You are on page 1of 13

Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở trại Kim Đồng

Bác Hồ tới thăm các cháu thiếu nhi miền Nam tập kết ra Bắc ở tỉnh Thanh Hoá
(1957)

Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu ở trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt
chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức
nhối. Nói với các cán bộ phụ trách giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía:

- Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô,
các chú lại rào dây thép gai như một nhà tù thế này?

Chú Thuận thưa:

- Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ!

Bác lắc đầu: Các cô, các chú phảI tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm
các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai của các cháu.

Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui hơi. Bác khen:
“Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn – Bác hỏi cán bộ phụ trách trại –
còn thế nào, các cô, các chú biết không?

Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp:

- Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ.

Bác Hồ mỉm cười:

- Chú nói mới đúng một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu mồ côi, điều lớn nhất là phải
bù đắp tình thương. Các cháu đã không còn bố mẹ, thì các cô, các chú ở đây là bố, là
mẹ của các cháu. Các cô, các chú nuôi dạy các cháu thì phải đem cả tấm lòng làm
mẹ, làm cha mà cư xử, mà săn sóc, mà dạy bảo. Bác thấy ở đây, đối với các cháu,
còn cái vẻ “trại lính”, thiếu cái ấm cúng của gia đình. Dạy cho các cháu vào khuôn
phép, sống có kỷ luật, trật tự là đúng. Nhưng không được để các cháu mất cái hồn
nhiên, mất cái vui tươi, thoải mái. Đừng biến các cháu thành các “ông cụ non”. Các
cô, các chú phảI làm sao cho các cháu thấy trại Kim Đồng là gia đình của các cháu,
đi xa các cháu nhớ, lúc ở nhà các cháu vui. Được như vậy thì cần gì phải rào dây
thép gai, phải canh phòng nghiêm ngặt với các cháu?

Bác lại hỏi:

- Những cháu kém có nhiều không?

- Thưa Bác, còn nhiều lắm ạ.

- Nhiều là bao nhiêu?

Đồng chí phụ trách hơi bối rối. Bác nói ngay:

- Quản lý các cháu thì cần biết cụ thể từng cháu một, biết chắc chắn cái dở, cái hay
của mỗi đứa. Có như vậy thì dạy mới có kết quả tốt.

Bác bảo chú Thuận đứng lên:

- Cho Bác gặp cháu nào kém nhất trại.

Em Quốc đứng khoanh tay trước mặt Bác, Bác cúi xuống vuốt ve nhè nhẹ tóc em.
Bác hỏI:

- Tên cháu là gì?

- Thưa Bác tên cháu là Quốc lủi ạ!

Bác nhìn em, ái ngại:

- Ai đặt cho cháu cái tên ấy?

- Dạ thưa, các bạn gọi cháu thế ạ.

- Vì sao các bạn gọi cháu là Quốc lủi?

- Thưa Bác… Cháu… Cháu hay trốn trại. Cháu chui qua hàng rào, lủi vào các ngõ phố
ạ.

Sao cháu không chịu ở trong trại mà lại trốn ra bên ngoài?

- Thưa Bác… ở trong trại khổ cực lắm ạ.

- Khổ cực như thế nào?

- Dạ chúng cháu bị gò bó đủ thứ ạ.

- Cháu nói rõ sự gò bó cho Bác nghe nào?

- Thưa Bác…

Quốc nhìn Bác Hồ mà nước mắt trào ra, nghẹn ngào không nói lên lời. Bác xoa đầu
em, Bác đã hiểu thấu tất cả, dù em chưa nói ra được những điều muốn thưa với Bác.
Bác khuyên Quốc: “Từ nay cháu phải phấn đấu bỏ cái tên “lủi”, giữ lại cái tên Quốc…”.
Nước mắt càng giàn giụa trên hai má Quốc.

Bác Hồ cầm tay em Quốc đi ra chỗ cả trại đang tập hợp đón đợi Bác. Bác thân mật kể
cho các em nghe một số gương tốt của thiếu nhi trong kháng chiến chống Pháp,
gương tốt của thiếu nhi ở Liên Xô và các nước bạn. Các em đã không cầm được nước
mắt khi nghe Bác kể về thời niên thiếu của Bác, Bác đã từng thèm một cái đồ chơi,
ước ao một bộ quần áo mới để mặc Tết. Bác cũng đã mồ côi mẹ từ năm lên chín, lên
mười. Bác đã phải bế em trèo trẹo bên hông đi xin sữa cho em sau ngày mẹ qua đời.

Bác căn dặn các em như ông dặn cháu:

- Các cháu phải vâng lời các cô, các chú phụ trách. Thiếu nhi thì phải ngoan, phải
thật thà, lễ phép với người lớn, kính trọng người già, giúp đỡ người tàn tật yếu đau.
Các cháu ở trong tập thể với nhau càng phảI thương yêu nhau như anh chị em ruột
thịt. Và phải dũng cảm sửa chữa những khuyết điểm, những thói hư tật xấu để lớn
lên làm người chủ của đất nước, đừng để mình là cái gánh nặng của xã hội…

Rồi Bác bảo:

- Các cháu có hứa làm được điều Bác căn dặn không nào?

Một tiếng “có” vang lên, đều khắp và sôi nổi. Bác còn dặn thêm các em là noi gương
dũng cảm của liệt sĩ Kim Đồng trong học tập và rèn luyện, em nào đạt kết quả tốt,
được ban phụ trách báo lên Bác, Bác sẽ gửi phần thưởng. Và Bác thân mật hẹn: “Nếu
cả trại cùng tiến bộ vượt bậc, Bác sẽ còn về thăm các cháu nhiều lần nữa”.

Ngày hôm ấy, Bác đã để lại rất nhiều quà để chia cho các em. Nhận phần quà của
Bác cho, nhiều em đã không ăn, cất làm kỷ niệm.

Từ hôm đó trong từng đôi mắt của các em, ngời lên niềm vui nhận quà Bác. Em Quốc
không lủi ra ngoài trại nữa mà giữ gìn mình như giữ gìn kỷ niệm của Bác trong trái
tim.

Theo sách “Hoa râm bụt”, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1999

Đã hứa là làm
Những người sống gần Bác đều nhận thấy Bác đã hẹn là có, đã hứa là làm. Bác hẹn đồng chí nào,
giờ nào đến gặp Bác là đến đúng giờ ấy, Bác đã chờ sẵn. Bác đã hẹn gặp cán bộ, quần chúng nào thì
dù mưa to bão lớn, dù đêm tối, đường sá khó khăn đến mấy Bác cũng đi bằng được tới nơi. Hồi ở
Pắc Bó, có lần Bác chuẩn bị đi công tác thì một em bé trong số các em thường ngày vẫn quấn quít
bên Bác, đòi Bác khi về mua cho một cái vòng bạc (các em miền núi thường rất thích đeo vòng bạc
ở cổ tay). Bác hứa với em rồi chào tất cả mọi người và lên đường. Hơn hai năm sau Bác mới có dịp
trở lại miền quê ấy. Mọi người mừng rỡ ra đón Bác, tíu tít hỏi thăm sức khoẻ của Người và không ai
còn nhớ đến chuyện chiếc vòng của em bé năm xưa. Bỗng Bác đến bên em bé, từ từ mở túi, lấy ra
một chiếc vòng bạc mới tinh trao cho em rồi nhắc lại lời hứa năm nào. Thì ra, dù bận trăm công
ngàn việc của cách mạng, Bác vẫn không quên lời hứa và ước mơ vô cùng nhỏ bé của một em thơ.
----------------------------------------
Bát cháo trứng

Một lần đi công tác xa trở về một làng gần biên giới vào lúc nửa đêm nhưng sáng hôm sau, Bác vẫn
dậy sớm, lấy cuốc đào mương, xẻ rãnh, sửa sang lại chỗ lấy nước cho đồng bào. Rồi Bác nhờ mấy
anh thanh niên cùng Bác khiêng một cái thuyền gỗ ra bờ suối, lấy máng bắc cho nước chảy vào.
Nước đầy thuyền, Bác gọi hơn mười em bé đến, tự tay kỳ cọ cho từng cháu. Xong, Bác nhắc các bà
mẹ hàng ngày nên năng tắm rửa cho các cháu để giữ vệ sinh, phòng bệnh tật. Thấy Bác làm việc
nhiều, một đồng chí mang đến bát cháo để Bác dùng qua bữa sáng. Bác quay sang hỏi:
- Các cụ, các cháu đã ăn chưa?- Các cụ thành thật trả lời:

- Chúng tôi đều đã ăn cháo trắng cả rồi. Bác đi đường xa mệt, lại làm việc từ sáng đến giờ, mời Bác
xơi một bát cháo trứng cho khoẻ.
Bác tỏ vẻ không vui:

- Trong lúc đồng báo và các cháu đang sống khổ như thế này, không nên có chế độ đặc biệt cho bất
cứ người nào - Rồi Bác bưng bát cháo đến mời một bà cụ già nhất
Thôi không cần nói gì nữa...

VÀNG LÀ Ở HAI BÀN TAY LAO ĐỘNG

Bác Hồ vào Phan Thiết dạy học ở trường Dục Thanh của Hội Liên Thành. Bác sĩ Nguyễn Kinh
Chi ở Bộ Y tế là học trò của thầy Thành kể lại:
- Thầy giáo Thành dạy lớp ba, thầy thường mặc áo vải, chân đi guốc. Trong giờ địa lý, thầy giáo
Thành dạy tiếng Pháp, tôi còn nhớ mãi buổi học đầu tiên của thầy Thành:
"Montagne" là núi, "rivière" là sông

Núi kia là núi của ai


Sông xanh nước biếc chảy dài đi đâu?

Thầy giáo Thành bảo núi thì có rừng. Trên rừng rất nhiều gỗ quí như lim, trai, sếu, táu, vàng tâm,
v.v.. . Có nhiều cây thuốc quí, có nhiều muông thú như hổ, báo, hươu, nai, voi... Trong núi có
nhiều khoáng sản như vàng, bạc, châu báu, dưới sông có nhiều cá ngon, nước sông có nhiều
phù sa, nên ngǎn nước ấy lại tưới cho đồng ruộng thì màu mỡ tươi tắn. Tổ tiên ta kiên cường,
giang sơn ta gấm vóc: thầy giáo Thành dạy chúng tôi như vậy?

Ông Chi đọc học xong rồi đi du lịch. Ông thắc mắc tại sao thầy giáo Nguyễn Tất Thành dạy rừng
núi, sông ngòi, đất đai là của ta. Thế mà bây giờ Tây nó lại lấy. Đời sống của người lao động thì
khổ cực, nghèo đói. Ngày ngày làm nghề thuốc tiếp xúc với người bệnh, bao nhiêu câu hỏi đã
gieo vào đầu óc ông: tại sao người đàn bà làm ǎn vất vả, sớm tối ngày đêm sương gió, thế mà
chỉ có một cái yếm bằng vải và chiếc khố tải che thân? Người đàn ông cũng chỉ có cái quần đùi?
Các em bé tám chín tuổi vẫn trần truồng chưa có áo quần mặc? Ông Chi suy nghĩ và càng thấm
thía những lời giảng của thầy giáo Thành gieo vào lòng tuổi trẻ nhiều ý nghĩa. Ông và các bạn ở
trường Dục Thanh cũ dần dần ghét Tây. Từ đó ông bắt đầu đi tìm cách mạng và ông cũng như
nhiều bạn bè khác trở nên người Cộng sản.

Rời Phan Thiết, Bác Hồ đi vào Sài Gòn học nghề. Ngày ngày, lúc học xong, Bác thường xuống
xem cảng Sài Gòn. Bác đi để biết tình hình. ở cảng này, Bác Hồ làm quen với ông Mai, được ông
giới thiệu xuống làm ở chiếc tàu của hãng "Vận tải hợp nhất" của Pháp. Tàu Đô đốc Latútsơ
Trêvin chuyên chở thực phẩm cho Pháp ở thuộc địa. Ông Mai người ở An Dương (Hải Phòng),
gặp Bác lần đầu đã thấy mến. Bác Hồ ngỏ ý muốn xin làm ở dưới tàu. Ông Mai vui vẻ nhận lời
giới thiệu giúp Bác. Ông đưa Bác đến gặp thuyền trưởng người Pháp. Người thuyền trưởng nói:
- Nếu cần làm việc ở đây, tám giờ sáng mai đến?
Tối hôm ấy về chỗ ở, Bác rủ thêm một người bạn cùng đi Pháp. Người bạn thân đó nói:
Ta đi Pháp sẽ chết đói thôi, bởi vì chúng ta không có tiền để ǎn.
Bác đã giơ tay ra và nói:
- Tiền là ở đây, vàng là ở đây. Chúng ta còn trai trẻ. Chúng ta sẽ làm lụng để sống.
Sáng hôm sau, người bạn ấy ngần ngại từ chối, không đi. Bác chia tay anh ta. Ông Mai đưa Bác
xuống tàu gặp người thuyền trưởng. Nhìn Bác một lát, người thuyền trưởng Pháp nói:
- ở đây không có việc gì nhẹ cho anh làm cả. Chỉ có những việc nặng thôi, trông anh gầy yếu thế
kia. Làm sao nổi?!
Bác trả lời:
- Vâng, tôi gầy yếu thật, nhưng tôi còn trai trẻ, tôi có nghị lực, tôi có thể làm được tất cả!
Người thuyền trưởng thấy Bác nhanh nhẹn giỏi tiếng Pháp nên cho làm phụ bếp. Bác nhận lời
làm việc ở đây và lấy tên là Vǎn Ba.

Qua những ngày làm việc đầu tắt mặt tối ở dưới tàu, Bác nhận thấy ở đây có hai hạng người:
người bị bóc lột và người đi bóc lột. Hai thái cực đó thật là rõ ràng. Công việc mà Bác phải làm
hàng ngày thật là cực nhọc: hết bưng những sọt khoai tây lên mặt bàn để gọt rửa, lại bê những
thùng rượu để phục vụ các bữa ǎn, rồi rửa bát, nồi, soong, giặt giũ, lau bàn ghế, đánh bóng
boong tàu. Suốt ngày Bác nhễ nhại mồ hôi và mình đầy than bụi. Công việc vất vả thật nhưng khi
được nghỉ tay là Bác tranh thủ dạy ông Mai chữ quốc ngữ.

Trong phong trào Đông Du do cụ Phan đề xướng, cụ chủ trương "Gương Nhật Bản, đất A'
Đông". Cụ mong nhờ vào bọn Nhật cô lập giặc Pháp thì thật khác nào "đưa hổ cửa trước, rước
hùm cửa sau". Cụ Phan Chu Trinh lúc này đã bị bắt và theo quan niệm của cụ thì "Học Pháp
càng nhiều; làm bồi càng to".
Vậy tại sao Bác Hồ lại đi Pháp? Vừa rồi chúng ta tìm được cuốn lược dịch "Binh thư Tôn Tử" của
Bác, Bác nói là lược dịch, nhưng khi đọc chúng ta nhận thấy là chiến lược của Bác. Qua sự giáo
dục của gia đình và cuốn lược dịch "Binh thư Tôn Tử", qua trao đổi với một số cụ đương thời có
học với Bác và ngay cụ thân sinh ra Bác vẫn thường dạy học trò là "biết địch biết ta, trǎm trận
trǎm thắng", chúng ta càng thấy rõ việc Bác đi Pháp là Bác có suy nghĩ chín chắn. Với lại hồi ấy,
những từ Pháp "Tự do, bình đẳng, bác ái rất hay, Bác muốn biết đằng sau nhừng từ ấy ẩn giấu
cái gì...

Bác lĩnh được mười quan, dần dà sau này được nǎm mươi quan (trong khi đó mỗi nhân viên
người Việt Nam ít nhất cũng phải lĩnh đến một trǎm quan). Lên đất pháp, vì tiền ít Bác thường
phải thuê chỗ ngủ đứng. ở nước Pháp lúc này có hai loại tiệm ngủ. Một loại ngủ giường đệm,
màn và lò sưởi. Một loại là lấy vé vào ngủ đứng. ở Pháp ít lâu, Bác đi châu Phi, rồi Bác lại trở về
Pháp. Lúc rời châu Phi, Bác có nói:
- Người ta nói ở châu Phi có nhiều ác thú, nhưng ác thú ở đây mà ác hơn cả, chính lại là lũ thực
dân. Sau này, các đồng chí cộng sản quốc tế sang dự lễ tang Bác có cho biết:
Bác đi châu Phi trên một chiếc tàu buôn. Chiếc tàu buôn này rời cảng Lơ Havơrơ đỗ tại Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi và các cửa biển phía đông châu Phi cho đến Công gô. Mỗi khi
tàu cập bến, Bác tìm cách lên thǎm thành phố, khi chiếc tàu này trở về Pháp sửa chữa, người
thuyền trưởng thấy anh Ba làm được việc, bèn giới thiệu đi làm bồi ở một chiếc tàu chở sĩ quan
Pháp đi Anh nghỉ mát. Đến nước Anh, Bác không đi làm bồi tàu nữa. Lên thủ đô nước Anh, Bác
tìm đến một trường trung học. Bác rất thích cuộc đời học sinh. Bác ngồi xem các em học và Bác
làm quen được với một người gác cổng. Bác xin làm việc quét tuyết ở trường học này. Làm
được một tuần lễ, vì lao động cực nhọc quá trời lại rét buốt nên Bác bị cảm lạnh và sưng phổi
phải thôi việc.
Khi khỏi bệnh Bác xin làm ở tiệm ǎn Cáclơtông, một khách sạn lớn nhất nước Anh lúc bấy giờ.
Khách sạn có một người Pháp tên là ÊcÔpphie làm bếp nổi tiếng, được người ta đặt tên là "Vua
bếp". Những tiệc lớn của nữ hoàng Anh đều do ông ta đứng ra đảm nhận.
Một hôm anh Ba đang rửa bát. Vua bếp đi qua hỏi:
- Anh Ba, anh đổ các thứ thừa đi, chứ anh để lại làm gì?
- ở đây thừa đổ đi - anh Ba trả lời - nhưng ngoài kia những người đói lại đang cần, tôi để lại lát
nữa cho người ta.
Vua bếp ra chiều cảm động thấy một thanh niên châu A' lòng nhân hậu như vậy nên rất có cảm
tình. Nhân đấy Bác lại nói:
- Xin ông cho tôi làm công việc gì có nhiều tiền để tôi chi trả tiền học tiếng Anh. Tôi học nǎm bài
đã mất nǎm đồng, trong khi đó tôi chỉ được trả có sáu đồng, còn lại không đủ ǎn trong một tuần
lễ.
Vua bếp cười bảo:
- Tôi là người Pháp mà không học được tiếng Anh, còn anh là người châu A' mà dám học tiếng
Anh cơ à? Tôi ở đây hai nǎm rồi mà chỉ biết có vài ba tiếng "vâng" và "không. Nói vậy, ông này
vẫn giúp Bác, Bác được bố trí đốt lò.

Thế là từ nǎm giờ sáng đến tám giờ tối Bác phải nặng nhọc đưới hầm lò. Tuy tiền công có được
nhiều hơn, nhưng không được học hành, vì đêm về mệt lả làm sao đi học được nữa.

Do đó Bác tìm gặp Vua bếp yêu cầu cho Bác làm một nghề khác. Vua bếp xếp cho Bác làm bánh
ga tô, đỡ nặng nhọc hơn và có thêm tiền để học. Thời kỳ này Bác tranh thủ học nhiều ngoại ngữ:
Nǎm một ngàn chín trǎm mười ba, một ngàn chín trǎm mười bốn ở Anh, Bác học tiếng Anh do
một giáo sư người ý dạy. Thầy giáo này biết tiếng Đức, cho nên Bác học cả tiếng Đức và Y' của
giáo sư này. Hàng ngày, Bác ra ngồi ở vườn hoa Hayđơ để học. Lúc này, Bác có quan hệ với các
nhà yêu nước ở Â'n Độ như Gǎngđi. Nhà sử học Thụy Điển, trong một cuốn sử viết về Bác, cho
biết: nǎm mộ ngàn chín trǎm mười lǎm Bác ở khu vực người da đen Háclem (nước Mỹ) và làm
nghề chụp ảnh. Nǎm 1916 sang Đức, trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Bác trở lại Pháp và
ở nhà cụ Phan Chu Trinh. ở Pháp, Bác tham gia phong trào của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động Pháp. Bác tổ chức nhóm Việt kiều. Bác đã gặp Sác lông ghê (Charles Longuet), chủ bút
tờ báo "Dân chúng" là cháu ngoại của Các Mác. Ông này đã giúp đỡ Bác viết báo. Lúc đầu Bác
viết nǎm dòng rồi sửa hết, rồi lại viết. Bài báo đầu tiên của Bác là bài báo nǎm dòng đǎng ở tờ
"Đời sống thợ thuyền", nǎm 1917. Sau đó Bác viết cho nhiều tờ báo ở Pháp như tờ "Nhân đạo
và "Dân chúng"... hồi đó Bác ở nhà số 9 ngõ hẻm Công poǎng (compoint). Đạo diễn Phạm Kỳ
Nam đi Paris làm phim về Bác cung cấp thêm nhiều tư liệu: Nhà số 9 Công poǎng tầng dưới là
quán cà phê, tầng trên, Bác thuê ở, Bác làm nghề rửa ảnh. Nhà Bác kê vừa một cái giường, hai
cái ghế một cái bàn con. Trên bàn có cái chậu thau, trong thau có một xô nước. Khi viết, Bác
phải đút thau và xô xuống gầm giường. Hàng ngày, Bác nấu một nồi cơm (gọi là nồi nhưng thật
ra nó là cái hộp bích qui vuông thấp). Khi thổi cơm, Bác hấp vào đó một con cá khô, Bác ǎn một
nửa, còn một nửa lấy giấy báo gói mang đi, làm việc xong, Bác mang ra ǎn nốt suất cơm còn lại.
Bác làm việc rất khẩn trương để có đủ tiền sống, để có nhiều thời gian vào thư viện đọc sách.
Bác còn tranh thủ đi nghe người ta giảng thuyết để học tập. Khi cách mạng Tháng Mười Nga
thành công, Bác rất vui mừng, phấn khởi. Bác vào đảng xã hội Pháp. Tháng ba nǎm một ngàn
chín trǎm mười chín, Quốc tế thứ ba (tức quốc tế Cộng Sản) thành lập, Lênin có đọc bản luận
cương về cách mạng thuộc địa. Khi tiếp thu bản luận cương ấy, Bác đã nói:

- Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi
vui mừng phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng, mà tôi nói to, như đang nói trước quần
chúng đông đảo. Hỡi đồng bào bị đọa đày đây là cái cần thiết cho chúng ta?
Bác tiếp thu điều này rất sâu sắc. Báo Gramma Cuba đã viết: "Nhân loại tiến bộ trên thế giới đời
đời mắc nợ nhân dân Việt Nam".

Dư luận nhiều nước trên thế giới nêu rõ: Các Mác đề ra chủ nghĩa xã hội khoa học, Lênin là
người tổ chức thực hiện. Lênin là người đề ra cách mạng ở các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh là
người tổ chức thực hiện và rút những kinh nghiệm quí báu.

Vâng lời Bác dạy:

Không có việc vì khó,


Chỉ sợ lòng không bền.
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên.

Bác chỉ có hai bàn tay trắng mà Bác xây dựng cả sơn hà. Vàng là ở đôi bàn tay lao động, như
thế đấy?

BÁC ĐÃ DẠY TÔI YÊU THƯƠNG CON TRẺ

(Ghi theo lời cụ Lê Thị Hoan, Hội Phụ nữ Đống Đa, Hà Nội)

Vào cuối tháng tư nǎm 1964, Đại hội Liên hoan Phụ nữ "5 tốt" toàn miền Bắc họp tại Thủ đô. Tất
cả đại biểu về dự phần lớn là rất trẻ, nhiều cô còn trẻ hơn con dâu út của tôi, duy chỉ tôi là đầu đã
bạc.

Hội trường Ba Đình bữa đó bỗng náo nhiệt hẳn lên khi nghe tin Bác đến.

Bác đến vào giữa lúc họp. Thật quá bất ngờ. Tiếng hô "Bác Hồ muôn nǎm" vang lên bắt đầu từ
những hàng thế trên cùng, phút chốc loan đi khắp cả phòng họp rộng lớn này. Tôi mừng vui và
cảm động đến chảy nước mắt. Nhất là khi Bác lên bàn nói chuyện thân mật, Bác lại nhắc đến tên
tôi. Tôi run lên, thú thật tôi không còn tin ở tai mình nữa. Tôi cứ tưởng mình đang nằm mơ! Bên
cạnh tôi, cháu Trương Thanh Trúc, diễn viên đoàn vǎn công quân đội ghé sát vào tai tôi nói khẽ :
"Mẹ Hoan, Bác nhắc đến tên mẹ!". Lúc đó tôi mới tin là không phải trong mơ, mà là sự thật.
Trong đời tôi, đây là một vinh hạnh quá lớn, một điều mà chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến. Tôi là
một người phụ nữ bình thường ở một khu phố nhỏ, một người thợ thủ công già, thế mà Bác lại
quan tâm đến công việc làm của tôi!
Thì ra nãy giờ tôi mải ngắm Bác... Giờ đây, tiếng Người vẫn bên tai. Mãi mãi trong đời tôi ghi tạc
lời dạy của Người:
"Tǎng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã
hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân, tǎng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái
của hạnh phúc".
Rồi Bác giải thích điều thứ 5 trong phong trào "5 tốt" vấn đề xây dựng gia đình nuôi dạy con cái,
Bác nói: "Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Rộng ra nữa là đồng bào
cả nước đều là anh em trong một đại gia đình. Ta có câu hát:

Nhiễu diều phủ lấy giá gương


Người trong một nước phải thương nhau cùng

Rộng hơn nữa chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghĩa:

Lọ là thân thích ruột rà


Công nông thế giới đều là anh em.

Đã là đại gia đình, thì sự sǎn sóc dạy dỗ cũng không chỉ nhằm làm cho con cháu mình khỏe và
ngoan. Mà phải cố gắng giúp đỡ cho tất cả các cháu đều ngoan và khỏe. Về việc này chúng ta
có những gương mẫu như cụ Lê Thị Hoan (Bác nhắc đến tên tôi). Cụ Hoan đã có công giáo dục
mấy chục cháu xấu trở thành những cháu tốt. Nếu tất cả chị em phụ nữ ta đều cố gắng làm được
như cụ Hoan thì chắc rằng con cháu của chúng ta đều sẽ ngoan và tốt.

Hội trường hướng về phía tôi vỗ tay ầm vang. Lúc này tôi lúng túng quá, chẳng biết làm gì. Tôi
cúi mặt xuống, không dám ngẩng lên. Bác lại cǎn dặn các cấp Đảng bộ, chính quyền cần thiết
thực giúp đỡ phong trào 5 tốt không ngừng tiến lên, để phụ nữ được đóng góp nhièu cho cuộc
chống Mỹ cứu nước.

Sau cùng với giọng nói đầm ấm, Bác vui vẻ hỏi:
Già như cụ Hoan, sao cụ Hoan làm được? Tại sao các cô chưa làm được? Thế các cô có làm
không?
Mọi người đều đáp:
- Có ạ? Bác lại hỏi:
- Bao giờ làm?
- Dạ, họp xong về làm ngay.
Làm được bao nhiêu?
- Thưa Bác làm khắp nơi ạ!
Tôi liếc mắt nhìn Bác, thấy Bác gật đầu tỏ vẻ hài lòng.
Thế rồi, Bác bước xuống bục. Các cô trẻ chạy tràn ra cả lối đi để đón Bác. Bỗng chị Hà Quế đi
đến chỗ tôi ngồi, chị gọi:
- Cụ Hoan ơi? Cụ Hoan lên gặp Bác.
Lúc đó tôi bàng hoàng cả người. Vừa mừng vui, vừa lo lắng. Tôi cố nhấc bước lên nhưng chân
tay cứ run rẩy vì quá mừng. Tôi chưa đi được mấy bước, cũng vừa Bác đến. Bác cầm tay tôi.
Luýnh quýnh tôi chẳng biết nói gì, thưa gì.
Nhưng tôi toát mồ hôi, ác một nỗi các anh quay phim lại chĩa những ngọn đèn sáng rực vào phía
tôi.
Như biết tôi đang lúng túng. Bác chỉ vào chiếc ghế:
- Cụ ngồi xuống đây
Tôi mạnh dạn ngồi bên cạnh Bác. Bác ân cần thǎm hỏi gia đình tôi.
- Cụ ông có khỏe không?
Thưa có ạ!
- Cụ dạy bao nhiêu cháu, các cháu hiện có ngoan không?
Tôi rất kinh ngạc, thế ra mọi việc làm của tôi và của các cháu Bác đều biết. Tôi lần lượt thưa
cùng Bác số cháu nơi tôi đỡ đầu có 30 cháu. Đó là những cháu chưa ngoan. Các cháu mảng
học, ham chơi bời, trèo cây, đánh nhau, có cháu ǎn cắp làm mất trật tự trị an đường phố. Mẹ cha
thì buồn phiền, nhà trường lo lắng. Tôi cũng thưa với Bác những khó khǎn bước đầu trong việc
tập hợp các cháu lại, tổ chức cho các cháu vui chơi, lao động và học tập. Và đến nay tôi đã có
một đóng góp nhỏ đã là giáo dục được 180 cháu trở thành những đội viên thiếu niên tốt, những
cháu ngoan của Bác. Có 8 cháu được chọn đến Phủ Chủ tịch liên hoan cùng thiếu nhi Thủ đô, hè
nǎm 1962. nhiều Cháu đã được đeo huy hiệu Đoàn.
Bác lại hỏi thêm.
- Các cháu đối với cụ thế nào?
- Rất thương ạ! Chúng đều gọi bằng "bà nội". Và hôm nay các cháu đều cố gắng thực hiện "5
điều Bác Hồ dạy".
Bác nhìn sang phía chị Nguyễn Thị Thập và các đại biểu rồi Bác hỏi tiếp:
- Đảng ủy, chính quyền, đoàn thể có giúp gì cụ không?
- Dạ có ạ!
- Cụ còn nguyện vọng gì nữa không?
Thưa Bác, được gặp Bác, biết Bác khỏe, là điều sung sướng nhất, và ước mong cho miền Nam
giải phóng để chị em phụ nữ và đồng bào miền Nam được đón Bác, đó là nguyện vọng duy nhất
của tôi, cùng là nguyện vọng của mọi người ạ.
Bác quay sang các đại biểu trẻ, vui cười nói:
- Muốn Bác mạnh khỏe, muốn miền Nam giải phóng, thì phải ra sức thi đua.
Thế là tất cả chúng tôi đều hô to: "Bác Hồ muôn nǎm?" và cứ vây lấy Người, không muốn rời
Người nửa bước.

Hôm ấy về nhà, tôi đem chuyện gặp Bác kể cho các cháu nghe, thuật lại lời dặn dò của Người
cho chị em phụ nừ trong khu Hội phụ nữ Đấng Đa. Ai nấy đều vui mừng, nhất là các cháu chưa
ngoan phải suy nghĩ nhiều. Tôi cũng lại nói cho mọi người ở khu phố tôi nghe. Lời kêu gọi thi đua
của Bác đã được đǎng lại trên báo Đảng ngay ngày hôm sau "Trong lúc miền Nam chúng ta
đang ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống mới thì phụ nữ ở phía bên kia
sông Bến Hải đang cùng toàn thể đồng bào miền Nam anh dũng, hy sinh anh dũng chống đế
quốc Mỹ cướp nước và bọn Việt gian bán nước. Tôi đề nghị Đại hội hoan hô đồng bào miền Nam
anh hùng và chúc đồng bào miền Nam giành nhiều thắng lợi hơn nữa! Chính vì chúng ta đang
xây dựng trong hoàn cảnh hòa bình, còn đồng bào miền Nam đang phải ngày đêm chiến đấu nên
nhân dân miền Bắc chúng ta cần phải thi đua mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng
bào miền Nam ruột thịt". Thế là thành một cao trào thi đua "vì miền Nam" trong các cháu. Các
cháu vừa học vừa làm tǎng giờ lấy tiền mua sách, xây dựng tủ sách kết nghĩa với các bạn thiếu
niên Huế, Sài Gòn, kết nghĩa anh em và góp tiền mua vũ khí ủng hộ đồng bào miền Nam đánh
thắng giặc Mỹ. Nhiều cháu đã trở thành những công nhân, cán bộ trong các cơ quan, xí nghiệp.
Nhiều cháu đã lên đường giết giặc, như cháu Quách Vǎn Long cùng anh em bắn rơi máy bay Mỹ
được Bác tặng huy hiệu.

Cháu Phạm Vǎn Phương, Nguyễn Vǎn ý lái xe cho bộ đội pháo binh, cháu Nguyễn Vǎn Thanh,
Nguyễn Vǎn Thao là học sinh giỏi toàn huyện. Nhiều cháu đi học xa tận các nước đã về làm thợ,
làm cán bộ như các cháu Hoàng Đình Nội, Cao Đắc Quý... các cháu cùng chúng tôi có chút ít
thành tích nhỏ như vậy là nhờ công ơn dạy bảo của Bác, cửa Đảng. Và chính Bác là người dạy
cho tôi tình yêu trẻ, cách giáo dục trẻ. Lúc sinh thời, người là "ông cụ trồng cây giỏi nhất nước".
Và cũng vì yêu cây yêu người, Bác đã từng nói "Vì lợi ích mười nǎm trồng cây, vì lợi ích trǎm
nǎm trồng người cho thế hệ mai sau.

Ghi sâu lời Di chúc của Bác "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng
và rất cần thiết", tôi xin hứa trước anh linh Người còn được ngày nào, tôi ra sức làm việc "bằng
hai" để cho miền Nam chóng được giải phóng và để Bác vui lòng nơi chín suối.

Những điều này đã được ghi lại từ 1969 - một ngày thu mưa sầu gió thảm lưu luyến tiễn Bác đi
xa...

Cụ Lê Thị Hoan vẫn còn sống, nǎm nay gần 90 tuổi. Tuổi cao, sức yếu, mắt kém, cụ không còn
đủ sức dạy bảo các cháu nữa. Nhưng đã có người thay thế cụ. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và Hội liên hiệp phụ nữ tiếp tay cùng cụ nhân hạt giống tình thương yêu của Bác gieo
trồng khắp cả cánh đồng từ Bắc chí Nam. Cây tình thương yêu con trẻ của Bác Hồ mãi mãi lên
xanh nay đã trở thành cây cổ thụ.

Chữ “quan liêu” viết như thế nào?

Năm 1952, trong một lần đến thăm lớp “chỉnh huấn” chính trị cán bộ trung, cao cấp,
anh em quây quần xung quanh Bác, nghe Bác kể chuyện, dặn dò.

Cuối buổi, Bác cầm một cái que nói:

- Các chú học đã giỏi, bây giờ Bác đố chữ này xem các chú có biết không nhé!

Anh em hưởng ứng “Vâng ạ!” “Vâng ạ!”. Người nào biết tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng
Trung Quốc thì “nhẩm” lại kiến thức của mình, người không biết tiếng nước ngoài thì
băn khoăn có chữ gì khó mà lại không đọc được nhỉ?

Bác vẽ một vạch ngang trên mặt đất rồi hỏi:

- Chữ gì nào?

Tưởng chữ “phạn”... chữ “cổ đại” nào chứ chữ này ai mà không biết. Cả lớp hò lên:
Thưa Bác, chữ “nhất” ạ.

Bác khen:

- Giỏi đấy.

Rồi Bác lại gạch một gạch nữa dưới chữ nhất. Chưa kịp hỏi, anh em đã ồn lên:

- Chữ “nhị” ạ.

Bác động viên:

- Giỏi lắm...

Người lại gạch thêm một gạch nữa dưới hai gạch cũ.

- Chữ “tam” ạ...

Bác cười:

- Khá lắm.

Rồi Người vạch thêm một vạch nữa dưới chữ “tam”.

- Chữ gì nào?

“Các vị” đớ người ra, nhìn vào vạch đầu tiên thì vừa phải, vạch thứ hai dài hơn đã có
hơi lệch một chút, vạch thứ ba dài hơn tí nữa cũng không được “song song” cho lắm,
vạch thứ tư dài nhất, có vẻ đã “cong” lắm rồi... Tiếng Pháp thì không phải. Tiếng Hán
chữ “tứ” viết khác cơ!
Bác giục:

- Thế nào? Các nhà “mác-xít”?

Bác lại cầm que vạch một vạch, rồi hai vạch dọc từ trên xuống dưới, ban đầu thì
thẳng đứng, xuống đến vạch ngang thứ hai đã “queo”, vạch ba thì “quẹo”, vạch bốn
như một con giun, loằng ngoằng như cái đuôi chuột nhắt...

Bác đứng dậy:

Chịu hết à? Có thế mà không đoán ra... Các chú biết cả đấy…

Để que xuống đất, Bác nói:

- Chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đúng đắn... Đến tỉnh đã hơi cong, đến
huyện đã “tả hữu”, đến xã đã sai lệch. Vì sao? Vì cán bộ không làm đúng, không nắm
chắc chủ trương đường lối, không gần gũi dân, không chịu làm “đầy tớ nhân dân” mà
chỉ muốn làm “quan cách mạng”. Cho nên chữ ấy là chữ “quan liêu”. Các chú không
học những biết và vẫn làm. Còn cái các chú học, thì các chú lại ít làm...

Học viên cả lớp đứng im, khong dám nhìn vào Bác.

Đoàn phải tránh bệnh hình thức và lãng phí


Nhà văn, nhà sử học Văn Tùng

Bác Hồ đến thăm và nói chuyện với các đại biểu Bắc, Trung, Nam dự Đại hội Đoàn
Thanh niên cứu quốc Việt Nam lần thứ II (10.1965). Ảnh tư liệu

Sinh thời, Bác Hồ thường đến thăm bà con nông dân ngay trên đồng ruộng, công
nhân trong nhà máy, công trường, các cháu học sinh, sinh viên tại trường học... Thế
nhưng có lần Bác đã dành thời gian hiếm hoi của mình đến thăm cán bộ, nhân viên
cơ quan T.Ư Đoàn, T.Ư Hội. Chúng tôi, những người có mặt hôm ấy luôn coi đây là
niềm vinh dự và hạnh phúc lớn của tuổi trẻ.

Sự kiện lịch sử này diễn ra cách nay hơn nửa thế kỷ, song bản thân tôi luôn ngỡ như
mới ngày nào, nhất là luôn khắc sâu vào tâm trí về lần đầu tiên trong đời được đưa
hai bàn tay của mình ôm lấy bàn tay ấm áp của Bác, nghe những lời căn dặn của
Người trong sự xúc động đến nghẹn ngào. Đó là vào một buổi sáng đầu tháng
11.1955 sau khi Hà Nội được giải phóng vừa tròn 1 năm với bộn bề công việc đặt ra.

10 giờ, chiếc Pôbêđa màu sữa chạy vào cổng, dừng lại ở mảnh sân nhỏ hồi ấy còn rải
sỏi phát ra tiếng kêu lạo xạo. Bác đến, mọi người đồng loạt reo lên "Bác Hồ muôn
năm!", "Bác Hồ muôn năm!" khó ai ngăn được. Nhưng, ngóng mãi chẳng thấy Bác
đâu. Hóa ra Bác không vào ngay phòng họp mà đi vòng ra phía sau ngôi nhà, đến
tầng hầm đang được sử dụng làm nhà ăn tập thể trực tiếp hỏi chuyện anh nuôi đang
trực bếp, đoạn mới quay lại bước lên cầu thang phía trái.

Trong tiếng hát theo nhịp vỗ tay hồi hộp của chúng tôi, Bác xuất hiện với nụ cười
hiền từ, vẫy tay chào và ra hiệu cho mọi người ngồi xuống.

Bác nhìn khắp một lượt, hỏi anh Lam đang đứng sau Bác: "Có mấy cháu gái ở đây?",
"Thưa Bác, có 9 đồng chí ạ". Bác nhìn các đồng chí nữ TNXP hỏi: "Thế các cháu có
được bình đẳng với các cháu nam không?", "Thưa Bác, có ạ", cả phòng họp đồng
thanh trả lời rõ to. Bác khoát tay: "Bác hỏi các cháu gái chứ sao tất cả trả lời thay!".
Vậy là cả Bác và tất cả các cháu cùng cười lên rất vui vẻ, tự nhiên. Bác vẫn đứng, có
lẽ để cho các cháu ở hàng ghế sau có thể nhìn được Bác. Bác nói: "Đồng chí Nguyễn
Lam cho Bác biết hôm nay có mặt đông đủ các cháu miền Bắc, miền Trung, miền
Nam trong cơ quan, thế là chúng ta có một đại gia đình đoàn kết tại đây làm Bác rất
vui. Nhưng các cháu đừng quên hiện giờ đồng bào miền Nam đang phải đấu tranh rất
anh dũng để thống nhất đất nước, để Bắc Nam đoàn kết trong một nhà. Vì vậy, các
cháu phải luôn ra sức học tập, hăng hái công tác để góp phần khôi phục kinh tế - xã
hội ở miền Bắc, tích cực ủng hộ đồng bào miền Nam. Các cháu có đồng ý với Bác
không?". Cả phòng họp lại vang lên: "Thưa Bác, có ạ".

Sau khi phân tích những hậu quả nặng nề của chiến tranh, những khó khăn to lớn
cần vượt qua trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và thiên tai vừa xảy ra
trên miền Bắc, Bác ân cần căn dặn: "Bác nghe các cháu đang chuẩn bị các Đại hội.
Khai hội để đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng, để đẩy mạnh mọi mặt công tác thế là
tốt. Trung ương và Bác đã cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh và đồng chí Nguyễn Lam
trực tiếp làm việc cùng các cháu. Nhưng để khai hội có kết quả trước hết phải thực
hành dân chủ, lắng nghe ý kiến đóng góp của quần chúng từ đó suy nghĩ đề ra
nhiệm vụ. Hai là phải thực hành tiết kiệm, tránh hình thức, phô trương gây ra lãng
phí. Và cuối cùng là sau khi khai hội xong phải đề ra kế hoạch thực hiện cụ thể rồi
xem xét nơi nào thực hiện có hiệu quả để kịp thời nêu lên cho nơi khác noi theo. Bác
nói vắn tắt như thế các cháu có làm được không?".

Chúng tôi đều đồng thanh: "Thưa Bác, làm được ạ". Bác gật đầu tỏ ý tán thành rồi
Bác ngước mắt nhìn trên trần nhà nơi có một chùm đèn rất đẹp, nói tiếp: "Bây giờ,
các cháu đang sống và làm việc tốt hơn khi ở chiến khu hoặc ở nông thôn, Bác đề
nghị các cháu phải tranh thủ thời gian học tập nâng cao trình độ. Cách mạng tiến lên
do đó cán bộ cũng phải tiến lên mới theo kịp; chẳng những học riêng cho mình mà
còn cần giúp người khác cùng học. Hơn nữa, ngoài giờ làm việc và học tập cần đi vào
quần chúng, dành thời gian tìm hiểu đời sống quần chúng, nhất là bà con lao động
đang còn gặp nhiều khó khăn".

Và Bác chỉ ra phía bên kia hồ Thiền Quang, ngay gần cơ quan, nói: "Trong thành phố
đang có các xóm lao động đông đúc như các cháu thấy đấy, vậy các cháu có thể liên
hệ với địa phương để tham gia giúp đồng bào, thí dụ như giúp xây dựng nếp sống vệ
sinh phòng ngừa bệnh tật hoặc mở các lớp học văn hóa giúp cho người chưa biết chữ
chẳng hạn... Như vậy, vừa có ích cho đồng bào, vừa có ích cho các cháu".

Nghe Bác căn dặn, anh chị em chúng tôi đều tự liên hệ trong đó không ít đồng chí
"giật mình" bởi lẽ tuy mới về thành chưa bao lâu song đã bắt đầu xuất hiện cái nếp
"làm công tử bát phố" mỗi chiều thứ bảy, ngày chủ nhật, mấy ai lên được kế hoạch
tự học, tự rèn luyện cho bản thân như Bác vừa ân cần nhắc nhở
Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân

Bài báo “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh T.L đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 3-
2-1969. Đây là một trong những tác phẩm của Người được tổ chức nghiên
cứu, học tập trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh" sắp tới. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Nhân dân ta thường nói: Ðảng viên đi trước, làng nước theo sau. Ðó là một lời khen
chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta.

Trải qua 39 năm đấu tranh oanh liệt, làm Cách mạng Tháng Tám thành công, kháng
chiến lần thứ nhất thắng lợi và ngày nay vừa chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, vừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, nhân dân ta tin tưởng rằng: Ðảng ta lãnh đạo rất
sáng suốt đã đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Trong lịch sử đấu tranh của Ðảng và trong mọi hoạt động hằng ngày, nhất là
trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, rất nhiều cán bộ, đảng viên ta tỏ ra anh dũng,
gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích rất
vẻ vang.

Ðảng ta đã đào tạo một thế hệ thanh niên cách mạng, gái cũng như trai, rất hăng
hái, dũng cảm trong mọi công tác.

Ðó là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhân dân ta và
Ðảng ta rất tự hào có những người con xứng đáng như thế.

Song bên cạnh những đồng chí tốt ấy, còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo
đức, phẩm chất còn thấp kém.

Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước
hết. Họ không lo "mình vì mọi người" mà chỉ muốn "mọi người vì mình".

Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí,
xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường
tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa
rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên,
không chịu học tập để tiến bộ.

Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém
tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Ðảng và của
Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân.

Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm.

Ðể làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng, Ðảng
ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Ðảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về
đường lối, chính sách của Ðảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải
thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Ðảng. Phải hoan nghênh và
khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của
chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Ðảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của
Ðảng phải chặt chẽ.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Ðảng, của nhân dân lên
trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức
cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ
luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình
độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ.

Ðó là một cách thiết thực để kỷ niệm ngày thành lập Ðảng ta, Ðảng vĩ đại của giai
cấp công nhân và nhân dân anh hùng của chúng ta. Ðó cũng là một việc làm cần
thiết để giúp tất cả cán bộ, đảng viên đều tiến bộ, góp sức nhiều hơn nữa cho sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng và xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.

You might also like