Professional Documents
Culture Documents
LỜI MỞ ĐẦU
II. TÁC ĐỘNG CỦA VẤN ĐỀ TOÀN CẦU ĐẾN VIỆT NAM…4
2. Tác động đến đời sống con người và công bằng xã hội…………7
III. TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ TOÀN CẦU Ở VIỆT NAM ĐẾN
QUAN HỆ QUỐC TẾ……………………………10
1.1 Thúc đẩy hình thành các cơ chế hợp tác quốc tế…………………..11
1.2 Làm thay đổi cách nhìn nhận và quá trình hoạch định chính sách của các nước
khác………………………………………………..13
KÊT LUẬN……………………………………………………………17
LỜI MỞ ĐẦU
1
Thế giới hiện nay đang có những biến động không ngừng, nhiều xu thế đang diễn ra, tao cho nhân loại
những vận hội, nhưng cũng nhiều thách thức mới. Quá trình toàn cầu hoá đang ngày càng mạnh mẽ, ảnh
hưởng đến mọi mặt của đời sống của các quốc gia. Trong bối cảnh này, không một quốc gia nào có thể phát
triển nếu đứng ngoài sự phát triển của loài người.
Cuộc cách mạng công nghệ đang ngày càng làm cho đời sống của loài người nâng cao. Nhân loại đang
có những bước tiến dài đáng kể trên bước đường phát triển của mình. Tuy nhiên nhiều vấn đề mang tình toàn
cầu đang nảy sinh, tác động không nhỏ đến đới sống quốc tế, sự sống còn của tất cả hết thảy mọi người,
không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị.
Việt Nam chúng ta cũng vậy, con đường hội nhập chủ động tích cực vào quá trình toàn cầu mà Đảng ta
lựa chọn là con đường đúng đắn, điều đó được chứng minh rất rõ ràng bằng những gì mà chúng ta đã đạt
được trong năm vừa qua. Nhưng chúng ta cũng nhìn nhận rằng cũng như tất cả các quốc gia khác, chúng ta
cũng phải chịu tác động từ những vấn đề toàn cầu, những vấn đề này đang gây ra nhiều nhức nhối trong đời
sống xã hội,cản trở quá trình phát triển của đất nước.
Thông qua bài tiểu luận:VIỆT NAM VÀ CÁC VẤN ĐỀ TOÀN CẦU: NHỮNG TÁC ĐỘNG KHÔNG
THỂ TRÁNH KHỎI, nhóm số 9 chúng tôi xin được đưa ra những nhận định cơ bản cũng như những luận giả
về điều này. Chúng tôi chân thành cảm ơn Thạc sĩ Trịnh Thu Huyền-giảng viên bộ môn: CÁC VẦN ĐỀ
TOÀN CẦU, đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình làm bài. Bài làm của chúng tôi chắc chắn không tránh
khỏi những ý kiến chủ quan, những thiếu sót rất mong ý kiến của cô giáo và của các bạn độc giả. Xin cảm
ơn!
2
I. VẤN ĐỀ TOÀN CẦU DƯỚI GÓC NHÌN VIỆT NAM
Vấn đề toàn cầu là vấn đề quan hệ trực tiếp đến hoạt động sống của mọi người trên trái đất, không
phân biệt chế độ xã hội, tôn giáo, chính kiến, hệ tư tưởng, là vấn đề mà đề giải quyết được cấn phải có sự đầu
tư về phương diện vật chất, sự hợp tác quốc tế về mọi mặt, sự nỗ lực tối đa của nhân loại. Nhưng không phải
quốc gia nào cũng nhận thức được như vậy.
Dưới góc nhìn của Việt Nam, Việt Nam không hề phủ nhận các vấn đề toàn cầu ngày càng có những
dấu hiệu phát triển phức tạp, ẩn chứa nhiều rủi ro với cả nhân loại, nhưng chúng ta cũng nhận thức được rằng
các vấn đề toàn cầu không phải hiện hữu như nhau, có những vấn đề tác động trực tiếp, ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống của đất nước cũng như của người dân như vấn đề bùng nổ dân số, vấn đề nghèo đói, vấn đề ô
nhiễm môi trường, vấn đề bệnh tật… Bên cạnh đó, có những vấn đề toàn cầu lại không tác động trực tiếp đến
nước ta như chiến tranh và hoà bình, vấn đề khủng bố, vấn đề phổ biến vũ khí hạt nhân….Tất cả đều phù hợp
với tình hình kinh tế, phát triển, ảnh hưởng của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhưng dù sao chúng ta
cần thẳng thắn thừa nhận rằng nhận thức của chúng ta về các vấn đề toàn cầu còn chậm hơn so cứu thế giới.
Cùng với sự phát triển tư duy dân tộc, chúng ta ngày càng ý thức được những vấn đề toàn cầu chẳng những
quan hệ đến lợi ích chung của tất cả các dân tộc mà còn là vấn đề chính của Việt Nam trên con đường phát
triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn
minh. Việt Nam không coi nhẹ bất kỳ vấn đề toàn cầu nào, vì các vấn đề đó đều có mối quan hệ gắn bó khăng
khít với nhau. Giải quyết các vấn đề toàn cầu là đòi hỏi bức thiết nhất của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước, hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, nâng cao vị thế và vai trò
của Việt Nam trên trường quốc tế.
Việc nhân loại đang phải đối mặt với những vấn đề toàn cầu được nêu liên tiếp trong các kỳ đại hội
của Đảng Cộng sản Việt Nam như một trong những đặc điểm lớn của thế giới đương đại, có vai trò quan trọng
ngang hàng với đặc điểm chính trị, kinh tế và xã hội. Văn kiện đại hội VIII (1996) có nêu: “Cộng đồng thế
giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế bùng nổ dân số, phòng ngừa và
đẩy lùi những căn bệnh hiểm nghèo…) không một quốc gia nào tự giải quyết, mà cần có sự hợp tác đa
phương”.1
Hoà vào xu thế chung của toàn nhân loại, Việt Nam nhận thức được rằng giải quyết những vấn đề toàn
cầu rất phức tạp và khó lường vì vậy mình tự cứu lấy mình chưa phải là phương án tối ưu tìm cách giải quyết
những vấn đề ấy.
Việt Nam nêu bật vấn đề cần tìm ra giải pháp cho những vấn đề liên quan đến nước mình. Đảng và
Nhà nước ta nhận định những vấn đề toàn cầu đã và đang tác động đến mọi quốc gia như thách thức lớn. Các
nước đang phát triển phải gánh chịu nhiều nhất các tác động tiêu cực của các vấn đề toàn cầu, nhưng các nước
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr77
3
phát triển không nằm ngoài qui luật đó. Để giải quyết hiệu quả vấn đề toàn cầu, chúng ta phải xem xét những
vấn đề toàn cầu tác động như thế nào đến tình hình Việt Nam và tác động của những vấn đề toàn cầu tại Việt
Nam đến quan hệ quốc tế.
1.1 Tác động tích cực của những vấn đề toàn cầu đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Các chủ trương đưa ra tại các đại hội Đảng lần thứ VIII, hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành TW khoá
VIII và tại đại hội lần thứ IX đều phản ánh nhất quán quan điểm của Đảng ta là chủ động hợp tác quốc tế.
Không thể phủ nhận những tác động tích cực mà quá trình toàn cầu hoá đang mang lại cho nền kinh tế Việt
Nam trong thời gian vừa qua, đặc biệt 1 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO-tổ chức kinh tế thương mại lớn
nhất thế giới .
Quá trình hội nhập kinh tế thế giới không những giúp chúng ta khắc phục được tình trạng bị bao vây
cấm vận mà còn từng bước tham gia vào các cơ chế hợp tác quốc tế: khởi đầu là việc khôi phục lại quan hệ
với nhiều nước và các trung tâm kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Tây Âu; tiếp đó tham gia các cơ chế hợp tác
khu vực (ASEAN), liên khu vực (ASEM, APEC), và toàn cầu (WTO). Đến nay, chúng ta đã thiết lập được
4
quan hệ kinh tế-thương mại với trên 170 quốc gia, nền kinh tế, đã ký gần 60 hiệp định kinh tế thương mại
song phương, đa phương, trong đó có toàn bộ các nước, các nền kinh tế phát triển, thị trường lớn.
Cùng với đó, quá trình hội nhập đã góp phần quan trọng mở rộng thị trường và đối tác kinh tế thương
mại, tăng cường xuất nhập khẩu cho nước ta. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong năm 2007 đạt 46 tỷ
USD, cao nhất trong 10 năm trở lại đây và đang có triển vọng nâng cao trong những năm tới.
Thông qua hội nhập, chúng ta đã đạt được những thành tựu lớn trong thu hút đầu tư và tranh thủ nguồn
viện trợ phát triển chính thức của nước ngoài. Hiện nước ta có quan hệ đầu tư với hơn 70 nước và lãnh thổ,
với nhiều tập đoàn và các công ty đa quốc gia lớn, Việt Nam hiện đang được đánh giá là nước có sức hấp dẫn
lớn về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều này đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khu vực kinh tế có vốn FDI đã trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân, đóng góp khoảng 16% GDP cả nước, 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thông qua hội
nhập, chúng ta còn tranh thủ được nguồn ODA khá lớn, đến nay đạt khoảng 37 tỷ USD.
Hội nhập cũng có nghĩa là chúng ta có khả năng tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp
phần đào tạo đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, nhạy bén với thời cuộc. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế đang
từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh. Nhiều doanh nghiêp đã đổi mới
công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn
tại và phát triển. Khả năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp đã tăng lên. Mặt tích cực của quá trình hội nhập
sâu rộng với nền kinh tế thế giới là đã giúp các doanh nghiệp việt nam hình thành tư duy và nếp làm ăn mới,
năng động, sáng tạo để phù hợp với môi trường kinh tế thế giới.
1.2 Tác động tiêu cực của những vấn đề toàn cầu đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hoá cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho kinh tế nước ta.
Phát triển kinh tế cũng có nghĩa là liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như vấn đề năng lượng, ô nhiễm môi
trường. bất cứ sự thay đổi nào của các lĩnh vực cũng sẽ kéo theo sự biến động của nền kinh tế. Như Đảng ta
đã khẳng địnhViệt Nam chủ động hội nhập kinh tế thế giới, nghĩa là chúng ta đã chấp nhận cuộc chơi trên bàn
cờ thế giới, những tác động ảnh hưởng rõ ràng là không thể tránh khỏi.
Bên cạnh tác động cực mà quá trình hội nhập kinh tế mang lại, khi chúng ta bước vào sân chơi toàn
cầu, các ngành sản xuất và dịch vụ của chúng ta càng phải đối phó với nhiều thách thức. Khó khăn chủ yếu ở
đây là vấn đề cạnh tranh trên thị trường trong nước thông qua việc cắt giảm các dòng thuế nhập khẩu cho các
sản phẩm nông nghiệp của các nước xuất khẩu vào Việt Nam. Với khả năng công nghệ, tình độ sản xuất và
quy mô lớn, nhiều mặt hàng nông sản của các quốc gia phát triển sẽ xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường Việt
Nam vì họ sẽ không còn phải đối mặt với sự khắt khe của hàng rào thuế quan như trước đây. Các ngành công
nghiệp khác như điện tử, dệt may, giày da cũng đang phải đối mặt với những thách thức lớn trong quá trình
cạnh tranh với các mặt hành xuất khẩu của nước ngoài. Ngoài ra, việc các công ty nước ngoài xâm nhập vào
5
các lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng, tài chính cũng đang đặt ra cho nước ta bài toán khó để hạn chế những
ảnh hưởng của nước ngoài vào nội bộ quốc gia.
Mặt trái nữa của quá trình toàn cầu hoá, hội nhập sâu rộng đến nền kinh tế của nước ta đó là vấn nạn ô
nhiễm môi trường từ các nhà máy và các khu công nghiệp. Việc đầu tư ồ ạt của các doanh nghiệp nước ngoài
vào Việt Nam đang biến chúng ta thành “bãi rác của thế giới” do hậu quả của các chất thải công nghịêp không
được xử lý triệt để. Chúng ta mở cửa cho các công ty nước ngoài vào đầu tư nhưng lại không có một quy
định rõ ràng về mặt pháp lý để hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường nên càng ngày vấn đề này càng trở nên
bức thiết.
Một vấn đề mới đang nóng lên trong thời gian gần đây đang rất được các nước quan tâm đó là sự thiếu
hụt năng lượng mà quan trọng là dầu mỏ. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, sự tăng giá đáng
báo động của nguồn năng lượng quan trọng nhất thế giới này đã có tác động rất lớn trước mắt là sự phát triển
kinh tế. Giá cả tăng cao đang gây nên áp lực nặng nề lên bản thân các ngành sản xuất nói chung, đẩy giá tiêu
dùng lên cao và lạm phát tăng nhanh đột biến. Dù trong năm 2007, GDP của chúng ta đạt 8,5 % nhưng với chỉ
số giá tiêu dùng và lạm phát đều ở mức hai con số thì lời giải cho thách thức của bài toán hội nhập vẫn chưa
có hồi kết2.
2. Tác động của các vấn đề toàn cầu ở Vi ệt Nam đến đời sống con người, công bằng xã hội.
Có thể nói, con người luôn là đối tượng chịu sự tác động to lớn nhất từ các vấn đề toàn cầu. Những
vấn đề toàn cầu được xác định là tổng thể những vấn đề có liên quan trực tiếp đến sự sống còn của cả cộng
đồng nhân loại. Đó cũng chính là những vấn đề mang tính toàn cầu và ảnh hưởng đến lợi ích không những
của cả cộng đồng nhân loại, của mọi quốc gia, mọi dân tộc, mà còn của mỗi người, mỗi cá nhân riêng biệt ở
bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Ở Việt Nam cũng vậy, các vấn đề toàn cầu đang ảnh hưởng sâu sắc đến
cuộc sống của nhân dân.
Trước hết, dân số là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội. “Công tác dân số là một
bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển đất nước, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của
từng người, của từng gia đình và của toàn xã hội, góp phần quyết định để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước”3. Mỗi một nước, dù là nước phát triển hay đang phát triển đều đang phải đối phó với những
biến đổi dân số khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện và sự quan tâm của mỗi nước. Mức sinh còn cao hay giảm
nhưng chưa ổn định, tử vong cao, đặc biệt là tử vong trẻ em dưới 1 tuổi, tử vong của bà mẹ và trẻ em liên
quan đến HIV/AIDS, chất lượng dân số thấp,… hiện đang là mối quan tâm lớn nhất của các nước đang phát
triển. Vậy nên Việt Nam cũng không nằm ngoài những tác động lớn của thực trạng dân số toàn cầu.
2
www.mof.com.vn
3
Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, Uỷ ban quốc gia DS – KHHGĐ, Hà Nội, 2000
6
Đối với Việt Nam, nhiều mục tiêu về dân số - phát triển và thiên niên kỷ đã đạt được, nhưng bùng nổ
dân số vẫn còn là thách thức đang đặt ra cho ngành y tế và các bộ, ngành liên quan. Quy mô dân số 85 triệu
người vốn đã quá tải với diện tích hẹp, vẫn tiếp tục tăng. Mức sinh đã giảm nhưng tiềm ẩn những nguy cơ
thiếu bền vững; tình trạng mang thai ngoài ý muốn, nạo phá thai trước hôn nhân; tỷ số giới tính giới tính khi
sinh đã vượt mức bình thường (110 nam/100 nữ); tỷ lệ suy dinh dưỡng còn cao, các yếu tố về tầm vóc, thể lực
còn hạn chế; tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp;4… Tất cả những khó khăn và thách thức trên ít nhiều tác
động đến cuộc sống người lao động. Dân số đông cũng là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, bệnh tât, ảnh
hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định xã hội ở nước ta.
Bên cạnh vấn đề dân số, thực tế Việt Nam hiện nay, đói nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế-xã hội bức
xúc, là nhân tố .Tỉ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam còn khá cao: năm 1998 là trên 37% và ước tính năm 2000 tỷ
lệ này vào khoảng 32% (giảm khoảng 1/2 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 1990) 5.Vì vậy, Việt Nam được xếp vào
nhóm các nước nghèo của thế giới. Ở Việt Nam, nghèo đói thường tập trung vào những hộ có thu nhập thấp.
Sự gia tăng chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất từ 7,3 lần năm 1993 lên 8,9 lần
năm 1998 cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong mối tương quan với người giàu). Chính đói
nghèo đã dẫn đến hàng loạt những hệ quả nghiêm trọng khác, đời sống người dân không được đảm bảo, chất
lượng cuộc sống thấp.
Môi trường cũng là vấn đề của toàn cầu và nó đang trực tiếp tác động gây ảnh hưởng đến sức khoẻ,
môi trường sống cũng như mưu cầu sinh nhai của người dân. Còn đó, những vấn đề của hiệu ứng nhà kính,
huỷ hoại môi trường nước, sử dụng đất đai, phá rừng,…làm cho con người đã và sẽ gánh chịu những thảm
hoạ không thể lường hết về biến đổi khí hậu, sóng thần, lở đất, cạn kiệt nguồn nước,… Thực tế hiện nay, Việt
Nam đang là nước có nguy cơ cao từ môi trường sống bị ô nhiễm và bị tàn phá nặng nề. Không khó khăn để
nhận ra những trận hồng thuỷ tàn phá đau thương trong những thập kỷ qua ở Việt Nam bắt nguồn từ đâu.
Kênh Nhiêu Lộc (TP HCM), sông Tô Lịch (Hà Nội),… ô nhiễm nặng nề môi trường sống của người dân TP
HCM và Ha Nội sống kề đó. Vẫn còn nóng hổi chuyện báo chí và dư luận xã hội phản ánh về một “làng ung
thư” Thạch Sơn, Phú Thọ do người dân sống trong khu vực nước thải của nhà máy supe phốt phát Lâm Thao,
nước thải của làng nghề công nghiệp giấy nổi tiếng Phong Khê, Bắc Ninh chảy tới đâu cỏ chết, lúa chết, cá
chết tới đó,… Giữa các đô thị lớn như Hà Nội, TP HCM thì ta như lạc vào mê cung với những làn khói bụi,
khói xe máy độc hại, nguyên nhân gây nên tỉ lệ mắc căn bệnh ung thu phổi cao ở Việt Nam. Tỉ lệ nước mặt
trung bình đầu người tính theo lượng nước sinh ra trong lãnh thổ nước ta vào khoảng 3.840 m3/người/năm. Vì
vậy người dân ở nước ta đang đứng trước tình thiếu nước sinh hoạt trầm trọng. Các khu đô thị, khu dân cư và
khu công nghiệp tập trung được hình thành và phát triển mạnh mẽ dọc theo các con sông đang là nguồn gây ô
4
Thực trạng dân số Việt Nam 2006, UNFPA Việt Nam
5
Theo kết quả Điều tra mức sống dân cư (theo chuẩn nghèo chung của quốc tế)
7
nhiễm mạnh mẽ. Bên cạnh đó, các hoạt động khác như: nông nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ điện,… cũng liên quan
mật thiết đến việc khai thác sử dụng nước và gây tác động đến môi trường nước của hệ thống sông với nhiều
loại chất hữu cơ, dầu mỡ, kim loại nặng, thuốc trừ sâu,… đã minh chứng cho những vấn nạn về ô nhiễm môi
trường làm nguy hại đến cuộc sống sinh hoạt cũng như đời sống tinh thần của người dân.
Từ dịch bệnh, ô nhiễm môi trường đến giá cả tiêu dùng đang là những vấn đề rất nóng của xã hội.
Trong những năm qua, mặc dù Đảng và Nhà Nước đã cố gắng xây dựng chiến lược phát triển bền vững,
nhưng khoảng cách giàu-nghèo, sự chênh lệch về phát triển giữa các vùng miền ngày càng gia tăng đang là
những vấn đề nhức nhối. Rõ ràng, các vấn đề toàn cầu đang tác động rất lớn đến đời sống của con người Việt
Nam. Chính vì vậy, nó đòi hỏi sự quan tâm thích đáng của Đảng và Nhà nước nhằm khắc phục những hệ quả
tiêu cực, đảm bảo cuộc sống và công bằng xã hội của mỗi người dân.
Trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay, biên giới lãnh thổ chỉ mang ý nghĩa tương đối, chỉ ngăn cách
những đối tượng hữu hình, còn những lực lượng vô hình thì gần như bị vô hiệu hoá, an ninh chủ quyền bị
thách thức. Các vần đề toàn cầu hiện nay đang có những tác động không nhỏ đến vấn đề này.
Như phân tích ở trên trước hết, các vấn đề toàn cầu đang ảnh hưởng đến sự phát triển, công bằng xã
hội, đời sống nhân dân. Nếu không giải quyết hài hoà các vấn đề này dễ gây ra tâm lí bức xúc trong dân chúng
khiến cho tình hình xã hội bất ổn.
Đặc biệt, hiện nay các thế lực phản động bên ngoài đang không ngừng tìm cách chống phá nhà nước,
kích động dân chúng. Đây là nguy cơ rất lớn cho Việt Nam, tình hình xã hội sẽ có những chuyển biến phức
tạp, an ninh quốc phòng sẽ bị ảnh hưởng. Thứ hai, các vấn đề toàn cầu bắt buộc phải có sự hợp tác giải quyết
của tổ chức quốc tế, các quốc gia khác, như vậy, diễn biễn hoà bình sẽ dễ dàng xảy ra. Thông qua việc giả
quyết các vấn đề toàn cầu, các thế lực thù địch sẽ tìm cách để tiến hành chống phá, gây ảnh hưởng, tuyên
truyền các luận điệu phản động, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Kẻ thù chia rẽ khối đoàn kết,
tạo dựng những mâu thuẫn mới, kích động tư tưởng hẹp hòi dân tộc, đòi quyền tự quyết dân tộc chủ nghĩa,
như việc xuyên tạc, kích động, mua chuộc xúi dục một số dân tộc thiểu số dấu tranh chống lại Đảng Nhà nước
ta để đòi cái gọi là”độc lập quốc gia tự trị”. Chúng tận dụng tối đa mọi cơ hội để kích động làm bùng nổ các
cuộc đòi “dân chủ”, tông trọng “quyền” của các dân tộc, nhằm gây rối an ninh xã hội. Đặc biệt chúng chú
trọng yếu tố tâm lý và sự dồn nén khó khăn về đời sống tinh thần, vật chất (nhất là đối với các đồng bào dân
tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa, vùng căn cứ các mạng trước đây) để tạo xu hướng bất bình với Đảng Nhà
nước và chế độ XHCN. Đặc biệt từ năm 2000 đến nay, tình hình càng phức tạp thêm khi các lực lượng thù
địch do Mỹ giật dây đã chỉ đạo số đối tượng cầm đầu các tổ chức phản động người Thượng lưu vong, Furlô
8
lưu vong thành lập cái gọi là “Nhà nước Đê Ga” ở Mỹ do Ksơr Kok cầm đầu. Bọn này đã móc nối với những
đối tượng trong nước, kích động, xúi giục đồng bào dân tộc thiểu số biểu tình, bạo loạn chính trị gây tình hình
hết sức phức tạp ở địa phương. Cùng lúc ấy ở bên ngoài, Chính phủ Mỹ tiếp tục lợi dụng vấn đề nhân quyền,
tôn giáo, dân tộc để tăng cường các hoạt động thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” chống phá sự nghiệp
đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Đây là mặt trái rất nguy hiểm mà xu hướng mở rộng tự do dân chủ mang
lại.
Thứ ba, chủ nghĩa khủng bố, chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào trên phạm vi lãnh thổ.Tội phạm xuyên
quốc gia, buôn lậu quốc tế là những nguy cơ rất lớn, đòi hỏi sự hợp tá c sâu rộng với các quốc gia khác để
cùng nhau giải quyết
III. TÁC ĐỘNG NHỮNG VẤN ĐỀ TOÀN CẦU Ở VIỆT NAM ĐẾN QUAN HỆ QUỐC TẾ.
Nằm trong xu thế chung của toàn nhân loại, Việt Nam cũng chịu sự tác động của các vấn đề toàn cầu
đến cuộc sống, sự phát triển và vận mệnh quốc gia.Một vấn đề toàn cầu ở Việt Nam cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến môi trường quốc tế, vì vậy câu hỏi lớn đặt ra liệu những vấn đề toàn cầu tại Việt Nam tác động
như thế nào đến quan hệ quốc tế?
9
Đánh giá trong "Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004" của Ngân Hàng thế giới.
11
Cùng với việc thay đổi chính sách, các quốc gia cũng thay đổi phương tiện thực hiện chính sách đó.
Không có tiếng bom, không có sự xuất hiện của quân đội, công cụ ngoại giao ngày càng áp dụng nhiều hơn
nữa trong mối quan hệ Việt Nam và các quốc gia. Đàm phán, tiếp xúc hay nói chuyện là cách mà các quốc gia
cũng như các tổ chức quốc tế vận dụng để giải quyết vấn đề toàn cầu ở Việt Nam. Nền chính trị khu vực
ASEAN, hay khu vực Châu Á- Thái Bình Dương cũng trở nên ổn định hơn, thay đổi theo chiều hướng tích
cực hơn góp phần cho xu thế chung của nhân loại “hoà bình, hợp tác và phát triển”, một phần nhờ vào sự tác
động vấn đề toàn cầu tại Việt Nam.
KẾT LUẬN
Những vấn đề toàn cầu đang tiếp tục diễn ra ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc, bên cạnh những thời cơ
và vận hội mới, cũng có không ít đến rủi ro và thách thức đối với nước ta. “Việt Nam và những vấn đề toàn
cầu” đã minh chứng một sự thật không thể chối cãi dù là quốc gia phát triển, là quốc gia đang phát triển hay
kém phát triển những vấn đề toàn cầu vẫn luôn nảy sinh, phát triển và biến đổi theo chu kỳ quy luât. Sự phát
triển nhanh lẹ nền kinh tế trong nước, bước nhảy vọt của khoa học kỹ thuật công nghệ trên thế giới, và bản
thân quá trình toàn cầu hoá quốc tế đã thúc đẩy các vấn đề toàn cầu tồn tại trên giới nói chung và ở Việt Nam
nói riêng.
Thực trạng vấn đề toàn cầu ở Việt Nam cho thấy rõ không phải mọi vấn đề toàn cầu đều có nguy cơ
hiện hữu như nhau, thực sự một số vấn đề là nguy cơ trực tiếp như bùng nổ dân số dân số, ô nhiễm môi
trường, đói nghèo… nhưng một số vấn đề khác lại không là mối đe doạ trực tiếp như khủng bố, chiến tranh và
hoà bình…Dù là vấn đề nào thì hệ quả từ các vấn đề đó cũng đã và sẽ gây tác động không nhỏ đến tình hình
phát triển của đất nước, ảnh hưởng đến kinh tế, đời sống xã hội, con người, đặc biệt ảnh hưởng đến chủ quyền
an ninh quốc gia. Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia vào tiến trình giải quyết các vấn đề
toàn cầu từ lâu đã trở thành chủ trương nhất quán trong chính sách của Đảng và Nhà nước. Tiến trình hợp tác
song phương, đa phương cùng nhau chung sức giải quyết các vấn đề toàn cầu cũng được Việt Nam nhận thức
đầy đủ hơn. Các vấn đề toàn cầu ngày càng phát triển theo xu hướng phức tạp, tuy nhiên từ những thành tựu
chúng ta đạt được đã thể hiện rõ vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề
toàn cầu. Nhưng triển vọng giải quyết vấn đề toàn cầu sẽ như thế nào vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ.
13
1. Lê Xuân Bá: Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Nxb.Thống kê, Hà Nội, 2001.
2. Nguyễn Trọng Chuẩn: Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên dầu thế kỉ XXI. Nxb Chính trị Quốc
Gia, Hà Nội, 2006.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb. Chính trị Quốc gia.
Hà Nôi, 1996
4. Nguyễn Viết Chức (chủ biên): Văn hoá ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên. Nxb.
Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, 2002.
5. Nguyễn Thị Hằng:Bước tiến mới của sự nghiệp xóa đói giảm nghèo. Tạp chí Lao động và xã hội, số
173, tháng 4-2001
6. Nước- vấn đề sống còn của nhân loại. Tạp chí Khoa học và công nghệ môi trường, Số 5, 2003
7. Vai trò trách nhiệm ủa các nhà lãnh đạo trong phòng, ch ống HIV/AIDS. Ngày 27/11/2007. Báo điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
8. Tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dân số trở lại. Ngày 11/08/2004. VietNam net.
9. Xoá đói giảm nghèo và phát triển xã hội: http:// www.undp. org.vn/undpLive/Content/What- We-
do/focus.
10. http://vietnamnet.vn/
11. http://vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/
12. www.laodong.com.vn
13. www.cpv.org.vn
Nhận xét về bài thuyết trình: Việt Nam và các vấn đề toàn cầu
Ưu điểm:
- Bài trình bày tương đối rõ ràng, mạch lạc, đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến yêu cầu đặt ra
- Slide trình chiếu rõ ràng
Nhược điểm:
- Nhìn chung, các ý kiến đều tập trung về vấn đề nội dung của bài thuyết trình. Do phạm vi nội dung
yêu cầu của đề tài là rất rộng “Việt Nam và các vấn đề toàn cầu” nên cần xác định vấn đề cụ thể. Tuy
nhiên, bài làm của nhóm đi vào quá nhiều khía cạnh, có chiều rộng nhưng không có chiều sâu, thiếu điểm
nhấn. Vì vậy, hiệu quả thuyết phục cho người nghe là không cao.
- Khi đề cập đến thực trạng các vấn đề toàn cầu ở Việt Nam cũng như cơ chế giải quyết, cần phân biệt các
khái niệm cấp độ quốc gia và quốc tế. Ở đây, không nên hiểu vấn đề này dưới cấp độ quốc gia và quốc tế
mà nên hiểu theo hướng chính sách đối nội và chính sách đối ngoại của quốc gia.
- Trong bài trình bày chưa chỉ ra được: Dưới góc nhìn của Việt Nam, thế nào là các vấn đề toàn cầu, cách
ứng xử của Việt Nam cũng như các vấn đề toàn cầu đó tác động đến Việt Nam như thế nào, cần đề cập
trên cả hai mặt là tích cực và tiêu cực.
- Ngoài ra, khi trình chiếu powerpoint nên chiếu với tốc độ vừa phải để người nghe có thể theo dõi.
14
Để khắc phục những hạn chế nêu trên của bài tiểu luận, cần xác định rõ nội dung sẽ trình bày là vấn đề gì.
Có hai gợi ý:
+ Các vấn đề toàn cầu ảnh hưởng như thế nào đến Việt Nam
+ Thực trạng các vấn đề toàn cầu đó ở Việt Nam như thế nào
+ Khi trình bày các giải pháp cho các vấn đề toàn cầu đang diễn ra tại Việt Nam nên đi theo hướng các
biện pháp thuộc về chính sách đối nội và chính sách đối ngoại, không nên tiếp cận theo hướng cấp độ quốc
gia và cấp độ quốc tế.
15