểu mã hóa hai pha đang được sử dụng trong
các mạng hiện nay đó là Manchester và Manchester phân lập
Mã hóa hai pha được thực hiện theo 2 cách khác nhau: Manchester và
Manchester phân lập.

Mã hóa Manchester: Cách mã hóa này sử dụng điện áp ngược ở điểm giữa
khoảng thời gian của bit cho cả đồng bộ hóa lẫn biểu diễn bit. Một quá trình
dịch chuyển từ điện áp âm sang điện áp dương biểu diễn đại lượng nhị phân 1 và
sự dịch chuyển từ điện áp dương sang điện áp âm biểu diễn đại lượng nhị phân
0. Bằng cách sử dụng một chuyển dịch đơn như vậy cho cả 2 mục đích. Cách mã
hóa Manchester đạt được cùng mức độ đồng bộ như RZ xong chỉ với hai mức độ
biên độ
Trong cách mã hóa Manchester, sự dịch chuyển ở điểm giữa khoảng thời
gian của bit được sử dụng cho cả đồng bộ hóa lẫn biểu diễn bit.

Mã hóa Manchester phân lập: Trong mã hóa Manchester phân lập, mức điện
áp ngược ở điểm giữa khoảng thời gian của bit được sử dụng cho đồng bộ hóa,
nhưng lấy sự hiện diện hoặc vắng mặt của một dịch chuyển bổ sung tại thời
điểm bắt đầu của khoảng thời gian bit được sử dụng để xác định bit. Một dịch
chuyển có nghĩa là bit nhị phân 0 và không dịch chuyển có nghĩa là bit nhị phân
1. Phương pháp Manchester phân lập yêu cần cần có 2 sự thay đổi của tín hiệu
để biểu diễn bit nhị phân 0 nhưng chỉ cần một sự thay đổi tín hiệu để biểu diễn
bit nhị phân 1.
Trong phương pháp mã hóa Manchester phân lập, sự dịch chuyển ở điểm
giữa của khoảng thời gian bit chỉ được sử dụng cho quá trình đồng bộ tín hiệu.
Việc biểu diễn bit được thể hiện bằng điện áp đảo ngược hoặc không đảo ngược
tại thời điểm bắt đầu của khoảng thời gian bit.
Hình 5.8 thể hiện các tín hiệu Manchester và Manchester phân lập đối với
cũng một mẫu bit.

Mã hóa lưỡng cực (Bipolar encoding)


Mã hóa lưỡng cực giống như RZ, sử dụng 3 mức độ điện áp khác nhau
bao gồm dương, âm và 0. Tuy nhiên có điểm khác so với RZ, mức điện áp 0
trong mã hóa lưỡng cực được sử dụng để biểu diễn bit nhị phân 0.

Các bit 1 được biểu diễn bằng các điện áp dương hoặc điện áp âm. Nếu bit đầu
tiên được biểu diễn bằng biên độ dương, bit 1 thứ 2 sẽ được biểu diễn bằng biên
41
độ âm, bit 1 thứ 3 được biểu diễn bởi điện áp dương … vân vân. Sự luân phiên
này xả ra thậm chí khi các bit một là không liên tục.
Hình 5.8 Mã hóa Manchester và Manchester phân lập

Hình 5.9 Các kiểu mã hóa lưỡng cực

Phương pháp mã hóa lưỡng cực đánh dấu luôn phiên đảo ngược AMI
(Alternate Mark Inversion)
Phương pháp mã hóa lưỡng cực AMI là một kiểu đơn giản nhất của mã
hóa lưỡng cực. Trong tên của phương pháp này cs từ đánh dấu – Mark xuất phát
từ kỹ thuật điện báo và ý nghĩa của bit 1. Vì vậy AMI có nghĩa là đảo bit 1 luân
42
phiên. Ở vị trí số 0, các điện áp 0 biểu diễn bit nhị phân 0. Các bit nhị phân 1
được biểu diễn bằng các điện áp âm và dương luân phiên nhau. Hình 5.20 minh
họa phương pháp này.
Hình 5.10 Phương pháp mã hóa AMI

Một biến thể của phương pháp AMI là giả tam phân (Psuedoternary),
trong đó bit nhị phân 0 nằm giữa các mức điện áp dương và âm.
Bằng cách đảo ngược từng bit 1 khi xuất hiện, phương pháp AMI hoàn
thành 2 việc: đầu tiên, thành phần một chiều, thứ hai, một chuỗi dài các bit 1 vẫn
chưa đồng bộ. Không có cơ chế nào để đảm bảo đồng bộ hóa một chuỗi dài các
bit 0.
Có hai biến thể của phương pháp mã hóa AMI được phát triển để giải
quyết vấn đề về đồng bộ hóa chuỗi liên tiếp các bit 0, và đặc biệt cho việc truyền
phát khoảng cách xa. Đầu tiên được sử dụng ở Bắc Mỹ, được gọi là phương
pháp thế 8 bit 0 lưỡng cực N8ZS (bipolar 8-zero substitution). Phương pháp thứ
2 được sử dụng ở Nhật Bản và Châu Âu được gọi là phương pháp mã hóa lưỡng
cực mật độ cao 3- HDB3 (High-Density Bipolar 3), cả 2 phương pháp trên đều
dựa trên phương pháp mã hóa lưỡng cực AMI nhưng sửa đổi mẫu nguồn trong
trường hợp đa luân phiên các bit 0.

Phương pháp B8ZS


B8ZS là phương pháp được thông qua ở Bắc Mỹ để cung cấp đồng bộ hóa
cho các chuỗi dài các bit 0. Trong phần lớn các tình huống, các chức năng của
B8ZS giống hệt với AMI. Phương pháp AMI thay đổi các cực đối với mọi bit 1
khi chúng xuất hiện. Những thay đổi này cung cấp đòng bộ hóa cần thiết cho
bên nhận. Nhưng do tín hiệu không thay đổi trong suốt quá trình truyền chuỗi bit
0 vì vậy vấn đề đồng bộ hóa thường không được đảm bảo.
Sự khác nhau cơ bản giữa B8ZS và AMI xảy ra khi bất kỳ 8 hoặc nhiều
hơn các bit 0 liên tục xuất hiện trong dòng dữ lệu. Giải pháp được cung cấp bởi
phương pháp B8ZS là áp các thay đổi tín hiệu nhân tạo được gọi là các vi phạm
bên trong chuỗi bit 0. Bất kẻ khi nào 8 bit 0 xảy ra liên tiếp, B8ZS sẽ tạo ra các
thay đổi trong mẫu dựa trên chiều phân cực của bit một trước đó ( bit một xảy
tra ngay trước các bit 0). Xem hình 5.11

43
Nếu bit 1 trước đó là điện áp dương, 8 bit 0 sẽ được mã hóa là 0.0.0.điện
áp dương, điện áp âm.0,điện áp âm,điện áp dương. Chúng ta cần nhớ rằng bên
nhận tìm kiếm các cực trị luân phiên để xác định các bit 1. Khi nó tìm thấy 2
điện tích dương liên tục xung quanh 3 bit 0, nó xác nhận mẫu như là một sự vi
phạm được tạo ra một cách có tính toán và không phải là một mẫu. Sau đó nó
tìm kiếm cặp vi phạm thứ hai theo mong đợi. Khi nó tìm thấy chúng, bên nhận
dịch toàn bộ 8 bit đó thành 0 và đảo ngược trở lại chế độ mã hóa lưỡng cực
AMI.
Nếu chiều phân cực của bit một trước đó là âm, mẫu của các vi phạm
cũng tương tự nhưng với các chiều phân cực đảo ngược. Cả mẫu âm và dương
được thể hiện trong hình 5.11

Hình 5.11. Mã hóa B8ZS

Trong B8ZS nếu vùng 8 bit 0 kế tiếp nhau, chúng ta thay theo một trong 2
cách dựa trên chiều phân cực của bit 1 trước đó.

Phương pháp mã hóa lưỡng cực HDB3


Vấn đề đồng bộ hóa các chuỗi liên tiếp các bit 0 được giải quyết một cách
khác nhau ở Châu Âu và Nhật Bản hơn là ở Hoa Kỳ. Quy ước chung này được
gọi là HDB3 tạo các thay đổi thành các mẫu AMI mỗi khi có 4 bit 0 liên tục
được tìm thấy thay vì đợi 8 bit 0 như trong B8ZS đang được sử dụng ở Bắc Mỹ.
Mặc dù tên của phương pháp này là HDB3 nhưng mẫu thay đổi bất cứ khi nào
có 4 bit 0 xảy ra liên tục. ( Hình 5.12).
Trong HDB3, nếu có 4 bit 0 liên tiếp, chúng ta thay đổi mẫu bằng 1 trong
2 cách dựa trên chiều phân cực của bit 1 trước đó và số các bit 1 ở lần thay thế
cuối cùng.

44
Hình 5.12 Mã hóa HDB3

Như ở trong B8ZS, mẫu các vi phạm trong HDB3 dựa trên chiều phân
cực của bit 1 trước đó. Nhưng khác với B8ZS ở chỗ HDB3 cũng tìm kiếm số các
bit 1 xảy ra trong dòng bit từ lần thay thế cuối. Tại bất kỳ thời điểm nào số các
bit 1 từ lần thay thế cuối là lẻ. B8ZS đưa một vi phạm vào vị trí thứ tư của dãy
liên tiếp các bit 0. Nếu chiều phân cực của bit trước là dương, vi phạm sẽ là
dương.
Bất kỳ khi nào số các bit 1 từ lần thay thế cuối là lẻ. B8ZS đưa một vi
phậm vào các vị trí của cả bit đầu tiên và bit thứ 4 trong dãy bit 0. Nếu chiều
phân cực của bit trước đó là dương, cả 2 bit vi phạm này đều là âm. Nếu chiều
phân cực của bit trước đó là âm, cả hai bit vi phạm là dương. Tất cả 4 mẫu được
thể hiện trong hình 5.12.
Như chúng ta đã thấy, điểm chính ở đây là vi phạm mẫu chuẩn bằng 2
cách mà một máy có thể xác nhận một cách có tính toán và để sử dụng các vi
phạm đó để đồng bộ hóa hệ thống.

Ví dụ 5.1
Sử dụng phương pháp B8ZS mã hóa chuỗi bit 10000000000100. Giả sử
chiều phân cực của bit đầu tin 1 là điện áp dương.

Hình 5.13 Bài giải ví dụ 5.13

45
Ví dụ 5.2
Sử dụng HDB3 mã hóa chuỗi bit 10000000000100. Giả sử rằng số các bit
1 là lẻ và bit 1 đầu tiên là điện áp dương.
Bài giải: Xem hình 5.14

5.2 CHUYỂN ĐỔI TƯƠNG TỰ SANG SỐ


Giả sử chúng ta cần số hóa một tín hiệu tương tự. Ví dụ, để gửi giọng nói
của con người qua một khoảng cách dài, chúng ta cần số hóa nó ví các tín hiệu
số là ít khả năng gây nhiễu. Việc làm này được gọi là chuyển đổi từ tương tự
sang số hay số hóa một tín hiệu tương tự. Việc này đòi hỏi phải giảm thiểu tiềm
tàng về số vô hạn các giá trị trong một thông điệp tương tự vì vậy chúng co thể
được biểu diễn bằng một dòng các bit số với số lượng tối thiểu thông tin bị mất
mát. Có nhiều phương pháp cho chuyển đối tương tự sang số sẽ được bàn luận
trong các phần tiếp sau trong chương này. Ví dụ 5.15 thể hiện bộ chuyển đổi
tương tự sang số được gọi là codec (coder-decoder).
Hình 5.15 Chuyển đổi tương tự sang số.

Trong chuyển đổi tương tự sang số, chúng ta biểu diễn thông tin được
chứa trong một dạng sóng tín hiệu liên tục bằng dãy các xung số. (1 hoặc 0).
Chuyển đổi tương tự sang số có thể sử dụng cho bất kỳ tín hiệu số nào
được phần luận ở phần 5. Cấu trúc của tín hiệu giao vận là không thành vấn đề.
Thay ví đó, vấn đề là làm sao có thể dịch thông tin từ dạng số vô hạn các giá trị
thành một số hữu hạn rời rạc các giá trị mà không ảnh hưởng đến chất lượng.

46
Phương pháp điều chế xung biên độ PAM (Pulse Amplitude Modulation)
Bước đầu tiên của chuyển đổi tương tự sang số được gọi là PAM. Kỹ thuật này
lấy đầu vào là một tín hiệu tương tự, lấy mẫu not và tạo ra một chuỗi các xung
dựa trên kết quả lấy mẫu tín hiệu. Thuật ngữ lấy mẫu nghĩa là định lượng biên
đố của tín hiệu tại các khoảng thời gian bằng nhau.
Phương pháp lấy mẫu dược sử dụng trong PAM hữu dụng hơn so vơi các
lĩnh vực công nghệ khác tập trung trong truyền số liệu. Tuy nhiên, PAM là nền
tảng của một phương pháp chuyển đổi quan tương tự sang số quan trọng được
gọi là điều chế xung mã PCM (Pulse Code Podulation).
Trong PAM, tín hiệu gốc được lấy mẫu tại các khoảng thời gian bằng
nhau được thể hiện trong hình 5.16. PAM sử dụng một kỹ thuật được gọi là lấy
và giữ mẫu. Tại một thời điểm cho trước, mức độ tín hiệu được đọc, sau đó được
giữ trong thời gian ngắn. Giá trị lấy mẫu xảy ra một cách tức thời ở dạng sóng
thực tế, nhưng được tổng hợp qua một thời điểm khá nhỏ những có thể định
lượng được trong kết quả của PAM.

Hình 5.16 PAM

Lý do PAM không hữu dụng đối với truyền số liệu ở cho mặc dù nó dịch
dạng sóng gốc thành chuỗi các xung nhưng những xung này là tĩnh với bất kỳ
biên độ nào. Để chuyển chúng thành số. chúng ta cần phải sửa đổi chúng bằng
cách sử dụng điều chế xung mã PCM.
Điều chế xung biên độ PAM có một vài ứng dụng, nhưng nó không được
sử dụng trong truyền số liệu. Tuy nhiên nó là bước đầu tiên trong phương pháp
chuyển đổi khác khả phổ biến được gọi là điều chế xung mã PCM.

Điều chế xung mã PCM


PCM sửa đổi các xung được tạo ra bởi PAM để tạo ra một tín hiệu số
hoàn chỉnh. Để làm được như vậy, đầu tiên PCM lượng tử hóa các xung PAM.
Lượng tử hóa là phương pháp gán các giá trị nguyên trong phạm vi cụ thể đối
với các khoảng được lấy mẫu. Kết quả của lượng tử hóa được biểu diễn ở hình
5.17

47
Hình 5.17. Tín hiệu PAM được lượng tự hóa.

Hình 5.18 thể hiện phương pháp đơn giản của quá trình gán dấu và các giá
trị cường độ đối với các mẫu đã được lượng tử hóa. Mỗi giá trị được dịch thành
dãy 7 bit nhị phân tương ứng. Bit thứ 8 xác định dấu.

Hình 5.18 Lượng tự hóa sử dụng dấu và cường độ mẫu tín hiệu

Các số nhị phân sau đó được biến đổi thành một tín hiệu số sử dụng một
trong các kỹ thuật mã hóa số sang sống. Hình 5.19 thể hiển kết quả của điều chế
xung mã của tín hiệu góc được mã hóa lần cuối cùng thành một tín hiệu đơn
cực. Chỉ 3 giá trị lấy mẫu đầu tiene được thể hiện.
PCM thực sự được tạo thành bởi 4 quá trình riêng biệt là PAM, lượng tử
hóa, mã hóa nhị phân và mã hóa số sang số. HÌnh 5.20 thể hiện toàn bộ quá trình
dưới dạng đồ thị. PCM là phương pháp lấy mẫu được sử dụng để số hóa giọng
nói trong truyền phát T-line được sử dụng trong hệ thống viễn thông ở Bắc Mỹ.

Tỷ lệ lấy mẫu (Sampling rate)


Như các hình đã thể hiện trước đây, độ chính xác của bất kỳ quá trình tái
tạo số nào của một tín hiệu tương tự phụ thuộc vào số các mẫu được lấy. Sử
dụng PAM và PCM chúng ta có thể tái tạo lại dạng song một cách chính xác
bằng việc lấy các mẫu vô hạn hoặc chúng ta có thể tái tạo lại bằng việc tổng hợp
hóa hướng thay đổi của nó qua 3 mẫu. Hiển nhiên, chúng ta ưa việc tìm một số ở
đâu đó giữa hai cực trị. Vì thế câu hỏi là chúng ta cần lấy bao nhiêu mẫu là đủ?
48
Hình 5.19 PCM

Hình 5.20 Từ tín hiệu tương tự sang mã số PCM

Thực tế, nó yêu cầu đặc biệt chút thông tin để thiết bị nhận tái tạo lại cấu
trúc một tín hiệu tương tự. Theo nguyên lý Nyquist, để đảm bảo quá trình tái tạo
tín hiệu chính xác của một tín hiệu tương tự gốc sử dụng PAM, tốc độ lấy mẫu ít
nhất phải gấp 2 lần tần số cao nhất của tín hiệu gốc. Ví vậy nếu chúng ta muốn
lấy mẫu âm thoại thì cần lấy mẫu ở tốc độ 4000 Hz, chúng ta cần một tốc độ
khoảng 8000 mẫu mỗi giây.
Theo nguyên lý Nyquist, tốc độ lấy mẫu ít nhất phải gấp 2 lần tần số cao
nhất của tín hiệu gốc.
Một tốc độ lấy mẫu gấp đôi tần số của tín hiệu có tần số x Hz nghĩa là tín
hiệu đó phải được lấy mẫu trong khoảng ½ giây. Như ở ví dụ trên về lấy mẫu âm
thoại, chúng ta cần lấy mẫu trong 1/8000 giây. Ví dụ 5.21 minh họa khái niệm
này.

Ví dụ 5.3.
Hãy tính tốc độ lấy mẫu cần thiết cho một tín hiệu có băng tần 10.000 Hz
(1.000 tới 11.000 Hz)
Giải: Tốc độ lấy mẫu phải gấp đôi tần số cao nhất của tín hiệu gốc, do đó
tỉ tốc độ lấy mẫu cần thiết sẽ là:
Tốc độ lấy mẫu=2(11.000)=22.000 mẫu/giây

Hình 5.21 Nguyên lý Nyquist


49
Có bao nhiều bit mỗi mẫu?

Sau khi chúng ta có tỷ lệ lấy mẫu, chúng ta cần xác định số các bit cần đề
truyền phát cho mỗi mẫu. Điều này phụ thuộc vào mức độ chính xác cần thiết.
Số các bit được chọn phải đủ sao cho tín hiệu gốc có thể được tái tạo lại bằng độ
chính xác của biên độ mong đợi.

Ví dụ 5.4
Một tín hiệu đựơc lấy mẫu. Mẫu mẫu cần có ít nhất 12 mức độ chính xác (+0
đến +5 và -0 đến -5). Cần bao nhiêu bit cho mỗi mẫu?
Giải: Chúng ta cần 4 bit, một bit cho xác định dấu, 3 bit cho biểu diễn giá
trị. Một giá trị 3 bit có thể biểu diễn tối đa 2^3=8 mức độ (từ 000 đến 111) là
nhiều hơn chúng ta mong chờ. 2 bit thì không đủ vì 2^2=4. Một giá trị 4 bit thì
quá nhiều bởi vì 2^4=16.

Tốc độ bit (Bit Rate)


Sau khi chúng ta tìm được số các bit mẫu mẫu, chúng ta có thể tính toán
tốc độ bit bằng cách sử dụng công thức sau:
Tốc độ bit=Tốc độ lấy mẫu * số các bit mỗi mẫu

Ví dụ 5.5
Chúng ta muốn số hóa giọng nói con người. Tốc độ bit là bao nhiêu giả sử
rằng 8 bit trong mỗi mẫu?
Giải: Giọng nói con người thường chứa các tần số từ 0 đến 4000 Hz. Vì vậy, tốc
độ bit sẽ là:
Tốc độ lấy mẫu =4000 x 2 = 8000 mẫu/ giây
Tốc độ bit có thể được tính bằng:
Tốc độ bit=Tốc độ mẫu * số bit mỗi giây=8000 x 8=64.000 bit/s =64 Kbps.

5.3 CHUYỂN ĐỔI TÍN HIỆU SỐ SANG TƯƠNG TỰ

50
Chuyển đổi số sang tương tự hay điều chế số sang tương tự là quá trình
thay đổi một trong những đặc tính của một tín hiệu tương tự dựa trên thông tin ở
một tín hiệu số (các bit 0 và 1). Ví dụ, khi chúng ta thực hiện truyền dữ liệu từ
một máy tính sang máy tính khác qua đường thoại công cộng, dữ liệu gốc là dữ
liệu số, nhưng do đường dây điện thoại chỉ có thể mang được tín hiệu tương tự,
dữ liệu phải được chuyển đổi. Dữ liệu số phải được điều chế trên một tín hiệu
tương tự mà đã được xử lý để có 2 giá trị phân biệt tương ứng với bit 1 và 0.
Hình 5.22 thể hiện mối quan hệ giữa thông tin số, phần cứng bộ điều chế số sang
tương tự và tín hiệu tương tự kết quả.
Hình 5.22 Điều chế tín hiệu số sang tương tự

Do có nhiều cơ chế điều chế khác nhau cho điều chế tín hiệu số sang
tương tự, chúng ta chỉ bàn luận đến những cơ chế hữu dụng nhất đối với truyền
số liệu.
Như đã bàn luận ở chương 4, một sóng tín hiệu hình sin được xác định
bởi 3 đặc tính: biên độ, tần số và pha. Khi chúng ta biến đổi bất kỳ trong số ba
đặc tính này, chúng ta cần tạo ra phiên bản thứ 2 của sóng tín hiệu này. Khi sóng
của tín hiệu gốc biểu diễn nhị phân 1, quá trình biến đổi có thể biểu diễn lại bit 0
hoặc ngược lại. Vì vậy, bằng việc thay đổi đặc trưng trước và sau của một tín
hiệu điện tử đơn giản , chúng ta có thể sử dụng nó để biểu diễn dữ liệu số. Bất
kỳ trong số 3 đặc tính được liệt kê ở trên có thể được sửa đổi theo cách này cho
chúng ta ít nhất 3 cơ chế cho việc điều chế dữ liệu số thành một tín hiệu tương
tự: Kỹ thuật chèn dịch biện độ ASK (Amplitude Shift Keying), kỹ thuật dịch
chèn tần số FSK (Frequency Shift Keying), và kỹ thuật dịch chèn pha PSK
(Phase Shift Keying). Hơn nữa, có cơ chế thứ 4 (tốt hơn) tổ hợp các thay đổi này
ở cả biên độ lẫn pha được gọi là điều chế biên độ cầu phương QAM (Quadrature
Amplitude Modulation). QAM là một cơ chế hiệu quả và được sử dụng trong
mọi modem hiện đại ngày nay (xem hình 5.23).

51
Hình 5.23 Các kiểu điều chế số sang tương tự

Các đặc trưng của chuyển đổi tín hiệu số sang tương tự
Trước khi chúng ta bàn luận về các phương pháp cụ thể của điều chế tín
hiệu số sang tương tự, có 2 vấn đề cơ bản cần được xác định: tỉ lệ bit/baud và tín
hiệu sóng mang.

Tốc độ bit và tốc độ baud


Hai thuật ngữ được sử dụng thường xuyên trong truyền số liệu và tốc độ
bit và tốc độ baud. Tốc độ bit là số các bit được truyền đi trong một giây. Tốc độ
baud liên quan đến số các đơn vị tín hiệu mỗi giây cần thiết để biểu diễn các bit
này. Trong các bàn luận về hiệu năng của máy tính, tốc độ bit quan trọng hơn-
Chúng ta muốn biết phải mất bao lâu để xử lý từng đoạn thông tin. Tuy nhiên,
trong truyền số liệu liên quan đến cách hiệu quả để chuyển dữ liệu đó từ nơi này
sang nơi khác ở dạng bộ phận hay khối thông tin. Điều này đòi hỏi cần ít đơn vị
dữ liệu hơn do đó hiệu năng của hệ thống tốt hơn và yêu cầu ít băng tần hơn để
truyền dẫn nhiều bit hơn; do đó tốc độ baud là quan trọng hơn. Tốc độ baud xác
định băng tần cần thiết để gửi tín hiệu.
Tốc độ bit bằng tốc độ baud mà số các bit được biểu diễn bởi từng đơn vị
tín hiệu. Tốc độ baud bằng tốc độ bit chia cho số các bit được biểu diễn bởi từng
phép dịch chuyển tín hiệu. Tốc độ bit luôn lơn hơn hoặc bằng tốc độ baud.
Tốc độ bit là số các bit mỗi giây. Tốc độ baud là số các đơn vị tín hiệu
mỗi giây. Tốc độ baud nhỏ hơn hoặc bằng tốc độ bit.

Ví dụ 5.6
Một tín hiệu tương tự mang 4 bit trong mỗi phần tử tín hiệu. Nếu 1000
phần tử tín hiệu được gửi đi mỗi giây, hãy cho biết tốc độ baud và tốc độ bit.
Giải:
Tốc độ baud= số các phân tử tín hiệu=1000 baud/s
Tốc độ bit=tốc độ baud x số các bit trong mỗi phần tử tín hiệu=100x4= 4000 bps

Ví dụ 5.7
Tốc độ bit của một tín hiệu là 3000. Nếu mỗi phần tử tín hiệu mang được
6 bit, hãy cho biết tốc độ baud là bao nhiêu?
Giải:
Tốc độ baud= tốc độ bit/Số các bit mỗi phần tử tín hiệu=3000/6=500 baud/s

52
Tín hiệu sóng mang (Carrier Signal)
Trong truyền phát tín hiệu tương tự, thiết bị gửi tạo ra một tín hiệu tần số
cao đóng vai trò là cơ sở cho tín hiệu thông tin. Tín hiệu cơ sở này được gọi là
tín hiệu sóng mang hay tần số mang. Bên thiết bị nhận thực hiện việc điều chỉnh
để phù hợp với tần số của tín hiệu sóng mang chuyển đến từ bên gửi. Thông tin
số sau đó được điều chế trên sóng mang bằng việc sửa đổi một hoặc nhiều đặc
tính của nó (biên độ, tần số, pha). Kiểu sửa đổi này được gọi là điều chế (hay
dịch chuyển chèn) và tín hiệu thông tin được gọi là tín hiệu điều chế.

Dịch biên - ASK ( Amplitude Shift Keying)


Trong ASK, cường độ của tín hiệu sóng mang được biến đổi để biểu diễn
các bit nhị phân 1 và 0. Cả tần số và pha đều giữ nguyên giá trị trong khi biên độ
thay đổi. Việc sử dụng điện áp biểu diễn 1 và 0 là do nhà thiết kế lựa chọn. Chu
kỳ của bit là khoảng thời gian để xác định một bit. Đỉnh biên độ của một tín hiệu
trong khoảng thời gian bit là hằng số và giá trị của nó phụ thuộc vào bit (0 hay
1). Tốc độ truyền phát sử dụng ASK được giới hạn bởi các đặc tính vật lý của
thiết bị truyền dẫn. Hình 5.24 cho chúng ta cái nhìn khái quát về ASK.
Đáng tiếc là trong truyền phát kiểu ASK dễ dẫn tới giao thoa nhiễu. Thuật
ngữ nhiễu đề cập đến các điện áp không mong muốn phát sinh trên đường
truyền bởi nhiều yếu tố khác nhau như là độ ẩm không khí, điện từ trường được
tạo bởi các nguồn khác. Các mức điện áp không mong đợi này tổ hợp với tín
hiệu làm thay đổi biên độ của tín hiệu. Một mức điện áp biểu diễn bit 0 có thể
chuyển thành mức điện áp biểu diễn 1 và ngược lại. Theo nghiên cứu, người ta
thấy rằng phương pháp ASK bị ảnh hưởng nhiều bởi nhiễu điện áp.
Hình 5.24 ASK

Một kỹ thuật ASK phổ biến được gọi là chèn đóng-mở OOK (On- Off
Keying). Trong OOK, một trong các giá trị bit được biểu diễn bởi điện áp 0. Ưu
điểm là có thể giảm thiểu năng lượng cần thiết cho thông tin được truyền.

53
Băng tần cho ASK
Như chúng ta đã biết ở chương 4, băng tần của một tín hiệu là toàn bộ
phạm vi tần số được dùng bởi tín hiệu. Khi chúng ta phân tích một tín hiệu ASK
đã được điều chế, chúng ta lấy được phổ của nhiều tần số đơn giản khác nhau.
Tuy nhiên, các tần số có nghĩa nhất là khoảng tần số nằm giữa trong khoảng f c-
Nbaud /2 và fc+Nbaud/2 trong đó fc là tần số sóng mang. (Xem hình 5.25)

Hình 5.25 Mối quan hệ giữa tốc độ baud và băng tần trong ASK.

Yêu cầu về băng tần cho ASK được tính toán bằng cách sử dụng công thức:
BW=(1+d)xNbaud
Trong đó:
BW là băng tần
Nbaud là tốc độ baud
d là thừa số liên quan đến điều kiện đường truyền (với giá trị cực tiều
bằng 0).
Như chúng ta đã biết, băng tần tối thiểu cần thiết cho truyền phát bằng tốc
độ baud.
Mặc dù chỉ có một tần số sóng mang, quá trình điều chế tạo ra một tín
hiệu phức hợp là tổ hợp của nhiều tín hiệu đơn thuần, mỗi tín hiệu có một tần số
khác nhau.

Ví dụ 5.8
Hãy tìm băng tầng tối thiệu cho một tín hiệu ASK truyền phát ở tốc độ
2000 bps. Chế độ truyền phát là bán song công – half-duplex.
Giải: Trong ASK, tốc độ baud và tốc độ bit là giống nhau. Tốc độ baud do
đó bằng 2000. Một tín hiệu ASK cần băng tần tối thiểu bằng với tốc độ baud của
nó. Do đó, băng tần tối thiểu cần thiết là 2000 Hz.

Ví dụ 5.9

54
Cho trước băng tần 5000 Hz của một tín hiệu ASK. Tính tốc độ baud và
tốc độ bit
Giải: Trong ASK, tốc độ baud bằng băng tần của tín hiệu, điều đó có nghĩa là tốc
độ baud là 5000. Nhưng bởi vì tốc độ baud là tốc độ bit là sống nhau đối với
ASK nên tốc độ bit là 5000 bps.

Ví dụ 5.10
Cho trước băng tần 10.000 Hz (1000 tới 11.000), hãy vẽ sơ đồ ASK song
công toàn phần của hệ thống. Tìm các băng tần và sóng mang theo từng chiều.
Giả sử rằng không có đoạn trống nào ở 2 chiều.
Giải: Đối với ASK song công toàn phần, băng tần cho từng chiều sẽ là:
BW=10.000/2=5000 Hz
Các tần số mang có thể được lựa chọn tại điểm giữa từng băng tần (hình 5.26)
fc(->)=1000+ 5.000/2=3500 Hz
fc (<-) = 11.000 -5000/2=8500 Hz.

Hình 5.26 Bài giải của ví dụ 5.10

Phương pháp dịch tần số FSK (Frequency Shift Keying)


Trong phương pháp FSK, tần số của tín hiệu sóng mang được biến đổi để
biểu diễn bit nhị phân 1 hoặc 0. Tần số của tín hiệu trong khoảng thời gian của
từng bit là hằng số và giá trị của nó phụ thuộc vào bit (0 hoặc 1) cả đỉnh biên độ
và pha đều giữ nguyên. Hình 5.27 cho chúng ta cái nhìn khái quát về FSK.
FSK tránh được phần lớn các vấn đề gây lỗi của ASK. Bởi vì bên thiết bị
nhận tìm kiếm tần số cụ thể thay đổi theo số các chu kỳ cho trước, nó có thể bỏ
qua các điện áp không cần thiết. Thừa số giới hạn của FSK phụ thuộc vào khả
năng vật lý của tần số mang.

Hình 5.27 FSK

55
Băng tần cho FSK
Mặc dù FSK thực hiện dịch chuyển giữa hai tần số sóng mang, nhưng nó
lại dễ dàng hơn trong quá trình phân tích hai tần số đang tồn tại. Chúng ta có thể
nói rằng phổ của FSK là tổ hợp của hai phổ FSK nằm giữa xung quanh khoảng
fc0 và fc1. Băng tần cần thiết cho truyền phát FSK bằng tốc độ baud của tín hiệu
cộng với tần số dịch chuyển (sự khác nhau giữa hai tần số sóng mang): BW=(f c1-
fc0)+Nbaud. Xem hình 5.28
Mặc dù chỉ cần 2 tần số sóng mang, quá trình điều chế vẫn tạo ra tần số
tổng hợp là tập hợp của nhiều tín hiệu đơn giản, và mỗi tín hiệu này có một tần
số riêng.

Hình 5.28 Mối qua hệ giữa tốc độ baud và băng tần trong FSK

Ví dụ 5.11: Tìm băng tầng tối thiểu của một tín hiệu FSK truyền phát ở tốc độ
2000 bps. Quá trình truyền phát ở chế độ bán song công và các sóng mang phải
được phân tách bằng khoảng 3000 Hz.
Giải:
Đối với FSK, nếu fc1 và fc0 là các tần số sóng mang khi đó
BW=Tốc độ baud+(fc1-fc0)
Tuy nhiên, tốc độ baud ở đây giống tốc độ bit. Do đó

56
BW=Tốc độ bit + (fc1-fc0)=2000+3000=5000 Hz
Ví dụ 5.12 Tìm tốc độ bit tối đa cho một tín hiệu FSK nếu băng tầng của
phương tiện truyền dẫn bằng 12.000 Hz và sự khác nhau giữa hai sóng mang
phải đạt ít nhất 2000 Hz. Quá trình truyền dẫn ở chế độ song công toàn phần.
Giải: Bởi vì truyền dẫn ở chế độ song công toàn phần, chỉ 6000 Hz được
định vị cho mỗi chiều. Đối với FSK, nếu fc1 và fc0 là các tần số sóng mang thì:
BW=Tốc độ baud + (fc1-fc0)
Tốc độ baud = BW-(fc1-fc0)=6000-2000=4000
Nhưng do tốc độ baud bằng tốc độ bit do vậy tốc độ bit sẽ là 4000 bps

Phương pháp dịch pha PSK (Phase Shift Keying)


Trong PSK, pha của tín hiệu sóng mang được biến đổi để biểu diễn bit nhị
phân 1 hoặc 0. Giá trị của cả hai đỉnh biên độ và tần số giữ nguyên. Ví dụ, nếu
chúng ta bắt đầu với một pha có tại điểm 0 độ để biểu diễn bit nhị phân 0, sau đó
chúng ta thay đổi pha sang 180 độ để bởi bit 1. Pha của tín hiệu trong suốt
khoảng thời gian của từng bit bằng hằng số và giá trị của nó phụ thuộc vào bit (0
hay 1). Hình 5.29 cho chúng ta các nhìn khái quát về PSK.

Hình 5.29 PSK

Phương pháp kể trên thường được gọi là phương pháp 2-PSK hay phương
pháp PSK nhị phân, bởi vì chỉ có hai pha phân biệt (0 và 180 độ) được sử dụng.
Hình 5.30 làm sáng tỏ điểm này qua việc biểu diễn mối quan hệ của pha và giá
trị bit. Ở sơ đồ thứ 2, được gọi là một sơ đồ chòm sao hay sơ đồ trạng thái pha
thể hiện cùng mối quan hệ nhưng chỉ qua minh họa các pha.

Hình 5.30 Sơ đồ PSK chòm sao

57
PSK không dễ bị ảnh hưởng do nhiễu thường gặp phải ở phương pháp
ASK, hay các giới hạn về băng tầng cùa FSK. Điều này có nghĩa là với các mức
độ biến đổi nhỏ hơn trong tín hiệu có thể được phát hiện một cách đáng tin cậy
bởi bên nhận. Do đó, thay vì chỉ sử dụng hai mức độ biến đổi của một tín hiệu,
mỗi tín hiệu biểu diễn một bit, chúng ta có thể sử dụng 4 mức độ biến đổi và đặt
mỗi mức dịch pha biểu diễn 2 bit (xem hình 5.31)
Sơ đồ chòm sao đối với tín hiệu ở hình 5.31 được cho ở hình 3.32 . Một
pha tại 0 độ bây giờ có thể biểu diễn 00; 90 độ biểu diễn 01;180 độ biểu diễn 10
và 270 độ biểu diễn 11. Kỹ thuật này được gọi là kỹ thuật 4-PSK hay Q-PSK.
Cặp các bit đượcbiểu diễn bởi từng pha được gọi là một dibit. Chúng ta có thể
truyền số liệu lớn gấp 2 khi sử dụng 4-PSK thay vì sử dụng 2-PSK.
Chúng ta có thể mở rộng ý tưởng này để tạo ra 8-PSK. Khi đó, thay vì sử
gửi dụng các bước dịch pha 90 độ, chúng ta có thể biến đổi tín hiệu bằng các
phép dịch pha 45 độ. Với 8 pha khác nhau, mỗi phép dịch có thể biểu diễn 3 bit
nhị phân trong 1 lần (được gọi là tribit). (Như chúng ta thấy, mối quan hệ của số
các bit mỗi phép dịch chuyển bằng lũy thừa cơ số 2 của số bit biểu diễn. Khi
chúng ta có 4 pha, chúng ta có thể gửi đồng thời cùng lúc 2 bit vì 2^2=4. Khi
chúng ta có 8 pha, chúng ta có thể gửi đồng thời cùng lúc 3 bit vì 2^3=8. Hình
5.33 thể hiện mối quan hệ giữa các dịch chuyển pha và các tribit mà mỗi bước
dịch chuyển biểu diễn: 8-PSK nhanh gấp 3 lần so với 2 PSK.

Hình 5.31 4-PSK

58
Hình 5.32 Các đặc tính của 4-PSK

Băng tầng cho phương pháp PSK


Băng tần tối thiểu cần thiết cho truyền phát PSK cũng giống yêu cầu về
băng tần đối với truyền phát ASK – và có cùng lý do giống nhau. Như chúng ta
đã biết, tốc độ bit tối đa trong truyền phát PSK lại lớn hơn nhiều so với ASK. Vì
vậy, tốc độ baud cực đại của ASK và PSK là tương đương nhau đối với một
băng tầng cụ thể. Tốc độ bit của PSK sử dụng chung băng tần có thể lớn gấp 2
hoặc nhiều lần. (Xem hình 5.34).

Hình 5.33. Các đặc tính của 8-PSK

Hình 5.34 Mối quan hệ giữa tốc độ baud và băng tầng sử dụng trong PSK

59
Ví dụ 5.13: Tìm băng tầng cho một tín hiệu 4-PSK truyền phát ở tốc độ 2000
bps. Truyền phát tín hiệu ở chế độ bán song công.
Giải: Đối với 4-PSK, tốc độ baud bằng một nữa tốc độ bit. Tốc độ baud
do đó bằng 1000. Một tín hiệu PSK yêu cầu một băng tần bằng chính tốc bộ
baud của nó. Do đó, băng tần sử dụng là 1000 Hz.

Ví dụ 5.14 Một băng tần 5000 Hz cho tín hiệu 8-PSK cho trước. Hãy tính tốc độ
baud và bit.
Giải: Đối với PSK tốc độ baud tương đương với băng tần do đó tốc độ
baud là 5000 Hz. Nhưng trong 8-PSK tốc độ bit gấp 3 lần tốc độ baud do đó tốc
độ bit sẽ là 15.000 bps.

Điều chế biên độ cầu phương QAM (Quadrature Amplitude Modulation)


PSK bị giới hạn bởi năng lực của thiết bị để phân biệt sự khác nhau tương
đối nhỏ trong pha. Yếu tố này làm giới hạn tốc độ bit của nó.
Từ trước tới giờ chúng ta chỉ thực hiện sửa đổi một trong 3 đặc tính của
một sóng tín hiệu dạng hình sin tại từng thời điểm, nhưng nếu chúng ta sửa đổi
hai đặc tính thì sao? Các giới hạn về băng tần tạo nên những tổ hợp cùa FSK với
những thay đổi khác thực thế không hữu dụng, nhưng tại sao chúng ta không kết
hợp ASK và PSK? Sau đó chúng ta có x mức độ biến đổi trong pha và y mức độ
biến đổi trong biên đó, khi đó chúng ta sẽ được x lần y các mức biến đổi có thể
có và tương ứng với số các bit trong từng mức biến đổi. Kỹ thuật QAM có thể
thực hiện được điều đó. Thuật ngữ cầu phương – quadrature xuất xứ từ những
hạn chế cần thiết đối với hiệu suất tối thiểu và liên quan đến lượng giác học.
Điều chế QAM có nghĩa là tổ hợp phương pháp điều chế ASK và PSK
theo một cách nào đó để có được mức độ tương phản tối đa giữa từng bit, dibit,
quadbit….
Các mức biến đổi có thể có của QAM là khá nhiều. Về mặt lý thuyết, bất
kỳ số đo được các thay đổi trong biên độ cũng có thể được tổ hợp với bấy bất kỳ

60
số đo được các thay đổi trong pha. Hình 5.35 thể hiện hai cấu hình có thể có, 4-
QAM và 8-QAM. Trong cả hai trường hợp, số các bước dịch biên độ là ít hơn số
các bước dịch pha. Bởi vì những thay đổi về biên độ dễ bị ảnh hưởng bởi nhiễu
và đòi hỏi có các mức dịch chuyển khác nhau lớn hơn so với số những thay đổi
về pha. So các dịch pha được sử dụng trong một hệ thống QAM luôn luôn lớn
hơn số các dịch chuyển biên độ. Miền cực trị thời gian tương ứng với tín hiệu 8-
QAM ở hình 5.35 được biểu diễn ở hình 5.36.
Hình 5.35. Sơ đồ chòm sao các phương pháp điều chế 4-QAM và 8-QAM

Các mối quan hệ địa lý khác cũng có thể có. Ba cấu hình 16-QAM phổ
biến được thể hiện ở hình 3.37. Đầu tiên, ba biên độ và 12 pha xử lý nhiễu tốt
nhất bởi vì một tỉ lệ dịch pha lớn hơn đối với biên độ. Nó là một khuyến cáo
của tổ chức ITU-T. Ví dụ thứ 2, 4 biên độ và 8 pha. Nó là khuyến nghị của tổ
chức tiêu chuẩn quốc tế OSI. Nếu chúng ta quan sát kỹ đồ thị, chúng ta thấy
rằng mặc dù nó dựa trên các hình tròn đồng tâm nhưng không phải mọi điểm
giao nhau giữa pha và biên độ đều được sử dụng. Trong thực tế, 4 x 8 =32 các
mức biến đổi có thể có. Nhưng bằng việc chỉ sử dụng một nửa những khả năng
có thể này, những khác biết đo được giữa các phép dịch chuyển được tăng
cường và tính tin cậy của tín hiệu lớn hơn được đảm bảo. Thêm nữa, nhiều thiết
kế QAM liên kết các biên độ cụ thể với các pha cụ thể. Điều này nghĩa là với
những lỗi do nhiễu gây ra khi dịch chuyển biên độ, ý nghĩa một của phép dịch
chuyển vẫn có thể được khôi phục từ thông tin của pha. Do đó, nhìn chung ưu
điểm thứ 2 của QAM so với ASK là ít bị ảnh hưởng của nhiễu hơn.

Hình 5.36 Miền thời gian của tín hiệu 8-QAM

61
Hình 5.37. Sơ đồ chòm sao 16-QAM

Băng tần cho điều chế QAM


Băng tần tối thiểu cần thiết cho truyền tín hiệu QAM bằng băng tần của
ASK và PSK. QAM có cùng các ưu điểm như PSK và ASK.

So sánh bit/baud
Giả sử một tín hiệu FSK qua đường điện thoại có thể gửi 1200 bit/s, tốc
độ bit là 1200 bps. Mỗi dịch chuyển tần số biểu diễn một bit đơn: vì vậy cần
phải có 1200 phần tử tín hiệu để gửi 1200 bit. Do đó, tốc độ baud của nó cũng là
1200 bps. Tuy nhiên, mỗi mức biến đổi của tín hiệu trong một hệ thống 8-QAM
biểu diễn 3 bit. Vì vậy, tốc độ bit là 1200 bps, sử dụng 8-QAM, có tốc độ baud
chỉ bằng 400 bps. Như hình 5.38 thể hiện, một hệ thống dibit có tốc độ baud
bằng 1/2 tốc độ bit, một hệ thống tribit có tốc độ baud bằng 1/3 tốc độ bit và một
quadbit có tốc độ baud=1/4 tốc độ bit.

Hình 5.38 Bit và baud

62
Bảng 5.1 thể hiện so sánh giữa tốc độ bit và tốc độ baud đối với các phương
pháp điều chế số sang tương tự khác nhau.

Bảng 5.1 So sánh tốc độ bit và baud

Điều chế Đơn vị tính Bits/Baud Tốc độ baud Tốc độ bit


ASK, FSK, 2-PSK Bit 1 N N
4-PSK, 4-QAM Dibit 2 N 2N
8-PSK, 8-QAM Tribit 3 N 3N
16-QAM Quadbit 4 N 4N
32-QAM Pentabit 5 N 5N
64-QAM Hexabit 6 N 6N
128-QAM Septabit 7 N 7N
256-QAM Octabit 8 N 8N
Ví dụ 5.15. Một sơ đồ chòm sao gồm 8 điểm có khoảng cách bằng nhau
trên một đường tròn. Nếu tốc độ bit là 4800 bps, hãy tính tốc độ baud
Giải: Sơ đồ vòm sao chỉ ra rằng 8-PSSK với các điểm nằm cách nhau 45
độ vì 2^3=8, 3 bit được truyền phát cho từng một phần từ tín hiệu. Do đó, tốc độ
baud sẽ là:
4800/3=1600 baud.

Ví dụ 5.16. Tính tốc độ bit cho một tín hiệu 1000 baud 16-QAM
Giải: Một tín hiệu 16-QAM có nghĩa là có 4 bit cho mỗi phần tử tín hiệu
vì 2^4=16. Do đó ta có:
(1000)*(4)=4000 bps
Ví dụ 5.17
Tính toán tốc độ baud của một tín hiệu 64-QAM có tốc độ bit 72.000 bps.

63
Giải: Một tín hiệu 64-QAM nghĩa là có 6 bit mỗi đơn vị tín hiệu vì
2^6=64. Do đó ta có
72.000/6=12.000 baud

5.4 CHUYỂN ĐỔI TƯƠNG TỰ SANG TƯƠNG TỰ


Một chuyển đổi tương tự sang tương tự là quá trình biểu diễn thông tin
tương tự của một tín hiệu tương tự. Sóng vô tuyến là một dạng sóng thường
được sử dụng, là một ví dụ về truyền thông tương tự sang tương tự. Hình 5.39
thể hiện mối quan hệ giữa thông tin tương tự, phần cứng bộ chuyển đổi tương tự
sang tương tự và tín hiệu tương tự kết quả.
Điều chế tương tự sang tương tự có thể được hoàn thành bằng 3 cách sau:
Điều chế biên độ (AM), Điều chế tần số FM, và điều chế pha PM. Xem hình
5.40

Hình 5.39 Bộ điều chế tương tự sang tương tự

Hình 5.40 Các kiểu điều chế tương tự sang tương tự

Điều chế biên độ AM – Amplitude Modulation


Trong truyền phát AM, tín hiệu sóng mang được điều chế vì vậy biên độ
của nó biến đổi bằng các biên độ thay đổi của tín hiệu đang điều chế. Tần số và
pha của tín hiệu sóng mang được giữ nguyên; chỉ có biên độ thay đổi theo các
mức biến đổi trong thông tin. Hình 5.41 thể hiện cách hoạt động khái quát của
phương pháp điều chế này. Tín hiệu điều chế trở thành một phong bì/ vỏ bọc đối
với tín hiệu sóng mang.

Hình 5.41 Điều chế biên độ

64
Băng tần AM
Băng tần của một tín hiệu AM bằng 2 lần băng tần của tín hiệu điều chế
nhân với tần số sóng mang ở đoạn giữa (xem hình 5.42). Phần ngả bóng trong
đồ thị là phổ tần số của tín hiệu.
Băng tần của một tín hiệu âm thanh (giọng nói và tiếng nhạc) sử dụng 5
KHz. Do đó, một trạm phát sóng vô tuyến cần băng tần tối thiểu bằng 10 Khz.
Thực thế, Ủy ban truyền thông Liên bang Mỹ FCC cho phép 10 KHz cho mỗi
trạm phát sóng AM.
Các trạm phát sóng AM được phép có tần số sóng mang ở bất kỳ đầu
trong phạm vi từ 530 đến 1700 Khz (1.7 Mhz). Tuy nhiên, mỗi tần số sóng mang
của trạm phát phải được phân cách nhau ít nhất là 10 KHz (một băng tần AM)
để tránh nhiễu sóng.
Nếu một trạm phát sóng sử dụng sóng mang 1100 KHz, thì sóng mang
của trạm tiếp theo không thể nhỏ hơn 1110 KHz (xem hình 5.43).
Tổng băng tần cần thiết đối với AM có thể được xác định từ băng tần của
tín hiệu âm thanh: BWt=2x BWm, trong đó BWm là băng tần của tín hiệu âm
thanh.

Hình 5.42 Băng tần AM

65
Hình 5.43. Định vị băng tần AM

Ví dụ 5.18.
Chúng ta có một tín hiệu âm thanh có băng tần 4 KHz. Hãy cho biết băng
tần cần thiết để điều chế tín hiệu sử dụng điều chế biên độ AM, bỏ qua các luật
của FCC.
Giải:
Một tín hiệu AM cần có băng tần gấp đôi băng tần của tín hiệu gốc
BW=2x4KHz=8 KHz

Điều chế tần số hay Điều tần (Frequency Modulation – FM)


Trong truyền phát FM, tần số của một sóng mang được điều chế theo mức
độ thay đổi điện áp (biên độ) của tín hiệu được điều chế. Đỉnh biên độ và pha

66
của tín hiệu sóng mang không thay đổi, nhưng do biên độ của tín hiệu thông tin
thay đổi nên tần số của tín hiệu sóng mang cũng cần thay đổi tương ứng. Hình
5.44 thể hiện mối quan hệ giữa tín hiệu cần được điều chế, tín hiệu sóng mang
và tín hiệu FM kết quả.

Hình 5.44 Điều chế tần số

Băng tần FM
Băng tần của một tín hiệu FM bằng 10 lần băng tần của tín hiệu được điều
chế và giống như băng tần của AM, bao gồm khoảng giữa tần số sóng mang.
Hình 5.45 thể hiện cả băng tần, phần hình có bóng, phổ tần số của một tín hiệu
FM.
Băng tần tổng cần thiết cho một tín hiệu FM có thể được xác định qua
băng tần của tín hiệu âm thành: BWt=10 x BWm

Băng tần của một tín hiệu âm thanh (giọng nói, âm nhạc) được phát quảng
bá dạng âm thanh nổi phần lớn ở băng tần 15 KHz. Do đó, mỗi trạm phát sóng
FM cần cung cấp một khoảng băng tần bảo vệ.
Băng tần của một tín hiệu âm thanh nổi thường là 15 KHz. Do đó, một
trạm phát sóng FM cần ít nhật một băng tần bằng 150 KHz. FCC yêu cầu băng
tần tối thiểu là 200 KHz (0.2Mhz).

67
Hình 5.45 Băng tần FM.

Các trạm phát sóng FM được phép có sóng mang ở giữa khoảng từ 88 MHz đến
108 MHz. Các trạm này phải được phân biệt nhau ít nhất 200 KHz để giữ băng
tần của chúng không bị nạp chồng. FCC yêu cần mỗi trạm cần có một vùng
băng tần dành riêng dự phòng khi cần có thể được sử dung. Như vậy tránh được
việc 2 trạm phát sóng trùng tần gây nhiễu sóng. Hình 5.46 thể hiện điều này.

Hình 5.46 Định vị băng tần FM

Ví dụ 5.19: Chúng ta có một tín hiệu âm thanh với băng tần bằng 4 MHz. Hãy
cho biết băng tần cần thiết để điều chế một tín hiệu sử dụng phương pháp điều
tần? ở đây bỏ qua các quy định của FCC.
Giải: Một tín hiệu FM cần 10 lần băng tần của tín hiệu gốc do đó ta có
BW=10 x 4 MHz=40 MHz.

Điều chế pha – PM (Phase Modulation)


Do những yêu cầu đơn giản về phần cứng, điều chế pha PM được sử dụng
trong một vài hệ thống như là một phương pháp điều tần dự phòng. Trong truyền

68
phát PM, pha của tín hiệu sóng mang đựơc điều chế theo sự thay đổi mức độ
điện áp (biên độ) của một tín hiệu cần điều chế. Giá trị đỉnh biên độ và tần số
của một tín hiệu sóng mang giữ nguyên, nhưng do biên của của tín hiệu mang
thông tin thay đổi nên pha của tín hiệu sóng mang cũng thay đổi theo tương ứng.
Quá trình phân tích và kết quả cuối cùng (tín hiệu được điều chế) là tương tự với
các kết quả của phương pháp điều tần FM.

69
CHƯƠNG 8
GHÉP KÊNH – MULTIPLEXING
Bất kỳ khi nào thông lượng truyền dẫn của một phương tiện kết nối hai
thiết bị lớn hơn nhu cầu truyền dẫn của các thiết bị, đường truyền dẫn có thể
được chia sẻ, nó có thể coi như việc một đường ống dẫn nước lớn có thể vận
chuyển nước tới nhiều đường con nối vào từng ngôi nhà một cách đồng thời.
Ghép kênh bao gồm một tập các kỹ thuật cho phép truyền dẫn đồng thời nhiều
tín hiệu qua một đường truyền dữ liệu đơn.
Khi việc sử dụng dữ liệu và viễn thông gia tăng thì thông lượng cũng cần
phải tăng theo. Chúng ta có thể đáp ứng sự gia tăng này bằng cách tiếp tiếp thêm
vào các đường truyền dẫn riêng tại từng thời điểm một kênh mới khi cần thiết,
hoặc chúng ta có thể lắp đặt các đường dẫn có thông lượng cao hơn và sử dụng
từng đường này để vận chuyển nhiều tín hiệu. Như đã đề cập tới ở chương 7,
công nghệ ngày nay bao gồm phương tiện có băng thông bao như là cáp đồng
trục, cáp xoắn đôi, cáp quang, các vệ tinh mặt đất và sóng vi ba. Mỗi phương
tiện này có khả năng mang tín hiệu đi xa vượt quá khả năng cần thiết cho truyền
dẫn tín hiệu ở mức trung bình. Nếu thông lượng truyền dẫn của một đường
truyền lớn hơn nhu cầu truyền dẫn của một thiết bị được kết nối, thì xảy ra hiện
tượng thông lượng quá thưa trên mức cần thiết. Một hệ thống tối ưu phải sử
dụng tối đa tất cả các điều kiện sẵn có. Thêm nữa, công nghệ với chi phí khá đắt
được sử dụng thường có hiệu quả kinh tế chỉ khi các đường truyền dẫn được
chia sẻ.
Hình 8.1 thể hiện hai cách kết nối kết nối 4 cặp thiết bị.Trong hình 8.1a,
mỗi cặp có đường riêng của nó. Nếu toàn bộ thông lượng của từng đường không
được sử dụng thì một phần thông lượng đường truyền bị bỏ phí. Trong hình
8.1b, Các truyền dẫn giữa các cặp được ghép kênh; giống như 4 cặp đường
truyền dẫn chia sẻ dung lượng của một đường kết nối đơn.

8-1. GHÉP NHIỀU THÀNH MỘT/MỘT THÀNH NHIỀU


(Many to one/ One to many)
Trong một hệ thống ghép kênh, n thiết bị chia sẻ thông lượng của một
đường kết nối đơn. Hình 8.1b thể hiện khuôn dạng cơ bản của một hệ thống
ghép kênh. Trong đó, 4 thiết bị ở phía bên trái là các dòng truyền dẫn của chúng
tới một bộ phận được gọi là bộ ghép kênh – MUX (Multiplexer), bộ phận này
làm nhiệm vụ tổ hợp chúng thành một dòng đơn (nhiều thành một). Tại đầu cuối
phía bên thiết bị nhận, dòng truyền dẫn đó được truyền vào một bộ tách kênh
DEMUX (DEMUltipleXer), thiết bị này có nhiệm phân tách dòng truyền dẫn đó
trở lại thành các thành phần truyền dẫn ban đầu (một thành nhiều) và chuyển
chúng thành dạng mong đợi của thiết bị nhận.
Hình 8.1b từ path (đường dẫn) có nghĩa nói đến đường truyền vật lý. Từ
channel (kênh) nghĩa là một phần của đường dẫn đảm tín hiệu truyền dẫn giữa
một cặp thiết bị được cho. Một đường dẫn có thể có nhiều (n) kênh.

70
Hình 8.1 Ghép kênh và không ghép kênh

Các tín hiệu được ghép kênh sử dụng 3 kỹ thuật chính: Ghép kênh theo
tần số - FDM (Frequency-Division Multiplexing), Ghép kênh theo thời gian –
TDM (Time Division Multiplexing), Kỹ thuật ghép kênh theo sóng ánh sáng –
WDM ( Wave Division Multiplexing). TDM được chia nhỏ hơn thành TDM
đồng bộ và TDM không đồng bộ, còn được gọi là TDM thống kê hay tập trung
(xem hình 8.2)
Hình 8.2. Phân loại các phương pháp ghép kênh

8.2 GHÉP KÊNH THEO TẦN SỐ FDM


Ghép kênh theo tần số FDM là một kỹ thuật tương tự có thể được áp dụng khi
băng tần của một đường kết nối lớn hơn tổng băng tần của các tín hiệu được
truyền dẫn. Trong FDM, các tín hiệu được tạo ra bởi từng thiết bị gửi điều chế
các tần số sóng mang khác nhau. Các tín hiệu được điều chế này sau đó được
hợp lại thành một tín hiệu tổ hợp để có thể được truyền trên đường kết nối. Các
tần số sóng mang được phân tách với băng tần đủ lớn để cung cấp cho tín hiệu
được điều chế. Những khoảng băng tần này là các kênh qua đó nhiều tín hiệu đi
qua. Các kênh phải được phân tách bằng các khoảng băng tần không sử dụng
(được gọi là các băng tần bảo vệ guard band) để tránh không cho các tín hiệu
71
xếp chồng lên nhau. Thêm nữa, các tần số sóng mang không được làm nhiễu các
tần số của dữ liệu gốc. Thất bại trong bất kỳ điều kiện nào cũng có thể là nguyên
nhân làm cho việc khôi phục các tín hiệu dữ liệu gốc trở nên khó có thể thực
hiện.
Hình 8.3 cho chúng ta cái nhìn khái quát về FDM. Trong hình minh họa
này, đường truyền dẫn được chia thành 3 phần, mỗi phần biểu diện một kênh
cho truyền dẫn tín hiệu. Chúng ta hãy hình dung có 3 đường nhỏ hòa chung vào
với nhau để hình thành lên một đường cao tốc có 3 làn xe. Một trong 3 đường
này tương ứng với một làn xe của đường cao tốc. Mỗi xe hòa nhập vào đường
cao tốc từ một trong những đường đó vẫn có làn đường riêng của nó và có thể
chuyển đi mà không làm ảnh hướng tới các xe khác ở các làn đường khác.

Hình 8.3 FDM

Cần nhớ rằng mặc dù hình 8.3 thể hiện đường dẫn được chia trong không
gian thành các kênh riêng biệt, các phân đoạn kênh đạt được nhờ vào tần số hơn
là không gian.

Quá trình FDM

Hình 8.4 minh họa khái niệm miền thời gian của xử lý ghép kênh. FDM là một
tiền trình tương tự và chúng ta thể hiện ở đây qua việc sử dụng các máy thoại
như là các thiết bị đầu vào và đầu ra. Mỗi điện thoại tạo ra một tín hiệu của một
phạm vi tần số tương đương. Trong bộ ghép kênh, 3 tín hiệu tương tự được điều
chế trên các tần số sóng mang khác nhau (f1, f2 và f3). Các tín hiệu kết quả của
tín hiệu được điều chế sau đó hợp thành một tín hiệu tống hợp đơn sao cho có
thể được gửi qua một phương tiện truyền dẫn và có đủ băng tần cung cấp cho
nó.
Hình 8.5 là một minh họa trên miền tần số cho cùng một khái niệm. (Chú ý rằng
trục hoành của hình này biểu diễn tần số chứ không phải thời gian). Tất cả 3 tần
số sóng mang tồn tại cùng một thời điểm bên trong băng tần). Trong FDM, các
tín hiệu được điều chế trên các tần số sóng mang riêng biệt (f1, f2 và f3) sử dụng
điều chế AM hoặc FM. Như đã đề cập tới ở chương 5, điều chế một tín hiệu trên
một tín hiệu khác cho kết quả là trong một băng tần gấp ít nhất 2 lần tín hiệu
gốc. Để cho phép sử dụng đường dẫn hiệu quả hơn, băng tần thực tế có thể được
làm thập đi bằng cách chặn nửa băng tần sử dụng các kỹ thuật vượt quá phạm vi

72
bàn luận của sách này. Trong hình minh họa này, băng tần của tín hiệu tổng hợp
kết quả lớn hơn 3 lần băng tần của từng tín hiệu đầu vào: gấp 3 lần băng tần để
có thể cung cấp các kênh cần thiết cộng thêm băng tần bổ sung để cho khoảng
băng tần bảo vệ cần thiết.

Hình 8.5 Quá trình ghép kênh theo miền tần số FDM

Tách kênh – Demultiplexing

Bộ tách kênh sử dụng một chuỗi các bộ lọc để phân tích tín hiệu được ghép kênh
thành các tín hiệu thành phần liên tục của nó. Các tín hiệu riêng lẻ sau đó được
truyền qua một bộ tách kênh nhằm thực hiện phân tách chúng từ các tín hiệu
sóng mang của chúng và truyền chúng tới các bên gửi đang đợi. Hình 8.6 là hình
minh họa theo miền thời gian của phương pháp tách kênh theo tần số, ở đây thiết
bị điện thoại được sử dụng làm các thiết bị truyền thông

Hình 8.6 Quá trình tách kênh FDM theo miền thời gian

73
Hình 8.7 Quá trình tách kênh FDM theo miền tần số

8.3 PHƯƠNG PHÁP GHÉP KÊNH THEO SÓNG ÁNH SÁNG - WDM
(Wave Division Multiplexing)

WDM là một khái niệm giống như FDM, ngoại trừ việc ghép và tách
kênh trên các tín hiệu ánh sáng được truyền qua các đường cáp quang. Ý tưởng
cũng giống như việc chúng ta tập hợp các tín hiệu khác nhau của các tần số khác
nhau. Tuy nhiên, sự khác nhau ở chỗ các tần số là rất cao.
Hình 8.8 cho chúng ta cái nhìn khái quát về bộ ghép và tách kênh WDM.
Các băng tần rất hẹp của ánh sáng từ nhiều nguồn khác nhau được tổ hợp lại để
tạo thành một băng tần sóng ánh sáng có độ rộng lớn hơn. Bên phía nhận, các tín
hiệu này được phân tách bởi bộ tách kênh.

Hình 8.8 WDM

Có thể có người đang phân vân về cơ chế hoạt động của một WDM. Mặc
dù công nghệ là rất phức tạp, nhưng ý tưởng thì rất đơn giản. Chúng ta muốn tổ
hợp nhiều nguồn sóng ánh sáng thành một sóng ánh sáng ở bộ ghép kênh và sau
đó làm ngược lại ở phía bộ tách kênh. Tổ hợp và chia lại các nguồn sóng ánh
áng được xử lý một cách dễ dàng bởi một lăng kính. Chúng ta đã biết rằng lăng
kính cho phép bẻ cong một tia sáng dựa trên góc tới xác định và tần số (λ=v/f, v
vận tốc lan truyền, λ là bước sóng). Sử dụng kỹ thuật này, một bộ ghép kênh có
thể được tạo thành bằng việc tổ hợp nhiều tia sáng đầu vào, mỗi tia sáng chứa
một băng tần thấp, thành một tia sáng đầu ra có băng tần rộng hơn. Một bộ tách
kênh có thể được tạo thành bằng việc thực hiện quá trình ngược lại. Hình 8.9
minh họa khái niệm này.

74
Hình 8.9 Các lăng kính trong phương pháp ghép kênh và tách kênh WDM

8.4 BỘ GHÉP KÊNH THEO THỜI GIAN TDM


TDM là quá trình xử lý số có thể được áp dụng khi khả năng tốc độ dữ
liệu của phương tiện truyền dẫn lớn hơn nhiều so với tốc độ dữ liệu được yêu
cầu bởi bên thiết bị gửi và nhận. Trong trường hợp như thế, các truyền dẫn có
thể chiếm dụng một đường kết nối đơn qua việc chia nhỏ chúng và xen vào các
phần/
Hình 8.10 cho chúng ta cái nhìn khái quát về TDM Tuy nhiên cần chú ý
rằng đường kết nối được sử dụng giống như ở FDM; ở đây đường kết nối được
thể hiện theo từng bộ phận theo thời gian thay vì tần số.
Trong hình về TDM, các phần của các tín hiệu 1,2,3 và 4 chiếm dụng
đường kết nối một cách tuần tự. Chúng ta có thể tưởng tượng như một thang kéo
xki (để kéo hoặc mang những người trượt tuyến tới một đường dốc) phục vụ
nhiều chuyến. Mỗi chuyển có đường đi của chính nó và những người trượt tuyết
trên mỗi đường đến lượt lên thang. Khi mỗi ghế trên thang di chuyển đến đỉnh
nói, người trượt tuyết xuống thang và thực hiện trượt xuống núi theo thứ tự
trong thứ tự lượt trượt của mình trên đường trượt.
TDM có thể được thực hiện theo 2 cách: TDM đồng bộ và TDM không đồng bộ.

Hình 8.10 TDM

TDM đồng bộ
Trong phương pháp TDM đồng bộ, thuật ngữ đồng bộ có nghĩa khác với
thuật ngữ được sử dụng trong lĩnh vực khác của viễn thông. Ở đây đồng bộ có
nghĩa là bộ ghép kênh định vị chính xác cùng một khoảng (slot) thời gian tới
75
từng thiết bị tại tất cả các thời điểm không cần biết thiết bị đó có gì để truyền đi
hay không. Ví dụ, trong khoảng thời gian A được gán cho một mình thiết bị A và
không thể được sử dụng bởi bất kỳ thiết bị nào khác. Tại mỗi thời điểm khoảng
thời gian được định vị của nó đến, một thiết bị có cơ hội truyền một phần dữ liệu
của nó. Nếu một thiết bị không thể truyền dẫn hoặc không có dữ liệu để gửi,
khoảng thời gian của nó bằng 0.
Các frame. Các khoảng thời gian được nhóm lại thành các frame. Mỗi
frame bao gồm một chu trình hoàn chỉnh của các khoảng thời gian, bao gồm một
hay nhiều khoảng dành cho từng thiết bị gửi (xem hình 8.11). Trong một hệ
thống với n đường vào, mỗi frame có ít nhất là n khoảng thời gian, với mỗi
khoảng được định vị để mang dữ liệu từ một đường vào cụ thể. Nếu tất cả các
thiết bị đầu vào cùng chia sẻ một đường kết nối đang truyền dẫn ở cùng một tốc
độ dữ liệu, mỗi thiết bị có một khoảng thời gian mỗi frame. Tuy nhiên, có thể
cung cấp nhiều tốc độ dữ liệu khác nhau. Một truyền dẫn với 2 khoảng thời gian
mỗi frame sẽ đến nhanh gấp 2 lần so với một truyền dẫn với một khoảng thời
gian mỗi frame. Các khoảng thời gian dành cho một thiết bị xác định chiếm
dụng có vị trí ở từng frame và tạo thành kênh của thiết bị đó. Hình 8.11 thể hiện
5 đường vào được ghép kênh thành một đường đơn sử dụng TDM đồng bộ.
Trong ví dụ này, tất cả các đầu vào có cùng tốc độ dữ liệu, do đó số các khoảng
thời gian mỗi frame bằng số các đường vào.

Hình 8.11 TDM đồng bộ

Xen kẽ - Interleaving : TDM đồng bộ hóa có thể được so sánh với một bộ
chuyển mạch xoay vòng rất nhanh. Khi bộ chuyển mạch mở ở đằng trước của
thiết bị, thiết bị đó có khả năng gửi một số lượng cụ thể (x bits) dữ liệu trên
đường truyền. Bộ chuyển mạch chuyển từ thiết bị này sang thiết bị khác trong
khoảng thời gian hằng số và theo một thứ tự cố định. Quá trình đó được gọi là
xen kẽ - interleaving.

76
Quá trình xen kẽ có thể được hoàn thành bằng bit, byte, hoặc bằng bất kỳ
đơn vị dữ liệu nào khác. Hay nói cách khác, bộ ghép kênh có thể lấy một byte từ
từng thiết bị, sau đó đến byte khác từ từng thiết bị…. Trong một hệ thống được
cho, các đơn vị xen kẽ sẽ luôn luôn có cùng kích cỡ.
Hình 8.12 thể hiện quá trình xây dựng “xen kẽ” và frame. Trong ví dụ,
chúng ta xen kẽ nhiều kiểu truyền dẫn theo đặc trưng (bằng một byte), nhưng
khái niệm cũng tương tự cho các đơn vị dữ liệu chiều dài bất kỳ. Như đã thấy,
mỗi thiết bị đang gửi một thông điệp khác nhau. Bộ ghép kênh xen kẽ các thông
điệp khác nhau và định dạng chúng thành các frame trước khi được đặt lên
đường truyền.

Hình 8.12 TDM không đồng bộ, quá trình ghép kênh

Tại bên nhân, bộ tách kênh phân tách từng frame bằng cách trích rút từng
ký tự tuần tự. Khi một ký tự được loại bỏ từ một frame, nó được truyền tới thiết
bị nhận thích hợp. (xem hình 8.13)
Hình 8.12 và 8.13 cũng cho ta thấy được điểm yếu chính của TDM đồng
bộ. Bằng cách gán từng khoảng thời gian tới một đường vào cụ thể, chúng ta kết
thúc với các khoảng rỗng bất kể khi nào bất kỳ khi nào không có tất cả các
đường đang ở chế độ active. Trong hình 8.12, chỉ có 3 frame là được điền đầy
đủ. 3 frame cuối có 6 khoảng trống, như vậy chúng ta thầy rằng có 6 khoảng
trống trong số 24 frame, điều đó có nghĩa là một phần tư dung lượng của đường
kết nối bị bỏ phí.

77
Hình 8.13: DTM không đồng bộ, quá trình tách kênh

Các bit xác định frame – Framing bits. Do thứ tự khoảng thời gian trong một
hệ thống đồng bộ TDM không biến đổi từ frame này sang frame khác cho nên
rất ít các thông tin tổng phí cần thiết được bao gồm trong từng frame. Thứ tự
nhận các frame giúp cho bộ tách kênh biết cách điều hướng từng khoảng thời
gian do đó không cần thiết phải xác định địa chỉ. Tuy nhiên có nhiều yếu tố có
thể gây nên sự nhập nhằng về thời gian. Vì lý do đó, một hoặc nhiều bit đồng bộ
thường được bổ sung vào đầu từng frame. Các bit này được gọi là các bit xác
định frame theo mẫu từ frame tới frame cho phép bộ tách kênh có thể đồng bộ
với dòng dữ liệu vào theo đó nó có thể phân tách các khoảng thời gian một cách
chính xác. Trong phần lớn các trường hợp, thông tin đồng bộ hóa này bao gồm
một bit mỗi frame, xen kẽ giữ bit 0 và 1 (01010101010), như được thể hiện
trong hình 8.14

Hình 8.14. Các bit xác định frame

Ví dụ về TDM đồng bộ: Hãy hình dung rằng chúng ta có 4 nguồn vào trên một
đường kết nối TDM, ở đó các quá trình truyền dẫn được xen kẽ nhau theo ký tự.
Nếu mỗi nguồn tạo ra 250 ký tự mỗi giây, và mỗi frame mang 1 ký tự từ mỗi
nguồn, đường truyền dẫn phải có thể cho phép mang 250 frame mỗi giây (xem
hình 8.15).

78
Giả sử mỗi ký tự có độ dài 8 bit, thì mỗi frame có độ dài là 33 bit: 32 bit
cho 4 ký tự cộng thêm 1 bit xác định frame. Khi quan sát các mỗi quan hệ bit
chúng ta thấy rằng mỗi thiết bị tạo ra 2000 bps (250 ký tự x 8 bit mỗi ký tự),
nhưng đường truyền có thể vận chuyển 8250 bps (250 frame x 33 bit mỗi
frame): 8000 bit dữ liệu và 250 bit xác định đầu frame.

Hình 8.15 Tính toán tốc độ dữ liệu cho các frame

Lèn thêm bit – bit stuffing: Như đã nhắc tới ở phần trước, có thể cho phép kết
nối 2 thiết bị có tốc độ dữ liệu khác nhau tới một TDM đồng bộ. Ví dụ, thiết bị A
sử dụng một khoảng thời gian trong khi thiết bị B nhanh hơn sử dụng 2 khoảng
thời gian. Số các khoảng thời gian trong một frame và các đường đầu vào mà
chúng được gắn vào luôn luôn là cố định suốt khoảng thời gian truyền của một
hệ thống được cho, nhưng do các thiết có tốc độ dữ liệu khác nhau có thể điều
khiển số các khoảng thời gian khác nhau. Chúng ta cần chú ý là chiều dài của
khoảng thời gian là cố định. Do vậy để kỹ thuật hoạt động được các tốc độ dữ
liệu khác nhau phải là các phép nhân số nguyên với nhau. Ví dụ, chúng ta điều
chỉnh một thiết bị cho tốc độ dữ liệu nhanh gấp 5 lần so với các thiết bị khác
bằng cách đặt 5 khoảng thời gian thay vì một đối với từng thiết bị khác. Tuy
nhiên chúng ta không thể điều chỉnh một thiết bị có tốc độ nhanh hơn 5 khoảng
và một nửa khoảng thời gian theo phương pháp này bởi vì chúng ta không đưa
vào một nửa khoảng thời gian vào một frame.

Khi các tốc độ không phải là kết quả của phép nhân các số nguyên với
nhau chúng có thể được tạo lập để hoạt động được qua một kỹ thuật được gọi là
kỹ thuật lèn thêm bit – bit stuffing. Trong kỹ thuật này, bộ ghép kênh bổ sung
thêm một số bit vào dòng dữ liệu nguồn của thiết bị để áp đặt các phép nhân số
nguyên đối với những mối liên hệ về tốc độ giữa nhiều thiết bị lân cận với nhau.
Ví dụ, nếu chúng ta có một thiết bị có tốc độ bit gấp 2.75 lần so với các thiết bị

79
khác, chúng ta có thể thêm đủ số bít để tăng tốc độ bit lên gấp 3 lần so với các
thiết bị khác. Các bít bổ sung sau đó được loại bỏ bởi bộ tách kênh.

TDM không đồng bộ - Asynchronous TDM


Nhưng chúng ta đã biết ở phần trước, TDM đồng bộ không đảm bảo rằng toàn
bộ thông lượng của đường kết nối được sử dụng. Thực tế, dường như chỉ có một
phần khoảng thời gian là được sử dụng một cách tức thời. Bởi vì các khoảng
thời gian được chỉ định trước và cố định, bất kể khi nào một thiết bị được kết nối
không truyền phát, khoảng thời gian tương ứng là rỗng và đường truyền dẫn khi
đó bị bỏ phí nhiều. Ví dụ hình dung rằng chúng ta thực hiện ghép kênh đầu ra
của 20 máy tính giống nhau trên một đường truyền đơn. Sử dụng TDM đồng bộ,
tốc độ của đường đó phải đạt ít nhất 20 lần so với tốc độ của từng đường vào.
Nhưng nếu chỉ có 10 máy tính là đang sử dụng truyền phát tại cùng thời điểm thì
một nửa thông lượng của đường truyền bị bỏ phí.

Ghép kênh không đồng bộ theo thời gian hay còn được gọi là ghép kênh thống
kê theo thời gian được thiết kế để khắc phục sự lãng phí này. Ngược với thuật
ngữ đồng bộ, thuật ngữ không đồng bộ có nghĩa một cái gì đó khác trong ghép
kênh hơn nghĩa trong các lĩnh vực khác của truyền số liệu. Ở đây nó có nghĩa là
linh động hay không cố định.

Giống như TDM đồng bộ, TDM không đồng bộ cho phép một số các đường
truyền có tốc độ thấp được ghép kênh trên một đường truyền đơn tốc độ cao.
Tuy nhiên không giống như TDM đồng bộ, trong TDM không đồng bộ, tổng tốc
độ của các đường vào có thể lớn hơn thông lượng của đường truyền. Trong một
hệ thống đồng bộ, nếu chúng ta có n đường vào thì frame chứa một số cố định
của ít nhất n khoảng thời gian. Trong một hệ thống không đồng bộ, nếu chúng ta
có n đường vào thì frame chứa không quá m khoảng thời gian, với m nhỏ hơn n
(xem hình 8.16). Theo cách nay, TDM không đồng bộ hỗ trợ cùng số đường vào
như TDM đồng bộ với một đường truyền có thông lượng thấp hơn. Hay có thể
nói với cùng một đường truyền dẫn, TDM không đồng bộ có thể hỗ trợ nhiều
thiết bị hơn TDM đồng bộ.

80
Hình 8.16 TDM không đồng bộ

Số các khoảng thời gian trong một frame TDM không độ bộ (m) được
tính toán dựa trên phân tích thông kê về số các đường vào có khả năng truyền
dẫn tại bất kỳ thời điểm nào được cho. Thay vì bị gán trở lại, mỗi khoảng thời
gian sẵn sàng đối với bất kỳ đường vào nào đi kèm theo có dữ liệu cần gửi. Bộ
ghép kênh quét các đường vào, cấp nhận các phần dữ liệu cho đến khi một được
điền đầy. và sau đó gửi frame đó ra đường kết nối. Nếu không có đủ dữ liệu để
điền đầy vào tất cả các khoảng thời gian trong một frame, thì frame đó chỉ được
truyền đi một phần được điền đầy; do thông lượng của đường kết nối có thể
không được sử dụng 100% thời gian. Nhưng có khả năng định vị động các
khoảng thời gian kết hợp với tỷ lệ thấp hơn các khoảng thời gian cho các đường
đầu vào, điều này làm giảm đi nhiều những khả năng có thể xảy ra cũng như độ
hao phí.
Hình 8.17 thể hiện một hệ thống ở đó có 5 máy tính đang chia sẻ cùng
một đường dữ liệu sử dụng TDM không đồng bộ. Trong ví dụ này, kích cỡ của
frame bằng 3. Hình cũng thể hiện cách bộ ghép kênh xử lý 3 mức độ lưu lượng.
Trong trường hợp đầu tiên, chỉ có 3 trong số 5 máy tính có dữ liệu để truyền.
Trong trường hợp thứ 2, 4 đường gửi dữ liệu nhiều hơn 1 khoảng so với số các
khoảng thời gian mỗi frame. Trong trường hợp 3, (theo thống kê ít xảy ra), tất cả
các đường gửi dữ liệu. Trong mỗi trường hợp, bộ ghép kênh quét các thiết bị
theo thứ tự từ 1 tới 5, điền các khoảng thời gian khi nó gặp dữ liệu cần truyền.
Trong trường hợp đầu tiên, có 3 đường đầu vào hoạt động tương ứng với
3 khoảng thời gian trong mỗi frame. Đối với 4 frame đầu tiên, đầu vào được
phân phối một cách cần đối giữa tất cả các thiết bị truyền thông. Tuy nhiên đến
frame thứ 5 các thiết bị số 3 và 5 đều hoàn thành phần việc truyền phát của
chúng, nhưng thiết bị số 1 vẫn còn gửi 2 ký tự nữa. Bộ ghép kênh nhặt lên ký tự
A từ thiết bị 1, quét đường đó mà không cần phải tìm truyền phát khác, và trở về
thiết bị 1 để nhặt ký tự A cuối cùng. Khi không còn dữ liệu để điền vào khoảng
thời gian cuối cùng, bộ ghép kênh thực hiện truyền phát frame thứ 5 có hai
khoảng thời gian được điền. Trong một hệ thống TDM đồng bộ, 6 frame thì cần
có 5 khoảng thời gian để có thể truyền tất cả dữ liệu – tổng số của 30 khoảng

81
thời gian. Nhưng chỉ 14 khoảng thời gian đó có thể đã được điền, để đường
truyền không được sử dụng hơn nữa khoảng thời gian còn lại. Với hệ thống
TDM không đồng bộ được thể hiện ở đây, chỉ có một frame được truyền đi một
phần. Trong suốt thời gian truyền dẫn còn lại, toàn bộ thông lượng của đường
truyền đều được sử dụng.

Hình 8.17 Các ví dụ về các frame của TDM không đồng bộ

Trong trường hợp thứ hai, có một đường vào hoạt động nhiều hơn các
đường khác. Lúc này, vì thiết bị ghép kênh quét từ 1 đến 5, nó điền đầy frame
trước khi tất cả các đường được kiểm tra. Vì vậy frame thứ nhất mang dữ liệu
của thiết bị 1, 3 và 4 còn thiết bị 5 thì không. Thiết bị ghép kênh tiếp tục quét từ
nơi nó tạm dừng, đặt phần dữ liệu cần truyền dẫn đầu tiên của thiết bị 5 vào
khoảng thời gian đầu tiên của frame tiếp theo, sau đó thiết bị ghép kênh trở lại
điểm đầu của đường đó và đặt phần dữ liệu cần truyền dẫn thứ 2 của thiết bị 1
vào khoảng thời gian thứ 2 và cứ tiếp tục như vậy. Như chúng ta thấy, khi số các
82
thiết bị gửi đang cần gửi không bằng số các khoảng thời gian trong mỗi frame
dẫn tới các khoảng thời gian không được điền đầy một cách cân đối. Trong ví dụ
này, thiết bị 1 chiếm khoảng thời gian đầu tiên trong frame thứ nhất, khoảng thời
gian thứ 2 trong frame thứ 2 ..vvv
Trong trường hợp 3, các frame được điện như trên, nhưng ở đây tất cả ba
đường vào đều hoạt đồng. Trong ví dụ này, thiết bị 1 chiếm khoảng thời gian
trong frame đầu, khoảng thời gian thứ 3 trong frame thứ 2, và không khoảng nào
ở frame thứ 3.
Trong trường hợp 2 và 3, nếu tốc độ của đường truyền bằng 3 lần các
đường vào thì dữ liệu được truyền sẽ đến nhanh hơn so với bộ ghép kênh có thể
đặt nó vào đường kết nối. Trong trường hợp đó, cần thiết phải có một bộ nhớ
đệm để lưu dữ liệu cho đến khi bộ ghép kênh đã sẵn sàng.

Xác định địa chỉ và Tổng phí- Addressing and Overhead.


Trường hợp 2 và 3 trong ví dụ trên minh họa một yếu điểm của phương
pháp TDM không đồng bộ: Làm cách nào để bộ ghép kênh biết được khoảng
thời gian nào thuộc đường ra nào? Trong TDM đồng bộ, thiết bị theo đó dữ liệu
trong một khoảng thời gian là được chỉ định bởi vị trí khoảng thời gian trong
frame. Nhưng trong TDM không đồng bộ, dữ liệu từ một thiết bị được ho có thể
ở trong khoảng thời đầu tiên của một frame và trong khoảng thời thứ 3 của
frame tiếp theo. Theo sự vắng mặt của các mỗi tương quan về vị trí có định, mỗi
khoảng thời gian phải mang theo một địa chỉ để cho bộ tách kênh biết các điều
hướng dữ liệu. Địa chỉ này chỉ sử dụng cục bộ, được gắn bởi bộ ghép kênh và
được loại bỏ bởi bộ tách kênh một khi nó đã được đọc. Trong hình 8.17, địa chỉ
được xác định bởi một số.
Bổ sung các bít địa chỉ vào từng khoảng thời gian làm tăng tổng phí của
một hệ thống TDM không đồng bộ, và điều đó dẫn tới giới hạn về tính hiệu quả
tiềm tàng của nó. Để giới hạn ảnh hưởng của chúng, các địa chỉ thường chỉ bao
gồm số lượng nhỏ các bit và có thể được tạo ra thậm trí ngắn hơn bằng cách chỉ
ghép một địa chỉ đầy đủ vào phần đầu tiên của một lần truyền dẫn, với các phiên
bản được rút gọn để xác định các phần nhỏ hơn.
Sự cần thiết phải xác định địa chỉ làm cho TDM không đồng bộ trở nên
không còn hiệu quả khi sử dụng phép xen kẽ bit hoặc byte. Chúng ta hãy hay
dung là phép xe kẽ bit với một bit mang một địa chỉ: một bit dữ liệu cộng thể 3
bit địa chỉ. Như vậy tổng cộng nó cần tới 4 bit để truyền 1 bit dữ liệu. Thậm chí
nếu đường truyền được giữ ở trạng thái truyền đầy đủ, thì chỉ một ¼ thông
lượng được sử dụng để truyền dữ liệu; phần còn lại là hao phí – overhead. Vì lý
do đó, TDM không đồng bộ chỉ hiệu quả khi kích cỡ các khoảng thời gian được
để ở mức tương đối lớn.

Các khoảng thời gian có chiều dài biến thiên – Variable-Length Time slot.
TDM không đồng bộ có thể cung cấp lưu lượng của nhiều tốc độ dữ liệu
khác nhau qua biến đổi độ dài của các khoảng thời gian. Các máy trạm truyền
phát ở tốc độ cao có thể được cho khoảng khoảng thời gian lớn hơn. Việc quản
83
lý các trường có độ dài biến đổi như vậy đòi hỏi các bit điều khiển có thể được
ghép vào đầu mỗi khoảng thời gian để xác định độ dài của phần dữ liệu đến. Các
bít bổ sung này cũng làm tăng tổng phí của hệ thống và một lần nữa tính hiệu
quả chỉ còn được tính với khoảng thời gian lớn hơn.

Ghép kênh đảo ngược – Inverse Multiplexing


Phương phép ghép kênh đảo ngược lấy dòng dữ liệu từ một dòng có tốc độ
cao và ngắt nó ra thành nhiều phần để có thể gửi qua được nhiều truyền tốc độ
thấp hơn một cách đồng thời mà không bịt mất mát dữ liệu (xem hình 8.18)
Tại sao chúng ta cần ghép kênh đảo ngược? Chúng ta hãy xem khi một tổ
chức muốn gửi dữ liệu, âm thanh và hình ảnh mà mỗi thứ đó cần có một tốc độ
truyền khác nhau. Để gửi âm thanh, nó cần có đường truyền 64 Kbps. Để gửi dữ
liệu, có thể cần một đường truyền có tốc độ 128 Kbps. Và để gửi hình, nó cần
một đường truyền 1.544 Mbps. Để hỗ trợ mọi nhu cầu này, tổ chức có 2 lựa
chọn. Có thể là thuê một kênh có tốc độ 1.544 Mbps từ một công ty cho thuê
đường cáp (thường là công ty điện thoại) và chỉ đôi khi mới sử dụng đầy đủ
dung lượng của đường truyền, đó không phải là một cách sử dụng hợp lý các
điều kiện có sẵn. Hoặc có thể thuê nhiều lênh riêng biệt có tốc độ dữ liệu thấp.
Sử dụng một quy ước được gọi là bandwidth on demand – băng tần theo yêu
cầu, tổ chức đó có thể sử dụng bất kỳ trong số các kênh này bất kể khi nào và
như thế nào cần thiết. Các truyền phát âm thanh có thể được gửi một cách toàn
vẹn qua bất kỳ kênh nào. Các tín hiệu dữ liệu và hình có thể được chia nhỏ ra để
gửi qua 1 hoặc nhiều đường khác. Hay nói cách khác, các tín hiệu dữ liệu và
hình có thể được ghép kênh một cách đảo ngược qua nhiều đường khác nhau.

84
Hình 8.18 Ghép kênh và ghép kênh đảo ngược

8.5 ỨNG DỤNG GHÉP KÊNH: HỆ THỐNG ĐIỆN THOẠI


MULTIPLEXING APPLICATION: THE TELEPHONE SYSTEM

Ghép kênh từ lâu đã trở thành một trong những công cụ quan trọng trong ngành
công nghiệp điện thoại. Xem qua một số các vấn đề cơ bản của các công ty điện
thoại có thể giúp chúng ta hiểu hơn ứng dụng của cả FDM và TDM trong lĩnh
vực này. Tất nhiên, mỗi nơi lại sử dụng các hệ thống khác nhau. Chúng ta chỉ
tập chung vào hệ thống đang được sử dụng ở Bắc Mỹ.
Hệ thống điện thoại ở Bắc Mỹ bao gồm nhiều công ty đường cáp cung
cấp các dịch vụ cục bộ cũng như đường dài tới khách hàng thuê bao. Những
công ty này bao gồm các công ty địa phương như Pacific ell và các nhà cung cấp
đường dài như là AT&T, MCI, và SPINT.
Với mục đích của phần này, chúng ta sẽ nghĩ tới nhiều nhà cung cấp khác
nhau như các đơn thực thể được gọi là mạng điện thoại, và đường kết nối tới các
thuê bao tới mạng được gọi là đường dịch vụ (xem hình 8.19)

85
Hình 8.19 Mạng điện thoại

Các dịch vụ truyền thông công cộng và các hệ thống phân cấp
Commom Carrier Services and Hierachies

Các công ty điện thoại bắt đầu cung cấp cho khách hàng của họ bằng các
dịch vụ truyền thông tương tự sử dụng các mạng tương tự. Sau đó do công nghệ
phát triển cho phép tạo ra các dịch vụ số và mạng số. Ngày nay, các nhà cung
cấp ở Bắc Mỹ đang trong quá trình thay đổi hoàn toàn hệ thống đường truyền
dịch vụ từ tương tự sang số. Có thể tiên đoán trước rằng toàn bộ mạng sẽ là
mạng số. Tuy nhiên, hiện nay cả 2 kiểu dịch vụ này đều được cung cấp và cả
FDM và TDM đều được sử dụng.

Hình 8.20 Danh mục các dịch vụ điện thoại

Các dịch vụ truyền thông tương tự - Analog services


Có nhiều dịch vụ truyền thông tương tự sẵn có cho khách hàng tự lựa
chọn trong đó hai dịch vụ điển hình nhất đó là: Dịch vụ chuyển mạch và dịch vụ
thuê riêng (Hình 8.21)

Hình 8.21 Danh mục các dịch vụ truyền thông tương tự

86
Dịch vụ chuyển mạch tương tự - Analog switched service
Dịch vụ chuyển mạch tương tự là dịch vụ quay số thường xuất hiện nhiều
nhất khi sử dụng điện thoại tại các gia đình. Nó sử dụng cáp có hai dây ( hoặc
đối với trường hợp sử dụng đặc biệt, sử dụng 4 đường dây) xoắn đôi để kết nối
máy điện thoại của thuê bao tới mạng qua một bộ hoán chuyển. Kiểu kết nối này
được gọi là lặp cục bộ - local loop. Mạng mà nó tham gia đôi khi được gọi là
mạng điện thoại công cộng PSTN (Public Switched Telephone Network).
Tín hiệu trên một local loop là tương tự và băng tần thường nằm trong
khoảng từ 0 đến 4000 Hz.
Với các đường chuyển mạch, khi người gọi quay một số, cuộc gọi được
truyền tới một bộ chuyển mạch, hoặc một dãy các bộ chuyển mạch tại bộ
chuyển cuộc gọi. Các chuyển mạch thích hợp sau đó được kích hoạt đường dây
của người gọi tới đường dây của người được gọi. Bộ chuyển mạch kết nối 2
đường trong khoảng thời gian diễn ra cuộc gọi (xem hình 8.22).
Hình 8.22 Dịch vụ chuyển mạch tương tự

Dịch vụ đường thuê riêng – Analog Leased Line


Một dịch vụ đường thuê riêng cung cấp cho khách hàng cơ hội thuê một đường,
đôi khi được gọi là đường chuyên dụng, đường này luôn được kết nối tới khách
hàng. Mặc dù kết nối vẫn qua các bộ chuyển mạch trong mạng thoại, các thuê
bao vẫn nhận thấy nó là một đường đơn vì bộ chuyển mạch luôn luôn đóng do
đó không cần phải thực hiện quay số (hình 8.23).

Hình 8.23 Dịch vụ thuê đường truyền tương tự riêng

Các đường truyền đặc chủng – Conditioned Lines. Các nhà cung cấp dịch vụ
điện thoại cũng cung cấp cho khách hàng một dịch vụ được gọi là đường truyền
đặc chủng với ý nghĩa là cải thiện chất lượng của một đường bằng cách giảm bớt
87
sự tiêu hao tín hiệu hoặc độ trễ tín hiệu. Các đường đặc chủng là các đường
tương tự nhưng chất lượng của chúng lại trở nên hữu dụng cho truyền số liệu
nếu chúng được kết nối tới các modem.

Dịch vụ tương tự phân cấp – AH (Analog Hierachy)


Để sử dụng tối đa hiệu quả của cơ sở hạ tầng, các công ty điện thoại thường thực
hiện ghép kênh tín hiệu từ các đường có băng tần thấp lên các đường có băng
tần cao hơn. Theo cách này nhiều đường thuê riêng và chuyển mạch có thể được
tổ hợp vào một số ít các kênh lớn hơn. Đối với các đường tương tự thì phương
pháp ghép kênh theo tần số FDM được sử dụng.
Một trong các hệ thống phân cấp này được sử dụng bởi AT&T tạo thành
nhóm, các siêu nhóm. (xem hình 8.24)
Trong AH, 12 kênh âm thoại được ghép trên một đường có băng tần lớn
hơn để tạo ra một nhóm – group. (để bảo tồn băng tần, AT&T sử dụng các kỹ
thuật điều chế nhằm khử nhiễu sóng mang và các băng tần thấp của mỗi tín hiệu
và sau đó khôi phục lại chúng dựa trên kỹ thuật tách kênh. (một nhóm có băng
tần 48 KHz và hỗ trợ 12 đường thoại).
Ở mức tiếp theo, 5 nhóm có thể được ghép kênh để tạo ra một tín hiệu tổ
hợp được gọi là một siêu nhóm – supergroup. Một supergroup có băng tần bằng
240 KHz và hỗ trợ lên đến 60 kênh âm thoại. Các supergroup có thể được cấu
thành từ 5 nhóm hoặc 50 kênh thoại độc lập.
Ở mức tiếp theo, 10 siêu nhóm được ghép kênh để tạo lên một
nhóm chủ -master group. Một master group phải có băng tần 2.40 MHz, nhưng
chúng cần các băng tần bảo vệ giữa các kênh nên cần thiết phải tăng băng tần
lên 2.52 MHz. Các master group hỗ trợ lên tới 600 kênh âm thoại.
Cuối cùng, 6 master group có thể được tổ hợp thành một nhóm cực lớn
gọi là jumbo group. Một jumbo group phải có băng tần 15.12 MHz (5 x 2.52)
nhưng do cần thêm băng tần bảo vệ nên một jumbo group cần có băng tần là
16.984 MHz để cho phép bảo về băng tầng giữa các master group.

88
Hình 8.24 Đường tương tự phân cấp

Có nhiều thể loại đường truyền tương tự theo phân cấp trong nền công nghiệp
viễn thông. Tuy nhiên do đường truyền tương tự theo phân cấp được thay thể
bằng các dịch vụ số trong thời gian sắp tới nên chúng ta chỉ giới hạn cuộc bàn
luận này đến hệ thống kể trên.

Các dịch vụ đường truyền số -Digital Services


Gần đây, các công ty điện thoại bắt đầu cung cấp các dịch vụ đường truyền số
cho các thuê bao của họ. Một trong những ưu điểm của các dịch vụ đường
truyền số là ít bị tác động của nhiễu hơn so với dịch vụ đường truyền tương tự.
Một đường thoại hoạt động như là một ăng ten và sẽ nhặt bỏ nhiễu trong suốt
quá trình truyền tương tự cũng như số. Trong truyền phát tương tự, cả tín hiệu và
nhiễu đều là tương tự và do đó không thể tách lọc một cách dễ dàng. Trong
truyền phát tín hiệu số, thì tín hiệu là số còn nhiễu là tương tự. Do đó tín hiệu có
thể được phân loại và tách ra một cách dễ dàng. Một ưu điểm của truyền phát tín
hiệu số là giá thành thấp. Bởi vì nó cần có sự phân biệt khác nhau chỉ giữa 2
hoặc 3 mức điện áp thay vì một dãy dài các giá trị liên tục, thiết bị truyền phát
tín hiệu số sử dụng ít năng lượng điện hơn khi truyền phát so với thiết bị truyền
phát tín hiệu tương tự.
Chúng ta sẽ xem xét 3 kiểu dịch vụ đường truyền số khác nhau:
Switched/56, DDS, và DS (hình 8.25)

Dịch vụ Switched/56
Switched 56 là một phiên bản số của một đường truyền chuyển mạch tương tự.
Nó là một dịch vụ đường truyền số chuyển mạch cho phép tốc độ dữ liệu lên đến
56 Kbps/ Với dịch vụ đường truyền này, tất cả các bên đều phải tham gia. Một
người gọi với dịch vụ điện thoại thông tường không thể kết nối tới một máy điện
thoại hay máy tính bằng switched/56 thậm chỉ có sử dụng một modem.
89
Hình 8.27 Dịch vụ DDS

Dịch vụ tín hiệu số DS –Digital Signal Service


Sau khi đã cung cấp các dịch vụ switched/56 và DDS, các công ty điện
thoại thấy rằng cần thiết phải phát triển một hệ thống phân cấp các dịch vụ
đường truyền số giống như những gì đã triển khai đối với hệ thống phân cấp các
dịch vụ đường truyền tương tự. Bước tiếp theo là dịch vụ DS. DS là một hệ phân
cấp các tín hiệu số. Hình 8.28 thể hiện tốc độ dữ liệu ở từng mức

• Một dịch vụ DS-0 tương đồng với DDS. Nó là một kênh truyền số đơn có
tốc độ tối đa 64 Kpbs.
• DS-1 là dịch vụ 1.544 Mbps: 1.544 Mbps gấp 24 lần đường 64 Kbps cộng
thể 8 Kbps hao phí phụ trội. Nó có thể được sử dụng như là một dịch vụ
đơn đối với các truyền phát 1.544 Mbps, hoặc nó có thể được sử dụng để
ghép 24 kênh DS-0 hoặc có thể mang bất kỳ tổ hợp nào khác được yêu
cầu bởi người dùng trong khoảng thông lượng 1.544 Mbps.

90
• DS-2 là một dịch vụ 6.312 Mbps: 6.312 Mbps gấp 96 lần 64 Kbps + 168
Kbps cho hao phí phụ trội. Nó có thể được sử dụng như là một dịch vụ
truyền dẫn đơn 6.312 Mbps hoặc có thể được sử dụng ghép kênh 4 kênh
DS-1, 96 kênh DS-0 hoặc một là sự kết hợp những kiểu dịch vụ này.
• DS-3 là một dịch vụ 44.736 Mbps: 44.736 Mbps bằng 672 lần 64 Kbps +
1.638 Mbps hao phí phụ trội. Nó có thể được sử dụng như là một dịch vụ
truyền dẫn đơn 44.736 Mbps hoặc có thể được sử dụng để ghép 7 kênh
DS-2, 28 kênh DS-1, 672 kênh DS-0 hoặc có thể là sự kết hợp của các
kiểu dịch vụ này.
• DS-4 là một dịch vụ 274 .176 Mbps: 274.176 Mbps =4032 x 64 Kbps+
16.128 Mbps hao phí phụ trội. Nó có thể được sử dụng để ghép 6 kênh
DS-3, 42 kênh DS-2, 168 kênh DS-1, 4032 kênh DS-0 hoặc có thể là sự
kết hợp của các kiểu dịch vụ này.

Các đường T – T lines


DS-0, DS-1 vv.. cùng được gọi là các dịch vụ. Để thực hiện các dịch vụ này, các
công ty điện thoại sử dụng các đường T (T-1 tới T-4). Những đường ngày có các
thông lượng ăn khớp một cách chính xác với các tốc độ dữ liệu của DS-1 đến
DS-4 (xem bảng 8.1).

Bảng 8.1 DS và các tốc độ đường T

Dịch vụ Đường Tốc độ (Mbps) Số kênh âm thoại


DS-1 T-1 1.544 24
DS-2 T-2 6.312 96
DS-3 T-3 44.736 672
DS-4 T-4 274.176 4032

T-1 được sử dụng để thực hiện DS-1, T-2 được sử dụng để thực hiện DS-2…
Như chúng ta thấy trên bảng 8.1, DS-0 thực tế không đạt được chất lượng dịch
vụ nhưng về cơ bản nó được xác định cho mục đích tham khảo. Các công ty
điện thoại tin rằng khách hàng cần mức dịch vụ được thấy trong DS-0 có thể
thay thế DDS.

Các đường T cho truyền dẫn tương tự. Các đường T là các đường truyền số
được sử dụng cho mục đích truyền dữ liệu số, âm thoại hoặc các tín hiệu âm
thanh. Tuy nhiên, chúng cũng có thể được sử dụng cho truyền dẫn tương tự
( thường là các đường điện thoại), các tín hiệu tương tự này được lấy mẫu trước,
sau đó được ghép kênh theo thời gian.
Tính khả thi khi sử dụng các đường T như các đường truyền tương tự mở ra các
dịch vụ thể hệ mới cho các công ty điện thoại. Trước đó, khi một tổ chức muốn
có 24 đường điện thoại riêng lẻ, thì cần phải đi 24 dây cáp xoắn đôi từ công ty
đến tổng đài. Ngày nay, những tổ chức đó có thể tích hợp 24 đường riêng biệt đó
trong một đường T-1 và chỉ chạy một đường T-1 tới tổng đài. Hình 8.29 thể hiện

91
24 kênh thoại được ghép kênh trên một đường T-1 (Xem chương 5 để biết chi
tiết về điều chế xung mã PCM).

Hình 8.29. Đường T-1 cho ghép kênh các đường điện thoại

Frame của T-1. Như đã đề cập tới ở trên, DS-1 cần có 8 Kbps hao phí phụ trội.
Để hiểu hao phí này được tính toán như thế nào, chúng phải xem xét định dạng
của 24 frame của kênh âm thoại.
Frame được sử dụng trong đường T-1 thường là 193 bit được chia thành 24
khoảng 8 bit cộng với 1 bit bổ sung cho đồng bộ hóa (24x8 +1=193); xem hình
8.30. Hay nói cách khác mỗi khoảng chứa một phân đoạn tín hiệu từ mỗi kênh;
24 phân đoạn được đan xen trong một frame. Nếu một T-1 có thể mang 8000
frame thì tốc độ dữ liệu sẽ là 1.544 Mbps (193 x8000=1.544 Mbps) – đó chính
là thông lượng của đường truyền.

Hình 8.30 Cấu trúc frame của T-1

92
Các đường T phân đoạn - Fractional T lines. Nhiều thuê bao không cần toàn bộ
thông lượng của một đường truyền T. Để cung cấp những yêu cầu này cho khách
hàng, các công ty điện thoại đã phát triển ra các dịch vụ đường T phân đoạn –
Fractional T line mà cho phép nhiều thể bao có thể chia sẻ cùng một đường
truyền bằng cách ghép kênh các truyền dẫn của họ.
Ví dụ, đối với một công ty kinh doanh cỡ nhỏ có thể chỉ cần ¼ thông
lượng đường truyền T-1. Nếu 4 công ty cỡ nhỏ có các văn phòng ở trong cùng
một toà nhà thì họ có thể chia sẻ một đường T-1. Để làm được điều này, họ điều
hướng các truyền dẫn qua một thiết bị được gọi là đơn vị dịch vụ số DSU-
Digtial Service Unit/ Đơn vị dịch vụ kênh – CSU – Chanel Service Unit. Thiết
bị này cho phép chia thông lượng của đường truyền thành 4 kênh đan xen (xem
hình 8.31).

Hình 8.31 Đường T-1 phân đoạn

93
Các đường E – E lines.
Những người Châu Âu sử dụng một phiên bản của các đường T được gọi là các
đường E. Hai hệ thống này đều có đặc điểm chung, nhưng thông lượng của
chúng khác nhau. Bảng 8.2 thể hiện các thông lượng của đường T và E.

Hình 8.2 Các tốc độ dữ liệu cuả đường E

Đường Tốc độ (MBps) Số các kênh âm thoại


E-1 2.048 30
E-2 8.448 120
E-3 34.368 480
E-4 139.264 1920

Các dịch vụ ghép kênh khác


Chúng ta đã bạn luận về kỹ thuật ghép kênh qua các đường truyền vật lý, nhưng
ghép kênh cần gắn với hiệu quả sử dụng của cả truyền phát của vệ tinh mặt đất,
vệ tinh sóng viba. Ngày nay, các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại đang giới thiệu
các dịch vụ mạnh khác, như là ISDN, SONET, và ATM, tất cả đề phụ thuộc vào
kỹ thuật ghép kênh. Những dịch vụ này sẽ được bàn luận kỹ hơn từ chương 16
đến chương 20.

8.6 CÁC ĐƯỜNG THUÊ BAO SỐ - DSL (Digital Subcriber Line)


Một trong những ví dụ về ghép kênh, tách kênh và điều chế là một công nghệ
được gọi là dòng DSL. DSL là công nghệ mới hơn sử dụng các mạng truyền
thông hiện có như là đường điện thoại cục bộ để cung cấp dịch vụ truyền dữ
liệu, âm thoại và đa phương tiện với tốc độ cao.
DSL là một dòng các công nghệ: 5 trong số chúng sẽ được bàn luận trong
phần này: ADSL, RADSL, HDSL, VDSL và SDSL.

ADSL – Đường thuê bao số bất đối xứng


Các công ty điện thoại đã cài đặt các mạng cục bộ số tốc độ cao để xử lý truyền
thông giữa các văn phòng trung tâm của họ. Tuy nhiên, đường kết nối giữa
người dùng (các thuê bao) và mạng của họ vẫn là các đường tín hiệu tương tự.
Thử thách ở đây là biến các đường đó thành các đường truyền số - một đường
thuê bao số- mà không cần thay thế các đường điện thoại. Các đường điện thoại
này là một đường cáp xoắn đôi với băng tần khá tiếm năng khoảng 1Mhz hoặc
nhiều hơn.
Đường ADSL là không đối xứng, điều đó có nghĩa là nó cung cấp tốc độ
bit cao hơn theo hướng tải xuống – down stream (từ văn phòng trung tâm của
công ty điện thoại) xuống các thuê bao so với tốc độ bit theo hướng tải lên (up
stream) ) (từ phía khách hàng đến trung tâm của công ty điện thoại). Những gì
mà các thuê bao muốn ở đây là họ muốn nhận các file có kích cỡ lớn nhanh
chóng từ Internet, và họ thường có các file cỡ nhỏ, như là một thông điệp email
cần gửi đi.

94
ADSL chia băng tần của một cáp xoắn đôi thành 3 dải tần. Dải tần đầu
tiên thường nằm trong khoảng từ 0 đến 25 KHz, được sử dụng cho các dịch vụ
điện thoại thông thường. Dịch vụ này chỉ sử dụng 4 KHz của dải tần này; phần
còn lại được sử dụng làm dải tần bảo vệ để tách kênh âm thoại khỏi các kênh dữ
liệu. Dải tần thứ 2 thường từ 25 đến 200 KHz, được sử dụng cho truyền thông
dòng lên (upstream). Dải tần thư 3 thường tư 250 Khz đến 1 Mhz, được sử dụng
cho truyền thông dòng xuống (down stream). Một số triển khai thực hiện chồng
dải tần dòng xuống và dòng lên để cung cấp nhiều băng tần hơn cho hướng dòng
xuống. Hình 8.32 thê hiện các dải tần này

Hình 8.32. Các dải tần ADSL

Các kỹ thuật điều chế


Một số triển khai của ADSL đầu tiên sử dụng một số kỹ thuật điều chế được gọi
là điều chế theo biên độ không sóng mang/pha CAP (Carrier-less
Amplitude/Phase). Sau đó, một kỹ thuật điều chế khác, được biết đến với cái tên
DMT – Discrete Multi tone và sau đó được chuẩn hóa bởi ANSI.

CAP – Carrierless Amplitude/Phase là một kỹ thuật điều chế tương tự như


QAM, nhưng với một sự khác biệt quan trọng là tín hiệu sóng mang được loại
trừ. Tuy nhiên, kỹ thuật này phức tạp hơn QAM và không được thành tiêu
chuẩn.

DTM (Discrete multition Technique) kết hợp QAM và FDM. Băn tần sẵn có
cho từng hướng được chia thành các kênh 4 KHz, mỗi kênh có tần số sóng mang
riêng.

Hình 8.33 thể hiện khái niệm của DTM với N kênh. Các bít được tạo ra
bởi nguồn được truyền qua một bộ chuyển đổi nối tiếp-sang-song song, khi một
khối N bit được chia thành N đường song song, mỗi đường chứa một bit. Các tín
hiệu QAM được tạo từ từng đường là tần số đương ghép kênh với nhau và tín
hiệu kết quả được gửi lên đường truyền.

95
Hình 8.33 DMT

Tiêu chuẩn ANSI quy định tốc độ 60 Kbps cho từng kênh 4 KHz, điều đó có
nghĩa là một điều chế QAM với 15 bit/baud.
• Kênh tải lên thường chiếm khoảng 25 kênh, điều đó có nghĩa là một tốc
độ bit bằng 25 x 60 Kbps hay 1.5 Mbps. Tuy nhiên, thông thường, tốc độ
bit của hướng tải này nằm trong khoảng từ 64 Kbps đến 1 Mbps tùy thuộc
vào độ nhiễu.
• Kênh tải xuống thường chiếm 200 kênh, có nghĩa là một tốc độ bit 200 x
60 Kbps, hay 12 Mbps. Tuy nhiên, thông thường tốc độ bit theo hướng
này trong khoảng từ 500 Kbps đến 8 Mbps tùy thuộc vào độ nhiễu.

Hình 8.34 thể hiện ADSL và các tốc độ bit theo từng hướng khác nhau

RADSL
Đường thuê bao số bất đối xứng thích nghi RADSL (Rate Adaptive
Digital Subcriber Line) là một công nghệ dựa trên ADSL. Nó cho phép nhiều
tốc độ dữ liệu khác nhau phụ thuộc kiểu truyền thông: âm thoại, dữ liệu, đa
phương tiện…Các tốc độ khác nhau cũng có thể được áp dụng cho các thuê bao

96
dựa vào nhu cầu của họ về băng tần. RADSL thực sự có lợi cho các khách hàng
bởi vì chi phí của nó dựa trên tốc độ dữ liệu cần thiết.
HDSL
Đường thuê bao số tốc độ cao HDSL (High bit rate Digital Subcriber
Line) được thiết kế bởi BellCore (bây giờ được gọi là Telcordia) là một dạng
khác của đường T-1 (1.544 Mbps). Đường T sử dụng mã hóa AMI, đường này
rất dễ bị suy hao ở các tần số cao. Điều này làm hạn chế chiều dài của đường T 1
km. Để cho các khoảng cách xa hơn cần phải có các bộ lặp ( amplifier) điều đó
cùng đồng nghĩa với chi phí tăng.
HDSL sử dụng mã hóa 2B1Q (xem chương 16) ít bị suy hao. Một tốc độ
dữ liệu luôn giữ ổn định 2 Mbps có thể đạt được mà không cần đến các bộ lặp
và cho khoảng cách 3.6 Km. HDSL sử dụng 2 đường cáp xoắn đôi để đạt được
truyền phát song công toàn phần.

SDSL
Đường thuê bao số đối xứng Symetric Digital Subcriber Line cũng giống HDSL
nhưng chỉ sử dụng một đường cáp xoắn đôi hầu như đã có sẵn đến từng thuê
bao, để đạt được tốc độ dữ liệu như HDSL. Một kỹ thuật được gọi là echo
cancellation được sử dụng để tạo ra truyền phát song công toàn phần.

VDSL
Đường thuê bao số tốc độ bit rất cao, một cách tiếp cận khác giống như ADSL,
sử dụng cáp đồng trục, cáp quang, hoặc cáp xoắn đôi cho các khoảng cách ngắn
( khoảng 200 đến 1800 mét). Kỹ thuật điều chế là DMT với tốc độ bit từ 50 đến
55 Mbps cho tốc độ tải xuống và từ 1.5 đến 2.5 Mbps cho tốc độ tải lên.

8.7 FTTC
Cáp quang có nhiều ưu điểm, không bị nhiễu và cho băng tần cao. Tuy nhiên,
khi so sánh với các kiểu cáp khác, nó rất đắt tiền. Các công ty điện thoại và TV
đã tạo ra một phương pháp được gọi là fiber to the curb (FTTC) để sử dụng với
cáp quang trong khi vẫn giảm được chi phí.

FTTC trong mạng điện thoại


Hệ thống điện thoại sử dụng các cáp quang để kết nối và ghép kênh nhiều
kênh thoại. Các cáp xoắn đôi có lưới bọc chống nhiễu đến từ các căn hộ cá nhân
được ghép kênh trong các hộp nối và được chuyển thành các tín hiệu quang. Các
tín hiệu quang tại các trạm chuyển mạch được điều chế sử dụng WDM tạo ra các
tín hiệu quang có băng tần cao (xem hình 8.35).

97
Hình 8.35 FTTC trong mạng điện thoại

FTTC trong mạng truyền hình cáp


Hệ thống truyền hình cáp sử dụng các cáp quang để kết nối và ghép nhiều kênh
khác nhau trên đường cáp. Các cáp đồng trục đến từ các hộ gia đình được điều
chế từ các hộp nối và được chuyển đổi thành các tín hiệu quang. Các tín hiệu
quang tại các trạm chuyển mạch được ghép kênh sử dụng WDM để tạo ra các tín
hiệu quang có băng tần rộng hơn (xem hình 8.36).

98
CHƯƠNG 9.
DÒ TÌM VÀ SỬA LỖI
Các mạng phải có khả năng cho phép truyền dữ liệu từ một thiết bị đến thiết bị
khác với độ chính xác cao. Một hệ thống không thể đảm bảo rằng dữ liệu nhận
được bởi một thiết bị là hoàn toàn giống với dữ liệu được truyền phát từ một
thiết bị khác là một hệ thống vô dụng. Tại bất kỳ thời điểm nào dữ liệu được
truyền đi từ nguồn tới đích, chúng có thể trở nên bị sai lạc trên đường truyền.
Trong thực tế, người ta thấy rằng chỉ một phần nào đó của thông điệp bị thay đổi
trên đường truyền. Có nhiều yếu tố, bao gồm nhiều đường truyền có thể thay đổi
hoặc làm mất một hoặc một số bit của một đơn vị dữ liệu. Các hệ thống đáng tin
cậy phải có cơ chế cho phép dò tìm và sửa những lỗi đó.

Dữ liệu có thể bị sai lệch trong quá trình truyền. Đối với một truyền thông đáng
tin cậy, các lỗi phải được dò tìm và sửa chữa.

Dò tìm và sửa lỗi được thực hiện ở tầng liên kết dữ liệu hoặc tầng giao vận của
mô hình OSI.

9.1 CÁC KIỂU LỖI

Bất cứ khi nào một tín hiệu điện từ di chuyển từ một điểm này tới điểm khác, nó
dễ bị nhiễu không đoán trước từ sức nóng, từ tính và các dạng của của điện. Sự
nhiễu này có thể làm thay đổi hình dạng và thời gian của tín hiệu. Nếu tín hiệu
mang dữ liệu nhị phân được mã hóa, những thay đổi như thế có thể làm thay đổi
ý nghĩa của dữ liệu. Trong một lỗi đơn bit, một bit 0 được thay đổi thành 1 hoặc
1 thành 0. Trong một lỗi hàng loạt bit, nhiều bit bịt thay đổi. Ví dụ một nhiễu
xung hàng hoạt kéo dài 0.01 giây trên đường truyền cùng với một tốc độ dữ liệu
1200 bps có thể thay đổi tất cả hoặc một vài bit trong 12 bit thông tin (xem hình
91.).

Hình 9.1 Các kiểu lỗi

99
100
Lỗi bit đơn
Thuật ngữ lỗi bit đơn có nghĩa là chỉ một bit của một đơn vị dữ liệu (như là một
byte ký tự, đơn vị dữ liệu, hoặc một gói tin) bị thay đổi từ 1 thành 0 và tư 0 đến
1.
Trong lỗi bit đơn, chỉ một bit trong đơn vị dữ liệu bị thay đổi

Hình 9.2 thể hiện ảnh hướng của lỗi bit đơn trên một đơn vị dữ liệu. Để hiểu tầm
ảnh hướng của thay đổi đó, chúng ta hình dung rằng mỗi nhóm 8 bit là một ký tự
ASCII với một bit 0 được bổ sung vào bên trái. Trong hình vẽ, 00000010
(ASCII STX) được gửi đi, có nghĩa là ký tự bắt đầu, nhưng bên nhận lại nhận
được 00001010 (ASCII LF- line feed) .

Hình 9.2. Lỗi bit đơn

Các lỗi bit đơn là kiểu lỗi ít xảy ra trong truyền dữ liệu nói tiếp. Để hiểu lí do tại
sao, ta hãy hình dùng người gửi thực hiện gửi dữ liệu với tốc độ 1 Mbps. Điều
đó có nghĩa là một bit chỉ kéo dài trong khoảng 1/1.000.000 giây hay 1 micro
giây. Để lỗi bit đơn xảy ra, nhiễu phải nằm trong khoảng 1 micro giây, điều đó ít
khi xảy ra; nhiễu thường kéo dài hơn nhiều so với khoảng đó.
Tuy nhiên, lỗi bit đơn có thể xảy ra nếu chúng ta gửi dữ liệu sử dụng
truyền dữ liệu song song. Ví dụ, nếu có 8 đường song song được sử dụng để gửi
tất cả 8 bit của một byte ở cùng một thời điểm, một trong những đường đó bị
nhiễu, một bit có thể bị thay đổi trong mỗi byte. Ví dụ như thực hiện truyền dẫn
song song trong một máy tính giữa CPU và bộ nhớ.

Lỗi hàng loạt- Burst Error


Thuật ngữ lỗi hàng loạt nghĩa là có 2 hay nhiều bit trong đơn vị dữ liệu có thay
đổi bit 1 thành bit 0 và từ 0 thành 1.

Hình 9.3 thể hiện ảnh hướng của một lỗi bit hàng loạt trên một đơn vị dữ liệu.
Trong trường hợp này, 0100010001000011 được gửi, nhưng bên nhận thì nhận
được 0101110101000011. Chú ý là lỗi bit hàng loạt không phải luôn luôn có
nghĩa là xảy ra ở các bit liên tiếp nhau. Chiều dài của một loạt được định lượng
từ bit bịt lỗi đầu tiên tới bit bị lỗi cuối cùng. Một số bit nằm giữa có thể không bị
ảnh hưởng.

101
Hình 9.3 Lỗi hàng loạt có độ dài bằng 5

9.2 DÒ TÌM LỖI – DETECTION


Câu hỏi đặt ra là nếu chúng ta biết kiểu lỗi thì chúng ta có thể nhận diện
chúng? Nếu chúng ta có một bản sao của truyền dẫn để so sánh, tất nhiên
chúng ta có thể. Nhưng nếu như chúng ta không có bản sao của truyền dẫn
gốc thì sao? Khi đó chúng ta sẽ không có cách nào để biết chúng ta vừa
nhận một lỗi hay không cho đến khi chúng ta giải mã truyền dẫn đó. Để một
máy có thể kiểm tra các lỗi theo cách này, chi phí cũng như tốc độ sẽ chậm.
Chúng ta không cần một hệ thống ở đó các máy tính giải mã bất kỳ cái gì
mà chúng nhận được và sau đó cố gắng quyết định xem liệu bên gửi có thực
sự sử dụng từ glbrshnif hay không trong khoảng giữa của một mảng thông
tin về thống kê thời tiết. Những gì chúng ta cần là một cơ chế cho phép
công việc được thực hiện đơn giản mà vẫn đạt được các mục tiêu đề ra.

Phương pháp dò dùng dư thừa - Redundancy


Một cơ chế dò tìm lỗi phải thoả mãn những yêu cầu đặt ra cần phải gửi tất
cả dữ liệu 2 lần. Thiết bị nhận sau đó sẽ có thể thực hiện công việc so sánh
bit-bit giữa hai phiên bản dữ liệu. Bất kỳ sự khác nhau nào sẽ chỉ bảo một
lỗi và một cơ chế sửa lỗi phù hợp sẽ được thiết lập tại đó. Hệ thống này sẽ
hoàn thành một cách chính xác (các lỗi bít lẻ được đưa ra bằng đúng các bit
trong cả hai tập dữ liệu là rất nhỏ), nhưng cách này cũng khá chậm, Không
chỉ mất gấp đôi thời gian cho việc truyền dẫn mà còn mất thời gian cho quá
trình so sánh từng đơn vị bit-bit.
Khái nhiệm bao gộp thông tin bổ sung trong truyền dẫn chỉ dành cho
mục đích so sánh là một cách tốt. Nhưng thay vì lặp lại toàn bộ dòng dữ
liệu, một nhóm nhỏ hơn các bit có thể được ghép thêm vào cuối mỗi đơn vị.
Kỹ thuật này được gọi là dư thừa – redundancy bởi vì các bit phụ thêm là
dư thừa đối với dữ liệu thông tin; chúng sẽ bị loại bỏ ngay khi độ chính xác
của truyền dẫn được xác nhận.
Dò tìm lỗi sử dụng khái niệm về dư thừa có nghĩa là ghép thêm các
bit phụ thêm cho việc dò tìm lỗi tại thiết bị nhận.

102
Hình 9.4 thể hiện quá trình sử dụng các bit dư thừa để kiểm tra độ
chính xác của một đơn vị dữ liệu. Một khi dòng dữ liệu được tạo ra, nó
truyền qua một thiết bị và thiết bị này thực hiện phân tích dòng dữ liệu, bổ
sung một mã kiểm tra dư thừa một cách hợp lý. Đơn vị dữ liệu giờ có chiều
dài được mở rộng thêm nhiều bit (trong hình minh họa là 7 bit thêm), đi qua
đường kết nối tới bên nhận. Bên nhận chuyển toàn bộ dòng dữ liệu đó qua
một bộ phận chức năng kiểm tra. Nếu dòng bit nhận được kiểm tra dựa vào
các tiêu chuẩn xác định, phần dữ liệu của đơn vị dữ liệu được chấp nhận và
các bit dư thừa được loại bỏ.

Hình 9.4. Mô hình hoạt động của kỹ thuật dư thừa

Có 4 kỹ thuật kiểm tra kiểu dư thừa được sử dụng trong truyền số liệu;
kiểm tra VRC (Vertical redundancy Check) hay còn được gọi là kiểm tra
chẵn lẻ, kỹ thuật LRC (Longitudinal Redundancy Check), kỹ thuật CRC
(Cyclical Redundancy Check) và CheckSum. Ba kỹ thuật đầu tiên VRC,
LRC và CRC thường được thực hiện trong tầng vật lý cho mục đích sử
dụng trong tầng liên kết dữ liệu, còn kỹ thuật thứ 4- Checksum được sử
dụng chính thức trong các tầng phía trên (xem hình 9.5)

Hình 9.5 Các kỹ thuật dò tìm lỗi

103
9.3 Kỹ thuật VRC
Cơ chế phổ biến và chi phí ít nhất cho dò tìm lỗi là kỹ thuật VRC, thường
được gọi là kiểm tra chẵn lẻ. Trong kỹ thuật này, một bit dư thừa được gọi
là bit chẵn lẻ được ghép vào mọi đơn vị dữ liệu sao cho tổng số các bit 1
trong đơn vị dữ liệu đó (bao gồm cả bit chẵn lẻ) trở thành chẵn.
Giả sử chúng ta muốn truyền một đơn vị dữ liệu nhị phần 1100001
[ theo mã ASCII là a (97)]; xem hình 9.6. Chúng ta thấy rằng số bít 1 trong
đơn vị dữ liệu là một số lẻ (3) nên chúng ta truyền nó qua một bộ sinh chẵn
lẻ. Bộ sinh chẵn lẻ đếm các số 1 và ghép thêm bit chẵn lẻ (trong trường hợp
này là một bit 1) vào cuối. Tổng số các bit một giờ là 4 và là số chẵn. Giờ
hệ thống thực hiện truyền toàn bộ đơn vị dữ liệu được mở rộng đó qua
đường truyền mạng. Khi nó đến được đích của nó, bên nhận thực hiện
chuyển toàn bộ 8 bit đó qua một bộ phận có chức năng kiểm tra tính chẵn
lẻ. Nếu bên nhận thấy 11100001, nó đếm bốn số 1, một số chẵn, đơn vị dữ
liệu được qua. Nhưng nếu đơn vị dữ liệu bị hưu hại trong quá trình truyền
thì sao? Sẽ ra sao thay vào đó đơn vị dữ liệu nhận được không phải là
11100001 mà là 11100101? Khi đó bộ phận kiểm tra chẵn lẻ đếm số các số
1, nó đếm được 5 số 1 và đó là một số lẻ. Bên nhận biết rằng lỗi đó phát
sinh trong dữ liệu ở đó đó và do đó thực hiện loại bỏ toàn bộ đơn vị dữ liệu
đó.
Trong kỹ thuật VRC, một bit chẵn lẻ được bổ sung vào tất cả các đơn
vị dữ liệu sao cho tổng số bit 1 trong đơn vị dữ liệu trở thành một số chẵn.

Hình 9.6 Khái niệm về kỹ thuật kiểm tra chẵn lẻ VRC

Chú ý rằng để cho đơn giản, chúng ta chỉ bản luận về kiểm tra chẵn lẻ ở đó số
các bít 1 sẽ là một số chẵn. Trong một vài hệ thống có thể sử dụng kiểm tra tính
lẽ chẵn (odd parity). Nguyên tắc thì giống nhau nhưng việc tính toán thì khác
nhau.

Ví dụ 9.1
Hình dung rằng bên gửi muốn gửi từ “world” bằng mã ASCII, 5 ký tự này
sẽ tạo thành chuỗi mã nhị phân sau:

104
1110111 1101111 1110010 1101100 1100100
W o r l d

4 ký tự đầu tiên được mã hóa thành chuỗi dãy các bit có tổng số bit 1 là chẵn, vì
vậy bit chẵn lẻ là 0. Tuy nhiên ký tự cuối cùng “d” có số bit 1 là 3 (một số lẻ), vì
vậy bit chẵn lẻ là 1 vì vậy nó được bổ sung vào dãy bit để tổng số bit trong dãy
bit là một số chẵn. Dưới đây thể hiện các bit thực sự được gửi (các bit chẵn lẻ
được gạch chân)
1110111 1101111 1110010 1101100 11001001

Ví dụ 9.2
Giả sử chúng ta có từ “world” trong ví dụ trước, nhận được bởi bên nhận và
không bị lỗi trong quá trình truyền
1110111 1101111 1110010 1101100 11001001

Bên nhận đếm số các bit một trong từng ký tự và cuối cùng đếm được toàn bộ là
các số chẵn (6, 6 ,4 ,4 , 4). Dữ liệu được chấp nhận.

Ví dụ 9.3
Giờ giả sử rằng chúng ta có từ “world” như trong ví dụ 9.1, nhận được bởi bên
nhận những bị lỗi trong quá trình truyền.
1111111 1101111 1110010 1101100 11001001
Bên nhận đếm số các bit một trong từng ký tự và kết quả được các số chẵn và số
lẻ (7, 6, 4, 4, 4). Bên nhận biết rằng dữ liệu đã bị lỗi, loại bỏ chúng và yêu cầu
việc truyền lại.

Hiệu quả của kỹ thuật VRC


VRC có thể dò tìm tất cả các lỗi bit đơn. Nó cũng có thể do tìm các lỗi
hàng loạt bit miễn là tổng số các bit thay đổi luôn là số lẻ ( 1, 3, 5…). Chúng ta
hãy lấy ví dụ một đơn vị dữ liệu chẵn lẻ ở đó tổng số các bit 1 bao gồm bit kiểm
tra chẵn lẻ là 6: 1000111011. Nếu bất kỳ 3 bit nào thay đổi giá trị, kết quả chẵn
lẻ sẽ là lẻ và lỗi sẽ được dò tìm: 1111111011: 9, 0110111011:7, 1100010011:5.
Bộ kiểm tra VRC sẽ trả về một kết quả là 1 và đơn vị dữ liệu bị loại bỏ. Điều
này cũng đúng đối với bất kỳ lỗi kiểu bit lẻ nào.
Tuy nhiên, giả sử có 2 bit của đơn vị dữ liệu bị thay đổi: 1110111011:8,
1100011011:6, 1000011010:4. Trong mỗi trường hợp số các bit 1 trong đơn vị
dữ liệu vẫn luôn là chẵn. Bộ kiểm tra VRC không thể dò tìm khi tổng số các bit
bị thay đổi là chẵn. Nếu bất kỳ hai bit nào thay đổi trong truyền dẫn, những thay
đổi này loại bỏ lẫn nhau và đơn vị dữ liệu vẫn qua được kiểm tra tính chẵn lẻ
thậm chí đơn vị dữ liệu bị hư hại. Điều này cùng đúng đối với bất kỳ lỗi số chẵn
nào.
VRC có thể dò tìm mọi kiểu lỗi đơn. Nó có thể dò tìm các lỗi loạt bit khi và chỉ
khi tổng số các lỗi trong mỗi đơn vị dữ liệu là lẻ.

105
9.4 Kỹ thuật LRC (Longitudinal Redundancy Check)
Trong kỹ thuật LRC, một khối các bit được tổ chức trong một bảng (các
hàng và các cột). Ví dụ, thay vì gửi một khối 32 bit, chúng ta tổ chức chúng
thành trong một bảng tạo bởi 4 hàng và 8 cột, như được thể hiện trong hình 9.7.
Sau đó chúng ta tính toán bit chẵn lẻ cho từng cột và tạo ra một hàng mới 8 bit,
các hàng đó là các bit kiểm tra tính chẵn lẻ cho toàn khối. Chú ý là bit chẵn lẻ
đầu tiên trong hàng thứ 5 được tính dựa vào tất cả các bit đầu tiên. Bit chẵn lẻ
thứ 2 được tính toán dựa trên trên tất cả các bit thứ 2, vân vân…
Sau đó chúng ta có thể đính kèm 8 bit chẵn lẻ vào dữ liệu gốc và gửi chúng
tới bên nhận.

Hình 9.7 LRC

Trong kỹ thuật kiểm tra LRC, một khối các bit được chia thành các hàng và
một hàng các bit dư thừa được thêm vào toàn khối.
Hình 9.4
Giả sử khối sau được gửi đi
10101001 00111001 11011101 11100111 10101010
(LRC)

Tuy nhiên, nó gặp phải nhiều có độ dài 8 bit, và một số bit bị hưu hại
10100011 10001001 11011101 11100111 10101010
(LRC)
Khi bên nhận kiểm tra LRC, một số bit không theo nguyên tắc chẵn-lẻ
(even-parity) và toàn bộ khối bị loại bỏ (sự không so khớp được thể hiện ở dưới
dạng in đậm)

10100011 10001001 11011101 11100111 10101010


(LRC)

106
Hiệu quả của kỹ thuật LRC
LRC là kỹ thuật tăng cường khả năng dò tìm các lỗi bit hàng loạt. Như ví dụ
trước chúng ta đã thấy, một LRC của n bit có thể dễ dàng dò tìm một lỗi loạt bit
của n bit. Một lỗi hàng loạt của nhiều hơn n bit cũng được dò tìm qua LRC với
khả quan rất cao. Tuy nhiên, khi ở đó có một mẫu các bit vẫn chưa khắc phục
được. Nếu 2 bit trong một đơn vị dữ liệu bịt thay đổi và hai bit ở cùng đúng vị
trí trong đơn vị dữ liệu khác cũng bị hưu hại, Bộ kiểm tra LRC sẽ không dò tìm
thấy lỗi. Ví dụ, ay xem xét có 2 đơn vị dữ liệu: 11110000 và 11000011. Nếu các
bit đầu tiên và các bit cuối cùng trong từng đơn vị dữ liệu đó bị thay đổi, tạo ra
các đơn vị dữ liệu được đọc là 01110001 và 01000010, lỗi đó không thể được dò
tìm bởi LRC.

9.5 Kỹ thuật kiểm tra vòng – CRC (Cyclic Redundancy Check)


Kỹ thuật thứ 3 và là kỹ thuật mạn nhất trong các kỹ thuật kiểm tra dư thừa
đó là kỹ thuật kiểm tra vòng – CRC. Không giống như kỹ thuật VRC và
LRC dựa chủ yếu vào phần bit bổ sung, kỹ thuật CRC dựa trên phép chia
nhị phân. Trong CRC, thay vì thêm các bit để cùng đạt được một tính chẵn
lẻ theo mong đợi, một chuỗi các bit dư thừa được gọi là CRC hay số dư
CRC, được ghép vào cuối đơn vị dữ liệu do đó đơn vị dữ liệu kết quả có thể
chia hết cho số nhị phân thứ hai được xác định trước. Tại đích của nó, đơn
vị dữ liệu đến được chia bởi cùng số đó. Nếu tại bước này, phép chia có số
dư bằng 0, đơn vị dữ liệu được coi là còn nguyên vẹn và do đó được chấp
nhận. Nếu số dư khác không có nghĩa là đơn vị dữ liệu đó đã bị hư hại trong
quá trình truyền và do đó bị loại bỏ.
Các bit dư thừa được sử dụng bởi CRC lấy được từ phép chia đơn vị dữ liệu
theo số chia đã xác định trước; phần dư của phép chia sẽ là CRC. Để có thể
phân loại quá trình này, chúng ta bắt đầu một cách tổng quan và sau đó đi
sâu vào chi tiết hơn. Hình 9.8 cung cấp cái nhìn khái quát về ba bước cơ bản

Hình 9.8 Bộ tạo và bộ kiểm tra CRC

Bước thứ nhất, một chuỗi n bit được ghép vào đơn vị dữ liệu. Số n là một số
nhỏ hơn số các bit trong số chia xác định trước có chiều dài n+1 bit
107
Bước thứ hai, đơn vị dữ liệu mới kéo dài chia cho số chia sử dụng một quá
trình gọi là chia nhị phân. Phần dư của phép chia là CRC.
Bước thứ 3, CRC của n bit dẫn ra từ bước 2 thay thế các bit 0 được ghép
vào cuối đơn vị dữ liệu. Chú ý là CRC có thể bao gồm tất cả các bit 0.
Đầu tiên, dữ liệu được nhận, theo đó là CRC. Bên nhận coi toàn bộ chuỗi
dữ liệu đó là một đơn vị và chia nó cho cùng số chia mà đã được sử dụng trước
đó để tìm ra số dư CRC.
Nếu chuỗi đến mà không có lỗi, bộ kiểm tra CRC sẽ cho kết quả đầu ra là
số dư bằng 0 và đơn vị dữ liệu được qua. Nếu chuỗi đó bị thay đổi trong quá
trình truyền, kết quả phép chia là một số khác 0, do đó đơn vị dữ liệu không
được qua.

Bộ sinh CRC- CRC generator


Một bộ sinh CRC sử dụng phép chia modulor 2. Hình 9.9 thể hiện quát rình
này. Trong bước đầu tiên, số chia 4 bit được trừ đi từ 4 bit đầu tiên của số bị
chia. Mỗi bit của số chia được trừ đi tương ứng với bit của số bị chia mà không
cần nhớ sang bit tiếp theo cao hơn. Trong ví dụ của chúng ta, số chia 1101 được
trừ từ 4 bit của số bị chia, 1001 cho kết quả là 100 ( số 0 ở đầu của số dư được
bỏ đi).

Các bít chưa được sử dụng tiếp theo từ số bị chia sau đó được chuyển xuống
dưới để tạo ra số các bit trong số dư bằng với số các bit ở số chia. Do đó, theo
bước tiếp theo là 1000-1101=101, vân vân.

108
Trong quá trình này, số chia luôn bắt đầu với bit 1; số chia được trừ từ
một phần của số bị chia/số dư trước bằng nhau về độ dài; số chia chỉ có thể được
trừ đi từ số bị chia/số dư mà bit trái nhất của nó bằng 1. Tại bất kỳ thời điểm nào
bit trái nhất này của bị chia/số dư là 0, một chuỗi các số 0, có cùng chiều dài như
số chia, thay thế số chia trong bước đó của toàn bộ quá trình. Ví dụ, nếu số chia
có độ dài 4 bit, nó được thay thế bằng 4 số 0. (Chú ý rằng chúng ta đang xử lý
với các mẫu bit, chứ không phải với các giá trị định lượng; 0000 không giống
0.). Hạn chế này có nghĩa rằng tại bất kỳ bước nào bên trái nhất của phép trừ sẽ
là 0-0 hoặc 1-1, cả hai đều bằng 0. Vì vậy, sau phép trừ, bit bên trái nhất của số
dư sẽ luôn dẫn tới 0, do đó bit này được loại bỏ và bit tiếp theo chưa được sử
dụng của số bị chia được đẩy xuống để đưa ra số dư. Cần chú ý là chỉ có bit đầu
tiên của số dư được loại bỏ- nếu bit tiếp theo cũng là 0, nó vẫn được giữ lại, và
số bị chia/số dư cho bước tiếp theo sẽ bắt đầu với 0. Quá trình này lắp lại cho
đến khi toàn bộ số bị chia được sử dụng.

Bộ kiểm tra CRC- CRC Checker


Bộ kiểm tra CRC thực hiện chức năng một cách chính xác như bộ sinh
CRC. Sau khi nhận được dữ liệu được ghép với CRC, nó tương tự thực hiện
phép chia modulor-2. Nếu số dư tất cả bằng 0, các bit CRC được bỏ đi và dữ
liệu được chấp nhận, nếu không dòng các bit nhận được bị bỏ đi và dữ liệu được
gửi lại. Hình 9.10 thể hiện quá trình tương tự của phép chia ở bên nhận. Chúng
ta giải sử rằng không có lỗi xảy ra. Số chia do đó tất cả bằng 0 và dữ liệu được
chấp nhận.

109
Các đa thức CRC
Bộ sinh CRC (số chia) thường được biểu diễn không chỉ ở dưới dạng
chuỗi các bit 0 và 1 mà còn là một đa thức đại số (hình 9.11). Khuôn dạng của
đa thức là hữu dụng vì hai lý do: Nó ngắn, và có thể được sử dụng để chứng
minh khái niệm toán học (việc chứng minh nằm ngoài phạm vi quyền sách này).

Hình 9.11 Một đa thức

Mối quan hệ của một đa thức đối với biểu diễn nhị phân của nó được biểu hiện
trong hình 9.12.
Hình 9.12 Biểu diễn dạng đa thức của một số chia

Một đa thức sẽ được lựa chọn sao cho thỏa mãn:


• Nó sẽ không được chia hết bởi x
• Nó có thể được chia hết bởi (x+1)

Điều kiện đầu tiên đảm bảo rằng tất cả các lỗi hàng loạt bit có độ dài bằng
với độ dài của đa thức được dò thấy. Điều kiện thứ 2 đảm bảo rằng mọi lỗi
bit hàng loạt ảnh hưởng một số lẻ các bit được dò thấy (việc chứng minh nằm
ngoài phạm vi quyển sách này).

110
Ví dụ 9.5
Hiển nhiên là chúng ta không thể chọn x ( nhị phân 10) hay x2+x (nhị phân
110) làm đa thức bởi vì cả hai đều chia hết cho x. Tuy nhiên chúng ta có thể
chọn x+1 (nhị phân 11) bởi vì nó không chia hết bởi x, nhưng lại chia hết cho
x+1. Chúng ta có thể chọn x2+1 (nhị phân 101) bởi vì nó chia hết cho x+1
(phép chia nhị phân).
Các đa thức tiêu chuẩn được sử dụng phổ biến bởi các giao thức phổ biến
cho tạo CRC được thể hiện trong hình 9.13. Các số 12, 16, 32 nói tới số dư
CRC. Các số chia CRC là 13, 17 và 33 bit.
Hình 9.13 Các đa thức chuẩn

Hiệu quả của kỹ thuật của CRC


CRC là phương pháp dò tìm lỗi rất hiệu quả. Nếu số chia được chọn theo
nguyên tắc đã nếu trước đó thì:
a. CRC có thể dò tất cả các lỗi hàng loạt bit mà ảnh hưởng một số lẻ các
bit
b. CRC có thể dò tất cả các lỗi hàng loạt có chiều dài nhỏ hơn hoặc bằng
bậc của đa thức.
c. CRC có thể dò tìm với khả năng tìm thấy lỗi hàng loạt bit có chiều dài
lớn hơn bậc của đa thức.
Ví dụ 9.6.
Đa thức CRC-12 (x12+x11+x3+x+1) có bậc 12, sẽ dò tất cả các lỗi hàng loạt bit
ảnh hưởng tới một số lẻ các bit, sẽ tìm tất cả các lỗi loạt bit có độ dài nhỏ hơn
hoặc băng 12, và sẽ dò tìm tới 99.97% thời gian các lỗi loạt bit có chiều dài
bằng 12 hoặc hơn.

9.6 CHECKSUM
Phương pháp dò tìm lỗi được sử dụng bởi các giao thức ở tầng cao hơn
được gọi là checksum. Giống như VRC, LRC và CRC, checksum dựa trên khái
niệm về dư thừa- redundancy
Bộ sinh checksum
Ở bên gửi, bộ sinh checksum chia nhỏ đơn vị dữ liệu thành các phân đoạn
bằng nhau n bit (thường là 16). Các phân đoạn này được cộng vào với nhau sử
dụng phép tính phần bù số học sao cho tổng số cùng là n bit. Tổng đó sau đó
được lấy phần bù và được ghép vào cuối đơn vị dữ liệu gốc với vai trò là các bit
111
dư thừa và được gọi là trường checksum. Đơn vị dữ liệu được mở rộng được
truyền qua mạng. Vì thế nếu tổng của đơn vị dữ liệu là T thì checksum sẽ là –T
(xem hình 9.14 và 9.15).

Bộ kiểm tra Checksum


Bên nhận chia nhỏ đơn vị dữ liệu thành các phân đoạn như nói ở trên và
thêm tất cả các phân đoạn sử dụng phần bù kết quả. Nếu đơn vị dữ liệu mở rộng
toàn vẹn, giá trị tổng được tìm thấy bằng cách cộng các đơn vị dữ liệu và trường
checksum sẽ bằng 0. Nếu kết quả khác không, gói tin chứa một lỗi và bên nhận
loại bỏ gói này.

Hình 9.14 Checksum

Bên gửi sẽ thực hiện các bước sau:


• Đơn vị dữ liệu được chia thành k phần, mỗi phần n bit
• Tất cả các phần được cộng với nhau sử dụng phép lấy phần bù để lấy
được tổng.
• Tổng được lấy phần bù và trở thành checksum.
• Checksum được gửi đi cùng với dữ liệu

Hình 9.15 đơn vị dữ liệu và Checksum


cả

112
Bên nhận thực hiện các bước sau:
• Đơn vị dữ liệu được chia thành k phần, mỗi phần n bit
• Tất cả các phần được cộng với nhau sử dụng phép lấy phần bù để lấy
được tổng.
• Tổng đó được lấy phần bù
• Nếu kết quả bằng 0, dữ liệu được chấp nhận, bằng không chúng bị loại
bỏ.

Ví dụ 9.7
Giải sử khối 16 bit được gửi đi sử dụng một checksum 8 bit

10101001 00111001

Các số được cộng với nhau sử dụng phép lấy phần bù số học:

10101001
00111001
------------
Tổng 11100010
Checksum 00011101
Mẫu được gửi đi sẽ là:
10101001 00111001 00011101

Ví dụ 9.8
Giờ chúng ta giả sử rằng bên nhận nhận được mẫu ở ví dụ 9.7 và không có
lỗi:
10101001 00111001 00011101
Khi bên nhận cộng ba phần này với nhau, sẽ có tổng toàn là số 1, sau đó lấy
phần bù cho kết quả toàn 0, điều đó thể hiện là không có lỗi:

10101001
00111001
00011101
------------
Tổng 11111111
Checksum 00000000

Ví dụ 9.9
Giả sử rằng có một lỗi loạt bit có chiều dài bằng 5 ảnh hưởng đến 4 bit nhau
sau:
10101111 11111001 00011101

113
Khi bên nhận cộng 3 phần này với nhau cho kết quả:

10101111
11111001
00011101
------------
Kết quả 1 11000101
Nhớ 1
-----------
Tổng 11000110
Checksum 00111001 điều này có nghĩa là mẫu bị
hư hại

Hiệu quả của kỹ thuật checksum


Checksum dò được mọi lỗi xảy đối với một số lẻ các bit, cũng như hầu hết các
lỗi xảy ra đối với số chẵn các bit. Tuy nhiên, nếu một hoặc nhiều bit của một
phân đoạn bị hư hại và tương ứng với bit hoặc các bit có giá trị đối ngược nhau
trong một phân đoạn thứ 2 thì không giải quyết được. Nếu số cuối của một phân
đoạn là 0 và nó được đổi thành 1 trong quá trình truyền, khi đó bit 1 cuối trong
phân đoạn khác phải được thay đổi thành 0 bằng không lỗi đó không thể được
dò thấy. Trong LRC, hai bit 0 có thể thay đổi cả thành 1 mà không sửa đổi tính
chẵn lẻ bởi vì các số nhớ được loại bỏ. Checksum bảo toàn tất cả các số nhớ; vì
vậy mặc dù 2 bit 0 trở thành các bit 1 không thay đổi giá trị tại vị trí của chúng,
chúng sẽ thay đổi giá trị của vị trí của bit tiếp theo cao hơn. Nhưng bất kể thời
thời gian nào một đảo ngược bit được cân xứng bằng một đảo ngược bit với số
tương ứng của phân đoạn dữ liệu khác, do đó lỗi là không hiển minh.

9.7 SỬA LỖI – ERROR CORRECTION


Các cơ chế mà chúng ta đã biết đến giờ chỉ cho phép dò tìm lỗi nhưng
không phải là cơ chế sửa lỗi. Sửa lỗi có thể được xử lý bằng 2 cách. Trong
cách thứ nhất, khi một lỗi được phát hiện, bên nhận có thể để người gửi gửi
lại toàn bộ đơn vị dữ liệu. Trong cách thứ 2, bên nhận có thể sử dụng mã
sửa lỗi để sửa một số lỗi nhất định một cách tự động.
Theo lý thuyết, có thể sửa bất kỳ lỗi mã nhị phân nào một cách tự động.
Tuy nhiên các mã sửa lỗi phức tạp hơn nhiều so với các mà dò tìm lỗi và đòi
hỏi nhiều bit dư thừa hơn. SỐ các bit cần để sửa một lỗi đa bit hoặc lỗi hàng
loạt bi quá lớn trong phần lớn các trường hợp do đó nó trở nên không hiệu
quả. Vì lý do này, phần lớn các phương pháp sửa lỗi chỉ giới hạn sửa lỗi cho
một, hai hoặc ba bit lỗi.

114
Sửa lỗi bit đơn – Single-bit error correction
Khái niệm dưới cách tiếp cận sửa lỗi có thể được hiểu một cách dễ dàng
bằng việc kiểm tra trường hợp đơn giản nhất: Các lỗi bit đơn.
Như chúng ta đã thấy ở phần trước, các lỗi bit đơn có thể được dò tìm
bằng việc bổ sung một bit (chẵn lẻ) dư thừa và đơn vị dữ liệu (VRC). Một bit
đơn bổ sung có thể dò tìm các lỗi bit đơn theo bất kỳ trình tự nào của các bit bởi
vì nó chỉ phải phân biệt hai điều kiện: lỗi hoặc không lỗi. Một bit có 2 trạng thái
(0 và 1). Hai trạng thái này là vừa đủ cho mức độ dò tìm này.
Nhưng nếu chúng ta muốn sửa lỗi cũng như dò tìm các lỗi bit đơn thì sao?
Hai trạng thái là đủ để dò tìm lỗi nhưng không đủ để sửa lỗi đó. Một lỗi xảy ra
khi người nhận đọc bit 1 là bit 0 và bit 0 là bit 1. Để sửa lỗi đó, bên nhận đơn
giản đảo ngược giá trị bị sửa đổi. Tuy nhiên đề làm điều đó, cần phải biết bit nào
là bit lỗi. Do đó nhiệm vụ của sửa lỗi là định vị bit không hợp lệ hoặc các bit
không hợp lệ.
Ví dụ, để sửa lỗi bit đơn trong một ký tự ASCII, mã sửa lỗi phải xác định
bit nào trong 7 bit đó đã thay đổi. Trong trường hợp này, chúng ta phải phân biệt
giữa 8 trạng thái khác nhau; không có lỗi, lỗi ở vị trí 1, lỗi ở vị trí 2…đến lỗi ở
vị trí 7. Để làm được điều này đòi hỏi phải có đủ các bit dư thừa để thể hiện tất
cả 8 trạng thái.
Thoáng qua, chúng ta thấy nó giống như mã 3 bit dư có thể là vừa đủ bởi
vì 3 bit có thể thể hiện 8 trạng thái (000 tới 111) và do đó có thể xác định vị trí
của 8 khả năng khác nhau. Nhưng nếu một lỗi xuất hiện ở chính các bit dư thừa
thì sao? 7 bit của dữ liệu (ký tự ASCII) cộng với 3 bit dư thừa bằng 10 bit. Tuy
nhiên 3 bit chỉ có thể xác định 8 khả năng khác nhau. Các bit bổ sung là cần
thiết để xác định toàn bộ các vị trí gây lỗi có thể xảy ra.

Các bit dư thừa – redundancy bits


Để tính toán số các bit dư thừa r cần để sửa một số các bít dữ liệu (m bit) được
cho, chúng ta phải tìm một mối quan hệ giữa m và r. Hình 9.16 thể hiện m bit
của dữ liệu với r bit dư thừa được thêm vào. Chiều dài của mã kết quả sẽ là m+r.

Hình 9.16 Dữ liệu và các bit dư thừa

Nếu tổng số các bit trong một đơn vị khả truyền là m+r, thì r phải có thể xác
định ít nhất m+r+1 các trạng thái khác nhau. Tất nhiên một trạng thái có nghĩa
không lỗi và m+r trạng thái xác định vị trí của lỗi trong từng m+r vị trí.

115
Vì vậy, m+r+1 trạng thái phải được xác định bằng r bit; và r bit có thể chỉ
định 2 trạng thái khác nhau. Do đó, 2r phải bằng hoặc lớn hơn m+r+1:
r

2r>=m+r+1
Giá trị của r có thể được xác định bằng việc đặt giá trị của m (chiều dài
nguyên bản của đơn vị dữ liệu được truyền). Ví dụ, nếu giá trị của m bằng 7 (7
bit – mã ASCII), giá trị r nhỏ nhất có thể thỏa mãn phương trình này là 4:
24>=7+4+1
Hình 9.1 thể hiện một vài giá trị m có thể có và các giá trị r tương ứng

Bảng 9.1 Mối quan hệ giữa dữ liệu và các bit dư thừa

Số các bit dữ liệu (m) Số các bit dư thừa (r) Tổng số bit (m+r)
1 2 3
2 3 5
3 3 6
4 3 7
5 4 9
6 4 10
7 4 11

Mã Hamming
Từ trước tới nay chúng ta đã kiểm tra số các bit cần thiết để có thể kiểm soát
toàn bộ các trạng thái lỗi bit đơn có thể xảy ra trong khi truyền. Nhưng làm cách
nào chúng ta có thể xử lý các bit này để khám phá ra trạng thái nào đã xảy ra?.
Một kỹ thuật được phát triển bởi R.W Hamming cung cấp một giải pháp thực tế.

Định vị trí các bit dư thừa – Positioning Redundancy Bits


Mã Hamming có thể được áp dụng cho các đơn vị dữ liệu có chiều dài bất kỳ và
sử dụng mỗi quan hệ giữa dữ liệu và bit dư thừa được bàn luận ở phần trên. Ví
dụ, một mã ASCII 7 bit cần phải có 4 bit dư thừa mà có thể được thêm vào cuối
đơn vị dữ liệu hoặc đặt rải rác với các bit dữ liệu gốc. Trong hình 9.17, những
bit này được đặt ở các vị trí 1,2,4 và 8 (các vị trí trong chuỗi tuần tự 11 bit là
bình phương của 2). Để thấy rõ trong các ví dụ dưới đây, chúng ta cần xem các
bit r1, r2, r4 và r8.

Hình 9.17 Các vị trí của các bit dư thừa trong mã Hamming

116
Trong mã Hamming, mỗi r bit là bit VRC cho một tổ hợp các bit dữ liệu;
r1 là bit VRC cho một tổ hợp các bit dữ liệu, r là bit VRC cho tổ hợp các bit dữ
liệu khác, vân vân…Các tổ hợp được sử dụng để tích toán từng giá trị r cho
chuỗi 7 bit dữ liệu như sau:
r1: Các bit 1,3, 5, 7, 9, 11
r2: các bit 2, 3, 6,7, 10, 11
r4: các bit 4, 5, 6, 7
r8: các bit 8, 9, 10, 11
Mỗi bit dữ liệu này có thể bao gồm một hoặc nhiều tính toàn VRC. Trong
các chuỗi trên, từng bit dữ liệu gốc được bao gồm trong ít nhất 2 tập hợp, trong
khi r bit chỉ được bao gộp một lần.
Để xem mẫu theo giải pháp này, hãy xem biểu diễn nhị phân của từng vị
trí bit. Bit r1 được tính toàn bằng cách sử dụng tất cả các vị trí mà biểu diễn nhị
phân của nó bao gồm một bit 1 ở vị trí phải nhất. Bit r2 được tính toán bằng
cách sử dụng tất cả các vị trí bit với một bit 1 ở vị trí thứ 2…. (xem hình 9.18).

Hình 9.18 Tính toán các bit dư thừa

117
Tính toán các giá trị r
Hình 9.19 thể hiện mã Hamming áp dụng đối với một ký tự ASCII. Trong bước
đầu tiên, chúng ta thay thế từng bit của ký tự gốc trong các vị trí thích hợp của
nó bằng đơn vị dữ liệu có chiều dài 11 bit. Trong các bước tiếp sau, chúng ta
tính toán các giá trị chẵn lẻ đối với nhiều tổ hợp bit. Giá trị chẵn lẻ cho từng tổ
hợp đó là giá trị tương ứng với r bit. Ví dụ, giá trị của r1 được tính toán để cung
cấp tính chẵn lẻ-chẵn đối với tổ hợp các bit 3, 5, 7, 9 và 11. Giá trị của r2 được
tính toán để cung cấp tính chẵn lẻ-chẵn với các bit 3, 6, 7, 10 và 11 vân vân…
Mã 11 bit cuối cùng được gửi qua đường truyền dẫn.

Dò tìm và sửa lỗi


Giờ chúng ta hãy hình dung rằng theo thời gian khi dữ liệu được truyền tới bên
nhận, số 7 bit đã bị thay đổi từ 1 thành 0 (xem hình 9.20).

Hình 9.19 Ví dụ về tính toán các bit dư thừa

118
Bên nhận lấy dữ liệu từ đường truyền và tính toán lại 4 VRC mới sử dụng
cùng tập bit đã được sử dụng bởi bên gửi cộng với bit chẵn lẻ tương ứng (r) đối
với từng tập hợp (xem hình 9.21). Sau đó nó lắp ghép các giá trị chẵn lẻ đó vào
một số nhị phân theo thứ tự của r (r8, r4 ,r2 ,r1). Trong ví dụ của chúng ta, bước
nay cho chúng ta số nhị phân 0111 (bằng 7 trong hệ mười), là vị trí chính xác
của bit lỗi.
Một khi bit lỗi đã được xác định, bên nhận có thể đảo ngược giá trị của nó
và thực hiện sửa lỗi đó.
Sửa lỗi hàng loạt bit

Mã Hamming có thể được thiết kế để sửa các lỗi hàng loạt bit có chiều dài cụ
thể. Số các bit dư thừa cần thiết để tạo ra những sửa lỗi này là lớn hơn rất nhiều
so với sửa lỗi bit đơn. Ví dụ, để sửa lỗi bit đôi, chúng ta cần phải xem xem hai
bit đó có thể là tổ hợp của bất kỳ 2 bit bất kỳ trong toàn bộ chuỗi bit hay không.
Sửa lỗi 3 bit của nghĩa là bất kỳ 3 bit nào trong toàn bộ chuỗi bit, vân vân…Vì
thế, giải pháp đơn giản được sử dụng mã Hamming để sửa các lỗi bit đơn phải
được thiết kế lại để có thể áp dụng cho sửa lỗi đa bit. Những phần sửa lỗi nhiều
bit và lược đồ phức tạp của chúng nằm ngoài phạm vi của quyền sách này.

Hình 9.20. Lỗi bit đơn

119
Hình 9.21 Dò tìm lỗi sử dụng mã Hamming

120

You might also like