You are on page 1of 29

Bộ sách: Khám phá tư duy

Phần VII: Những câu chuyện về lối sống, suy nghĩ


về cuộc sống.

Tự nhiên -xã hội -tư duy


Bức tranh tuyệt vời

Một họa sĩ suốt đời mơ ước vẽ một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi
vị giáo sĩ để biết được điều gì đẹp nhất. Vị giao sĩ trả lời : “Tôi nghĩ điều đẹp
nhất trần gian là niềm tin vì niềm tin nâng cao giá trị con người”.

Họa sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái và được trả lời : “Tình yêu là
điều đẹp nhất trần gian, bởi tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào, mang
đến nụ cười cho kẻ khóc than, làm cho điều bé nhỏ trở nên cao trọng, cuộc
sống sẽ nhàm chán biết bao nếu không có tình yêu”.

Cuối cùng họa sĩ gặp người lính mới từ trận mạc trở về. Được hỏi, người lính
trả lời : “ Hòa bình là thứ đẹp nhất trần gian, ở đâu có hòa bình nơi đó có cái
đẹp”. Và họa sĩ đã tự hỏi mình : “ Làm sao tôi có thể vẽ được cùng lúc niềm
tin, hòa bình và tình yêu ???”

Khi trở về nhà, ông thấy các con ùa ra chào đón mình và người vợ thì tựa cửa
chờ chồng, nụ cười lấp lánh trên môi. Giây phút đó, ông nhận ra niềm tin trong
mắt các con, tình yêu trong cái hôn của người vợ. Chính lúc ấy tâm hồn ông
ngập tràn trong thanh thản, hạnh phúc và bình yên. Họa sĩ chợt hiểu thế nào là
điều đẹp nhất trần gian. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là
“Gia đình”.

Thật vậy, gia đình là nơi đầy ắp tiếng cười của trẻ thơ, tiếng hát của người mẹ
và sức mạnh của người cha. Nơi đó có hơi ấm của những con tim biết yêu, là
ánh sáng của đôi mắt tràn đầy hạnh phúc, là sự ân cần, là lòng chung thủy.

Gia đình là ngôi thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ học những điều hay lẽ phải,
niềm tin và lí tưởng sống.

Đó là nơi chúng ta tìm về để được an ủi, nâng đỡ.

Đó là nơi những món ăn đơn sơ cũng thành mĩ vị.

Đó là nơi tiền bạc vô nghĩa trước tình yêu.

Đó là nơi ngay cả nước sôi cũng reo vang lên niềm hạnh phúc !

- Tôi yêu gia đình tôi ! -

Sau tất cả những gì đã đến, đang đến và sẽ đến, sau tất cả những nước mắt và
nụ cười, thì nơi bình yên nhất, ngọt ngào nhất, nơi tràn ngập tình yêu và sự sẻ
chia nhất chính là gia đình thân yêu!
Bài học từ những người nghèo khổ

Một ngày kia, một người bố cùng gia đình giàu có của ông ta dẫn đứa con trai
mình đi du lịch đến một đất nước với mục đích là cho con trai mình thấy, ở nơi
đó người ta sống nghèo khổ ra sao.

Họ ở một ngày một đêm trong nông trại của một gia đình rất nghèo khổ. Khi
kết thúc chuyến đi, người bố hỏi con mình: "Con thấy chuyến đi như thế nào?"

"Rất tốt, thưa bố!"

Ngạc nhiên trước câu trả lời của đứa con, người bố hỏi lại: "Con có nhìn thấy
những người sống ở đó nghèo khổ đến thế nào không?"

"Vâng, có!"

"Vậy con đã học được những gì?"

Cậu con trai trả lời: "Con nhìn thấy chúng ta nuôi một con chó, họ có bốn con.
Chúng ta có một cái hồ rộng đến giữa khu vườn, họ có một dòng suối nhỏ
không có nơi kết thúc. Chúng ta có những bóng đèn thắp sáng khu vườn, họ có
những vì sao. Sân trong nhà chúng ta kéo dài ra tận đến sân trước, họ có cả một
chân trời.

Khi cậu con trai dứt lời, người cha nín lặng - không nói được gì.

Cậu bé nói tiếp: "Cảm ơn bố đã cho con thấy họ nghèo khổ đến thế nào!"

Có phải sự thật là tất cả mọi thứ phụ thuộc vào cách bạn nhìn thấy chúng? Nếu
bạn có tình yêu, bạn bè, gia đình, sức khoẻ, sự hài hước và một thái độ lạc quan
hướng về cuộc sống, bạn đã có tất cả mọi thứ!

Bạn không thể mua bất cứ cái gì trong những điều này. Bạn có thể có tất cả
những gì bạn muốn, nhưng nếu tinh thần bạn nghèo nàn thì bạn không có gì cả!
Thứ quý nhất của cuộc đời

Tại một làng chài nọ, có một chàng thanh niên hiền lành và tốt bụng, làm việc
rất chăm chỉ. Ngày nọ, trên đường về nhà, chàng lượm được một cái chai nhỏ.
Vì tò mò, chàng tìm cách tháo bằng được nắp chai ra. Bất ngờ từ trong chai bay
ra một làn khói trắng và vị thần khổng lồ xuất hiện.

- Vị thần liền cất tiếng nói: “Đừng sợ! Ngươi là ân nhân của ta, ta cho ngươi ba
điều ước. Nào! Hãy ước đi hỡi chàng trẻ tuổi”.

Ước gì nhỉ? Chàng đắn đo và trả lời: “Thần cho tôi thời gian để suy nghĩ nhé!”.

- Được thôi. Từ đây đến chiều ngươi phải nghĩ ra đấy.

Chàng đi dọc theo bãi biển và suy nghĩ. Trên đường đi chàng gặp một đám trẻ
con hồn nhiên, vô tư chơi đùa say mê. Nhìn những gương mặt thiên thần,
chàng thấy cuộc đời mới đẹp làm sao. Đi tiếp, chàng gặp một chàng trai trẻ liều
mình cứu những người nghèo khổ thoát khỏi một nhóm trộm cướp. Tấm lòng
nghĩa hiệp đó khiến chàng khâm phục.

Chàng lại tiếp tục đi và thấy một đám đông vây quanh một cụ già. Thì ra có
một con cá voi mắc cạn trôi dạt vào bờ. Mọi người định giết nó để lấy thịt bán.
Cụ già nói: “Những gì thuộc về biển cả hãy trả về cho biển cả”. Thế là chú cá
voi được cứu sống.

Hoàng hôn buông xuống. Vị thần hiện ra hỏi: “Ngươi đã nghĩ ra chưa?”. Chàng
trai trả lời: “Vâng, xin thần hãy ban cho tôi sự ngây thơ, hồn nhiên của trẻ thơ;
một trái tim nghĩa hiệp, dũng cảm của tuổi trẻ và một tấm lòng nhân ái, vị tha
của người từng trải”.

Vị thần nói: “Hỡi chàng trai, ngươi làm ta bất ngờ đấy, bởi vì ngươi đã nhận ra
những thứ quí giá nhất của cuộc đời”.
Hạnh phúc ở đâu??

Ngày xưa, có một bầy yêu tinh tập hợp lại với nhau để lên kế hoạch làm hại
con người. Một con yêu tinh lên tiếng: "Chúng ta nên giấu cái gì quý giá của
con người. Nhưng mà cái đó là cái gì?" Một con yêu tinh khác lên tiếng:
"Chúng ta nên giấu hạnh phúc của con người. Không có nó, ngày đêm con
người sẽ phải khổ sở. Nhưng vấn đề là chúng ta sẽ giấu hạnh phúc nơi nào mà
con người không thể tìm thấy được." Một con yêu tinh cho ý kiến: "Chúng ta sẽ
quẳng hạnh phúc lên đỉnh núi cao nhất thế giới."
Con yêu tinh khác phản đối: "Con người rất khỏe mạnh, chuyện trèo lên đỉnh
núi đối với họ không có gì khó khăn." "Vậy thì chúng ta sẽ đem hạnh phúc ném
xuống đáy biển sâu." "Không được, con người rất tò mò. Họ sẽ chế tạo ra
những con tàu hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi tất cả mọi người sẽ biết."
Một con yêu tinh trẻ có ý kiến: "Hay là chúng ta đem giấu hạnh phúc ở một
hành tinh khác." Con yêu tinh già phản đối: "Không được, con người rất thông
minh. Càng ngày họ càng thám hiểm nhiều hành tinh khác đấy thôi." Suy nghĩ
hồi lâu, có một con yêu tinh già lụ khụ lên tiếng: "Tôi biết phải giấu hạnh phúc
ở đâu rồi. Hãy giấu nó ở chính bên trong con người. Đa số con người đi tìm
hạnh phúc ở khắp chốn, khắp nơi và bao giờ họ cũng thấy người khác hạnh
phúc hơn mình. Bản thân họ thì chẳng bao giờ quan tâm. Giấu nó ở đó thì con
người không bao giờ tìm thấy!!!"
Tất cả các con yêu tinh đều đồng ý. Và kể từ đó, rất nhiều người mãi miết kiếm
tìm hạnh phúc mà không biết rằng nó được giấu ngay trong tâm hồn của chính
mình.

Bí mật của hạnh phúc


Một chủ tiệm tạp hóa muốn con trai mình học được bí quyết trở thành người
hạnh phúc, nên gửi cậu tìm gặp nhà thông thái danh tiếng nhất thế giới. Cậu
con trai rong ruổi hơn một tháng trên lưng lạc đà, ngày đi đêm nghỉ, để rồi cuối
cùng đến được ngọn núi cao trên đó có tòa lâu đài tráng lệ. Người ta nói với nó
rằng nhà tiên tri sống ở trong lâu đài đó.

Bước vào sảnh chính tòa lâu đài, cậu con trai ngạc nhiên vô cùng. Trái với hình
dung của cậu, cảnh tượng nơi đây giống một phiên chợ: đám lái buôn tất bật
kéo nhau đến rồi kéo nhau đi, những người khác tụ tập quanh những chiếc bàn
ăn, họ mải nói chuyện ầm ầm, muốn nhấn chìm tiếng nhạc êm ái của một dàn
nhạc nhỏ. Người được gọi là nhà thông thái đang đàm đạo với từng người có
mặt trong gian sảnh, khiến cậu phải chầu chực gần nửa ngày mới được giáp
mặt.

Tuy chăm chú nghe cậu giải thích lý do cậu tìm gặp ông, nhưng đáp lại, nhà
thông thái nói ông không có thời giờ giải thích cho cậu hiểu bí mật của hạnh
phúc. Ông mời cậu đi vòng quanh lâu đài ngắm cảnh và quay trở lại sau vài giờ
nữa. Cậu trai định quay lưng đi, bỗng nhà thông thái nói tiếp: "Trong lúc đi
xem tòa lâu đài, con nhớ làm một việc ta giao. Nó sẽ giúp con hiểu ra bí mật
của hạnh phúc". Nói rồi, nhà thông thái trao cho cậu trai một chiếc muỗng và
ông đổ vào đó một ít dầu ôliu. "Con cố đừng để hạt dầu nào rớt ra khỏi
muỗng", nhà thông thái dặn.

Cậu trai bắt đầu chuyến đi. Lúc nào mắt cậu cũng chăm chăm nhìn vào muỗng
dầu. Độ hai giờ sau, cậu quay trở về chỗ nhà thông thái. "Sao nhanh vậy! Con
có thấy những tấm thảm Ba Tư treo trong phòng ăn không? Người thợ dệt thảm
giỏi nhất phải mất mười năm mới dệt được nó. Con đã ngắm những cuốn sách
da dê trong thư viện của ta chưa?", nhà thông thái hỏi.

Cậu trai ngơ ngác, bối rối. Cậu thú nhận rằng do mải giữ cho muỗng dầu còn
nguyên cậu đã chẳng thấy được gì. "Vậy thì con hãy đi xem ngôi nhà của ta lần
nữa. Người xưa nói: Không thể tin một người nếu chưa xem nhà của người đó".

Lần này, cậu trai mới thực sự để mắt tới những của quý trong lâu đài, tới phong
cảnh hùng vĩ của ngọn núi. Nửa ngày sau cậu quay trở về chỗ nhà thông thái.
"Thật tuyệt vời, thưa thầy", cậu trai nói. "Thế còn chiếc muỗng dầu ta giao cho
con?", nhà thông thái hỏi. Cậu trai bấy giờ mới nhớ tới chiếc muỗng. Nó trống
rỗng. Lúc đó nhà thông thái mới thong thả nói: "Con đã tìm thấy bí mật của
hạnh phúc rồi đó. Hạnh phúc mà con vừa có chính là được thoải mái chiêm
ngưỡng những báu vật đẹp nhất thế gian mà không phải lo lắng về những giọt
dầu ôliu nọ".
Sức mạnh khi ta nắm tay nhau

Hai đứa trẻ, một trai một gái đang chơi cát trên bãi biển. Chúng hì hục đấp cát
xây một tòa lâu đài với cổng to đồ sộ, những đỉnh tháp thành trì và những lối
vào quanh co. Nhưng lúc gần hoàn chỉnh, một cơn sóng lớn ập đến cuốn đi tất
cả, chỉ còn lại một đụn cát ướt ! Bạn nghĩ hai đứa trẻ sẽ khóc, thất vọng vì công
trình của mình bị cuốn đi ? Nhưng thật ngạc nhiên và đáng yêu làm sao, chúng
nắm tay nhau chạy ra xa, tung tăng nhảy khỏi mép nước đang chực kéo tới,
cười đùa rồi lại ngồi xuống và xây toà lâu đài khác.
Tất cả mọi sự việc trong cuộc sống của chúng ta, kể cả những thành tựu công
phu mà chúng ta dành nhiều thời gian và công sức để tạo ra, đều được xây trên
cát. Sớm hay muộn, những cơn sóng cũng sẽ tràn tới xô đỗ tất cả những gì
chúng ta đã khó nhọc xây đắp. Khi điều đó xảy ra, chỉ có những ai biết nắm giữ
tay người khác là có thể cười đùa. Chỉ có mối quan hệ giữa người với người là
điều còn lại.
Bí quyết cho cuộc đời

Một cậu bé hỏi một người đàn ông lớn tuổi: “Thưa ông, cháu biết ông là người
rất uyên bác. Cháu muốn ông chỉ cho cháu bí quyết của cuộc đời...!”.

Người đàn ông đáp: “Ta đã suy nghĩ về điều này suốt cả cuộc đời mình. Theo
ta, bí quyết ấy có thể tóm gọn trong bốn từ. Thứ nhất là suy nghĩ. Suy nghĩ về
những giá trị mà cháu muốn sống cho cuộc đời mình.

Thứ hai là tin tưởng. Tin tưởng vào bản thân mình, dựa trên những suy nghĩ
chín chắn về những giá trị mà mình sẽ sống. Thứ ba là ước mơ. Ước mơ về
những điều có thể, dựa trên niềm tin vào bản thân và niềm tin vào những giá trị
đã lựa chọn.

Cuối cùng là dám làm. Là dám thử thách, dám đương đầu với cuộc sống, dám
chấp nhận mạo hiểm để biến những giấc mơ của mình thành sự thật, dựa trên
niềm tin vào bản thân và những giá trị sống đã chọn”.

Vâng, Walter E. Disney đã nói như thế với một cậu bé: suy nghĩ, tin tưởng, ước
mơ và dám làm.
SỰ BÌNH YÊN

Một vị vua treo một giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp
nhất về "sự bình yên". Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức
tranh nhưng chỉ thích có hai bức tranh và ông phải chọn lấy một.
Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ bởi vì có
những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những
đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng
đây là một bức tranh bình yên thật toàn hảo .
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và
lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm
chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xoá. Bức tranh này
trông thật chẳng bình yên chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ
mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây
tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an
nhiên đậu trên tổ của mình? Bình yên thật sự.
"Ta chấm bức tranh này !" Nhà vua công bố. "Sự bình yên không có nghĩa là
một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có
nghĩa là ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp người ta vẫn cảm thấy
sự yên tĩnh trong tâm hồn mình.
Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên.
Cội rễ của sự trưởng thành

"Sức mạnh của con người định hình trong chính sự yếu đuối của người ấy"
(Raipl Waldo Emerson).

Hồi còn nhỏ, tôi có một người hàng xóm mà mọi người gọi là bác sĩ Gibbs.
Ông không giống như bất kỳ bác sĩ nào tôi từng biết. Ông rất giản dị và hiền từ,
nhất là đối với bọn nhóc nghịch ngợm chúng tôi.

Ngoài giờ làm công việc cứu người, bác sĩ Gibbs thường trồng cây. Ông muốn
biến mảnh đất rộng 10 mẫu tây của mình thành một khu rừng mà! Vị bác sĩ
hiền lành ấy có những lý thuyết trồng cây rất thú vị, ngược hẳn với nguyên tác
mà mọi người cho là hiển nhiên. Không bao giờ ông tưới nước cho những cây
mới sinh trưởng – ông giải thích với tôi rằng tưới nước sẽ làm chúng sinh ra hư
hỏng, và thế hệ cây kế tiếp sẽ ngày một yếu đi. Vì thế, cần phải tập cho chúng
đối mặt với khắc nghiệt. Cây nào không chịu nổi sẽ bị nhổ bỏ ngay từ đầu.

Rồi ông hướng dẫn cho tôi cách tưới nước cho những cây rễ mọc trên cạn, để
chúng khô hạn thì sẽ phải tự bén rễ sâu mà tìm nguồn nước. Thảo nào, chẳng
bao giờ tôi thấy ông tưới cây cả. Ông trồng một cây sồi, mỗi sáng thay vì tưới
nước, ông lấy tờ báo cuộn tròn lại và đập vào nó: Bốp! Bốp! Bốp! Tôi hỏi ông
sao lại làm vậy thì ông trả lời: để làm nó chú ý.

Bác sĩ Gibbs từ giã cõi đời hai năm sau khi tôi xa gia đình. Giờ đây, về nhìn lại
những hàng cây nhà ông, tôi lại như mường tượng ra dáng ông đang trồng cây
25 năm về trước. Những thân cây ngày ấy nay đã lớn mạnh và tràn trề sức
sống. Như những thanh niên cường tráng, mỗi sáng chúng thức dậy, tự hào ưỡn
ngực và sẵn sàng đón nhận những gian nan, thử thách.

Vài năm sau tôi cũng tự trồng lấy hai cây xanh. Mùa hè cháy nắng tôi tưới
nước, mùa đông giá rét tôi bơm thuốc và cầu nguyện cho chúng. Chúng cao
gần chín mét sau hai năm, nhưng lại là những thân cây luôn dựa dẫm vào bàn
tay người chăm bẵm. Chỉ cần một ngọn gió lạnh lướt qua, chúng đã run rẩy và
đánh cành lập cập – trông chẳng khác gì những kẻ yếu đuối!

Chẳng bù với rừng cây của bác sĩ Gibbs. Xem ra nghịch cảnh và sự thiếu thốn
dường như lại hữu ích cho chúng hơn sự đầy đủ.

Hằng đêm trước khi đi ngủ, tôi thường ghé phòng hai đứa con trai và ngắm
nhìn chúng ngủ ngon lành. Nhìn thân thể nhỏ bé đang phập phồng nhịp thở của
cuộc sống, tôi luôn cầu nguyện cho chúng có một cuộc sống dễ chịu.

Nhưng gần đây, tôi chợt nghĩ đã đến lúc cần phải thay đổi lời nguyện cầu ấy.
Tôi nguyện cầu cho chúng mạnh mẽ hơn, để chịu được giông gió không thể
tránh trong cuộc đời. Có ngây thơ mới mong chúng thoát khỏi gian khổ - bởi lẽ
nghịch cảnh, khó khăn luôn là điều hiện hữu tất yếu. Và dù muốn hay không,
cuộc đời chẳng bao giờ bằng phẳng cả. Tôi cầu mong cho ‘gốc rễ’ của con
mình sẽ bén thật sâu, để chúng có thể hút được sức mạnh từ những suối nguồn
tiềm ẩn trong cuộc sống vĩnh hằng.

Thật sự nhìn lại, tôi đã cầu xin sự an lành quá nhiều rồi, nhưng rất hiếm khi
những ước muốn ấy được thỏa nguyện. Điều chúng ra cần là cầu sao cho mình
rèn luyện được một cơ thể cường tráng và ý chí cứng cỏi, bền vững, để khi
nắng cháy hay mưa dông, bão tố, chúng ta sẽ không bao giờ bị gục ngã.
Những trang giấy trắng

Một buổi chiều muộn, khi những ánh hoàng hôn cuối cùng vừa tắt, trên bờ biển
vắng, một cô gái trẻ một mình dạo bước trên cát với đôi bàn chân không. Cô
dừng bước, quay nhìn đằng sau với ý muốn xem lại những dấu chân mình đã để
lại trên cát. Nhưng không có gì, sóng đã xóa sạch. Cô định đi tiếp, song vừa
quay lại cô đã phải giật mình hoảng hốt vì hình ảnh trước mặt: bên một đống
lửa đang cháy, một bà già ngồi cuộn mình trong chiếc mền, chậm rãi lật từng
trang một cuốn sách.

Cô gái cố trấn tĩnh, tiến lại gần bà lão và hỏi: "Bà từ đâu tới? Chỉ mới đây thôi,
cháu không hề thấy bà? Bà làm cách nào mà đã nhóm được đống lửa này một
cách nhanh chóng như vậy?". Với giọng nói chậm rãi và rõ ràng, bà lão đáp,
không nhằm vào câu hỏi của cô gái: "Hãy ngồi xuống đây với ta, con gái. Ta có
cái này cho con xem".

Cô gái ngồi xuống bên đống lửa, đón nhận cuốn sách từ tay bà lão thần bí. Cô
tò mò lật giở cuốn sách và vô cùng sửng sốt khi đọc thấy những dòng chữ viết
về cuộc đời mình, về tất cả những gì diễn ra với cô từ khi mới sinh ra cho đến
lúc này. Cô đã đọc hết trang sách viết về cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa mình và bà lão
bên đống lửa trên bãi biển vắng này. Lật sang trang tiếp theo, nhưng nó là trang
giấy trắng. Cô vội vã tìm kiếm ở những trang còn lại, nhưng cũng không có
một chữ nào, chúng hoàn toàn là những trang giấy trắng. Vô cùng hoang mang,
với ánh mắt cầu cứu, cô nhìn bà lão:

- Điều này có nghĩa là cuộc đời cháu sẽ kết thúc tại đây, ngay lúc này?

- Không, con gái. Nó có nghĩa là từ đêm nay, cuộc sống của con mới bắt đầu.

Trong chốc lát, bà lão cầm lại cuốn sách, bắt đầu xé từng trang, từ trang đầu
tiên với những dòng chữ về cuộc đời cô gái từ khi mới được sinh ra, đưa chúng
về phía ngọn lửa, để cho lửa liếm cho đến lúc thành than. Bà lão đốt cho đến
hết những trang giấy có chữ mà cô đã đọc. Xong xuôi, bà đưa cho cô gái phần
còn lại của cuốn sách, toàn bộ là những trang giấy trắng:
- Con xem, sóng đã xóa hết dấu chân của con trên cát. Quá khứ của con không
bao giờ trở lại, không bao giờ. Chỉ có hiện tại mới là thực tế. Mỗi khoảnh khắc
hiện tại đều là một sự bắt đầu của cuộc đời con và chính là cuộc sống mà con
cần nắm giữ. Không có sự trở lại lần thứ hai, mỗi giây phút hiện tại. Quan
trọng hơn tất cả, mỗi ngày mới đều mang đến cho con một cơ hội để yêu, để
sống và cơ hội đó không bao giờ trở lại lần thứ hai. Tương lai của con, con
được tự do lựa chọn theo ước mơ của chính con. Và trên những trang giấy còn
trắng này, chính con là người viết tiếp những dòng chữ về cuộc đời mình.

Rồi, cũng đột ngột như khi xuất hiện, bà lão cùng đống lửa biến mất trong bóng
đêm...

Cuộc đời của chúng ta cũng giống như cô gái trẻ nọ và tất cả mọi người - quá
khứ là những gì chúng ta đã viết trên cát, sóng sẽ xóa đi tất cả; tương lai là
những gì chính ta sẽ viết trên những trang giấy trắng, từ hôm nay, ngay giờ
phút hiện tại này. Viết gì đây, cho cuộc đời của chính mình…
Ba câu hỏi khó

Có một vị vua, một hôm chợt nghĩ rằng: Giá mà trả lời được ba câu hỏi thì vua
sẽ không bao giờ bị thất bại trong bất cứ công việc nào. Ba câu hỏi ấy là...
1. Làm sao để biết được thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công
việc?
2. Làm sao để biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải
chú trọng?
3. Làm sao để biết được công việc nà o là công việc cần thiết nhất mà ta phải
thực hiện?
Nghĩ thế vua liền ban chiếu ra khắp trong bàn dân thiên hạ, hứa rằng sẽ ban
thưởng trọng hậu cho kẻ nào trả lời được ba câu hỏi đó.
Rất nhiều bậc hiền thần tìm đến thử sức nhưng không câu trả lời nào làm vua
thoả mãn. Vua quyết tâm đi tìm hỏi một vị Đạo sĩ tu trên núi. Nhà vua cải trang
làm thường dân, khi đi đến chân núi vua dặn vệ sĩ đứng chờ ở dưới và một
mình trèo lên am của ông Đạo. Nhà vua gặp ông Đạo đang cuốc đất trước am.
Ông Đạo đã già, tỏ ra mỏi mệt. Nhà vua tới gần ông Đạo và nói: “Tôi tới đây
để xin ông Đạo trả lời giúp ba câu hỏi: làm thế nào để biết đúng thì giờ hành
động, đừng để cơ hội qua rồi sau phải hối tiếc? Ai là những người quan trọng
nhất mà ta phải chú ý tới nhiều hơn cả? Và công việc nào quan trọng nhất cần
thực hiện trước?”.
Ông Đạo lắng nghe nhưng không trả lời, tiếp tục cuốc đất. Nhà vua nói: “Ông
Đạo mệt lắm rồi, thôi để tôi cuốc một lát”. Cuốc xong hai vòng đất, vua ngừng
tay và lặp lại câu hỏi. Ông Đạo vẫn không trả lời. Ông Đạo vẫn không trả lời và
đòi cuốc đất nhưng nhà vua thay vì trao cuốc lại tiếp tục cúi xuống cuốc đất.
Mặt trời bắt đầu khuất sau đỉnh núi. Nhà vua ngừng tay, buông cuốc và nói với
ông Đạo: “Tôi tới để xin ông Đạo trả lời cho mấy câu hỏi, nếu ông Đạo không
trả lời cho tôi câu nào hết thì xin cho tôi biết để tôi còn về nhà”.
Chợt lúc đó, ông Đạo nghe tiếng chân người chạy đâu đây bèn nói với nhà vua:
“Bác thử xem có ai chạy lên kìa”. Đó là một người đàn ông đang bị thương
nặng ở bụng. Ông ta cố chạy tới chỗ nhà vua và ngất xỉu giữa đất, nằm im bất
dộng, miệng rên rỉ. Vua và ông Đạo cởi áo người đó ra thì thấy có một vết đâm
sâu nơi bụng. Vua rửa chỗ bị thương thật sạch và xé áo của mình ra băng bó vết
thương. Nhưng máu thấm ướt cả áo. Vua giặt áo và đem băng lại vết thương.
Cứ như thế cho đến khi máu ngưng chảy. Lúc bấy giờ người bị thương mới tỉnh
dậy và đòi uống nước. Vua chạy đi múc nước suối cho ông ta uống.
Khi đó mặt trời đã khuất núi và bắt đầu lạnh. Nhờ sự hỗ trợ của ông Đạo, nhà
vua khiêng người bị nạn vào trong am và đặt nằm trên giường của ông Đạo.
Ông ta nhắm mắt nằm im. Nhà vua cũng mệt quá vì leo núi và cuốc đất cho nên
ngồi dựa vào cánh cửa mà ngủ thiếp đi. Vua ngủ ngon cho đến nỗi khi nhà vua
thức dậy thì trời đã sáng và phải một lúc lâu sau vua mới nhớ được là mình
đang ở đâu và đang làm gì.
Vua nhìn về phía giường thì thấy người bị thương cũng đang nhìn mình chòng
chọc, hai mắt sáng trưng. Người đó thấy vua tỉnh giấc thì cất giọng rất yếu:
“Xin bệ hạ tha tội cho thần!”, vua đáp: “Ông có làm gì nên tội đâu mà phải
tha?”, “Bệ hạ không biết hạ thần nhưng hạ thần biết bệ hạ. Hạ thần đã thù bệ hạ
từ lâu. Hôm nay quyết lên đây để giết bệ hạ, rình dưới núi mãi không thấy bệ
hạ xuống, định mò lên núi tìm giết bệ hạ thì bị các vệ sĩ đâm trọng thương. Nếu
không có bệ hạ thì chắc hạ thần đã chết. Hạ thần hối hận quá. Giờ đây nếu hạ
thần còn sống được thì hạ thần nguyện làm tôi mọi cho Bệ hạ suốt đời”.
Thấy mình hòa giải được với kẻ thù một cách dễ dàng, nhà vua rất vui mừng.
Vua không những hứa tha tội cho người kia mà còn hứa sẽ trả lại gia sản cho
ông ta và gửi ngay thầy thuốc cùng quân hầu tới săn sóc cho ông ta lành bệnh.
Sau khi cho vệ sĩ khiêng người bị thương về, nhà vua trở lên tìm ông Đạo để
chào. Trước khi ra về vua còn lập lại lần cuối ba câu hỏi của vua. Ông Đạo
đang quỳ gối xuống đất mà gieo những hạt đậu trên những luống đất đã cuốc
sẵn hôm qua. Vị đạo sĩ đứng dậy nhìn vua đáp: “Nhưng ba câu hỏi của vua đã
được trả lời rồi mà. Hôm qua nếu vua không thương hại bần đạo già mà ra tay
cuốc dùm mấy luống đất này thì khi ra về vua đã bị kẻ kia mai phục hành thích
mất rồi. Vì vậy thời gian quan trọng nhất là thời gian vua đang cuốc đất, nhân
vật quan trọng nhất là bần đạo đây và công việc quan trọng nhất la công việc
giúp bần đạo.
Rồi sau đó khi người bị thương nọ chạy lên, thời gian quan trọng nhất là thời
gian vua chăm sóc cho ông ta, bởi vì nếu vua không băng vết thương cho ông
ta thì ông ta sẽ chết và vua không có dịp hoà giải với ông ấy, cũng vì thế mà
ông ta là nhân vật quan trọng nhất và công việc vua làm để băng bó vết thương
là quan trọng nhất.
Xin vua hãy nhớ kỹ điều này: chỉ có một thời gian quan trọng mà thôi, đó là
thời gian hiện tại, là giờ phút hiện tại, giờ phút hiện tại quan trọng bởi vì đó là
thời gian duy nhất trong đó ta có thể làm chủ được ta. Và nhân vật quan trọng
nhất là kẻ đang cụ thể sống với ta, đang đứng trước mặt ta, bởi vì ai biết được
mình sẽ đương đầu làm việc với những kẻ nào trong tương lai. Công việc quan
trọng nhất là công việc làm cho người đang cụ thể sống bên ta, đang đứng
trước mặt ta được hạnh phúc. Bởi vì đó là ý nghĩa chính của đời sống”.
Trích từ “Phép lạ của sự tỉnh thức”
Điều đó rồi cũng qua đi

Một ngày nọ, vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cần thần thân
tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta
một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ và ta cho ông sáu tháng để tìm chiếc vòng
đó".

Benaiah trả lời: "Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, tôi sẽ
tìm thấy nó và mang về cho ngài, nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc
biệt?".

Nhà vua đáp: "Nó có những sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào
nó sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn nhìn vào nó sẽ thấy vui". Vua Salomon
biết rằng sẽ không đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này,
nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.

Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để
tìm ra một chiếc vòng như thế.

Vào đêm trước ngày lễ, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi
nghèo nhất của Jerusalem. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang
bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi: "Có
bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo
nó quên đi niềm vui sướng và người đau khổ đeo nó quên đi nỗi buồn không?".
Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng
chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc vòng đó, khuôn mặt ông rạng ngời
một nụ cười.

Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mùa lễ hội. "Nào, ông bạn
của ta - vua Salomon hỏi - ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa?". Tất cả cận
thần có mặt đều cười lớn và cả chính vua Salomon cũng cười.

Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói: "Nó
đây, thưa đức vua". Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên
khuôn mặt vua. Trên chiếc vòng đó có khắc dòng chữ: "Điều đó rồi cũng qua
đi".

Vào chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn
ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vì một ngày nào đó
ông cũng chỉ là cát bụi...
Vứt bỏ sự nghi hoặc, hãy tin tưởng mọi người

Có một phạm nhân trong thời gian cải tạo khi đang tu sửa lại đường đi, anh ta
nhặt được 2 triệu đồng, anh ta không mảy may suy nghĩ liền mang số tiền này
đến chỗ cảnh sát. Nhưng viên cảnh sát lại nói với anh bằng một giọng mỉa mai:
"Anh đừng có tới đây để lôi kéo chúng tôi, anh tưởng rằng có thể dùng tiền để
lừa bịp, hối lộ chúng tôi được sao, anh tưởng rằng có thể dùng tiền để mua
được sự ân xá sao, các anh cũng thuộc loại người không chân thực rồi".

Người phạm nhân này nghe xong cảm thấy vô cùng thất vọng và nghĩ rằng trên
thế gian này không còn ai tin tưởng anh ta nữa. Buổi tối, anh ta quyết định vượt
ngục. Anh ta đã lấy trộm tiền của mọi người để chuẩn bị cho cuộc trốn chạy.
Khi anh ta lấy đủ số tiền rồi, liền lấm lét lên tàu hoả, trên tàu khách rất đông, đã
chật cứng không còn chỗ ngồi, anh ta phải đứng ngay bên cạnh chiếc toilet trên
tàu.

Lúc đó bỗng nhiên xuất hiện một cố gái xinh đẹp đi vào toilet, nhưng cô chợt
phát hiện ra cái khuy cửa đã bị hỏng, cô gái liền nhẹ nhàng bước ra nói với anh
ta: "Thưa anh, anh có thể giữ cửa giúp tôi được không?"

Anh ta sững người một lúc, nhìn cô gái với ánh mắt dịu dàng và thuần khiết,
anh ta khẽ gật đầu. Cô gái đỏ mặt bước vào bên trong toilet còn anh ta lúc này
trông giống như một người vệ sĩ trung thành, nghiêm nghị giữ cái cánh cửa
phòng toilet.

Và trong cái thời khắc ngắn ngủi ấy, anh ta đột nhiên thay đổi ý định, khi tàu
dừng lại anh ta rời khỏi đó và đến đồn cảnh sát tự thú...

Lòng tin cũng chính là bàn đạp thực tế, có người nói rằng: "Tin tưởng người
khác thật là nguy hiểm, bạn có thể phải chịu sự lừa gạt của họ" chúng ta giả sử
là thiên hạ luôn luôn tồn tại sự lừa dối, như vậy thì câu nói đó đúng là có lý,
lòng tin không nên xuất phát từ trong ảo giác. Bạn biết rõ với người thích nói
nhiều thì không nên đem bí mật của mình mà kể cho họ nghe. Thế giới không
hẳn là một chiếc sân vận động an toàn mà người ở trên đó không phải ai ai
cũng có thiện ý, chúng ta buộc phải đối mặt với sự thật này. Lòng tin chân
chính, không phải là sự cả tin.

Không tin tưởng người khác, thì không thể thành nghiệp lớn, cũng không thể
trở thành vĩ nhân. Xin hãy ghi nhớ câu nói này: "Bạn tin tưởng người khác, thì
họ mới tin tưởng bạn, trung thực với bạn. Hãy lấy phong độ của một vĩ nhân
đối với người khác, họ mới có thể biểu hiện ra cái phong độ vĩ nhân mà họ có
với bạn".

Chúc các bạn luôn được sống trong niềm tin!


Nụ hôn

Chiếc tàu tôi đang đi ghé vào một ga nhỏ. Lúc ấy đã gần sáng và trời vẫn đầy
sao. Không khí lạnh cóng ùa vào toa khi tàu dừng và mở cửa đón khách. Toa
tôi có thêm hai người nữa, một người đàn ông và một cậu bé.
Cậu bé phải mất một lúc mới ngồi được vào chỗ của mình sau khi len qua
nhiều hàng chân người lớn. Trong khi cha cậu bé ngồi cạnh cửa ra vào, cậu bé
lại ngồi cạnh cửa sổ, giữa những người trông ngái ngủ, khó tính và mệt mỏi sau
một đêm không được ngủ đẫy giấc. Khi tàu bắt đầu vào đường hầm, cậu bé
trượt khỏi chỗ và tôi cảm thấy tay cậu chống vào đầu gối lên một chút. Cậu bé
rướn người lên, có lẽ muốn nói gì đó với tôi. Tôi cúi xuống để nghe nhưng bất
ngờ thay, cậu bé hôn vào má tôi một cái!
Lúc đó tàu ra khỏi đường hầm. Rồi cậu bé ngồi lại vào chỗ của mình và ngắm
cảnh bên ngoài cửa sổ. Trông cậu rất hạnh phúc. Tôi thật sự ngạc nhiên. Sao
cậu bé lại hôn một người lớn không hề quen biết trên tàu nhỉ? Tôi còn ngạc
nhiên hơn nữa khi cứ thỉnh thoảng, cậu bé lại đứng lên, hôn vào má những
người lớn ngồi cạnh cậu, từng người một.
Bối rối, chúng tôi nhìn về phía người đàn ông. Cha cậu giải thích:
- Cháu nó rất hạnh phúc vì khỏe mạnh trở lại và được sống. Cháu đã ốm nặng
rất lâu rồi!
Chuyến tàu dừng ở ga cuối. Người đàn ông và cậu bé hòa mình vào đám hành
khách. Tôi vẫn còn cảm thấy cái hôn của cậu bé trên má, cái hôn làm tôi hạnh
phúc và cả băn khoăn nữa. Liệu có bao nhiêu người trưởng thành trao cho nhau
những cái hôn để chia sẻ niềm vui được sống? Cậu bé đã không chỉ chia sẻ với
tôi một cái hôn ngọt ngào mà còn cả những băn khoăn muốn nhắn gửi: đừng để
bản thân mình "chết" trước khi tim ngừng đập.
Điều đặc biệt khi đèn đỏ

Hai người bạn dừng ô tô ở trước đèn đỏ. Người lái xe không nói gì, còn người
bạn quay sang thở dài bảo:
- Phí bao nhiêu thời gian vì đèn đỏ! Với chừng ấy thời gian, người ta có thể viết
cả một cuốn sách! Bảo sao ai cũng khó chịu khi phải dừng đèn đỏ.
Người lái xe vẫn không nói gì. Người bạn liền đập vào tay:
- Có nghe tớ nói gì không hả?
- Không!
- Tại sao hả?
- Vì tớ đang có việc của tớ.
- Cậu đang làm gì? Tớ có thấy cậu đang làm gì đâu?
- Tớ đang chúc may mắn - người lái xe đáp - Tớ đã quen mỗi lần dừng đèn đỏ,
tớ lại nghĩ tới và chúc một người thân hoặc bạn bè được may mắn. Thật là may
vì tớ đã có thời gian để chúc cho rất nhiều người may mắn, mà nếu không có
những lúc dừng đèn đỏ, hẳn cả ngày bận rộn tớ sẽ chẳng nhớ ra đâu...
Những niềm vui nhỏ

Biết tận hưởng những niềm vui nhỏ trong cuộc sống: đó là một trong những bí
quyết của hạnh phúc.

Người Nhật Bản thường kể câu chuyện như sau: Một người đàn ông nọ đi qua
một cánh đồng, thình lình bị cọp đuổi... Anh ta chạy bán sống bán chết mà vẫn
không tìm ra chỗ dung thân. Anh chạy mãi để rồi cuối cùng thấy mình đứng
bên bờ vực thẳm. Phía sau lưng, con cọp vẫn không buông tha. Không còn biết
làm gì nữa, người đàn ông phải lấy sức để đu lên một cành cây bắc qua vực
thẳm. Nhìn xuống dưới thung lũng, anh ta lại thấy một con cọp khác cũng đang
nằm chờ chực. Người đàn ông đáng thương chỉ còn niềm hy vọng duy nhất: đó
là nằm chờ đợi cho đến khi hai thú vật mệt mỏi bỏ đi... Chờ đợi trong lo sợ vẫn
là cực hình lớn lao nhất đối với con người.
Giữa lúc anh ta đang phải chiến đấu với sợ hãi và mệt mỏi, thì tình cờ bỗng có
hai con chuột bỗng từ đâu xuất hiện trên chính cành cây anh đang đu vào. Hai
con vật bắt đầu gặm nhấm lớp vỏ xung quanh cành cây. Bình thường, chuột là
một trong những loài thú mà anh gớm ghiếc nhất vì sự dơ bẩn của nó. Tiếng
kêu của nó cũng là một âm thanh làm cho lỗ tai anh khó chịu. Thế nhưng, trong
cơn sợ hãi tột cùng này, người đàn ông bỗng nhìn thấy hai con chuột thật đáng
yêu. Những hàm răng mũm mĩm của chúng trông dễ thương làm sao! Tiếng
kêu của hai con vật cũng trở thành một âm thanh êm dịu hơn tiếng gầm thét của
hai con cọp.
Giữa lúc anh đang theo dõi từng động tác của hai con chuột, thì một con chim
bỗng từ đâu bay lại, thả rớt trên cành cây một trái dâu rừng. Anh đưa tay nhặt
lấy trái dâu và thưởng thức hương vị ngọt ngào của trái rừng bỗng nên thơ đáng
yêu lạ lùng.

Bí quyết của hạnh phúc cũng chính là biết đón nhận những niềm vui nhỏ trong
cuộc sống mỗi ngày. Có những ngày tù đày, chúng ta mới thấy được giá trị của
hai chữ tự do. Có sống xa gia đình, chúng ta mới nhung nhớ những ngày sống
bên những người thân. Có những lúc nằm quằn quại trên giường bệnh, chúng ta
mới thấy được giá trị của sức khỏe...

Cuộc sống của chúng ta tràn ngập những niềm vui nhỏ mà chỉ khi nào mất đi,
chúng ta mới cảm thấy luyến tiếc.
Tham vọng và hạnh phúc

Trong cuộc sống, đừng để công việc và những ham muốn cuốn mình đi. Hãy
tìm những niềm vui bình dị để có được cảm giác hạnh phúc cho mình.

Có vị hoàng đế nọ muốn ban trọng ân cho một cận thần. Nhà vua phán: "Ngươi
hãy phóng ngựa đi tới nơi nào ngươi dừng lại thì khoảng đất đó ta sẽ ban cho
ngươi". Viên cận thần ra đi, cố sức phóng ngựa để có được càng nhiều đất càng
tốt. Ông ta đi suốt ngày đêm, khi mệt và đói cũng không dám ngừng nghỉ vì
muốn có nhiều đất.

Một ngày kia, vì đói và mệt, viên cận thần kiệt sức lả đi một mình trong rừng.
Lúc này, ông ta mới hối hận: "Tại sao ta tham lam quá độ vậy, ta tận sức để có
được nhiều đất đai để làm gì, trong khi chết rồi ta chỉ cần có một thước đất để
được chôn cất mà thôi!".

Con người luôn gắng sức làm việc để mong có tiền tài, danh vọng và quyền
thế. Chúng ta tận sức tới mức xao lãng sức khỏe, đôi khi quên cả cuộc sống với
gia đình, quên cả những cảnh đẹp thiên nhiên. Ngay cả trong những buổi họp
bạn bè với danh nghĩa để giải trí, chúng ta vẫn có suy nghĩ là sự giao thiệp sẽ
có lợi cho việc tạo thêm tiền tài, danh vọng hay thế lực của mình.

Rồi một ngày kia nghĩ lại, chúng ta sẽ thấy những cố gắng đó là vô nghĩa lý.
Lúc đó, không thể quay ngược kim đồng hồ được nữa, chúng ta mới thấy mình
đã bỏ mất dịp tận hưởng những niềm vui, hưởng an lạc của cuộc đời một cách
chân chính.

Bản chất

Một người nhìn thấy một con bò cạp đang vất vả tìm cách thoát khỏi dòng
nước. Ông quyết định cứu giúp nó bằng cách đưa tay ra. Nhưng con bò cạp
chích vào tay ông. Ông tiếp tục đưa tay ra giúp bò cạp nhưng nó lại chích ông
thêm lần nữa. Có người gần đó trông thấy bảo ông hãy bỏ mặc đừng cứu bò
cạp để khỏi bị nó chích. Ông đáp : " bản chất của bò cạp là chích. Bản chất của
tôi là thương yêu mọi vật. Thế thì tại sao tôi lại từ bỏ bản chất của mình chỉ vì
bản chất của con bò cạp là châm chích chứ ? ".
Ngẩng đầu nhìn trời xanh
Trong một cuộc họp bàn về vấn đề kinh tế, là nhân viên công tác của tổ phục
vụ, tôi dẫn một vị khách trung niên và một thanh niên đến phòng của họ ở tầng
38 của một khách sạn cao cấp trong thành phố này. Người thanh niên cúi đầu
nhìn xuống dưới, cảm thấy hơi chóng mặt, anh liền ngẩng đầu nhìn lên trời
xanh. Đứng bên cạnh anh, người trung niên ân cần hỏi: “Có phải anh bị bệnh
sợ độ cao?”

Người thanh niên đáp rằng anh có sợ một chút nhưng không nghiêm trọng lắm.
Nói rồi anh kể cho người trung niên nghe một câu chuyện thuở nhỏ của mình:

“Tôi đến từ miền núi, ở đó rất nghèo, cứ đến mùa mưa là lũ lại kéo về, nước lũ
cuồn cuộn che lấp cây cầu đá mà mỗi khi đi học về chúng tôi bắt buộc phải đi
qua đó để có thể về nhà. Các thầy giáo liền lần lượt đưa chúng tôi về nhà. Đi
lên cầu, nước chưa đến mắt cá chân, phía bên dưới, nước chảy xiết như đang
gào thét, nhìn mà thấy sợ, tôi không dám bước đi tiếp. Lúc này, thầy giáo
khuyên chúng tôi tay nắm chặt lan can cầu, ngẩng đầu nhìn lên trời xanh và
bước tiếp.

Cách này thật hiệu quả, trong lòng không còn nỗi sợ hãi lúc trước nữa, và từ đó
chúng tôi luôn nhớ đến phương pháp này của thầy. Khi tôi gặp khó khăn, chỉ
cần ngẩng cao đầu, không chịu đầu hàng là có thể vượt qua được dễ dàng”.

Vị khách trung niên cười và hỏi người thanh niên: “Cậu nhìn tôi có giống
người đã từng tìm đến cái chết không?” Anh thanh niên nhìn người đàn ông
quả quyết, cương nghị trước mặt mình với vẻ mặt kinh ngạc.

Vị trung niên liền kể: “Tôi vốn là một người làm việc trong cơ quan, sau đó xin
thôi việc đi làm kinh doanh. Không biết có phải do số tôi đen đủi hay do tính
cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường mà nhiều lần buôn bán đều bị thất bại,
phải nợ một số tiền lên tới hơn 100 triệu đồng, vào thời bấy giờ đây là số tiền
rất lớn, chủ nợ thường xuyên đến đòi tiền, tôi nghĩ rằng cả cuộc đời này cũng
không trả hết được nên đã nghĩ đến cái chết. Tôi chọn cho mình một vực thẳm
trên núi cao. Khi tôi vừa định nhảy xuống thì đột nhiên nghe văng vẳng bên tai
giai điệu một bài hát dân ca vùng núi. Tôi quay người nhìn lại, xa xa tôi thấy
bóng một cụ già đang hái thuốc, cụ đang nhìn tôi. Tôi nghĩ cụ muốn dùng cách
thức đầy thiện ý này để đánh tan ý nghĩ coi thường mạng sống của tôi. Tôi tìm
đến một bãi cỏ ngồi cho đến khi cụ già đi khuất, sau đó tôi lại chạy đến bên vực
thẳm, ngó xuống dưới chỉ thấy một khoảng không đen ngòm. Lúc này tôi lại có
cảm giác sợ hãi, lùi lại hai bước, ngẩng đầu nhìn lên trời. Tia hy vọng trong đầu
tôi lóe lên, tôi quyết định chọn con đường sống. Về đến thành phố, tôi bắt đầu
đi làm thuê và dần dần có được ngày hôm nay”.

Thực ra, trong cuộc đời mỗi người chúng ta, lúc nào cũng có thể gặp phải
những dòng nước chảy xiết cũng như những hiểm nguy rình rập như hai người
bọn họ. Nếu như chúng ta cúi đầu xuống, cái mà chúng ta nhìn thấy chỉ là tuyệt
vọng và hiểm họa, làm xa xẩm mặt mày, mất đi ý chí chiến đấu, khiến bản thân
bước vào ngõ tối. Nhưng nếu chúng ta biết ngẩng cao đầu, cái mà chúng ta
nhìn thấy lại là một bầu trời bao la, đó chính là bầu trời tràn đầy hy vọng khiến
chúng ta có thể tự do bay lượn, chúng ta có thể tự tin dùng đôi bàn tay tạo ra
một thiên đường cho chính bản thân mình.

Trích từ “Vạch xuất phát của cuộc đời”

Địa ngục hay thiên đàng


Một ký giả được phép xuống địa ngục và lên thiên đàng để làm phóng sự về
cuộc sống ở đó. Anh xuống địa ngục vào đúng giờ ăn. Thức ăn toàn sơn hào hải
vị nhưng cư dân lại ốm o, gầy còm, da bọc xương. Và anh chỉ hiểu ra khi quan
sát họ dùng bữa. Muỗng, nĩa, đũa rất dài buộc dính vào đôi tay nên dù cố gắng
mấy họ cũng không thể đưa thức ăn vào miệng, mà thức ăn lại đỗ ra bàn hay
rơi tung toé xuống đất. Tệ hơn nữa là họ tranh giành nhau, và muỗng nĩa đũa
trở thành vũ khí để họ đâm chém nhau. Khi giờ ăn kết thúc, họ buồn bã thất
vọng rơi phòng ăn với dạ dày rỗng không.
Quá sợ hãi, chàng ký giả rời địa ngục để lên thiên đàng. Đến nơi cũng đúng vào
giờ ăn. Thức ăn đơn sơ giản dị nhưng cư dân ai cũng vui tươi, khỏe mạnh. Đôi
bàn tay họ cũng được gắn chặt vào muỗng, nĩa, đũa rất dài. Có khác là thay vì
đưa thức ăn vào miệng của mình thì họ lại yêu thương dùng muỗng nĩa để đút
thức ăn cho nhau. Phòng ăn vang tiếng ca hát, nói cười vui vẻ.
Kết thúc bài phóng sự của mình, chàng ký giả viết : ích kỷ và vị tha là hai điểm
làm cho địa ngục và thiên đàng khác nhau. Thật vậy, địa ngục hay thiên đàng là
do chính chúng ta tạo ra.

Chốn thiên đường


Hai người bạn thân - một người cao gầy, một người lùn và gù, cùng nhau vượt
qua sa mạc đã nhiều ngày. Ho chia sẻ với nhau từng giọt nước, từng miếng ăn.
Nhưng rồi, nước cạn, biển cát trắng đi mãi chưa thấy bờ khiến họ loá mắt, cơn
khát dữ dội khiến họ lả dần và cuối cùng ngã gục.

Rồi hai người mơ thấy họ đang đi dưới bóng những cây cọ xanh mướt trong
một ốc đảo. Con đường nhỏ dẫn họ lên một ngọn đồi thoai thoải. Một bức
tường đá trắng cao ngất chạy ven đường đưa họ tới một cánh cổng lớn. Chưa
bao giờ trong đời họ được chiêm ngưỡng cảnh thần tiên như vậy: Toà nhà đồ sộ
bàn đá cẩm thạch trắng chạm trổ những bức tranh bằng vàng. Cây trong vườn
mọc ra quả trân châu, những hạt kim cương lóng lánh trên cánh hoa như những
giọt sương.

Ngắm đã mắt, hai người suýt quên mất rằng họ đang khát cháy họng. Còn đang
ngó ngang ngó dọc xem có ai để hỏi xin nước uống thì bỗng đâu một đàn chó
hung dữ xông ra. Hai người kéo nhau bỏ chạy, tuy nhiên anh chàng lùn và gù
xấu xí chậm chân hơn bị chó táp mất một ống tay áo. Đúng lúc đó một người
đàn ông béo tốt xuất hiện. Bạo dạn hơn, anh chàng cao gầy ngỏ lời xin nước
uống. Người đàn ông hất hàm chỉ hồ nuôi cá kiểng giữa sân. Vục mặt xuống hồ
uống nước xong, anh ta ngẩng lên hỏi:
- Thưa ông, nơi đây đẹp quá, phải chăng là chốn thiên đường?
- Chính thế, đây là thiên đường, Anh có thể ở lại đây hưởng phúc - người đàn
ông đáp.
Đúng lúc đó , anh bạn gù vẫn còn sợ chó nên thập thò sau bức tường đá.
- Xin ông làm ơn cho người bạn tốt nhất của tôi cùng uống nước, - người cao
gầy nói, tay vẫy gọi bạn.
Người đàn ông ngó ra cổng và đột nhiên gạt phắt.
- Ở đây ta không tiếp giống quái dị đó. Nếu anh đòi vậy, các anh đi khỏi chốn
này ngay.
Năn nỉ không xong, hai người bàn dắt nhau ra đi. Lối nhỏ gập ghềnh đưa họ tới
một ngôi nhà bằng gỗ nằm bên bãi cỏ. Ngôi nhà không có hàng rào, lũ trẻ con
nô đùa ầm ĩ trên một khoảng sân đất. Hai người bạn gặp một người phụ nữ
đang cuốc đất.
- Các vị khát nước phải không?
Không chờ câu trả lời, người phụ nữ quay lại nói với vào trong nhà. Một cô bé
chạy ra, tay bưng bình gốm mẻ miệng đựng nước và một cái chén. Đon đả rót
nước mời khách, cô bé nhoài người vặt một tàu lá to đưa cho họ làm quạt.
Nghỉ ngơi một hồi, hai người bạn xin phép chia tay. Được mấy bước, người lùn
quay lại hỏi:
- Thưa bà chốn này là đâu vậy?
- Đây là thiên đường, - người phụ nữ đáp.
- Nhưng lúc nãy chúng tôi cũng đã ghé một chỗ mà người ta cũng bảo ở đó là
thiên đường, - người khách thắc mắc.
- Chỗ ngôi nhà có tường cao có thả chó canh giữ, đúng không?, - người phụ nữ
hỏi lại. Rồi bà nói cả quyết - Đấy là địa ngục. Ở đây không ai bắt các vị phải bỏ
người bạn tốt nhất của mình.

Đánh nhau bằng gậy


Trong một tiết học của các sinh viên trường mỹ thuật, vị giáo sư đưa cả lớp
xem bức tranh mô tả thân phận con người của Goya, họa sĩ nổi tiếng người Tây
Ban Nha. Bức tranh mang tên Đánh nhau bằng gậy.

Trong bức tranh, Goya vẽ hai người nông dân đang xô xát nhau. Mỗi người
cầm trên tay một chiếc dùi cui sần sùi. Một người đang giơ dùi cui để bảo vệ
mặt mình. Nền trời trong xanh không để lộ một nét gì sắp xảy đến. Người ta
không đoán được trời sắp dông bão hay sáng rực nữa.

Cả lớp nhốn nháo. Ai nấy đều lao nhao muốn phát biểu trước. Có sinh viên nói
đây là bức tranh diễn tả định luật bảo tồn của con người: “Đấu tranh bảo tồn
sinh mạng”. Sinh viên khác: "Bức tranh diễn tả mục đích của con người là
muốn hạnh phúc vì hạnh phúc là đấu tranh". Sinh viên khác nữa lại phân tích:
"Bức tranh muốn diễn tả chân lý con người là động vật có lý trí, vì chỉ có thú
vật mới cắn nhau mà ở đây là thú vật có lý trí nên cắn nhau bằng gậy".

Vị giáo sư ra hiệu cho cả lớp im lặng rồi bảo các sinh viên hãy quan sát thật kỹ
một lần nữa. Cả lớp im ăng ắng. Mãi một lúc sau ông mới chậm rãi nói: "Thoạt
nhìn ai cũng nghĩ đây chỉ là bức tranh tầm thường như những bức tranh khác.
Thế nhưng có một chi tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: hai người nông
dân đang hằm hằm sát khí để loại trừ nhau lại đang mắc cạn trong cồn cát.
Từng cơn gió thổi đến, cát bụi đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối
mà hai người không ai hay biết".

Vị giáo sư ngừng lại hồi lâu rồi nói tiếp: "Goya muốn cho chúng ta thấy rằng
cả hai người nông dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú dùi cui
giáng vào nhau mà do cát bụi đang từ từ chôn vùi họ. Thế nhưng thay vì giúp
nhau để thoát khỏi cái chết, họ lại cư xử chẳng khác nào loài thú dữ: họ cắn xé
nhau. Bức tranh trên đây của danh họa Goya nói lên phần nào tình cảnh mà
nhân loại chúng ta đang trải qua. Thay vì giúp nhau để ra khỏi không biết bao
nhiêu tai họa, đói khổ, động đất, khủng bố, chiến tranh… thì con người lại
giành giật chém giết lẫn nhau.

Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn ra ở một nơi nào đó ngoài cuộc sống của các
bạn, mà không chừng đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của ta
với người xung quanh. Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác có
lẽ vẫn còn đang gặm nhấm nơi từng con người.

Một trong những cách tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ thù
ấy trở thành một người bạn. Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe dọa tứ phía,
ta hãy liên đới để bảo vệ nhau, bảo vệ sự sống, bảo vệ hành tinh này".

Ngôi nhà trong bóng tối


Hai gia đình O'Leary và MacMillan là hàng xóm của nhau tại một ngôi làng
nhỏ. Một ngày kia, có một người đàn ông trẻ tuổi đến làng của họ và cho biết
đây là lần đầu tiên trong đời họ sẽ được lắp hệ thống điện.

Gia đình MacMillan hăng hái hưởng ứng. Gia đình O'Learys thì thận trọng
hơn. Suy cho cùng họ đã sống trong hàng thế hệ không cần điện mà cũng tốt
thôi.

Gia đình MacMillan bắt dây điện và ổ cắm điện lên các bức tường, treo bóng
đèn...
Và cuối cùng khi ngày trọng đại ấy đến, gia đình MacMillan mời những người
láng giềng, gồm cả gia đình O'Leary, đến dự bữa tiệc đón nguồn điện. Ông
MacMillan bật công tắc. Tất cả bóng đèn lóe sáng lên - lần đầu tiên trong căn
nhà của họ.

Có tiếng kinh ngạc: "Thật tuyệt diệu làm sao!¨. Một tiếng kinh ngạc khác:
"Thật bẩn thỉu làm sao!¨.

Quả thật vậy. Trong ánh sáng mờ ảo lúc trước không ai để ý, nhưng sau nhiều
năm sử dụng đèn cầy, những làn khói đen của nó đã tạo nên một lớp màng xám
xịt khắp nơi: những bức tường bám đầy bụi, màng nhện khắp các góc nhà và
sàn thì đầy bụi bặm.

Gia đình O'Leary đã quyết định ngay tại đó rằng họ sẽ không bao giờ lắp đặt
điện.

Còn gia đình MacMillan thì ngay sau buổi tiệc mọi người lao ngay vào công
việc. Họ quả thật đã rất xấu hổ về căn nhà của mình khi ánh sáng được bật lên.
Chỉ trong một ngày dọn dẹp, căn nhà của họ đã sạch sẽ hơn bao giờ hết.

Bản dịch
Bốn cậu sinh viên đang ngồi nói chuyện với nhau về những bản dịch của một
cuốn sách về đạo lý trong cuộc sống. Một cậu nói:
- Tớ thích bản dịch của King James nhất vì trong đó, tiếng Anh được sử dụng
rất đơn giản và dễ hiểu. Mà cuộc sống cũng vậy, một cuộc sống đơn giản là
một cuộc sống đẹp.
Một cậu cãi lại:
- Bản dịch tiếng Anh – Mỹ là hay hơn cả, vì nó rất bình thường, không văn
chươing nên đọc hấy chân thành nhất. Tớ cũng thích một cuộc sống giản dị như
vậy.
Cậu thứ ba lên tiếng:
- Bản dịch của Moffat là hay nhất, vì ngôn từ được cập nhật, khi đọc, ta có thể
học được nhiều từ mới và hiện đại. Cuộc sống mà không cập nhật thì thật là tẻ
nhạt!
Cậu sinh viên thứ tư suy nghĩ rồi nói:
- Tớ thích bản dịch của Cha tớ nhất!
Cả ba cậu sinh viên còn lại tròn mắt ngạc nhiên:
- Cha cậu dịch sách lúc nào vậy?
Cậu sinh viên thứ tư đáp:
- Cha tớ dịch nó vào cuộc sống, từng ngày một, và đó là bản dịch thuyết phục
nhất mà tớ từng được thấy.

You might also like