You are on page 1of 7

Vai trò của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong 20 năm đổi mới ở Việt

Nam
Ngày 11/01/2006 tại khách sạn Melia - Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Uỷ
ban Kinh tế & Ngân sách của Quốc hội và Ngân hàng Công thương Việt Nam tổ chức Hội thảo
khoa học với chủ đề “Vai trò của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong 20 năm đổi mới ở Việt
Nam”. Văn phòng NHNN xin tổng hợp và trích đăng một số nội dung chính của Hội thảo.

1. Những đóng góp quan trọng của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế và quá trình
đổi mới ở Việt Nam trong 20 năm qua

Đại hội Đảng lần thứ VI và những văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở đường cho công
cuộc đổi mới đất nước theo hướng chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong 20 năm qua, công cuộc đổi mới nền
kinh tế đã đạt được nhiều thành công, các chỉ số kinh tế cơ bản như GDP, xuất nhập khẩu, đầu
tư, thu chi ngân sách nhà nước đều đạt cao và bền vững, tệ nạn xã hội được đẩy lùi, đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Có được kết quả trên, ngoài sự đóng góp chung của cả nước, phải kể đến những nỗ lực của các
ngành, các cấp, trong đó có ngành ngân hàng.Trong từng thời kỳ, đổi mới hoạt động ngân hàng
được coi là đột phá khẩu và có những đóng góp tích cực cho quá trình đổi mới và phát triển kinh
tế Việt Nam, thể hiện ở những nội dung chính sau:

Thứ nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, từng bước duy trì sự
ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư và sản xuất
kinh doanh;

Thứ hai, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và hoạt động xuất
nhập khẩu. Đây là kết quả tác động nhiều mặt của đổi mới hoạt động ngân hàng, nhất là những
cố gắng của ngành ngân hàng trong việc huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát
triển, trong việc đổi mới chính sách cho vay và cơ cấu tín dụng theo hướng căn cứ chủ yếu vào
tính khả thi và hiệu quả của từng dự án, từng lĩnh vực ngành nghề để quyết định cho vay. Dịch
vụ ngân hàng cũng phát triển cả về chất lượng và chủng loại, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh
doanh;

Thứ ba, tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng trưởng kinh tế với nhịp
độ cao trong nhiều năm liên tục. Với dư nợ cho vay nền kinh tế chiếm khoảng 35-37% GDP, mỗi
năm hệ thống ngân hàng đóng góp trên 10% tổng mức tăng trưởng kinh tế của cả nước;

Thứ tư, đã hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút lao động, góp phần cải thiện
thu nhập và giảm nghèo bền vững. Thông qua nguồn vốn tín dụng cho các chương trình và dự
án phát triển sản xuất kinh doanh, hàng năm hệ thống ngân hàng đã góp phần tạo thêm được
nhiều việc làm mới, nhất là tại các vùng nông thôn. Việc sử dụng nguồn vốn ngân hàng cho mục
đích này ngày càng có tính chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả, nhất là từ khi tín dụng chính
sách được tác bạch với tín dụng thương mại và giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội đảm
nhiệm;

Thứ năm, góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển bền vững.
Đóng góp này được thể hiện qua công tác thẩm định dự án, quyết định cho vay vốn ngân hàng
cho các dự án và giám sát thực hiện một cách chặt chẽ sau khi cho vay, các TCTD luôn chú
trọng yêu cầu các khách hàng đảm bảo an toàn và hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay, tuân thủ
các cam kết quốc tế và các qui định về bảo vệ môi trường.
2. Một số thành tựu trong xây dựng và phát triển của ngành ngân hàng trong 20 năm đổi
mới

Sau 20 năm thực hiện đổi mới, bên cạnh những cố gắng hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ
được giao để có đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt
Nam cũng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong quá trình xây dựng và trưởng thành,
cụ thể là:

- Đã hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, nhờ đó đã thiết lập được một mạng lưới cung cấp
dịch vụ ngân hàng phong phú, phục vụ mọi thành phần kinh tế. Tính đến cuối năm 2005, hệ
thống các TCTD Việt Nam bao gồm 5 NHTMNN, 1 Ngân hàng Chính sách xã hội, 25 NHTMCP
đô thị, 11 NHTMCP nông thôn, 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 44
văn phòng đại diện TCTD nước ngoài tại Việt Nam, 6 công ty tài chính, 9 công ty cho thuê tài
chính, gần 900 quĩ tín dụng nhân dân. Đáng chú ý, hai Luật ngân hàng có hiệu lực từ cuối năm
1998 là bước tiến mới về củng cố, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động ngân hàng. Năng lực
xây dựng và điều hành, quản lý tiền tệ – tín dụng – ngân hàng của NHNN đã được nâng lên một
tầm cao mới, thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia và hoạt động có hiệu quả;

- Các chỉ số về tiền tệ – ngân hàng đã được cải thiện đáng kể: Tổng phương tiện thanh toán so
với GDP tăng từ 26,5% năm 1991 lên 75,2% năm 2004; tỉ lệ tiền gửi so với GDP tăng từ 18,1%
năm 1991 lên 60,3% năm 2004; tỉ lệ thanh toán bằng tiền mặt so với tổng phương tiện thanh
toán giảm từ 31,6% năm 1991 xuống 20,6% năm 2004 và khoảng 18% năm 2005, ..v.v;

- Chính sách lãi suất đang từng bước được đổi mới, phù hợp với cơ chế thị trường. Trên cơ sở
lãi suất cơ bản do NHNN công bố, các TCTD chủ động ấn định lãi suất huy động và cho vay theo
hướng đảm bảo các qui định an toàn và hiệu quả trong kinh doanh ngân hàng;

- Chính sách quản lý ngoại hối từng bước được tự do hóa, xóa bỏ nhiều loại giấy phép theo
hướng phù hợp dần với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập quốc tế, bước đầu đã đáp ứng
được yêu cầu của cải cách hành chính, của Luật Doanh nghiệp trong việc phân định rõ quyền
hạn và nghĩa vụ của doanh nghiệp, tạo ra sự thông thoáng hơn cho hoạt động kinh tế đối ngoại.
Việc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối đã được tiến hành theo hướng đẩy mạnh phân cấp,
ủy quyền quản lý để nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của các địa phương,
đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người dân thực hiện các giao dịch ngoại hối, giúp
NHNN có điều kiện tập trung nghiên cứu cơ chế, chính sách theo mô hình ngân hàng trung ương
hiện đại;

- Chính sách tỉ giá đã bước đầu được điều hành tương đối linh hoạt theo quan hệ cung cầu
ngoại tệ trên cơ sở rổ tiền tệ, tỉ giá vì thế đã phản ánh tương đối chính xác sức mua của VND và
tương quan giữa VND với các loại ngoại tệ của các nước có quan hệ thương mại, đầu tư và tín
dụng với Việt Nam. Việc điều chỉnh tỉ giá linh hoạt đã tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM và
NHNN tăng mua ngoại tệ từ thị trường, đáp ứng phần lớn các nhu cầu ngoại tệ của khách hàng
và đảm bảo mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối nhà nước;

- Xây dựng được bộ máy quản lý và mạng lưới tổ chức phù hợp với yêu cầu phát triển trong từng
thời kỳ. Trong đó, đội ngũ cán bộ trong ngành ngân hàng trưởng thành nhanh chóng, có khả
năng tiếp cận kiến thức mới và công nghệ ngân hàng hiện đại, có năng lực điều hành và thực
hiện các hoạt động ngân hàng ngày càng có tính chuyên nghiệp hơn theo yêu cầu của nền kinh
tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế về tài chính – ngân hàng;

- Nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (từ tháng 10/1993). Quan hệ hợp tác
với các tổ chức đa phương, song phương được tăng cường, để tranh thủ sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế đối với Việt Nam và thu hút nguồn vốn phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của đất
nước, đồng thời góp phần tích cực thúc đẩy việc Việt Nam sớm gia nhập WTO và ngày càng hội
nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

- Xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ sở pháp lý và qui trình nghiệp vụ ngân hàng phù hợp
với thể chế kinh tế thị trường, từng bước hình thành một sân chơi bình đẳng, công bằng cho các
TCTD và các doanh nghiệp trên cơ sở hiệu quả sử dụng vốn vay chứ không phụ thuộc nhiều vào
thành phần kinh tế như trước đây;

- Cơ sở vật chất của các TCTD ngày càng được tăng cường, đảm bảo điều kiện làm việc cho đội
ngũ cán bộ với các trang thiết bị cần thiết;

- Khung khổ pháp lý về hoạt động thanh toán qua ngân hàng không ngừng được hoàn thiện, làm
cơ sở để các TCTD đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến qui trình giao dịch. Đặc biệt, việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng đã giúp các TCTD mở rộng các loại hình và
phương thức cung cấp dịch vụ thanh toán và dịch vụ ngân hàng hiện đại;

- Đã xây dựng được hệ thống công nghệ ngân hàng đạt trình độ trung bình trong khu vực, nhất là
sau khi thực hiện thành công Dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn I.
Quá trình đổi mới và áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại đã và đang được thúc đẩy mạnh mẽ
nhằm tạo ra sự đồng bộ, có khả năng khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngân hàng.

3. Những đóng góp của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và phát triển các ngành kinh tế chủ chốt

Trong quá trình đổi mới, hệ thống ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt, là kênh cơ bản cung
ứng vốn cho nền kinh tế để thực hiện các chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Ngoài cho vay thương
mại đối với các tổ chức và cá nhân, hệ thống ngân hàng còn là nguồn tài chính quan trọng để
thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ như cho vay đối với hộ nghèo,
vùng sâu, vùng xa, góp phần hạn chế đáng kể sự chênh lệch phát triển giữa các nhóm thu nhập
và giữa các vùng trong nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp
hóa, Hiện đại hóa. Trong điều kiện thị trường tài chính còn sơ khai, tín dụng ngân hàng là kênh
chủ yếu cung ứng vốn cho chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế trong suốt 20 năm qua. Dư
nợ tín dụng ngân hàng tăng trung bình khoảng 25%/năm và hiện chiếm khoảng 50% GDP.

Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Chính phủ, nhiệm vụ của ngành
ngân hàng, từng ngân hàng đã xây dựng và thực thi chính sách tín dụng riêng phù hợp, góp
phần đáng kể vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng với nguồn vốn ngân sách, tín dụng
ngân hàng đã góp phần vào việc thực hiện thành công nhiều chương trình, dự án lớn của quốc
gia và của các ngành kinh tế mũi nhọn, nhất là khu vực công nghiệp – xây dựng và khu vực nông
nghiệp. Đây là hai nhóm ngành đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế của đất nước. Chẳng
hạn, tỷ trọng tín dụng ngân hàng dành cho khu vực công nghiệp – xây dựng và khu vực nông –
lâm nghiệp – thủy sản năm 2004 lần lượt chiếm gần 40% và 30% tổng tín dụng của hệ thống
ngân hàng. Trong cơ cấu GDP năm 2004, ngành công nghiệp – xây dựng chiếm khoảng 40% và
khu vực nông – lâm nghiệp – thủy sản chiếm 22%.

Nhận thức sâu sắc quan điểm kinh tế nhiều thành phần và vai trò của các khu vực kinh tế, hệ
thống ngân hàng Việt Nam đã có những chuyển biến căn bản về hoạt động tín dụng, tỉ trọng cho
vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã tăng từ khoảng 20% năm 1989 lên khoảng 50% trong
giai đoạn hiện nay. Nhờ đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã mở rộng sản xuất kinh
doanh, đóng góp ngày càng nhiều cho tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người
lao động. Hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng 31% giá trị sản xuất công
nghiệp và 26% GDP, tạo công ăn việc làm cho 26% lao động trong nước.
Thông qua đổi mới hoạt động tín dụng, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã biến quan điểm, đường
lối đổi mới của Đảng, Chính phủ và NHNN thành hiện thực. Những quan điểm đổi mới này được
thể hiện trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp quy, trong đó có đổi mới tín dụng ngân
hàng. Những ý tưởng quan trọng này được khởi nguồn từ Quyết định 32/1977/CP của Hội đồng
Chính phủ về chủ trương cải tiến và mở rộng tín dụng ngân hàng, các văn bản của Nhà nước và
của ngành ngân hàng ban hành sau năm 1986, trong đó có Quyết định số 1300/1990/HĐBT của
Hội đồng Bộ trưởng thử nghiệm xóa bỏ bao cấp trong xây dựng cơ bản.

Đáng chú ý, ngành ngân hàng đã coi đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng là khâu quan trọng
trong đổi mới quản lý kinh tế, từng bước xóa bỏ phương thức quản lý bao cấp sang quản lý theo
chế độ hạch toán kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn ngân hàng.
Các doanh nghiệp đã phát huy tinh thần tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh,
giảm dần sự ỷ lại và trông chờ vào sự bao cấp của Chính phủ. Ngành ngân hàng cũng đóng góp
đáng kể vào việc phát huy nội lực, huy động các nguồn vốn trong nước cho sản xuất kinh doanh
và đầu tư phát triển, góp phần chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ nền kinh tế khép kín và phụ thuộc vào nhập khẩu
sang nền kinh tế mở định hướng xuất khẩu, tăng dần khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế
quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.

4. Những cơ hội và thách thức của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế

Cùng với cả nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang tích cực chuẩn bị những điều kiện cần
thiết để tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng dần vị thế của Việt Nam trên thị
trường quốc tế, điều này tạo ra cơ hội để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế trong nước,
đồng thời cũng đặt ra không ít những thách thức cần phải vượt qua:

a) Cơ hội đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam

Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhất là trên thị
trường tài chính khu vực.

Đối với NHNN, hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành và thực
thi chính sách tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường.
Hội nhập cũng là cơ hội để NHNN tăng cường phối hợp với các NHTW và các tổ chức tài chính
quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi thông tin và ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động
của thị trường tài chính trong nước và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hệ
thống NHTM và thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng
cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ.

Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng
lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, loại bỏ các biện pháp bảo hộ, bao cấp vốn, tài
chính đối với các NHTM trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của NHNN
và Chính phủ.

Đối với các TCTD, hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các ngân hàng trong
nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại, đồng
thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ quản trị điều hành và
phát triển dịch vụ ngân hàng. Trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính trong
nước, khung khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự hình
thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân chia lại thị phần giữa các nhóm ngân
hàng theo hướng cân bằng hơn, thị phần của NHTMNN có thể giảm và nhường chỗ cho các
nhóm ngân hàng khác, nhất là tại các thành phố và khu đô thị lớn. Tùy theo thế mạnh của mỗi
ngân hàng, sẽ xuất hiện những ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên môn hóa như ngân
hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, đồng thời hình thành một số ngân hàng qui
mô lớn, có tiềm lực tài chính và kinh doanh hiệu quả. Kinh doanh theo nguyên tắc thị trường
cũng buộc các tổ chức tài chính phải có cơ chế quản lý và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt
là chính sách đãi ngộ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm thu hút lao động có trình độ, qua đó nâng
cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh trên thị trường tài chính.

Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức tài chính nước
ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính – ngân hàng, các NHTM trong
nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào tạo thông qua các hình thức liên
doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế. Vì thế, các ngân hàng cần tăng
cường hợp tác để chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tiên tiến,
khai thác thị trường. Trong quá trình hội nhập, việc mở rộng quan hệ đại lý quốc tế của các ngân
hàng trong nước sẽ tạo điều kiện phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại,
góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác đầu tư và chuyển giao công nghệ.

Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính quốc tế một
cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp phần nâng cao chất
lượng và loại hình hoạt động. Các ngân hàng trong nước sẽ phản ứng, điều chỉnh và hoạt động
một cách linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận
và giảm thiểu rủi ro.

b) Những khó khăn và thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam

Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính,
công nghệ và trình độ quản lý. áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình nới lỏng các qui định
đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về mở chi nhánh và các điểm giao dịch, phạm vi
hoạt động, hạn chế về đối tượng khách hàng và tiền gửi được phép huy động, khả năng mở rộng
dịch vụ ngân hàng, trong khi các tổ chức tài chính Việt Nam còn nhiều yếu kém, trình độ chuyên
môn và trình độ quản lý còn bất cập, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh thấp, nợ quá hạn
cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn kém. Vì thế, các NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh
tranh về qui mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối, nhất là sau năm 2010, khi những hạn
chế nêu trên và sự phân biệt đối xử bị loại bỏ căn bản. Sau thời gian đó, qui mô hoạt động và
khả năng tiếp cận thị trường, các nhóm khách hàng, chủng loại dịch vụ do các ngân hàng nước
ngoài cung cấp sẽ tăng lên. Đáng chú ý, rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tăng
lên do các ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài chính trong nước
thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh; một số tổ chức tài chính trong
nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh tranh kém và không có khả năng
kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt động ngân hàng quốc tế.

Mở cửa thị trường tài chính trong nước cũng làm tăng rủi ro do những tác động từ bên ngoài, cơ
hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế giảm dần.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng phải đối mặt với các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và
nguy cơ khủng hoảng. Trong trường hợp đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống
ngân hàng phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây lên.

5. Đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống ngân
hàng Việt Nam từ nay đến năm 2020

Năm 2005, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, NHNN đã trình Bộ Chính trị
và Chính phủ Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020, đó là xây dựng được hệ thống ngân hàng phát triển an toàn, lành mạnh, đủ sức cạnh
tranh và hội nhập vững chắc vào thị trường tài chính quốc tế.
a) Đối với NHNN, cơ cấu lại căn bản, toàn diện tổ chức và hoạt động của NHNN để có đủ năng
lực xây dựng, thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường và công nghệ tiến tiến, thực
hiện các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về vai trò, chức năng của ngân hàng trung ương nhằm
thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ – ngân hàng, làm cơ sở
để phát triển NHNN thành ngân hàng trung ương hiện đại. Trọng tâm đổi mới NHNN tập trung
vào những vấn đề sau:

- Đảm bảo cho NHNN được độc lập tự chủ trong việc xây dựng, điều hành chính sách tiền tệ, lãi
suất và tỉ giá hối đoái, thực hiện chức năng của ngân hàng trung ương thực sự, là ngân hàng
phát hành tiền, ngân hàng của các ngân hàng, là trung tâm thanh toán quốc gia, điều hành thị
trường tiền tệ;

- Đổi mới cơ cấu tổ chức của NHNN từ trung ương đến chi nhánh theo hướng tinh gọn và hiện
đại, đảm bảo cho NHNN gánh vác trọng trách trong việc tạo lập môi trường hoạt động thông
thoáng và thuận lợi cho các tổ chức tài chính hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam;

- Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường trên cơ sở thiết lập chính
sách tiền tệ với cơ chế truyền tải thích hợp và mục tiêu được lượng hóa;

- Cải cách toàn diện hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế về
phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam và phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về
giám sát ngân hàng. Phấn đấu đến năm 2010, hệ thống giám sát an toàn hoạt động ngân hàng
Việt Nam đáp ứng căn bản các chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng, trước hết là những
nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu quả của ủy ban Basle và Hiệp ước vốn năm 1988
(Basle I) và thực hiện Basle II sau năm 2010;

- Tiếp tục hiện đại hệ thống thanh toán nhằm tăng cường tính tiện ích của dịch vụ ngân hàng
cung cấp, tăng nhanh tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng, góp
phần nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả hoạt động ngân hàng, NHNN có thể kiểm soát được
lượng tiền trong lưu thông và giảm thiểu rủi ro tài chính.

b) Đối với các TCTD, cải cách căn bản, triệt để nhằm phát triển hệ thống các TCTD Việt Nam
theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng, đa dạng về sở hữu và loại hình TCTD, có qui mô hoạt
động và tiềm lực tài chính mạnh, tạo nền tảng xây dựng hệ thống các TCTD hiện đại, đạt trình độ
phát triển tiên tiến trong khu vực châu á, áp dụng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động
ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Trọng tâm
đổi mới các TCTD bao gồm những điểm chính sau đây:

- Đảm bảo các NHTMNN và NHTM có cổ phần chi phối của Nhà nước đóng vai trò chủ lực và đi
đầu trong hệ thống ngân hàng về qui mô hoạt động, năng lực tài chính, công nghệ, trình độ quản
lý và hịêu quả kinh doanh. Những TCTD khác đóng vai trò bảo đảm sự phát triển toàn diện, an
toàn và hiệu quả của hệ thống ngân hàng Việt Nam;

- Tăng cường năng lực tài chính của các TCTD theo hướng tăng vốn tự có và nâng cao chất
lượng tài sản cũng như khả năng sinh lời. Từng bước cổ phần hóa các NHTMNN theo nguyên
tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh tế – xã hội và an toàn hệ thống, cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài, nhất là các ngân hàng hàng đầu trên thế giới mua cổ phiếu và tham gia quản trị,
điều hành các NHTM Việt Nam;

- Đổi mới căn bản cơ chế quản lý đối với các TCTD, đảm bảo cho các TCTD thực sự tự chủ về
tài chính, nhân sự, tổ chức bộ máy và hoạt động, quản trị điều hành, chịu trách nhiệm hoàn toàn
về kết quả kinh doanh và hoạt động trong khuôn khổ pháp lý bình đẳng, công khai, minh bạch.
Quan hệ giữa NHNN và các TCTD không chỉ là quan hệ quản lý nhà nước, mà còn là quan hệ
kinh tế trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường;
- Hình thành đồng bộ khung khổ pháp lý minh bạch và công bằng nhằm thúc đẩy cạnh tranh và
bảo đảm an toàn hệ thống, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn
đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng, hình thành môi trường lành mạnh và tạo động lực cho các
TCTD, các doanh nghiệp và cá nhân phát triển sản xuất kinh doanh. Xóa bỏ phân biệt đối xử
giữa các TCTD và loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp trong lĩnh vực ngân hàng;

- Đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế về tiền tệ – ngân hàng
theo lộ trình và bước đi phù hợp với năng lực cạnh tranh của các TCTD và khả năng của NHNN
về kiểm soát hệ thống.

6. Những nội dung khác

Hội thảo cũng đề cập đến mối quan hệ của chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các
chính sách kinh tế vĩ mô khác, những đóng góp của hệ thống ngân hàng đối với một số ngành
kinh tế và một số địa phương trong nước.

Ngành ngân hàng cũng nhận thức được rằng thách thức trong quá trình hội nhập là rất lớn và
ngày càng phức tạp nhưng nếu đẩy nhanh quá trình gia nhập WTO sẽ giúp ngành ngân hàng tận
dụng được cơ hội để phát triển, qua đó nâng cao vị thế, sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng
và của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Do đó nhiệm vụ phát triển kinh tế và
hội nhập quốc tế trong những năm tới là rất nặng nề. Đặc biệt, năm 2006 là năm quan trọng đối
với Việt Nam, là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010; đồng thời là năm cần có
nhiều nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa trong hội nhập kinh tế quốc tế để Việt Nam gia nhập WTO theo
dự kiến. Do vậy, ngành ngân hàng cần phải tập trung phấn đấu hoàn thành tốt các kế hoạch và
mục tiêu của chính sách tiền tệ, triển khai tích cực và có hiệu quả các đề án cải cách và đổi mới
hệ thống ngân hàng Việt Nam, tiếp tục hoàn thiện và thực thi mạnh mẽ Chiến lược phát triển và
hội nhập quốc tế của ngành.

VPNHNN

You might also like